Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

Luận văn: Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác tiêu thụ sản phẩm tại Công ty cổ phần Gỗ Hà Nội pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.56 KB, 40 trang )



1





Luận văn

Một số giải pháp nhằm tăng
cường công tác tiêu thụ sản
phẩm tại Công ty cổ phần Gỗ
Hà Nội


2

Lời nói đầu
Nền kinh tế thị trường cùng với các quy luật kinh tế đặc trưng của nó
như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh đã tạo nên môi
trường kinh doanh hấp dẫn, sôi động nhưng cùng đầy rủi ro và không kém
phần khốc liệt thị trường vừa là cơ hôi, vừa là thách thức đôí với doanh
nghiệp trong quá trình tồn tại và phát triển nó phản hồi lại bằng chính kết quả
kinh doanh của doanh nghiệp .
Hoạt động sản xuất kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng
nhằm tìm kiếm lợi nhuận, là mục tiêu kinh kinh tế cao nhất, là điều kiện tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp. Song để có được lợi nhuận thì một trong
các điều kiện quan trọng là doanh nghiệp phải tiêu thụ được sản phẩm của
mình. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp mới thu hồi được vốn, trang trải các chi
phí đã bỏ ra và lãi, ổn định được hình thành tài chính và tạo khả năng đầu tư


mở rộng sản xuất theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Có thể nói mối tiêu thụ là
mối quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp trong qúa trình hoạt động sản xuất
kinh doanh.
Công ty cổ phần Gỗ Hà Nội đã và đang tồn tại, phát triển mạnh mẽ trên
con đường đổi mới, tích luỹ kinh nghiệm trong quá trình sản xuất và có cố
gắng về mọi mặt trong công tác của mình đặc biệt quan tâm tới công tác mở
rộng thị trường tiêu thu sản phẩn. Chính vì vậy, sau một thời gian ngắn thực
tập tại Công ty em đã mạnh dạn chọn đề tài:
'' Công ty tiêu thụ sản phẩm tại Công ty cổ phần Gỗ Hà Nội '' mục đích
nghiên cứu của đề tài. Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được những vướng
mắc đang tồn tại, em đã xuất một số ý kiến góp phần hoàn thiện hơn hoạt
động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, bài viết của em được trình bày
thành hai phần với kết cấu như sau;
Phần thứ nhất: Thực trạng tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm tại Công
ty cổ phần Gỗ Hà Nội


3

Phần thứ hai: Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác tiêu thụ sản
phẩm tại Công ty cổ phần Gỗ Hà Nội .
Trong phạm vi bài viết của mình, em phân tích thực trạng công tác tiêu
thụ sản phẩm tại Công ty cổ phần Gỗ Hà Nội.Thông qua đó mong muốn được
đưa ra những giải pháp nhằm tăng cường công tác tiêu thụ sản phẩm tại Công
ty cổ phần Gỗ Hà Nội.





















Phần thứ nhất
Thực trạng tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm tại công ty cổ phần Gỗ Hà
Nội.


4

1.1. Giới thiệu chung về Công ty cổ phần Gỗ Hà Nội :
1.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Công ty.
Tiền thân của Công ty cổ phần Gỗ Hà Nội là xí nghiệp Gỗ Hà Nội.
Được thành lập từ những năm sau giải phóng Thủ Đô ( 1956) với mặt bằng
sản xuất rộng khoảng 5 ha, có nhiệm vụ sản xuất đồ Gỗ dân dụng, phục vụ
nhu cầu cần tiêu dùng trong nước, không phục cho xuất khẩu. Tuy nhiên có
mặt bằng rộng lớn nhưng cơ sở vật chất kỹ thuật của công ty lại thấp kém.

Hầu hết, nhà xưởng và văn phòng là nhà cấp 4 hay nhà mái tôn khung gỗ.
Máy móc kỹ thuật thì cũ và lại lạc hậu cộng thêm với cơ chế bao cấp kìm
hãm khiến cho Công ty hoạt động không hiệu quả. Trải qua nhiều thăng trầm,
hết tách ra rồi nhập vào, ngày 10/12/1992 Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà
Nội quyết định đổi tên thành Công ty cổ phần Gỗ Hà Nội (theo quyết định số
3162/QD- UB)
Hiện nay Công ty cổ phần Gỗ Hà Nội thuộc sở công nghiệp Hà Nội,
hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ về tài chính .
Trụ sở giao dịch: Số 2 - Chương Dương Độ - Quận Hoàn Kiếm - Hà
Nội.
Ngành nghề kinh doanh: sản phẩm hoàn toàn bằng gỗ hoặc chiếm tỷ
trọng lớn là gỗ:
Nguồn vốn kinh doanh :- Vốn lưu động : 246 triệu đồng
- Vốn cố định : 2.754 triệu đồng .
Thị trường tiêu thụ sản phẩm : chủ yếu là Hà Nội và các vùng lân cận
Diện tích mặt bằng sản xuất : 8.717m
2

Công ty cổ phần Gỗ Hà Nội sau khi được thành lập và chuyển sang
hoạt động theo cơ chế mới, để tạo cho mình chỗ đứng trên thị trường, lãnh
đạo Công ty đã thực hiện đầu tư vào một chiến lược định hướng cho sự phát
triển lâu dài - Để khắc phục sự yếu kém của cơ sở vật chất , Công ty đã đầu
tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng tạo bộ mặt khang trang cho Công ty . Công nghệ
chế tạo sản phẩm cũng được cải tiến với việc sử lý thuỷ phân nước trong gỗ


5

bằng lò sấy thay cho việc hỏng phôi tự nhiên bằng dây chuyền sản xuất hiện
đại của Ba Lan đã góp phần nâng cao năng xuất lao động, đẩy mạnh tiến độ

sản xuất: Đội ngũ cán bộ công nhân viên chức cũng được tiến hành chuẩn hoá
nâng cao trình độ và trình giảm, lao động gián tiếp được giảm thiếu .Ngoài ra
việc thực hiện chiến lược đa dạng hoá sản phẩm tích cực tìm kiếm những đơn
hàng, sản phẩm sản xuất ra tiêu chuẩn về mặt kỹ thuật đồng thời có kiểu dáng
đẹp hợp thị hiếu người tiêu dùng Những yếu tố trên đã hợp lực tạo cho
doanh nghiệp một năng lực sản xuất lớn gấp bôị phần giúp cho doanh nghiệp
tạo được chỗ đứng trên thị trường , không những bảo đảm ( lương bình quân
của Công ty hiện nay là 75000
đ
, người / tháng ) thực hiện nghĩa vụ với Nhà
nước đầy đủ
Trải qua gần 10 năm hoạt động, Công ty cổ phần Gỗ Hà Nội đã nỗ lực
phấn đấu, vượt qua nhiều khó khăn, thức thách tự khẳng định được mình trên
thị trường. Không chỉ bằng lòng với những gì đã đạt đựơc toàn thể Công ty
luôn lỗ lực phấn đấu hoàn thành và vượt mức kế hoạch sản xuất, đáp ứng tốt
nhất và ngày càng nhiều nhu cầu thị trường, tạo nền tảng vững chắc cho sự
phát triển trong tương lai.
1.1.2 Đặc điểm cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty cổ phần
Gỗ Hà Nội
Công ty cổ phần Gỗ Hà Nội tổ chức bộ máy quản lý một cách theo cơ
cấu trực tuyến chức năng. Theo cơ cấu này, các phòng chức năng được
chuyên môn hoá theo các chức năng quản trị, có nhiệm vụ giúp Giám đốc ( và
phó biến ) chuẩn bị các quyết định quản trị về chuyên môn hoá của mình theo
dõi hướng dẫn cấp dưới thực hiện đúng đắn, kịp thời các quyết định đó. Ngoài
việc thực hiện tốt các nhiệm vụ chuyên môn các phong chức năng còn phải
phối hợp chặt chẽ với các phòng ban khác nhằm đảm bảo hoạt động của
doanh nghiệp được tiến hành đồng bộ, nhịp nhàng. Các phòng ban chức năng
không có quyền trực tiếp chỉ huy các bộ phận sản xuất .
Sơ đồ bộ máy quản lý như sau



6
















* Giám đốc Công ty: là người phụ trách chung, quản lý, giám sát mọi
hoạt động của Công ty, chụi trách nhiệm trước Nhà nước về tinh hình hoạt
động sản xuất, kinh doanh của Công ty, về tính hiệu quả cũng như việc chấp
hành pháp luật hiện hành.
* Phó giám đốc Công ty: chụi trách nhiệm giúp Giám đốc chỉ đạo một
số khâu trong quản lý sản xuất, đều động lao động Tham mưu giúp giám
đốc xây dựng kế hoạch sản xuất và đôn đốc thực hiện kế hoạch.
* Các phòng chức năng.
Phòng tổ chức, hành chính, bảo vê, : là phòng nghiệp vụ tổng hợp,
tham mưu, giúp Giám đốc quản lý những lĩnh vực công tác như tổ chức nhân
sự, hành chính quản trị, bảo vệ nội bộ, công tác y tế và các mặt an toàn xã hội
tại Công ty như quản lý chất lượng, cán bộ nhân viên, thực hiện đầy đủ các

chế độ chính sách của Nhà nước đổi mới người lao động khi nghỉ chế độ.
Giám c

Phó giám c

Phòng k hoch
tài chính

Phòng k hoch
k thut vt t
Phân xng x
Phân xng mc
Phân xng c
in và dich v
Phòng t chc
hành chính bo v


7

Cơ cấu trên vẫn đảm bảo mệnh lệnh được truyền trực tuyễn đồng thời
không lãng phí các luyện viên trong vai trò cố vấn cho Giám đốc.
1.1.3 Đặc điểm cơ cấu sản xuất kinh doanh :
Công ty cổ phần Gỗ Hà Nội tổ chức sản xuất kinh doanh theo kiểu tập
trung với cơ cấu tổ chức loại 2:
Doanh nghiệp  Phân xưởng  Nơi làm việc
Hệ thống sản xuất kinh doanh của Công ty gồm hai khối:
* Khối sản xuất kinh doanh chính : gồm cơ cấu phân xưởng một ( bộ
phận sản xuất mặt hàng chính của Công ty ) và phân xưởng xẻ ( bộ phận hỗ
trợ cho phân xưởng mộc ) phân xưởng cơ điện thực hiện công tác duy tư, bảo

dưỡng máy móc duy trì năng lực công tác của hai phân xưởng sản xuất.
Khối sản xuất kinh doanh phụ: gồm có các bộ phận dịch vụ làm gia
công chế biến cho bên ngoài .
Hạt phân xưởng sản xuất chính của Công ty được tổ chức thành các tổ
sản xuất như sau:
- Phân xưởng xẻ: gồm hai tổ sản xuất:
+ Tổ xẻ thô: thực hiện công việc của xẻ, pha, cắt gỗ cây thành gỗ
khối, sau đó chuyển cho tổ xẻ tinh
+ Tổ xẻ tinh : thực hiện công việc sơ chế gỗ khối thành hợp, ván với
quy định cách kích thước phù hợp với từng loại sản phẩm, sau đó chuyển cho
phân xưởng mộc.
- Phân xưởng mộc: gồm ba tổ sản xuất :
+ Tổ mộc máy: thực hiện việc sơ chế góc hợp, với ván thành các chi
tiết sản phẩm mang tính chất hàng loạt trên các thiết bị máy theo dãy chuyền
sau khi đã qua bước xử lý thuỷ phần nước trong gỗ. Sau đó chuyển các chi
tiết đó sang tổ mộc tay
+ Tổ mộc tay: thực hiện việc tinh chế các chi tiết sản phẩm thô và lắp
ráp hoàn chỉnh sản phẩm chuyển sang tổ véc ni


8

+ Tổ véc ni : thực hiện việc làm đẹp sản phẩm bằng phương pháp thủ
công và đánh véc ni hay sơn mài hoặc khảm trai hoàn thiện sản phẩm
chuyển sang quá trình tiêu thụ thực hiện công tác an linh chính trị, trật tự an
toàn xã hội, tại Công ty, bảo vệ an toàn tài sản. Quản lý mọi công việc thuộc
phạm vi hành chính nội bộ, tổng hợp giao dịch, văn thư đánh máy và truyền
đạt chỉ thị công tác của Giám đốc đơn vị bộ phận trong Công ty. Quản lý hồ
sơ, sức khoẻ của các cán bộ công nhân viên.
- Phòng kế hoạch - kỹ thuật - Vật tư, là phòng nghiệp vụ tổng hợp có

chức năng tham mưu, giúp giám đốc trong công tác xây dựng và chỉ đạo thực
hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh từng quý, từng năm và nhiều năm. phong
luôn nắm bắt các thông tin kinh tế trên thị trường, hết hợp khai thác khẳ năng
thực tế lập phương án mặt hàng, phương án sản phẩm. Nghiêm cứu, áp dụng
công nghệ mới, kỹ thuật thiết bị tiên tiến, thiết kế tạo dáng sản phẩm để đưa
vào sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Xây dựng kế hoạch
giám sát, kiểm tra và đề ra các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản
phẩm, xây dựng,các định mức về vật tư, lao động và đơn giá tiền lương sản
phẩm giúp Giám đốc xây dựng và thực hiện kế hoạch cung ứng vật tư nguyên
- nhân lựa, chọn nhằm đảm bảo cung cấp kịp thời theo kế hoạch sản xuất.
Quản lý chung trong toàn doanh nghiệp hồ sơ thiết bị máy móc, công tác an
toàn và bảo hộ lao động theo quy định hiện hành.
- phòng kế toán - tài chính: là phòng nghiệp vụ tổng hợp, có chức năng
quản lý theo dõi tình hình biến động tài sản về vốn của Công ty, thực hiện
việc nghi chép sổ sách kế toán định kỳ phục vụ cho quản lý nội bộ và cho bên
ngoài. Tham mưu giúp giám đốc trong công tác quản lý và tài chính của
doanh nghiệp.
- Các phân xưởng: Có chức năng trực tiếp sản xuất các sản phẩm theo
kế hoạch đều độ của Công ty, góp phần vào việc thực hiện hoàn thành kế
hoạch sản xuất kinh doanh của Công ty.


9

- Bộ phận dịch vụ và tư doanh: có chức năng kinh doanh sửa chữa
dịch vụ theo quy định của pháp luật, tự chịu trách nhiệm, đảm bảo việc làm và
đời sống cho cán bộ công nhân viên của mình và tham gia đong góp tài chính
cho Công ty
Sơ đồ cơ cấu tổ chức sản xuất như sau:

















1.2 Phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm tại Công ty cổ phầm Gỗ Hà
Nội.
1.2.1. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh - của Công ty cổ phần
Gỗ Hà Nội ( 1999,2000,2001)
Từ khi chuyển sang có chế thị trường, hoạt động kinh doanh trong nước
trở nên sôi động hơn với sự giúp góp mặt của ngành càng nhiều các thành
phần kinh tế. Cũng giống như các doanh nghiệp khác. Công ty cổ phần Gỗ
Hà Nội cùng gặp nhiều nhỏ nhặn khi hoạt động kinh doanh trong có chế thị
C cu sn xut

Sn xut kinh
doanh

B phânh ph tr


Phân xng
c in
B phn dch
v
Phân xng mc

Phân xng x

T mc máy

T x thô

T mc máy

T mc tay

T x tinh

T véc ni



10
trường,trong những năm gần đây, hầu hết các Công ty trong lĩnh vực sản xuất
gỗ, vừa phải cạnh tranh với các Công ty trong nước, vừa phải đối phó với các
Công ty nước ngoài có trụ sở và sản xuất tại Việt Nam như các Công ty của
Singapor, Hàn Quốc, Thái Lan Đứng trước tình hình đó, Công ty đã phát
huy mọi khả năng sản xuất kinh doanh của mình để đứng vững trên thị trường
và nâng cao uy tín của mình. Công ty đã kết hợp nhiều biện pháp như nâng
cao chất lượng sản phẩm, nâng cao tay nghề đội ngũ lao động , chức sản xuất

hợp lý
Sản phẩm của Công ty sản xuất ra đa dạng về chủng loại đáp ứng thị
hiếu tiêu dùng cả về chất lượng, số lượng, giá cả sản phẩm của Công ty đã có
mặt ở 2 miền Bắc, Trung
Bảng số liệu sau đây có thể đánh giá được phần nào kết quả kinh doanh
của Công ty trong thời gian vừa qua
Bảng 1: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty cổ
phần gỗ Hà Nội Trong 3 năm 1999,2000,2001
ĐVT: triệu đồng

Chỉ tiêu 1999 2000 2001
So sánh tăng gi
ảm

2000/1999

2001/2000
Tổng doanh thu 6.952,8

10436,8

14850

50,1

42,28

Doanh thu thuần 6.920,35

10.412,9


14.823

50,47

42,35

Giá vốn hàng bán 4109,5

6677,71

9733,87

62,25

45,77

Lợi nhuận gộp 2.810,85

3.735,19

5.089,13

32,88

36,25

L
ợi nhuận thực hiện


384,26

543,928

728,572

41,55

33,95

Nộp ngân sách 20,172

54,096

90,68

168,17

67,62

Thu nhập bình quân 2,75

0,65

0,75

14,04

15,38


Số lao động 135

200

302

55,55

43,8




11
Qua bảng kết quả sản xuất kinh doanh trong 3 năm.1999 2001 ta
thấy tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty diễn ra theo chiều hướng tích
cực, các chỉ tiêu đều tăng lên qua mỗi năm. Điều này chứng tỏ Công ty có
hướng do đúng đắn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Mguyên
nhân do năm 2000 Công ty mạnh dạn đầu tư đổi mới trong chất thiết bị, nâng
cao chất lượng sản phẩm,mở rộng quy mô sản xuất, đáp ứng nhu cầu thị
trường nên đã sản xuất ra sản lượng tăng đáng kể. Năm 2001 được coi là năm
xây dựng cơ sở hạ tầng nên các công trình lớn tiêu thụ được xây dựng, bên
cạnh đó đòi hỏi trang thiết bị nội thất hiện đại, tiên tiến, nên các sản phẩm cao
cấp của Công ty không ngừng được ra đời và tiêu thụ. Về tổng doanh thu ta
thấy từ năm 1999 đến năm 2001 doanh thu đều tăng, năm 2000 đạt 10.436,8
triệu đồng tăng 50,1% so với năm 1999. Điều đó chứng tỏ rằng mặt hàng kinh
doanh của Công ty đã phần nào được thị trường chấp nhận và được tín nhiệm
với khách hàng, mặc dù tốc độ tăng trưởng chưa cao.
Cùng với sự tăng lên của doanh thu là sự tăng về lợi nhuận do có sự
quản lý về tổ chức tốt khâu sản xuất kinh doanh đồng thời tiết kiệm được chi

phí quản lý doanh nghiệp. Năm 1999 lợi nhuận đạt 384,26 triệu đồng đến
năm 2000 lợi nhuận tăng 41,55% so với năm 1999 đạt tới 543,928 triệu đồng .
Đến năm 2001 so với năm 1999 kết quả đạt được cho thấy công tác tổ chức
têu thụ sản phẩm của Công ty trong năm 2001 đã có hiệu quả, tốc độ tăng lợi
nhuận năm 2001 gần gấp 3 lần so với tốc độ tăng lợi nhuận năm 2000.
Với sự tăng doanh thu và lợi nhuận đã giúp công ty có điều kiện thuận
lợi trong việc thực hiện tốt nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước. Nộp ngân
sách nhà nước. Năm 1999 Công ty chỉ nộp ngân sách được 20,172 triệu đồng,
đến năm 2000 công ty đã cố gắng nộp 54,096 triệu đồng năm 2001 là 90,68
triệu đồng tăng 67,62% so với năm 2000. Đồng thời công ty có điều kiện
nâng cao thu nhập cho cán bộ công nhân viên năm 1999 thu nhập bình quân là
570 nghìn đồng / 1tháng đến năm 2000 đạt 650 nghìn đồng tăng 13,38% so
với năm 1999 đến năm 2001 thu nnhập bình quân đạt 750 nghìn đồng tăng có


12
9,3% so với năm 2000. Mặc dù số lao động không ngừng tăng lên qua các
năm từ 135 người năm 1999 lên 302 người năm 2001. Đây cũng là một chính
sách phát đãi ngộ của công ty nhằm khuyến khích người lao động phát huy
sức sáng tạo và năng lực trong lao động. Điều này cho thấy đời sống cán bộ
công nhân viên được cải thiện, thu nhập cao hơn đánh dấu sự quan tâm của
Công ty đối với đời sống người lao động nhằm tạo nên sự ổn định trong bộ
máy tổ chức của Công ty, đà ho Công ty phát triển trong những năm tới.
Trên đây là kết quả mà Công ty đã đạt được trong thời gian qua, chứng
tỏ sản phẩm của Công ty đã có chỗ đứng nhất định trên thị trường. Song
những thành công sẽ không thể đứng vững, nếu Công ty không tiếp tục hoàn
thiện bọ máy sản xuất kinh doanh cũng như thúc đẩy hoạt động tiêu thu sản
phẩm của Công ty. Như vậy, qua các năm từ 1999 - 2001 tuy rằng còn có
những điểm chưa hoàn thiện, cần phải tổ chức bổ sung ra nhưng hoạt động
của Công ty có nhiều tiến triển tốt đẹp, doanh thu tăng lợi nhuận tăng thu

nhập bình quân tăng, kết quả này là do Công ty đã tìm ra thu nhập bình quân
tăng, kết quả này là do Công ty đã tìm ra hướng đi đúng trong hoạt động sản
xuất kinh doanh và để bổ sung cho những điểm chưa hoàn thiện khắc phục
những khó khăn của Công ty thì cần thiết phải thực hiện đó là tìm ra các giải
pháp nhằm thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm của Công ty trên thị trường.
1.2.2. Tình hình tiêu thụ sản phẩm thu thị trường.
Cơ chế thị trường đã tạo ra một bước ngoặt lớn trong công tác tiêu thụ
sản phẩm của các doanh nghiệp nói chung và của Công ty cổ phần Gỗ Hà Nội
nói riêng. Trong cơ chế bao cấp, công tác tiêu thụ sản phẩm của Công ty chủ
yếu là phân phối theo chỉ tiêu giao nộp của nhà nước. Hình thức này mang
tính chất trao đổi hiện vật, không phát huy tính sáng tạo của Công ty từ khi
chuyển sang nền kinh tế thị trường, được giao quyền từ chủ trong sản xuất
kinh doanh, Công ty đã không tránh khỏi sự bỡ ngỡ trớc tình hình mới, sản
phẩm ứ đọng, sản xuất cầm chừng, nợ lương công nhân kéo dài có thể dẫn
đến nhà máy giải thể. Đứng trước tình hình đó Công ty đã tổ chức xắp xếp lại


13
nhằm tiêu thụ hết sản phẩm sản xuất ra và không ngừng mở roọng thị trường.
Công ty đã áp dụng nhiều chính sách và tìm ra ccs giải pháp thúc đẩy quá
trình tiêu thụ sản phẩm. Hiện nay Công ty đã tìm ra được chỗ đứng trên thị
trường và dần khôi phục uy tín của Công ty trong cả nước.
Bảng số liệu sau cho ta thấy kết quả tiêu thụ sản phẩm của Công ty
trên các thị trường trong nước qua 3 năm gần đây

Bảng 2: Tình hình tiêu thụ sản phẩm theo thị trường của Công ty
cổ phần Gỗ Hà Nội 1999 - 2001
Năm

Khu vực

1999 2000 2001
Số tiền TT% Số tiền TT% Số tiền TT%
Mi
ền bắc

6.046.544

86,97

9.224,7

88,39

13.259,84

89,29

Miền Trung 906,256 13,03 1.212,1 11,61 1.590,16

10,71
Cộng 6952,8 100 10.436,8

100 14.850 100
















N¨m 2001
89,29%
10,71%
MiÒn B¾c MiÒn Trung

N¨m 2000
11,61%
88,39%

N¨m 1999
86,97%
13,03%



14





Biểu đồ thể hiện tình hình tiêu thụ sản phẩm theo thị trường



15
Qua bảng, đồ thị trên ta thấy giái trị sản phẩm tiêu thụ của công ty ở thị
trường miền bắc cao hơn rất nhiều so với thị trường miền trung ở cả ba năm (
1999- 2001 )
ở thi trường miền bắc gía trị tiêu thụ năm 1999 là 6046,544 triệu đồng
chiếm tỷ trọng 86, 97% tổng giá trị tiêu thụ. Năm 2000 giá trị tiêu thụ đã tăng
hơn so với năm 1999, đạt 9.224,7 triệu đồng chiếm 88,39 %. Đến năm 2001
với sự lỗ lực của cộng ty đã đưa doah thu tiêu thụ ở thị trường miên bắc lên
tới 13. 259,84 triệu đồng chiếm tỷ trọng 89, 29% tổng doanh thu tiêu thụ.
Nguyên nhân của sự gia tăng doanh thu tiêu thụ này ta xem bảng kết quả tiêu
thụ theo thị trường của công ty cổ phần Gỗ Hà Nội.
Bảng 3:
Kết quả tiêu thụ theo thị trường của công ty cổ phần Gỗ Hà Nội.
Thị trường
1999 2000 2001
Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng
A,khu vực miền bắc 6.046,544

86,97

9224,7

88,39

13259,84

89,529


1. Hà Nội 2.346,15

33,74

3.182,05

30,49

4.712,5

31,73

2. Hoà bình 899,34

12,9

873,98

8,37

908,96

6,12

3. Hà Tây 1,205,67

17,34

2.315,7


22,19

2.973,37

20,02

4. Hải phòng 976,62

14,05

2.031,16

19,46

3.566,23

24,02,

5. Cải Cách


618,764

8,89

82181

7,87

1.098,78


7,4

B. Khu vực M. trung 906,256

13,03

1,212,1

11,61

1.590,16

10,71


Như vậy nguyên nhân của sự gia tăng doanh thu ở thị trường miền bắc
chủ yếu là do Hà Nội là thị trường chính của Công ty. Một số năm trước sản
phẩm của Hà Nội sản xuất phục vụ của các vùng ở xa còn thị trường Hà Nội
tiêu thụ so sản phẩm nơi khác mang về. Hiện nay Công ty cổ phần Gỗ Hà
Nội xác định thị trường Hà Nội là một thị trường trọng điểm mà sản phẩm
của Công ty có tính cạnh tranh cao hơn so với các sản phẩm cùng loại của
các doanh nghiệp thuộc cùng lĩnh vực hoạt động. Từ năm 1999 Tỷ trọng tiêu
thụ tại thị trường Hà Nội luôn chiểm trên 30% Tổng doanh thu. Trong năm


16
1999 đạt 33.74% Tổng Doanh thu năm 2000 và năm 2001 tỷ trọng có giảm
đi nhưng không đáng kể nhưng gía trị tiêu thụ là tăng nền đáng kể. Năm 1999
đạt 2.346,15triệu đồng, năm 2000 đạt 3.182,05 triệu đồng, năm 2001 đạt cao

hơn 4.712,5 triệu đồng. ngay từ năm 1999 Công ty đã xác định Hà Nội là thị
trường tiềm năng rất lớn, vì theo quy định hoạch của thủ đô từ năm 2000-
2020 sẽ phát triển một loạt các công trình nhà nước ở trường học, khu tập thể
khách sạn của thu đô Hà Nội và các vùng lần cận. chính vì vậy nhu cầu
các sản phẩm nội thất Công ty trong thời gian sắp tới cho quá trình phát triển
đô thị là rất lớn. Ngày từ bây giờ Công ty cổ phần Gỗ Hà Nội đã chuẩn bị tốt
những điều kiện cơ sở vật chất, thiết kế những những sản phẩm mới đáp ứng
nhu cầu của thị trường trong thời gian tới. Bên cạnh đó Công ty đã xây dựng
được mối quan hệ bạn hàng khá lâu dài với hầu hết các đơn vị tiêu thụ của
các tỉnh như: Hoà Bình, Hà Tây, Hải Phòng, Tuyên Quang và có giá ưu
đãi với khách háng quen,do vậy doanh thu tiêu thụ tại các tỉnh này vẫn tăng
đều qua các năm chỉ trừ có tỉnh Hoà Bình năm 2000 doanh thu có giảm đi so
với năm 1999 những tốc độ giảm chậm, năm 1999 đạt 899,34 Triệu đồng,
năm 2000 đạt 873,98 triệu đồng. Tuy vậy đến năm 2001 thực tại thì trường
Hoà Bình lại trong tăng đạt 908,96 triệu đồng. Ngoài Hà Nội là thị trường
chính thì Hà Tây là thị trường thứ hai đem lại số doanh thu cao cho Công ty.
Năm 1999 đạt 1.205,67 riêụ đồng, năm 2000 tăng gần gấp đôi đạt 2.315 triệu
đồng, năm 2001 cũng tăng nhưng tốc độ tăng chậm đạt 2.973,27 triệu đồng.
Nguyên nhân vì Hà Tây là tỉnh giáp với Hà Nội, các loại chi phí về vận
chuyển thấp, việc tếp cận và quản lý thuận lợi hơn các thị trường khác vì vậy
Hà Tây là thị trường thứ hai nằm trong mục tiêu kinh doanh và phát triển của
Công ty. Ngoài 3 tỉnh trên, Hải Phòng có địa bàn xa hơn nhưng 3 năm gần
đây doanh thu tiêu thụ do thị trường này mang lại là tương đối khá quan, tốc
độ tăng doanh thu khá nhanh. Năm 1999 chỉ đạt 14,05% trên tổng doanh thu,
năm 2000 đạt 19,465 % đến năm 2001 đạt 24,02%. Như vậy trung bình mỗi
năm từ năm 1999-2001 tốc độ tăng là trong khoảng 5% trên tổng doanh thu.


17
Điều cho thấy Công ty đã tạo được uy tín sản phẩm của mình trên thị trường

Hải Phòng cho nên số lượng đơn đặt hàng tămg nhanh làm cho doanh thu
tăng. Tuy nhiên Hải Phòng chưa nằm trong mục tiêu kinh doanh hàng đầu,
của Công ty vì chi phí vận chuyển, giao hàng đến thị trường này đến là tối
kém.
Ngoài 4 thị trường tiêu biểu nói trên thì các tỉnh khác cũng có các tỉnh
khác cũng có các đơn vị mua sản phẩm của Công ty nhưng không thường
xuyên giá trị doanh thu tiêu thụ được không ổn định. Mặc dù doanh thu lại
giảm đi. Năm 1999 đạt 618,764 triệu đồng chiếm 8,89% trên tổng doanh thu.
Năm 2000 đạt 821,81 triệu đồng chiếm 7,87% trên tổng doanh thu. Năm 2001
đạt 1098,78 triệu đồng năm 2000 và đặc biệt năm 2001 Công ty đã mở rộng
thih trường ra sau nhiều tỉnh mới trở thành bạn hàng thân thiết. Đây là mục
tiêu chiến lược của Công ty nhằm tăng khả năng tiêu thụ trong những năm tới.
- ở thị trường miền trung tiêu thụ rất ít so với thị trường miền bắc, tuy
doanh thu lại giảm.Năm 1999 doanh thu tiêu thụ chiếm 13,03% tổng doanh
thu. Năm 2000 tỷ trọng tiêu thụ chỉ đạt 11,61% tổng doanh thu tuy nhiên
doanh thu ở thị trường này vẫn tăng, đạt 1212,128 triệu đồng. Năm 2001
doanh thu tiếp tục tăng đạt 1590,16 triệu đồng nhưng chỉ đạt tỷ trọng 10,71%.
Nguyên nhân là do thị trường này Công ty mới chỉ có một số lượng khách
hàng tương đối ít ở các tỉnh như Huế. Quảng trị Nên mặc dù thời gian qua
ở các tỉnh này nhu cầu về sản phẩm của công ty ngày càng tăng nhưng doanh
thu vẫn tăng chậm một trong việc thâm nhập của công ty vào thị trường miền
trung tương đối khó khăn do gặp nhiều yếu tố địa lý khoảng cách vận chuyển
xa, Công ty không có điều kiện ra giá khuyến mại . Mặt khác do nguồn lực
về máy móc, trang thiết bị của Công ty còn nhiều hạn chế, nên Công ty chứa
mở rộng được quy mô sản xuất đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường cho nên,
các bạn hàng của công ty tại thị trường này chưa thể trở thành bạn hàng
chuyền thống dẫn đến doanh thu do thị trường này đem lại còn bất bình không
ổn định.



18
1.2.3 tình hình tiêu thụ sản phẩm theo mặt hàng.
Như chúng ta đã biết trong bất kỳ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào,
tiêu thụ sản phẩm là hành vi kinh doanh nhằm thực hiện giá trị hàng hoá, kết
thúc quá trình tuần hoàn vối kinh doanh và nhằm thực hiện giá trị sử dụng
với nhiều mục đích mua hàng khác nhau. Do đó, thực hiện quá trình tiêu thu
đồng nghĩa với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Xét kết quả hoạt
động tiêu thụ theo mặt hàng của Công ty cổ phẩm Gỗ Hà Nội trong 3 năm từ
năm 1999 đến năm 2001 qua bảng sau.
Bảng 4: Tình hình tiêu thụ sản phẩm theo mặt hàng của Công ty cổ
phần Gỗ Hà Nội từ năm 1999 đến 2001
Đơn vị tính: triệu đồng
Danh mục
1999 2000 2001
S
ố tiền

TT

S
ố tiền

TT

S
ố tiền

TT

A. Sản phẩm chính


6005,3

86,37

8653,17

82,91

11968,4

80,59

1. Bàn 1971,65

28,36

2.665,23

25,54

3.374,89

22,73

2. Ghế 1722,39

24,77

2.074,16


19,87

3.609,12

24,3

3. Tủ 1357

19,52

2.412,78

23,12

2.960,34

19,93

4. Giường 954,26

13,72

1501

14,38

2.024,05

13,63


B. Sản phẩm khác 947,5

13,63

1783,63

17,09

2.881,6

19,41

Tổng 6.952,8

100

10.436,8

100

14.850

100


Qua bảng số liệu trên ta thấy năm 1999 doanh thu tiêu thụ các sản phẩm
chính đạt 6.005,3 triệu đồng, năm 2000 doanh thu tiêu thụ đạt 8.653,17 triệu
đồng tăng 2.647,87 triệu đồng so với năm 1999 đến năm 2001 daonh thu đạt
11.968,4 triệu đồng tăng 3.315,26 triệu đồng so với năm 2000 (tương ứng với

tỷ lệ tăng là 38,31%). Mặc dù giá trị doanh thu tăng lên nhưng tỷ trọng trên
tổng doanh thu lại giảm xuống. Năm 1999 doanh thu chiếm 86,37%, năm
2000 chiếm 82,91, năm 1999 doanh thu chiếm 86,59%. Vì vậy tỷ trọng các
sản phẩm này đem lại nhỏ hơn rất nhiều so với các sản phẩm chính. Vì đây là


19
những sản phẩm được sản xuất theo yêu cầu riêng của khách hàng, không
nằm trong mục tiêu sản xuất của Công ty. Tuy vậy doanh thu tiêu thụ do các
sản phẩm khác đem lại vốn tăng qua các năm đặc biệt từ năm 2000 đến năm
2001 tốc độ tăng khá nhanh năm 1999 chỉ đạt 947,5 triệu đồng ( chiếm
13,63%) năm 2000 đạt 1783.63 triệu đồng (chiếm 19,41%). Điều đó cho thấy
Công ty cũng đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của khách hàng, tuy nhiên
mục tiêu kinh doanh của Công ty vì thế nên giảm tỷ trọng các mặt hàng này
để tăng tỷ trọng các sản phẩm chính nhằm tạo một chỗ đứng vững chắc trên
thị trường. Để biết rõ nguyên nhân tăng doanh thu tiêu thụ của các sản phẩm
như sau:
Nhìn vào bảng ta thấy doanh thu tiêu thụ các nhóm mặt hàng hầu hết đều
tăng. Trong đó nhóm mặt hàng bàn tiêu thụ trong 3 năm hầu như đều đạt
doanh thu lớn nhất trừ năm 2001 doanh tu tiêu thụ bàn nhỏ hơn doanh thu
tiêu thụ ghế (năm 2001: bàn đạt 22,73%, ghế đạt 24,3% tổng doanh thu).
Năm 1999 bàng tiêu thụ đem về 1.971,65 triệu đồng đến năm 2000 doanh thu
tăng 693,58 triệu đồng, năm 2001 doanh thu cũng tăng đều là 709,66 triệu
đồng so với năm 2000 nhóm mặt hàng này tăng đều như vậy vì nhu cầu của
khách hàng về mặt hàng này thường cần với số lượng lớn. Hơn nữa Công ty
cũng đã tạo được uy tín về chất lượng, mẫu mã sản phẩm trên thị trường.
Trong 4 nhóm mặt hàng chính thì bàn và ghế là những mặt hàng có nhiều loại
sản phẩm phong phú, đa dạng về kiểu dáng, chất liệu cho nên bàn là nhóm
mặt hàng đem lại nguồn lại lớn cho Công ty.
Ngoài bàn ra, thì ghế là mặt hàng thứ hai đem lại doanh thu tiêu thụ cao

cho Công ty. Bởi bàn và ghế thường là những mặt hàng đi kèm với nhau. Đặc
biệt năm 2001 bàn và ghế đã được những tiêu chuẩn về chất lượng, sang trọng
phục vụ cho nhà khách, hội trường cấp cao. Tiêu biểu như ghế salông, ghế
tựa nan mặt đệm, ghế thuỵ sĩ mặt tựa đệm Bên: có bàng hội trường, bàn hộp
bầu dục, bàn hai thùng Vì thế mặt hàng ghế đem lại doanh thu cao không
kém gì mặt hàng bàn thậm chí năm 2001 còn cao hơn bàn 234,23 triệu đồng


20
(chiếm 24,3% cao nhất trên tổng doanh thu năm 2001). Trong khi đó năm
1999 đạt 24,77% đứng thứ hai tổng doanh thu, đến năm 2000 mặc dù giá trị
doanh thu tăng 351,77 triêụ đồng so với năm 1999 nhưng tỷ trọng lại giảm
chiếm 19,87% tổng daonh thu. Như vậy, bàn và ghế là hai mặt hàng chủ đạo
của Công ty, cho nên Công ty đã chú ý thay đổi mẫu mã, nâng cao chất lương
làm tăng doanh thu tiêu thụ.
Bên cạnh đó tủ và giường cũng có doanh thu tăng qua các năm. Đặc biệt
năm 2000 doanh thu tiêu thụ tủ còn cao hơn cả ghế, tủ chiếm 23,12%, ghế chỉ
chếm 19,87% nhưng đến năm 2001 tốc độ tăng của tủ lại chậm hơn tốc độ
tăng của ghế (tủ đạt 19,93%, ghế đạt 24,3% tổng doanh thu). Từ năm 1999
đến năm 2001 doanh thu của tủ tăng là kết quả của việc nghiên cứu thị
trường cho ra đopừi một loại tủ có kiểu dáng mẫu mã phù hợp với nhu cầu.
Tuy nhiên, nguyên nhân tủ không đạt đc giá trị doanh thu lớn nhất vì mặt
hàng này thường được đạt với số lượng ít, yêu cầu về kỹ thuật và mỹ thuật
tương đối cao. Mặt khác trên thị trường hiện nay còn có rất nhiều các cửa
hàng tư nhân cùng cạnh tranh với nhau trong doanh nghiệp. Các tư nhân này
thường bán hàng với giá rẻ do vậy đã kích thích, lôi kéo được khá nhiều
khách hàng, gây ảnh hưởng tới khả năng tiêu thụ sản phẩm Công ty.
Ngoài 3 nhóm mặt hàng trê, giường cũng là nhóm mặt hàng có doanh
thu tăng qua mỗi năm nhưng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ nhất trong 4 nhóm mặt
hàng. Năm 1999 đạt doanh thu 954,26 triệu đồng (chiếm 13,72%) năm 2000

đạt 1501 triệu đồng (chiếm 14,38%) đến năm 2001 khá nhanh, đạt 2.024,05
triệu đồng (như chỉ chiếm 13,63%). Nguyên nhân của tăng doanh thu này
chỉ do chất lượng sản phẩm đảm bảo, tạo được uy tín lâu dài còn về kiểu dáng
thì năm 2001 các mẫu giường sản xuất vẫn giống năm 2000, không có sự đột
biến về kiểu dáng. Vì thế trong những năm tới Công ty cần có sự đổi mới về
mẫu mã để không ngừng tăng daonh thu tiêu thụ.


21
Kết quả trên có được do Công ty đã năng động, nắm bắt nhu cầu thị
trường và cung ứng những sản phẩm với chất lượng tốt cho nên đã tiêu thụ
sản phẩm của mình khá nhanh chóng, đem lại doanh thu cao cho Công ty.


22
1.2.4. Tình hình tiêuh sản phẩm theo phương thức bán
Bảng 5: Tình hình tiêu thụ sản phẩm theo phương thức bán
Đơn vị tính: triệu đồng
Chỉ tiêu
1999 2000 2001
Số tiền TT Số tiền TT Số tiền TT
Cửa hàng gi
ới
thiệu sản phẩm
430,3814

6,19

652,3


6,25

1020,16

6,89

Môi gi
ới

695,976

10,01

881,668

8,45

682,44

4,6

Bán trực tiếp 5.826,44

83,8

8.902,76

85,3

13147,4


88,53

Tổng 6952,8

100

10436,8

100

14850

100


Qua bảng số liệu về tình hình tiêu thụ sản phẩm theo phương thức bán
của Công ty trong 3 năm từ năm 1999 đến năm 2001 cho ta thấy rõ.
Bán qua cửa hàng tiêu thụ sản phẩm năm 1999 chiếm tỷ trọng 6,19%
doanh thu là 430,384 triệu đồng tăng 51,56% so với năm 1999 - Năm 2001
chiếm tỷ trọng 6,87% doanh thu đạt 1020,16 triệu đồng, tăng 56,39%k so với
năm 2000. Bán theo phương thức này không chỉ tăng lên về doanh thu mà
còn có xu hướng tăng lên vè tỷ trọng. Việc tăng doanh thu bán qua phương
thức cửa hàng giới thiệu sản phẩm thể hiện sản phẩm của Công ty đã được
khách hangf tín nhiệm, đã có nhiều khách hàng biết đến sản phẩm của Công
ty. Cửa hàng giới thiệu sản phẩm này hoạt động có hiệu quả, Công ty cần
tăng thêm số lượng các cửa hàng.
Phương thức bán qua môi giới chiếm tỷ trọng 10,01% năm 1999 doanh
thu đạt 695,976 triệu đồng. Năm 2000 doanh thu tăng đạt 881,668 phương
thức bán này thu hẹp lại chỉ còn 4,6% so với doanh thu là 682,44 triệu đồng

làm giảm doanh thu tiêu thụ 199,228 triệu đồng với tốc độ giảm 22,59% so
với năm 200. Năm 1999 sở dĩ phương thức bán qua môi giới chiếm tỷ trọng
lớn vì Công ty còn hạn chế về tài chính nên không đầu tư thích đáng cho


23
công tác quảng cáo bởi vậy khách hàng ít biết đến các sản phẩm của Công ty,
để thúc đẩy tiêu thụ lúc đó biện pháp bán qua môi giới phát huy tác dụng.
Tuy nhiên áp dụng phương thức bán này Công ty phải trích một khoản hoa
hồng cho môi giới làm tăng chi phí giảm điều kiện hạ giá thành sản phẩm.
Bởi vậy, Công ty đã có quyết định là giảm việc bán qua môi giới từ năm 2000
và sẽ còn giảm trong những năm tiếp theo. Hiện nay sản phẩm của Công ty
đã có chỗ đứng trên thị trường, được khách hàng tin cậy. Việc làm của Công
ty bây giờ là không ngừng cải tiến mẫu mã, trang thiết bị để ngày càng cho ra
đời những sản phẩm tốt hơn, đẹp hơn ra thị trường.
Khác với hai phương thức bán trên thì phương thức bán trực tiếp chiếm
tỷ trọng chủ yếu và có xu hướng tăng cả về doanh thu và tỷ trọng qua từng
năm. Năm 1999 chiếm 83,8% với doanh thu 5.826,44 triệu đồng, năm 2000
doanh thu đạt 8.902,76 triệu đồng chiếm tỷ trọng 85,5% tăng 52,79%. so với
năm 1999. Năm 2001 tỷ trọng tăng lên 88,53% doanh thu đạt 13.147,4 triệu
đồng tăng 147,67% so với năm 2000.
Như đã nói ở trên do phương thức bán qua môi giới liên tục giảm nên
Công ty quyết định tăng cường bán qua phương thức trực tiếp. Với phương
thức này Công ty có thể giảm bớt chi phí lưu thông, chi phí mỗi giới đồng
thời có thề quảng bá được về tính năng công dụng đến người tiêu dùng trực
tiếp. Ngoài ra, hoạt động bán trực tiếp phát triển mạnh còn do Công ty có một
đội người nhân viên tiếp thị năng động, áp dụng các chính sách chiết khấu
linh hoạt, phương thức thanh toán thuận tiện như trả bằng tiền mặt, ngân
phiếu, trả chậm, trả ngay và các hình thức trợ giá vận chuyển nếu khách
hàng tự vận chuyển. Đây chính là các yếu tố quan trọng giúp Công ty khuyến

khích khách hàng đến mua sản phẩm của mình tại Công ty. Vì vậy kết quả đạt
được năm 2001 là tương đối khả quan, đạt gần 90% tổng doanh thu chứng tỏ
công ty đã chú trọng việc bán hàng thoe phương thức trực tiếp. Công ty cần
quảng cáo tuyên truyền sản phẩm của mình hơn nữa và kèm theo một loạt


24
những ưu đãi khi mua sản phẩm tại Công ty để không ngừng gia tăng sản
phẩm tiêu thụ, tăng doanh thu.
Trong phương thức bán trực tiếp, Công ty bán chủ yếu cho các khách
hàng thường xuyên với Công ty chiếm tỷ trọng khoảng 75% - 8%. Đây là
những khách hàng thân thiết, có mối quan hệ mua hàng rất lâu với Công ty.
Những khách hàng này thường mua với số lượng lớn nên Công ty đã lập một
danh sách riêng về những khách hàng này và có những biện pháp ưu đãi đặc
biệt về giá cả, chi phí vận chuyển, phương thức thanh toán để luôn giữ
vững và nâng cao uy tín của công ty trước họ. Khách hàng mới chưa biết đén
sản phẩm của Công ty hoặc là khách hàng của các đối thủ cạnh tranh của
Công ty sau khi có sự so sanh sản phẩm của công ty với sản phẩm của đối thủ
đã chọn mua hàng của công ty. Bởi vậy lượng khách hàng tăng lên chứng tỏ
các biện pháp hỗ trợ bán hàng của công ty đã phát huy tác dụng. Uy tín của
công ty về chất lượng sản phẩm, giá cả, dịch vụ hơn so với đối thủ nên khách
khách hàng đã lựa chọn sản phẩm của công ty. Công ty nên có những biện
pháp thích hợp để những khách hàng này trở thành những khách hàng
thươngf xuyên của công ty.
1.2.5. ảnh hưởng của giá vốn hàng bán tới doanh thu tiêu thụ sản
phẩm
Vì là một doanh nghiệp chuyên sản suất các mặt hàng về gỗ lên tất cad
nguyên vật liệu phải đi về để mua thành sản phẩm.Giá cả bán ra phải dựa toàn
bộ chi phí bỏ ra trong đó có giá vốn nguyên vật liệu nhập về vì thế việc xem
xét ảnh hưởng của giá vốn hàng bán các mặt hàng là rất cần thiết đối với công

ty. Để thấy rõ công tác quanr lý giá vốn các nhóm mặt hàng kinh doanh của
công ty ta có thể tham khảo bảng sau.(trang bên)
Nhìn chung mặt hàng kinh doanh cuả công ty khá phong phú. Trong đó
phục vụ các khách hàng từ bình dân đến cao cấp. Do đó hàng tiêu thụ hàng
năm đều rất lớn và không ngừng tăng lên. Mặc dù giá vốn bình quân một


25
chiếc cho từng loại hàng hầu như đều tăng qua từng năm nhưng số lượng tiêu
thụ vẫn tăng làm cho doanh thu tiêu thụ tăng. Điều đó chứng tỏ sản phẩm của
công ty đã đạt yêu cầu của khách hàng va được tín nhiệm cụ thể như sau:
Mặt hàng luôn chiếm đoạt doanh thu tiêu thụ lớn nhất qua từng năm vì
vậy giá vốn bỏ ra cũng hầu như nhiều nhất so với các mặt hàng khác. Trong
đó loại bán thường năm 1999 giá vốn bình quân chỉ có 98. 000 một chiếc lên
đã tiêu thụ được lượng bán khá lớn 6.492, năm 2000 giá vốn bình quân tăng
thành 101.000
đ
nên giá bán ra cao hơn 1999 làm cho số lượng tiêu thụ ít đi có
6125 chiếc năm 2001 giá vốn bình quân còn tiếp tục tăng 7.000
đ
nhưng xem
ra vẫn được khách hàng chấp nhận. Đối với bên cao

×