Tải bản đầy đủ (.pdf) (392 trang)

Chuyên đề:Triết học Hy Lạp pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.04 MB, 392 trang )

1







CHUYÊN ĐỀ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TRIẾT HỌC



TRIẾT HỌC HY LẠP , LA MÃ CỔ ĐẠI













2





Chuyên đề 1

KHÁI QUÁT TRIẾT HỌC HY LẠP , LA MÃ CỔ ĐẠI

YÊU CẦU VỀ KIẾN THỨC CƠ BẢN
Học viên cần ôn lại kiến thức cơ bản về triết học Hy Lạp, La Mã trước khi
đào sâu nội dung chính của chuyên đề SĐH:
* Về tính quy luật trong sự phát triển của triết học phương Tây (tính chế
định lịch sử - xã hội, tính tất yếu nội tại của sự xuất hiện và diệt vong của các
học thuyết triết học, tính kế thừa, con đường vận động từ trừu tượng đến cụ thể,
tính thời đại của triết học)
* Khái quát sự ra đời, phân kỳ, các chủ đề của triết học Hy lạp, La Mã (sơ
khai, hay thời khai nguyên; cực thịnh, hay thời “cổ điển”, khủng hoảng và suy
tàn, hay thời kỳ Hy – La)
* Khái quát các đặc trưng cơ bản của triết học Hy Lạp, La Mã (tính sơ
khai, tính bao trùm về lý luận, tính đa dạng, muôn vẻ, tính biện chứng tự phát,
bẩm sinh, tính nhân văn)
Tài liệu: Đinh Ngọc Thạch: Triết học Hy Lạp cổ đại; Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 1999, và một số công trình, bài viết về triết học phương Tây cổ đại
của các nhà nghiên cứu như GS, TS. Nguyễn Hữu Vui (Lịch sử triết học, Nxb.
CTQG, HN, 1998, đã tái bản năm 2008) PGS. Hà Thúc Minh, PGS, TS. Nguyễn
Tiến Dũng, TS. Hà Thiên Sơn, các tác phẩm “Triết học nhân sinh” (Sách dịch,
Nxb. Lao động, HN, 2004), “Plato chuyên khảo” (Sách biên dịch, Nxb. Văn hóa
– Thông tin, HN, 2008) v.v
I. TÍNH QUY LUẬT TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TƯ TƯỞNG
TRIẾT HỌC
1. Triết học – tinh hoa tinh thần của thời đại
Lịch sử tư tưởng triết học là sự phản ánh lịch sử hiện thực thông qua các
phạm trù, khái niệm đặc trưng của mình. Sự phản ánh đó thể hiện ở nhiều bình

diện khác nhau.
3

Trước khi triết học ra đời, hình thức triết lý xưa nhất của nhân loại là
huyền thoại, mà thần thoại là hạt nhân thế giới quan của nó. Thần thoại ngự trị
trong ý thức đại chúng cùng với thuyết nhân hình xã hội nguyên thuỷ, vật linh
thuyết, vật hoạt luận. Người nguyên thủy bị vây bọc trong quyền lực của xúc
cảm và trí tưởng tượng, những quan niệm của họ còn rời rạc, mơ hồ, phi lôgíc.
Các yếu tố tư tưởng và tình cảm, tri thức và nghệ thuật, tinh thần và vật chất,
khách quan và chủ quan, hiện thực và suy tưởng, tự nhiên và siêu nhiên ở thần
thoại còn chưa bị phân đôi. Đỉnh cao phát triển của thần thoại cũng đồng thời
báo hiệu sự cáo chung tất yếu của nó. Triết học – hình thức tư duy lý luận đầu
tiên trong lịch sử tư tưởng nhân loại – ra đời, thay thế cho tư duy huyền thoại và
tôn giáo nguyên thuỷ. Thuật ngữ “triết học” do người Hy Lạp nêu ra
1

(philosophia) theo nghĩa hẹp là “yêu mến sự thông thái”, còn theo nghĩa rộng, là
khát vọng vươn đến tri thức; nói khác đi, là “quá trình tìm kiếm chân lý”; nhà
triết học là người yêu mến sự thông thái, khác với nhà bác học (sophos), người
nắm vững chân lý. Tuy nhiên với thời gian triết học được hiểu theo nghĩa rộng:
đó là thứ tri thức phổ quát, tìm hiểu các vấn đề chung nhất của tồn tại và tư duy.
Ở buổi đầu lịch sử tri thức triết học là tri thức bao trùm, là “khoa học của các
khoa học”. Nói như thế không có nghĩa là tư tưởng đạo đức, chính trị, thẩm mỹ,
nghệ thuật chưa xuất hiện. Vấn đề là ở chỗ các tư tưởng đó đã được xem là một
phần của triết học. Trong thời Trung cổ thần học Kytô giáo chiếm vị trí thống trị
trong sinh hoạt tư tưởng. Nhà nước phong kiến và nhà thơ Thiên chúa giáo chỉ
lấy “những cái phù hợp” trong triết học Arixtốt (Aristoteles, Aristotle), trường
phái Platôn (Platon, Plato) để làm chỗ dựa tư tưởng của mình. Triết học trở
thành nô lệ của thần học, của cái gọi là tư duy chuẩn mực, nhà thờ trở thành
“nền chuyên chính tinh thần”, lịch sử các vị thánh quan trọng hơn lịch sử các

danh nhân. Thế kỷ XV – XVI được xem là thời kỳ chuyển tiếp từ chế độ phong
kiến sang xã hội tư sản. Tư tưởng nhân văn trở thành trào lưu chủ đạo và xuyên
suốt, thể hiện ở hầu khắp các lĩnh vực nhận thức và hoạt động thực tiễn, với
thông điệp con người là trung tâm. Từ thế kỷ XVII – XVIII trở đi tư tưởng triết
học, khoa học, đạo đức, thẩm mỹ, chính trị mang tính thế tục và duy lý thay thế
dần thần học vạn năng. Khi trung tâm tri thức chuyển từ Anh và Pháp sang Đức
từ nửa sau thế kỷ XVIII truyền thống “cổ điển” phương Tây, bắt đầu từ Hy Lạp
– La Mã, đạt đến đỉnh cao hoàn thiện nhất, mà điển hình là hệ thống Hêghen

1
Một số nhà nghiên cứu cho rằng Pythagoras là người đầu tiên tự gọi là philosophos (φιλοσοφος), tức “kẻ yêu
mến sự thông thái”, nhưng chính Heraklitus mới là người đầu tiên sử dụng từ này trong một đoạn tản văn của
ông.
4

(Hegel). Trong những năm 20 – 40 của thế kỷ XIX đã diễn ra quá trình phi cổ
điển hóa các lĩnh vực tri thức, thể hiện ở văn hóa, khoa học, triết học. Bước
ngoặt lớn này gắn liền với những biến đổi kinh tế, chính rị, xã hội và chịu sự sự
chi phối của những biến đổi ấy. Ngày nay xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa
đưa các dân tộc xích lại gần nhau hơn, tăng cường giao lưu, đối thoại, hướng
đến lợi ích chung – hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển bền vững. Song bên
cạnh đó xung đột về lợi ích vẫn chưa chấm dứt, mà ngày càng diễn biến phức
tạp. Đấu tranh tư tưởng và đối thoại tư tưởng đan xen nhau, làm nên bức tranh tư
tưởng đa dạng và phức tạp và đầy mâu thuẫn. Các chủ đề của tư tưởng triết học
trở nên phong phú, với khá nhiều trào lưu, khuynh hướng lần lượt ra đời và bị
thay thế, kể cả những trào lưu, khuynh hướng từng được xem là tuyên ngôn bán
chính thức về lối sống của một xã hội.
Tìm hiểu sự phát triển của tư tưởng triết học qua các thời đại, C.Mác nhận
định: “… mọi triết học chân chính đều là tinh hoa về mặt tinh thần của thời đại
mình”

2
, và rằng “các triết gia không mọc lên như nấm từ trái đất; họ là sản phẩm
của thời đại mình, của dân tộc mình”
3
.
Tính quy luật của sự ra đời, phát triển tư tưởng triết học thể hiện ở những
điểm sau:
1) Mỗi hệ thống, trào lưu tư tưởng triết học đều xuất hiện một cách tất
yếu, và với tính tất yếu ấy nó chịu sự sàng lọc của lịch sử, bị thay thế bởi những
tư tưởng phù hợp với điều kiện lịch sử mới.Quá trình phát sinh, phát triển của tư
tưởng triết học chịu sự quy định của những điều kiện lịch sử – xã hội cụ thể.
Chính thực tiễn xã hội với toàn bộ tính sinh động và phức tạp của nó chi phối
nội dung và thực chất các khuynh hướng, trường phái triết học, vị trí, vai trò của
triết học trong đời sống xã hội. Sự thay thế nhau của các học thuyết triết học
không tách rời nhu cầu khách quan, hiện thực của con người;
2) Tư tưởng của quá khứ không biến mất hoàn toàn, mà thường để lại di
sản của mình; một số nội dung của nó tiếp tục được tìm hiểu, nghiên cứu như
những bài học kinh nghiệm của lịch sử, một số khác tiếp tục gia nhập vào cái
toàn thể sống động tiến về phía trước;
3) Sự vận động của tư tưởng triết học theo quá trình từ trừu tượng đến cụ
thể. Theo đó triết học càng lùi về phía sau càng trừu tượng, càng gần với chúng

2
C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 157.
3
C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 156.
5

ta càng giàu nội dung, càng cụ thể. Mối quan hệ giữa triết học với các lĩnh vực
tri thức cũng thay đổi theo thời gian. Vào thời cổ đại, khi trình độ nhận thức

chung còn thấp, tri thức khoa học còn ở trong tình trạng tản mạn, sơ khai, thì
triết học đóng vai trò là dạng nhận thức lý luận duy nhất, giải quyết các vấn đề
lý luận chung về tự nhiên, xã hội, tư duy. Triết học được xem như “khoa học của
các khoa học”, còn các triết gia được tôn vinh thành những bộ óc bách khoa, am
tường mọi thứ. Tuy nhiên khi các khoa học chuyên biệt với hệ thống lý luận
riêng có của mình lần lượt ra đời, thì mọi tham vọng về triết học toàn năng trở
nên vô nghĩa. Ph.Ăngghen viết: “Chủ nghĩa duy vật hiện đại… không còn là một
triết học nữa, mà là một thế giới quan…” và “Chủ nghĩa duy vật hiện về bản
chất là biện chứng, và nó không cần đến bất cứ một triết học nào đứng trên các
khoa học khác”
4
;
4) Tư tưởng triết học là sản phẩm của thời đại, được sinh ra, nuôi dưỡng,
thẩm định bởi thời đại; không có chân lý bất biến, tuyệt đích cho mọi thời đại,
do đó không có thứ tư tưởng triết học xuyên qua nhiều thời đại, được thần thánh
hóa như những tín điều bất di bất dịch.
2. Tính tất yếu của sự thay đổi các chủ đề tư tưởng triết học
Trong sự phát triển tư tưởng triết học, các chủ đề thường xuyên trải qua
thay đổi, bổ sung, mở rộng nhằm lý giải một cách kịp thời các quá trình thực
tiễn xã hội. Có những chủ đề tư tưởng hôm qua là chủ đạo, hôm nay chỉ còn
đóng vai trò thứ yếu; ngược lại, cái mà hôm qua ở dạng phôi thai, thì hôm nay
trở thành trung tâm, thành điểm nóng của sự tranh luận. Trong điều kiện chủ
nghĩa phổ quát Kytô giáo thống trị vào thời trung cổ vấn đề con người hầu như
không được quan tâm, bị hòa tan vào cái phổ quát bao trùm là sự tồn tại của
Đấng tối cao. Cuộc tranh luận giữa duy danh luận và duy thực luận chỉ đơn giản
xoay quanh tính xác thực của khái niệm “đơn nhất” và “phổ quát”. Song đến
thời Phục hưng chủ đề tranh luận đã vượt qua khuôn khổ của hệ chuẩn tư duy
trung cổ, mang đậm ý nghĩa của cuộc đấu tranh vì giá trị người, vì sự giải phóng
con người cá nhân, thay thế từng bước thuyết thần là trung tâm (theocentrism)
bằng thuyết con người là trung tâm (homocentrism, hay anthropocentrism), thay

sự thống trị của Thượng đế (regnum Dei) bằng sự thống trị của con người
(regnum hominis). Phục hưng là bước chuẩn bị cho thế kỷ XVII – XVIII, tức
thời đại của khám phá và phát minh, của “tư duy thiết kế” sáng tạo (chứ không

4
C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập; t.20, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 197 và 42.
6

phải tư duy minh họa, chủ giải cho những chân lý đã có sẵn) Tương tự, nếu trào
lưu chủ đạo trong thời Phục hưng là tư tưởng nhân văn với sự tôn vinh hình ảnh
con người vươn đến tự do, thì tư tưởng chính trong thế kỷ XVII – XVIII là triết
học, chính trị, khoa học. Về triết học chủ nghĩa duy vật chiếm vị thế áp đảo
trước chủ nghĩa duy tâm. Về chính trị tư tưởng chính trị thế tục, quan điểm “xã
hội công dân” và nhà nước pháp quyền, có mầm mống từ thời Phục hưng, tiếp
tục phát triển, làm giàu và sâu sắc thêm thông qua quan điểm của những nhà lý
luận kiệt xuất, từ Lốccơ (Locke), Hốpxơ (Hobbes), đến Môngtéxkiơ
(Montesquieu), Vônte (Voltaire), Rútxô (Rousseau)… Về khoa học thế kỷ ấy
chứng kiến nhiều khám phá, phát minh khoa học được ứng dụng vào thực tiễn,
lý trí trở thành lý trí có định hướng thực tiễn, với sự thống trị của cơ học. Các
nguyên lý của nó tác động đến cả tư duy triết học và chính trị, đưa đến chủ nghĩa
máy móc và phương pháp tư duy siêu hình. Các nhà tư tưởng Đức (nửa sau thế
kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX) không chỉ đem đến sự kết thúc đầy ý nghĩa của
truyền thống cổ điển trong tư tưởng, mà còn khắc phục những hạn chế trong
nhận thức luận thế kỷ trước. Và chính họ, đặc biệt các nhà triết học cổ điển Đức,
điển hình là Hêghen và Phoiơbắc (Feuerbach), tạo nên một trong những tiền đề
lý luận của chủ nghĩa Mác. Với C. Mác và Ph. Ăngghen, bước ngoặt cách mạng
trong tư tưởng đã được thực hiện. Khác hẳn với các nhà tư tưởng cùng thời,
những người hoặc đem đối lập khuynh hướng phi duy lý với truyền thống duy lý
(Kiếckego chẳng hạn), hoặc chỉ dám “cách tân” một phần học thuyết Hêghen
(phái Hêghen trẻ), C. Mác và Ph. Ăngghen thể hiện thái độ văn hóa đối với các

vấn đề truyền thống, đồng thời làm cho hệ tư tưởng mang chức năng cải tạo
cách mạng đối với đời sống xã hội.
Như vậy, phù hợp với những điều kiện lịch sử cụ thể, các trào lưu, khuynh
hướng tư tưởng xác định chủ đề chính, tập trung khai thác, phân tích chúng,
nhằm phản ánh trung thực những biến đổi của thực tiễn, đồng thời định hướng
cho hoạt động thực tiễn. Theo C. Mác, không phải thực tiễn cần phải diễn ra
theo các đồ thức luận tư duy, mà ngược lại, các đồ thức luận tư duy cần thường
xuyên được điều chỉnh để không bị lạc hậu trước thực tiễn. Vì thế mọi mưu toan
giới hạn các nội dung cần nghiên cứu trong phạm vi chật hẹp, xơ cứng, bất biến
đều đồng nghĩa với sự bóp chết năng lực sáng tạo của chính tư duy. Không phải
hệ thống tư tưởng nào ở thời đại nào cũng chỉ quanh quẩn ở cùng một đối tượng
nghiên cứu. Quy luật phát triển của tư tưởng là thường xuyên diễn ra sự đấu
tranh, tác động hỗ tương, đan xen nhau, bổ sung và chi phối lẫn nhau, làm cho
mỗi hệ thống trong số chúng mang tính độc lập tương đối, tính đa dạng cả về nội
7

dung lẫn hình thức thể hiện.
Sự phát triển của tư tưởng, đặc biệt là tư tưởng triết học, phản ánh trình độ
tư duy chung của nhân loại. Thực tiễn khách quan, hoạt động nhận thức và khoa
học của con người quy định vị trí của mổi quan điểm, học thuyết. Chẳng hạn
trong xã hội chiếm hữu nô lệ chưa hình thành các ngành khoa học độc lập,
chuyên biệt về tự nhiên và xã hội, về các hình thức vận động của vật chất, nên
triết học thời bấy giờ là kiến thức lý luận nói chung, trên thực tế là dạng kiến
thức duy nhất. Dần dần các khoa học chuyên biệt ra đời, ranh giới giữa chúng
với triết học được xác lập. Sự phát triển phong phú tri thức loài người và quá
trình phân loại, “cá thể hóa” đưa đến chỗ triết học không còn đóng vai trò “khoa
học của các khoa học” nữa, mà chỉ nghiên cứu những vấn đề chung nhất của tồn
tại và nhận thức.
Sinh hoạt tư tưởng trong thời đại hôm nay phản ánh một thế giới mở, sự
bùng nổ các khám phá khoa học, sự tiến bộ nhanh chóng của công nghệ, kinh tế

tri thức và sự xích lại gần nhau giữa các dân tộc vì những mục tiêu nhân loại
chung; song đó cũng là một thế giới phức tạp, tiềm ẩn các nguy cơ xung đột giá
trị, trong đó có giá trị tư tưởng, tinh thần. Nhận diện các trào lưu tư tưởng hiện
đại, giải thích một cách khách quan, khoa học nội dung và thực chất của chúng
góp phần làm sáng tỏ những đặc điểm của thời đại, dự báo xu hướng vận động
của lịch sử.
Ba nguyên tắc cần nắm trong quá trình tìm hiểu một học thuyết, một trào
lưu tư tưởng trong lịch sử là: thứ nhất, nguyên tắc lịch sử cụ thể, nghĩa là cần đặt
đối tượng nghiên cứu, xem xét trong những điều kiện lịch sử nhất định, phù hợp
với trình độ nhận thức của thời đại đó, đánh giá một cách nghiêm túc, trung thực
những thành tựu, đóng góp của các nhà tư tưởng vào kho báu tư tưởng nhân
loại. Không nên áp đặt một cách chủ quan những tính quy định của thời đại hôm
nay đối với quá khứ, buộc quá khứ làm được những điều mà thời ấy chưa thể
biết đến. Nói khác đi, quan điểm lịch sử cụ thể đòi một thái độ văn hóa đối với
những di sản do nhiều thế hệ nhân loại đã tạo nên, tích lũy, sàng lọc qua các thời
kỳ phát triển. Thứ hai, xác định cái cơ bản nhất, cốt lõi nhất, hay điểm nhấn
trong toàn bộ bức tranh tư tưởng với tính cách là đối tượng nghiên cứu. Chỉ có
như vậy mới hiểu biết một cách sâu sắc và cô đọng cái “hồn” sống động nhất
của từng thời đại, hiểu được “trục chính” trong sinh hoạt tư tưởng thời đại ấy.
Thứ ba, kết hợp hai cách đánh giá, đánh giá từ góc độ thế giới quan và đánh giá
từ góc độ giá trị đối với từng học thuyết, vừa làm nổi bật tính đảng phái, vừa chỉ
8

ra vai trò, vị trí của từng học thuyết trong đời sống xã hội, trong dòng chảy của
lịch sử tư tưởng. Thứ tư, chỉ ra mối liên hệ giữa quá khứ và hiện tại, nghĩa là rút
ra ý nghĩa và bài học lịch sử của việc nghiên cứu một học thuyết, tư tưởng trong
quá khứ đối với thời đại chúng ta.
II. SỰ HÌNH THÀNH VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
HY LẠP
1. Sự hình thành

Triết học Hy Lạp được hình thành trên cơ sở những biến đổi của thực tiễn
xã hội, là sự phản ánh nhu cầu nhận thức của con người ở một giai đoạn nhất
định, khi xã hội chuyển biến sang nấc thang cao hơn, phá vỡ những quan hệ
thuần chủng huyết thống và tính đồng nhất giản đơn của hệ thống các quan hệ
xã hội. Sự ra đời của triết học chính là bước ngoặt đầy ý nghĩa trong sự phát
triển của ý thức con người.
a. Điều kiện kinh tế – xã hội
Triết học cổ đại Hy Lạp hình thành vào thời kỳ diễn ra những chuyển biến
sâu sắc trong đời sống kinh tế – xã hội, trước hết là sự tan rã hoàn toàn chế độ
thị tộc và thiết lập chế độ nô lệ, sự ra đời hình thức nh nước của người Hy Lạp,
được gọi là các thị quốc (city – state). Đó là một quá trình lịch sử lâu dài, gắn
liền với sự phân công lao động xă hội, sự tích luỹ của cải, phân tầng xã hội, sự
chuyển biến từ quan hệ thuần chủng huyết thống sang quan hệ đa huyết thống,
sự mở rộng lãnh thổ trên cơ sở hợp nhất các thị tộc bằng các hình thức khác
nhau. Đất đai của người Hy Lạp xưa kia rộng lớn hơn so với nước Hy Lạp ngày
nay. Vào các thế kỷ XI – IX TCN (thời đại Homère) diễn ra quá trình tan rã các
công xã thị tộc. Bước sang thế kỷ VIII – VII TCN nhà nước của người Hy Lạp
ra đời (các quốc gia – thành bang chiếm hữu nô lệ). Sự phân công lao động, sự
xuất hiện và phát triển của quan hệ hàng hóa, tiền tệ, sự tan rã của nền kinh tế tự
nhiên, sơ khai, sự phân hóa giữa giàu và nghèo, sự đối kháng quyết liệt của các
lực lượng xã hội khác nhau, sự thôn tính đất đai, sự sử dụng lao động nô lệ…
bấy nhiêu thứ đó khiến cho chế độ thị tộc là chế độ lấy quan hệ huyết thống làm
cơ sở phải đi đến chỗ bị diệt vong. Thị quốc
5
là hình thức nhà nước đặc thù của
người Hy Lạp, được tổ chức theo kiểu một cụm dân cư, có thành luỹ bao bọc,
với hệ thống quyền lực được hình thành thông qua sự mở rộng lãnh thổ, cụ thể

5
Thị quốc theo từ nguyên Hy Lạp là polis (ρολις) – hình thức nhà nước của người Hy Lạp; do đó mà khái niệm

chính trị (hiểu như các công việc của nhà nước, những vấn đề liên quan đến nhà nước) được viết thành politics,
politique v.v
9

từ một thị tộc, bộ lạc, thành nhiều thị tộc, bộ lạc, nghĩa là thay quan hệ thuần
chủng huyết thống bằng quan hệ đa huyết thống. Như vậy sự ra đời của nhà
nước, dù dưới hình thức nào, cũng đều là minh chứng về một giai đoạn phát
triển cao của xã hội so với trước. Nhà nước ra đời chứng tỏ sự phát triển xă hội
đă đạt đến nấc thang mới, đòi hỏi thay thế cách tổ chức xă hội công xã nguyên
thuỷ bằng hệ thống quyền lực công cộng và bộ máy có khả năng điều tiết các
quan hệ xă hội ngày càng phức tạp. Nói cách khác, nhà nước đã ra đời như một
tất yếu trên con đường phát triển lịch sử của nhân loại. Ph.Ăngghen viết: “Nhà
nước là sản phẩm của một xã hội đã phát triển tới một giai đoạn nhất định”
6
.
Sự chuyển hóa từ chế độ thị tộc sang chế độ chiếm hữu nô lệ là bước
nhảy vọt trong xã hội loài người.
Cùng với sự hình thành các thị quốc, nền văn hóa mới cũng được xác lập,
trở thành bộ phận hữu cơ của đời sống xã hội Hy Lạp cổ đại. Những biểu hiện
chủ yếu của hệ thống các giá trị tinh thần mới là sự duy lý hóa tư duy, ý thức về
nhân cách, ca ngợi tính tích cực, lòng quả cảm và năng lực của con người trong
cuộc đấu tranh với tự nhiên, tinh thần ái quốc, quan niệm về tự do như phạm trù
đạo đức – chính trị cao quý nhất… Sự hình thành những cơ sở của văn hóa Hy
Lạp là sự kế thừa các giá trị truyền thống, thể hiện trong các sáng tác dân gian,
trong thần thoại và các hình thức sinh hoạt tôn giáo, trong những mầm mống của
tri thức khoa học. Tư tưởng triết học phát sinh và phát triển như một thành tố
không tách rời của nền văn hóa mới ấy.
Như vậy, sự chuyển tiếp từ xã hội công xã nguyên thủy sang chế độ chiếm
hữu nô lệ diễn ra cùng với những biến đổi căn bản trong ý thức, trước hết là nhu
cầu lý giải nghiêm túc những vấn đề tự nhiên, xã hội. Triết học ra đời theo

Arixtốt, làm cho sự ngạc nhiên trước thế giới rộng lớn và bí hiểm được giải
quyết bằng những nỗ lực của lý trí truy tìm nguyên nhân đích thực của vạn vật.
Theo sử liệu học Pitago (570 – 496 TCN), hoặc có thể Hêraclít (khoảng 544 –
khoảng 483 TCN), là người đầu tiên tự gọi mình là philosophos, sau đó xuất
hiện thuật ngữ philosophia, dịch thành triết học, mặc dù Talét (khoảng 624 - 547
TCN) mới là triết gia đầu tiên của Hy Lạp. Như vậy “Philosophia” (philo – yêu
mến, sophia – sự thông thái) biểu thị khát vọng của con người vươn tới hiểu biết
thực sự về mối quan hệ giữa con người với thế giới và với chính mình, vượt qua
ảnh hưởng của tư duy huyền thoại, đi vào chiều sâu nhận thức thông qua khái

6
C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, t.21, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 252.
10

niệm ngày càng đạt được tính trừu tượng hóa cao.
b. Tiền đề tinh thần của triết học (còn gọi là tiền triết học)
Ngạc nhiên làm nảy sinh triết lý, triết lý của con người về thế giới ở buổi
đầu lịch sử thể hiện trong huyền thoại, nhất là trong các câu chuyện thần thoại
và sinh hoạt tín ngưỡng nguyên thuỷ. Thần thoại là sự đối thoại đầu tiên, đầy
tính hoang tưởng của con người với thế giới xung quanh.
Thần thoại (xuất phát từ tiếng Hy Lạp mythologia, trong đó mythos là câu
chuyện, truyền thuyết, logos là lời nói, học thuyết) là hình thức tư duy phổ biến
của người nguyên thủy, cùng với thuyết nhân hình, vật linh thuyết, vật hoạt
luận… Trong thần thoại các yếu tố tư tưởng và tình cảm, tri thức và nghệ thuật,
tinh thần và vật chất, khách quan và chủ quan, hiện thực và tưởng tượng, tự
nhiên và siêu nhiên còn chưa bị phân đôi. Tuy nhiên tư duy huyền thoại cũng
trải qua những bước phát triển nhất định, thể hiện sự phát triển của ý thức. Có
thể nhận thấy điều này trong thần thoại Hy Lạp. Đỉnh cao của thần thoại cũng
cũng đồng thời báo hiệu sự cáo chung tất yếu của nó, sự thay thế nó bằng hình
thức thế giới quan mới, đáp ứng nhu cầu nhận thức thế giới ngày càng sâu sắc

hơn của con người. Quá trình này bắt đầu từ thời đại Hôme (thế kỷ IX – VIII
TCN) với việc xóa bỏ dần hố sâu ngăn cách giữa thần và người, nêu ra các ý
tưởng sơ khởi về hỗn mang, về các hành chất, về nguồn gốc thế giới, và cả
những thông điệp của con người về tình bạn, tình yêu, tinh thần ái quốc. Xu
hướng này được tiếp tục ở Hêsiốt. Trong “Thần hệ” của Hêsiốt các trạng thái vũ
trụ được mô tả thông qua các thế hệ thần linh, từ Hỗn mang đến thần Dớt – biểu
tượng của trật tự, ánh sáng và sự tổ chức cuộc sống trong vũ trụ. Hiện tượng
Prômêtê lấy trộm lửa của thần Dớt đem đến cho con người hàm chứa ý nghĩa
sâu xa: lửa – biểu tượng của sức mạnh và lý trí – không còn là đặc quyền của
thần linh như trước, mà đã cố hữu nơi con người. Con người trở nên tự chủ hơn
trong quan hệ với thế giới xung quanh.
Vào khoảng cuối thế kỷ VII – đầu thế kỷ VI TCN, các thị quốc bước vào
thời kỳ phát triển khá thịnh vượng. Sự phân công lao động lần thứ hai và sự ra
đời đồng tiền kim khí đã tạo nên những biến đổi lớn trong các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Ở bình diện văn hóa tinh thần “bảy nhà thông thái” xuất hiện, mở
đường cho một nền triết học thực sự. Trong số họ, Talét được Arixtốt gọi là nhà
triết học đầu tiên của thế giới phương Tây.
Con đường từ thần thoại đến triết học, theo Hêghen, là con đường đi từ lý
11

tính hoang tưởng đến lý tính tư duy, từ hình thức diễn đạt thông qua biểu tượng
đến hình thức diễn đạt bằng khái niệm
7
. Triết học ra đời không có nghĩa thần
thoại mất đi, mà tiếp tục tồn tại trong tôn giáo, nghệ thuật, văn chương, nhưng
được xem xét ở bình diện khác – bình diện giá trị. Đằng sau những câu chuyện
thần thoại là cả một triết lý sống, thể hiện những chuẩn mực, những giá trị,
những bài học đạo đức, nhân văn.
c. Vai trò của nền văn minh phương Đông trong sự hình thành tư duy triết
học ở Hy Lạp

Trong quá trình xây dựng các học thuyết triết học và khoa học người Hy
Lạp kế thừa có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của các dân tộc phương Đông,
vốn hình thành sớm hơn, đồng thời tạo cho mình một phong cách và sắc thái tư
duy độc đáo, tạo nên truyền thống đặc trưng được tiềp tục bổ sung, phát triển ở
các thời đại sau.
Vào các thế kỷ VIII – VII TCN công cuộc di thực được tiến hành ồ ạt.
Những chuyến vượt biển tìm đất, sự trao đổi, buôn bán thường xuyên với các
nước phương Đông, nhất là Ai Cập, Babylon, làm cho Hy Lạp có dịp tiếp xúc,
học hỏi và hòa hợp với các nền văn minh khác. Thông qua những chuyến vượt
biển tìm đất mới, quan hệ buôn bán, giao lưu, người Hy Lạp tiếp thu chữ viết,
thành quả khoa học, và cả yếu tố huyền học (occultism) ở các nền văn minh
phương Đông, nhất là vùng Trung Cận Đông và Bắc Phi. Chữ viết tượng hình
xuất hiện tại Ai Cập, Mesopotamie và một số dân tộc khác từ khoảng 2700
TCN. Đến thế kỷ VIII TCN người Phenicie, sau đó người Hy Lạp tiếp thu, cải
biến và hoàn thiện thêm. Các lĩnh vực tri thức ở phương Đông như toán học,
thiên văn học, địa lý, hệ thống đo lường, lịch pháp, các mầm mống của y học,
các khoa học về sự sống đáp ứng phần nào khát vọng khám phá của người Hy
Lạp, do đó được họ đón nhận một cách nhiệt tình, thúc đẩy quá trình hình thành
những phác thảo đầu tiên về thế giới quan vào thế kỷ VII - VI TCN. Các nhà
triết học đầu tiên của Hy Lạp đều có kiến thức khoa học vững vàng nhờ thường
xuyên giao lưu với phương Đông dưới các hình thức khác nhau. Người Ai Cập
tính được số pi, diện tích hình tam giác, hình chữ nhật, hình thang, hình bình
hành, hình tròn. Hệ thống lịch pháp được xác lập vào đầu thiên niên kỷ II TCN.
Từ phát minh của người Ai Cập ra cách tính thời gian một năm (365 + ¼ ngày
đêm) sớm nhất thế giới, Babylon hoàn thiện thêm một bước về tháng bổ sung,

7
G.W.F.Hêghen, Toàn tập, t.9, Moskva, 1934, tr. 14.
12


để đưa năm âm lịch (12 tháng với 354,36 ngày đêm) đến gần với năm dương
lịch (365,24 ngày đêm). Cách tính giời hiện nay cũng cũng xuất phát từ cách
tính của Babylon. Tuy nhiên, dù đi trước Hy Lạp ở trình độ phát triển, song tại
các nước phương Đông láng giềng, triết học đúng nghĩa vẫn chưa xuất hiện. Ở
phương diện lý luận tại Ai Cập và Babylon các yếu tố huyền học và thuật chiêm
tinh đan xen với các mầm mống của triết lý vũ trụ, nhân sinh, nhưng mặt thứ hai
này còn khá mờ nhạt, bị lấn át bởi cách tiếp cận nhân hình hóa. Tại Babylon
chiêm tinh chiếm vị trí cao trong thang bậc tinh thần, nhà chiêm tinh được tham
dự vào cả công việc triều chính, giúp nhà vua vạch ra các kế hoạch đối nội, đối
ngoại, tiến cử nhân sự. Tại Ai Cập, những pho tượng khổng lồ đầu người mình
thú, đặt bên cạnh những kim tự tháp uy nghi, tráng lệ, cho thấy người Ai Cập
quan tâm đến thế giới “bên kia” vĩnh cửu. Với thời gian, trong tư duy của người
Ai Cập xuất hiện một số cách ngôn chứa đựng các yếu của chủ nghĩa hoài nghi,
chủ nghĩa bi quan, chủ nghĩa khắc kỷ cổ sơ, như “Tôi là tôi”, “Đã vào cõi tử làm
sao trở về”, “Đừng uổng phí thời gian”… Những cách ngôn đó bị xã hội xem là
báng bổ thế giới thiêng liêng. Tại Babylon, sau thời kỳ hưng thịnh, những đô thị
giàu có và sa đoạ bắt đầu suy vong, và sau cùng lùi về dĩ vãng. Sự kiện Babylon
sa đoạ và sụp đổ đã được nêu ra trong Kinh Thánh Kytô giáo.
Các yếu tố huyền học, khi được du nhập vào Hy Lạp, vẫn phải đóng vai
trò giá đỡ cho tinh thần phóng khoáng, tự do của người Hy Lạp. Liên minh
Pitago là một điển hình. Ở đó các yếu tố duy tâm, tôn giáo, vốn được tiếp thu từ
phương Đông, không che khuất các yếu tố khoa học, duy lý. Có thể khẳng định
rằng, dù đi sau phương Đông về văn minh, nhưng Hy Lạp không đơn giản làm
công việc của người kế thừa. Ngược lại, sự hình thành và phát triển của triết học
Hy Lạp là kết quả phát triển nội tại của tinh thần Hy Lạp, được thể hiện sinh
động trong huyền thoại, trong văn hóa, trong tín ngưỡng nguyên thủy, chịu sự
chi phối của các điều kiện kinh tế và xã hội. Trong quá trình tiếp thu có chọn lọc
các giá trị văn hóa tinh thần phương Đông, người Hy Lạp tạo nên phong cách tư
duy đặc trưng của mình, trở thành cái nôi của triết học và khoa học phương Tây.
Vào năm 525 TCN, Ai Cập bị Ba Tư xâm chiếm. Ách thống trị của Ba Tư đã

đẩy văn minh Ai Cập, cũng như Babylon trước đó, lùi về phía sau, nhưng ngọn
lửa trí tuệ đã được nhen nhóm lên và rực sáng ở một vùng đất khác.
Như vậy con đường thương mại, thậm chí cả chiến tranh xâm lược, đã
thổi vào Hy Lạp luồng sinh khí mới, làm cho đời sống xã hội, văn hóa tinh thần
thêm phong phú.
13

2. Các thời kỳ và các đặc trưng cơ bản của triết học Hy Lạp – La Mã
cổ đại
a) Các thời kỳ
Triết học Hy Lạp – La Mã cổ đại trải qua bốn thời kỳ cơ bản:
- Sự hình thành (thế kỷ VI – V TCN), gắn liền với sự xuất hiện các trường
phái triết học tại Milet và Đại Hy Lạp. Triết học thời kỳ này thể hiện khả năng
giải phóng tư duy khỏi ảnh hưởng của huyền thoại. Đối tượng: tự nhiên. Các nhà
triết học được gọi là những nhà vật lý (Physis, theo từ nguyên Hy Lạp là “tự
nhiên”, “tăng trưởng”, Physika là Vật lý học, đúng hơn là Tự nhiên học). Vấn
đề: thế giới bắt đầu từ đâu và quay về đâu? Bản tính của thế giới lả gì? Lời đáp
thể hiện ở việc tìm hiểu bản nguyên và bản tính thế giới.
- Sự hưng thịnh, hay cổ điển, gắn với thời kỳ hưng thịnh và khủng hoảng
của nền dân chủ chủ nô tại Aten (Athens) và một số thị quốc khác; “Dân chủ”
8

là phát minh của người Hy Lạp, bắt đầu từ những cải cách mang tính dân chủ
của Solon (thế kỷ VI TCN) đến sự thể chế hoá dân chủ tại Athens (nửa sau thế
kỷ V TCN) vơí thiên tài chính trị Pericles. Câu hỏi đặt ra: tại sao triết học được
dịp phát triển cả trong thời cực thịnh lẫn khủng hoảng của nền dân chủ chủ nô,
của xã hội nói chung? Câu trả lời nằm ở sự nhận thức về tính độc lập tương đối
của ý thức. Đó là thời kỳ triết học Hy Lạp phát triển hài hòa, cân đối, với các
chủ đề tự nhiên, nhận thức, xã hội.
- Triết học thời kỳ Hy Lạp hóa. Hy Lạp hóa lần thứ nhất mở rộng khu vực

ảnh hưởng của văn hóa Hy Lạp; Hy Lạp hóa lần thứ hai diễn ra khi Hy Lạp đã
mất quyền tự chủ chính trị từ năm 146 – 143 TCN.
La Mã thay thế Hy Lạp thống trị thế giới phương Tây cổ đại ngót 700
năm, đến năm 476.
Nếu xét theo chủ đề tư tưởng, đối tượng nghiên cứu và hình thức thể hiện
thì có thể phân chia triết học Hy Lạp ra ba thời kỳ chính;
- Thời kỳ trước Xôcrát (Socrates): Trường phái Milet, trường phái
Pythagoras, trường phái Heraklitos, trường phái Elea Các nhà triết học tập
trung lý giải những vấn đề bản thể luận và nhận thức, bắt đầu khám phá nguồn
gốc sự sống. Sự quan tâm đến tự nhiên nhằm làm sáng tỏ vấn đề bản nguyên và

8
Thuật ngữ “Dân chủ” theo từ nguyên Hy Lạp là “Demokratia” (Δημοκρατια), sự kết hợp Kratos = quyền lực,
và Dèmos = nhân dân, nghĩa là Quyền lực của nhân dân (tiếng Anh: Democracy).
14

bản chất của thế giới, xoay quanh hai câu hỏi lớn : 1) Thế giới bắt đầu từ đâu và
quay về đâu? 2) Thế giới vận động hay đứng im; nếu vận động thì vận động theo
những tính quy luật nào, vận động tự thân hay chịu sự tác động của các yếu tố
siêu nhiên bên ngoài, nếu đứng im thì dựa trên cơ sở nào? v.v Phần lớn các nhà
triết học thời kỳ này là những nhà vật lý (trong từ nguyên Hy Lạp “physis” được
hiểu là tự nhiên, sự tăng trưởng).
- Thời kỳ Xôcrát (Socrates): Cùng với những vấn đề truyền thống, gắn
liền với việc khám phá tự nhiên, tìm hiểu quá trình sự sống, triết học mở rộng
phạm vi nghiên cứu, quan tâm đến con người không chỉ như chủ thể, mà như đối
tượng, lý giải những vấn đề liên quan đến vị trí và số phận của con người, ý
nghĩa của cuộc sống, năng lực và phương tiện nhận thức, tiến trình lịch sử, mối
quan hệ giữa con người với tự nhiên và xã hội… Thời kỳ khám phá và sáng tạo
mãnh liệt của tư duy, gắn liền với tên tuổi của những triết gia vĩ đại: Socrate,
Démocrite, Platon, Aristote.

- Thời kỳ sau Xôcrát (thời kỳ Hy Lạp hóa và khủng hoảng, hay còn gọi là
thời kỳ văn minh Hy Lạp – La Mã). Sau những ngày vinh quang nhờ tiếng vang
của những cuộc viễn chinh do Alexander Đại đế tiến hành, Hy Lạp rơi vào
khủng hoảng, nền dân chủ chiếm hữu nô lệ Aten bị sụp đổ; La Mã chinh phục
Hy Lạp bằng vũ lực, nhưng Hy Lạp “chinh phục” La Mã bằng tinh thần. Triết
học một mặt tiếp tục phát huy truyền thống vốn có, mặt khác đi sâu lý giải
những vấn đề của “thế giới nội tâm”: tình cảm, dục vọng, ham muốn, hoài
nghi…
Trường phái Platon (kể cả Platon mới) là trường phái cuối cùng của triết
học phương Tây cổ đại, bị đóng cửa vào năm 529, tức sau khi Tây bộ đế quốc
La Mã bị sụp đổ hơn nửa thế kỷ.
III. VỀ SỰ THỐNG NHẤT TÍNH ĐẢNG VÀ TÍNH KHÁCH QUAN
KHOA HỌC TRONG VIỆC TÌM HIỂU LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
Sự thống nhất tính đảng (tính đảng phái) và tính khách quan, chuẩn mực
(tính khách quan – khoa học) trong việc xem xét các tư tưởng, học thuyết triết
học trong lịch sử nhân loại đòi hỏi dựa vào cơ sở thế giới quan và phương pháp
luận khoa học, đồng thời nắm vững nguyên tắc toàn diện và nguyên tắc lịch sử
cụ thể, nhằm tránh sự áp đặt một cách võ đoán, chủ quan đối với lịch sử.
Chủ nghĩa hư vô trong quan điểm lịch sử đồng nghĩa với sự dửng dưng
đối với chính các vấn đề hiện tại, bởi lẽ nó hiểu lịch sử chỉ như những lát cắt rời
15

rạc, không có mối liên hệ với nhau. Thực ra cho dù lịch sử đã an bài, nhưng nó
vẫn tiếp tục ám ảnh những đang sống, bởi những cách tiếp cận khác nhau về lịch
sử.
Quan điểm máy móc, siêu hình xem lịch sử triết học thuần túy chỉ như lịch
sử đấu tranh giữa hai hệ thống thế giới quan và hai phương pháp triết học đối lập
nhau, theo sự phân tuyến đơn giản: tốt – xấu, đúng – sai, khoa học – phản khoa
học. Lý luận khoa học chân chính không nhìn vấn đề một chiều như thế, mà cố
gắng làm sáng tỏ bức tranh đa dạng và phức tạp của sự phát triển tư duy triết

học, từ đó rút ra tính quy luật của nó.
Triết học là giá trị văn hóa tinh thần cô đọng nhất, tinh tuý nhất, là thời
đại lịch sử hiện thực được tái hiện dưới hình thức tư tưởng, trong hệ thống các
vấn đề triết học. C.Mác (K.Marx) viết trong “Bài xã luận báo “Kolnische
Zeitung số 179”: … Mọi triết học chân chính đều là tinh hoa về mặt tinh thần
của thời đại mình”
9
. Vậy thế nào là “triết học chân chính”? Đó là triết học được
sinh ra, chịu sự quy định bởi những điều kiện lịch sử – xã hội của thời đại mình,
cùng với các học thuyết, các tư tưởng khác làm nên diện mạo tinh thần của thời
đại, đóng góp vào giá trị chung của nhân loại. Mác lại viết: “Các triết gia không
mọc lên như nấm từ trái đất, họ là sản phẩm của thời đại mình, của dân tộc
mình, mà dòng sửa tinh tế nhất, quý giá và vô hình được tập trung lại trong
những tư tưởng triết học”
10
.
Ngay từ các bài viết đầu tiên trong thời kỳ chuyển tiếp tư tưởng, C.Mác
đã nhấn mạnh sự thống nhất của hai cách tiếp cận đối với di sản của quá khứ:
một mặt cần tuân thủ nguyên tắc tính đảng trong triết học, căn cứ vào việc giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học, chỉ ra rằng cuộc tranh luận về thế giới quan
tạo nên động lực cơ bản của sự phát sinh, phát triển, sự đan xen, thay thế nhau
của các học thuyết triết học. Mặt khác, mỗi học thuyết, tư tưởng, trào lưu,
khuynh hướng triết học bên cạnh việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học
bằng cách trực tiếp hay ẩn mình trong các luận giải về con người, xã hội, ngôn
ngữ… đều được thừa nhận như “tinh hoa về mặt tinh thần” của mỗi thời đại,
góp phần vào sự hoàn thiện nhân cách và tri thức con người trong thời đại ấy.
Platôn (Plato, Platon), Arixtốt (Aristotle, Aristoteles), Lépních (Leibniz), Cantơ
(Kant), Hêghen (Hegel) là những nhà duy tâm, nhưng đồng thời là những bộ óc
lớn, những chân dung văn hóa của thời đại mình. Chúng ta phê phán một cách


9
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.1, Nxb. Chính trị quốc gia, HN,1995, tr. 157
10
C. Mác và Ph. Ăngghen, sđd, tr. 156.
16

xác đáng chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán của Makhơ (Mach), nhưng cũng lưu
ý rằng ông là nhà bác học lừng danh của thế kỷ XIX, một trong những người
thầy của Einstein.
Tương tự như vậy đối với cách đánh giá tư tưởng Nho giáo, Phật giáo,
Kytô giáo. Mác từng khẳng định “không có đảng phái thì không có sự phát
triển”
11
, nhưng cũng chỉ rõ: “Triết học hiện đại chỉ tiếp tục cái công việc do
Hêraclít và Arixtốt đã mở đầu mà thôi”
12
.
Nhân đọc Xôcrát (Socrates) V.I.Lênin viết trong “Bút ký triết học”, “Chủ
nghĩa duy tâm thông minh gần với chủ nghĩa duy vật thông minh hơn chủ nghĩa
duy vật ngu xuẩn”
13
. “Chủ nghĩa duy tâm thông minh” của Xôcrát, Platon,
Hêghen dù có những hạn chế ở phương diện thế giới quan, song đã để lại nhiều
tư tưởng có giá trị cho nhân loại ở những khía cạnh khác. V.I.Lênin từng phê
phán những toan tính xem xét chủ nghĩa Mác bên ngoài văn hoá nhân loại.
Cần phân tích một cách phân minh, rõ ràng những đóng góp và những
hạn chế mang tính lịch sử của các học thuyết triết học. Ngược lại, sự mơ hồ, lẫn
lộn, sự đánh giá thái quá, theo hướng “tả khuynh” lẫn “hữu khuynh” đối với các
học thuyết triết học, hoặc chủ trương “triết lý cái búa” trong sự đánh giá lịch sử,
hoặc coi các nhận định trong lịch sử tư tưởng đều là những chân lý tuyệt đỉnh,

“dành cho mọi thời đại và mọi dân tộc”, là trái với bản chất của triết học, và đều
đáng bị phê phán như nhau. Ph.Ăngghen (F. Engels) đã phê phán trường hợp
tương tự ở vị giáo sư cơ học Đuyrinh (Duhring) trong tác phẩm Chống
Đuyrinh
14
.
Phân tích cuộc tranh luận giữa hai khuynh hướng cơ bản trong triết học
không chỉ nhằm làm sáng tỏ tính quy luật trong sự phát triển của tri thức triết
học, mà còn chứng minh rằng sự phản biện lẫn nhau giữa các khuynh hướng ấy
là tất yếu, góp phần vào sự phát triển chung của tư tưởng triết học. Bài học
Trung cổ Tây Âu, mà nhiều nhà tư tưởng xem như “đêm trường Trung cổ”, là ở
chỗ, một khi triết học chịu sự chế ngự vô điều kiện của uy quyền, của tín điều,
không cần đến hệ thống phản biện xã hội, thì nó cũng tự tuyên bố mình như một
thứ “giáo điều triết học”, một thứ thần học bán chính thức, hay tệ hại hơn, một
thứ nô lệ của “thần học vạn năng”.

11
Sđd, tr. 167.
12
Sđd, tr.166.
13
V.I.Lênin, Toàn tập, t.29, Tiến bộ, M, 1981, tr. 293.
14
Xem: C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, t.20, Nxb. Chính trị quốc gia, HN, 1994, tr. 124.
17

Ngoài việc thừa nhận tính quy định (chế định) lịch sử - xã hội đối với các
học thuyết triết học, cần vạch ra những quy luật cơ bản trong quá trình vận động
của tri thức triết học
IV. “ĐƯỜNG LỐI ĐÊMÔCRÍT” VÀ “ĐƯỜNG LỐI PLATÔN”

TRONG TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
V.I.Lênin cô đọng cuộc tranh luận về thế giới quan giữa CNDV và CNDT
trong triết học Hy Lạp cổ đại (và cả toàn bộ lịch sử triết học) bằng hình ảnh
“đường lối Đêmôcrít” và “đường lối Platôn”.
Vấn đề là ở chỗ chủ nghĩa Makhơ – hình thức thứ hai của chủ nghĩa thực
chứng, do Ô.Côntơ (A.Comte) sáng lập – vào những năm đầu thế kỷ XX đã
tuyên bố về sự không thích hợp của việc sử dụng các phạm trù triết học truyền
thống, đặc biệt phạm trù “vật chất” để thể hiện bức tranh vật lý về thế giới, thay
vào đó là cụm từ “các yếu tố cảm giác được của thế giới”, nhằm hướng nhận
thức đến đối tượng trực tiếp, loại trừ sự “khảm nhập” của kinh nghiệm, là cái
làm cho nhận thức bị “ô nhiễm”. Thực ra toan tính này không mới, vì trước đó
Côntơ từng tuyên bố về sự cải tổ triết học, xác lập “con đường thứ ba”, vượt qua
cả chủ nghĩa duy vật lẫn chủ nghĩa duy tâm, loại trừ các khái niệm “mơ hồ” của
Siêu hình học cổ điển. Chỉ khác ở chỗ Côntơ thay Siêu hình học cũ bằng chủ
nghĩa thực chứng xã hội học, gắn kết các vấn đề của triết học với các vấn đề của
khoa học chuyên biệt, còn Makhơ và những người theo Makhơ ở Nga đem chủ
nghĩa kinh nghiệm phê phán gắn kết với “triết học phê phán” của Kant và chủ
nghĩa duy tâm chủ quan Béccli (Berkeley), với luận đề “tồn tại của thế giới chỉ
là tổ hợp các cảm giác”, hay “tồn tại nghĩa là được tri giác”. Bác bỏ quan niệm
này, Lênin viết: “Phải chăng trong hai nghìn năm phát triển của triết học cuộc
đấu tranh của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật, cuộc đấu tranh giữa xu
hướng hay đường lối của Platôn và của Đêmôcrít trong triết học, cuộc đấu tranh
giữa khoa học và tôn giáo, cuộc đấu tranh giữa việc phủ nhận và việc thừa nhận
chân lý khách quan, cuộc đấu tranh giữa những người theo thuyết nhận thức siêu
cảm giác và những người chống lại họ, đã có thể cũ đi rồi sao? Vấn đề thừa nhận
hay gạt bỏ khái niệm vật chất… là vấn đề không thể nào cũ đi được!”
15
.
Như chúng ta biết, từ việc khắc phục tính trạng khủng hoảng thế giới quan
trong vật lý học, V.I.Lênin đã nêu ra định nghĩa có tính kinh điển về vật chất,


15
V.I.Lênin, Toàn tập, t. 18, Tiến bộ, M, 1980, tr. 151 – 152.
18

mà Ăngghen từng phác thảo trong Biện chứng của tự nhiên
16
.
1. “Đường lối Đêmôcrít”, hay CNDV trong triết học Hy Lạp cổ đại
Quá trình hình thành các trường phái triết học Hy Lạp cổ đại diễn ra thông
qua sự phê phán thuyết nhân hình hóa, vật linh thuyết, xác lập hệ thống phạm trù
trừu tượng hóa đầu tiên, nghĩa là thay thế phương thức tư duy hình tượng bằng
tư duy mang tính khái niệm, chưa hẳn là những khái niệm chặt chẽ như ở các
thời đại sau. Trong cuộc tranh luận về cơ sở ban đầu của mọi tồn tại, hay bản
nguyên thế giới, các nhà triết học đã đến gần với các khái niệm cơ bản của triết
học như “vật chất” (trong tiếng Hy Lạp chỉ có khái niệm tương tự như vật chất,
chẳng hạn “hyle”, hiểu như “thể chất”) và hình thức (mô thức), ý niệm và sự vật,
linh hồn và trí tuệ, thống nhất và đa dạng, chuẩn mực và số mệnh, tồn tại và hư
vô. Điều cần lưu ý ở đây là: các nhà triết học đầu tiên thuộc trường phái Milê
(Miletos) với nỗ lực vượt qua tư duy huyền thoại đã giải thích bản nguyên thế
giới từ các yếu tố vật chất sẵn có của thế giới (đất, nước, lửa…). Ho không chỉ
là những nhà triết học đầu tiên, mà còn là những nhà duy vật tự phát đầu tiên.
Cuộc tranh luận đầu tiên xoay quanh câu hỏi, mà việc giải đáp nó đáp ứng
khao khát hiểu biết của thời đại: thế giới xuất hiện từ đâu và đi về đâu? (hoặc
“thế giới bắt đầu từ đâu và quay về đâu?) Đó là câu hỏi về sự bắt đầu của
những sự bắt đầu, nguyên nhân của mọi tồn tại, bản nguyên của thế giới.
Từ quan niệm về vũ trụ như thực tại vật thể cảm tính Talét (Thales, 624 –
547 TCN) đưa ra nhận định rằng mọi thứ đều bắt đầu từ nước và trở về nước.
Lần đầu tiên nước được hiểu như cái tuyệt đối, cái phổ biến đơn giản.
Anaximăngđơ (Anaximandros,Anaximander, 610 – 546 TCN), học trò và người

kế tục Talét, đã hỏi Talét: “Vậy nước bắt đầu từ đâu?” – một câu hỏi đủ khả
năng lật đổ cả một quan điểm tưởng chừng dứt khoát và chắc chắn. Nước, cũng
như các hành chất vũ trụ khác, theo Anaximăngđơ, không phải là nguyên nhân,
mà là kết quả của sự phối hợp các yếu tố nhất định. Đi xa hơn Talét,
Anaximăngđơ xem apâyrôn (apeiron), hiểu như cái “bất định, vô hạn, vô cùng,
vĩnh cửu”, là nguyên nhân của sự sinh thành, tồn tại và diệt vong. Như vậy ông
đã đem đến cho khái niệm bản nguyên (archè) nội dung mới, đến gần với khái
niệm bản thể, bản chất, thực thể (substance). Anaximăngđơ giải thích 5 đặc tính
của bản nguyên apâyrôn: - apâyrôn mang tính vật chất, tồn tại với tính cách là
cái thâm nhập vào tất cả; - apâyrôn vô hạn, làm cơ sở cho mọi sự chuyển hóa

16
Xem: C. Mác và Ph. Ăngghen, sđd, t.20, tr.751.
19

lẫn nhau của các sự vật; - apâyrôn vô cùng, không trải qua sự sinh diệt; -
apâyrôn vĩnh cửu, trường tồn, làm nên điểm bắt đầu của mọi sự sinh thành; -
apâyrôn bất định, làm cầu nối liên kết những cái xác định. Tất cả những đặc tính
ấy đều quy về đặc tính chung nhất là vận động. Bản nguyên apâyrôn được
Anaximăngđơ dùng để giải thích nguồn gốc của vũ trụ và sự sống. Tuy nhiên
cách tiếp cận như thế về bản nguyên tỏ ra xa lạ với người Hy lạp. Anaximen
(Anaximenes, 585 – 524 TCN), đại diện thứ ba của trường phái Milê, cố gắng
dung hòa hai đại diện đầu tiên, nghĩa là nguyên nhân ban đầu của thế giới là một
yếu tố vật chất vừa cụ thể, vừa năng động. Bản nguyên giờ đây là apâyros
(apeiros), khí, xét theo khuynh hướng chung của trường phái Milê là một yếu tố
vật lý, ngầm hiểu không khí. Quá trình vũ trụ diễn ra phụ thuộc vào sự “tán” và
“tự” của apâyros. Khi nóng chảy khí trở thành lửa, khi đông đặc – thành nước,
đất, các sự vật.
Nhà triết học xứ Ephesơ Hêraclít (Heraklitos, 520 - 460 TCN) là hiện
tượng đặc biệt của triết học Hy Lạp, đáng được C. Mác nhắc đến như một trong

những nhân vật tiêu biểu của thế giới cổ đại phương Tây. Ông vừa là nhà duy
vật, vừa là nguời đặt nền móng cho tư tưởng biện chứng về thế giới, đồng thời
lại là người khai mở xu hướng nhân bản hóa trong triết học. “Triết học hiện đại,
- Mác viết, - chỉ tiếp tục cái công việc do Hêraclít và Arixtốt mở đầu mà thôi”.
Đối với Hêraclít lửa là bản nguyên năng động nhất của thế giới, cơ sở ban đầu
của mọi tồn tại. Tất cả bắt đầu từ lửa và chịu sự phán quyết của lửa bằng đại hỏa
tại vũ trụ, chấm dứt một chu kỳ và mở đầu chu kỳ mới. Là nguyên nhân của vũ
trụ “lửa luôn luôn đã, đang và sẽ là ngọn lửa sống động vĩnh cửu, là sinh thành
và hủy diệt, chở che và phán quyết”. Khá nhiều ý tưởng trong diễn đạt này: phủ
nhận thuyết nguồn gốc thần linh của vũ trụ (vũ trụ không phải là sản phẩm của
vị hóa công vũ trụ nào), có cả yếu tố vật hoạt luận (ngọn lửa sống động, vĩnh
cửu), có cả tư tưởng về dòng chuyển biến vô cùng, cái đã qua (quá khứ), cái
đang tồn tại (hiện tại), cái sẽ đến, hay cái đang mở ra (tương lai). Lửa của
Hêraclít rất vũ trụ, nhưng cũng rất thần linh và rất nhân tính.
Chương sử mới trong CNDV Hy Lạp cổ đại gắn liền với phương án “đa
nguyên”, tức giải thích bản nguyên thế giới căn cứ vào không phải một, mà
nhiều yếu tố vật chất. Phương án này hợp lý và uyển chuyển hơn phương án
“nhất nguyên” ở chỗ, một là, nó tạo ra khả năng giải thích tính đa dạng của thế
giới; hai là, tính bao quát của cách tiếp cận “đa nguyên” cho phép làm sáng tỏ
các vấn đề của sự sống, từ đơn giản đến phức tạp, từ những mầm mống của thế
20

giới hữu cơ đến xã hội loài người, mặc dù còn ở trạng thái chất phác, ngây thơ.
Phương án “đa nguyên” đánh dấu sự phát triển của tư tưởng duy vật, thể hiện
những biến đổi của ý thức trong khuôn khổ chế độ chiếm hữu nô lệ. Anaxago
(Anaxagoras, khoảng 500 – 428 TCN) và Empeđốc (Empedocles, khoảng 490 –
430 TCN) là những đại diện đầu tiên của phương án “đa nguyên”. Tuy nhiên
cách xác định bản nguyên của họ rất khác nhau – một người chủ trương về một
hợp chất đã trừu tượng hóa, người khác kế thừa cách tiếp cận cụ thể cảm tính,
vốn chiếm vị trí thống trị trong triết học thời sơ khai. Nếu trường phái Elê (Elea)

đưa ra cách phân tích về lượng vấn đề tồn tại, thì Anaxago lại chú trọng chất của
tồn tại, cấu tố của nó. Theo ông, cơ sở của mọi cái đang tồn tại là homeomeria –
“những chất đồng dạng”, hay “những cái tương tự”, những mầm sống, hay hạt
giống. Có thể phân chia những chất ấy đến vô cùng, bởi lẽ “trong cái bé không
có cái bé nhất, nhưng luôn có cái bé hơn”. Anaxago xuất phát từ nguyên tắc “tất
cả trong tất cả”, nghĩa là mỗi sự vật đều chứa đựng trong mình chất của tất cả
các sự vật. Homeomeria có tính thụ động. Trí tuệ thế giới (Nous) mới là bản
nguyên tích cực, làm cho thế giới vận động và nhận thức thế giới trong tính toàn
vẹn của mình. Cách lý giải ấy chứng tỏ nỗ lực trình bày về mặt cơ cấu tồn tại
của thế giới, cảm nhận tính vô hạn và tính vĩnh cửu của nó.
Cũng vẫn theo phương án “đa nguyên” song Empeđốc xem các yếu tố vật
chất cụ thể phổ biến – nước, khí, lửa đất – là những bản nguyên đồng cấp độ đối
với quá trình hình thành vũ trụ. Quá trình vũ trụ được giải thích từ thuyết nhân
hình hóa với việc tưởng tượng ra hai đối cực – Tình yêu và Thù hận – quy định
sự hợp nhất và tách biệt các sự vật, hiện tượng. Empeđốc là nhà triết học cuối
cùng của chủ nghĩa duy vật trong triết học Hy Lạp cổ đại vẫn còn chịu ảnh
hưởng của tư duy huyền thoại. Ngoài thuyết nhân hình hóa, trong quan điểm
triết học của Empeđốc còn chứa đầy yếu tố của thuyết luân hồi. Ông cho rằng
linh hồn có thần tính, do phạm tội mà chịu kíp đoạ đày vào thân xác, đầu thai,
luân hồi “ba lần mười ngàn năm”, nhờ sám hối, thanh tẩy mà trở lại nơi cư ngụ
thần linh. Tìm lại kiếp xưa trở thành nổi ám ảnh của nhà triết học xứ Agrigentơ,
đảo Xixin. “Xưa ta là đứa trẻ vị thành niên, cũng có thể là thiếu nữ, thậm chí là
cây cỏ, chim muông, là cá của đại dương câm lặng” (Thanh tẩy, câu 117). Vì
thế các nhà nghiên cứu lịch sử triết học nhất trí cho rằng không phải Empeđốc,
mà Anaxago mới tạo tiền đề cho triết học tự nhiên Hy Lạp cổ đại vươn đến đỉnh
cao và chấm dứt ở đó.
Nguyên tử luận, do Lơxíp (Leucippos, khoảng 500 – 440 TCN) sáng lập,
21

Đêmôcrít (Democritos, 460 – 370 TCN) phát triển, được chuẩn bị bởi quan điểm

trừu tượng hóa về bản nguyên homeomeria của Anaxago. Các nhà nguyên tử
luận đã xác lập nên bức tranh độc đáo về thế giới, dựa trên sự suy tưởng về cái
bé nhất, không phân chia, nhưng suy tưởng đó xuất phát từ cảm nhận về thế giới
hữu hình muôn vẻ, đa dạng. Việc xem nguyên tử, với tính cách là tồn tại, và
khoảng không, với tính cách là hư vô, đều là điểm xuất phát của thế giới vật lý,
là sự phát triển hợp lý hơn học thuyết của trường phái Elê về tồn tại và hư vô
(luận điểm cơ bản của trường phái này: chỉ tồn tại cái đang tồn tại, cái được tư
duy, không tồn tại cái không tồn tại, cái không được tư duy). Thuyết nguyên tử
xem vận động là thuộc tính quan trọng nhất của nguyên tử, nghĩa là cũng vĩnh
viễn như nguyên tử. Các nguyên tử vận động trong khoảng không – bể chứa các
nguyên tử, mà không cần bất kỳ sự khởi động nào, bất kỳ nguyên nhân nào. Khi
đẩy nhau, các nguyên tử thay đổi hướng vận động, hình thành nên các chủng
loại sự vật với những chất khác nhau. Các nguyên tử bất biến và vĩnh viễn,
nhưng sự vật như phức hợp các nguyên tử thì biến đổi và hữu hạn. Với cách giải
thích ấy Đêmôcrít dung hòa Hêraclít và Pácmênhít, người sáng lập thực sự
trường phái Elê: thừa nhận tính biến đổi của thế giới các sự vật và tính không
biến đổi của thế giới các yếu tố (nguyên tử) cấu thành sự vật. Đêmôcrít đã đến
gần với cách tiếp cận vấn đề quan hệ giữa tính vô hạn và tính hữu hạn, giữa thực
tại khách quan cảm tính và thực tại siêu cảm tính, giữa thực tại kinh nghiệm và
thực tại siêu nghiệm.
Đồng nhất tính nhân quả và tính tất yếu, loại trừ khả năng của tính ngẫu
nhiên, các nhà nguyên tử luận một mặt bác bỏ sự can thiệp của các lực lượng
siêu nhiên vào quá trình thế giới, mặt khác sử dụng nguyên tử luận để giải thích
trật tự đã ổn định của xã hội, khẳng định các giá trị đạo đức bền vững. Tuy
nhiên điều này càng chứng tỏ nền dân chủ chủ nô đang gặp khủng hoảng, cần
đến sự luận chứng về tính hợp lý của nó. Vào thế kỷ IV – III TCN, tức thời kỳ
Hy Lạp hóa lần thứ nhất (gắn với sự bành trướng của Alếchxanđơ xứ Maxêđoan
và hậu quả của nó), sự bất ổn và tình trạng phân hóa xã hội đã chi phối nugyên
tử luận của Epiquya (Epicuros, khoảng 342 – khoảng 270 TCN). C. Mác (K.
Marx) trong luận án tiến sỹ của mình “Sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của

Đêmôcrít và triết học tự nhiên của Epiquya” đã có ba phát hiện về đặc rưng của
nguyên tử luận Epiquya, đó là: 1) xu hướng nhân bản hóa nguyên tử luận, thông
qua dao động tự do, sự đi chệch quỹ đạo của các nguyên tử khẳng định khát
vọng “tự do tự ý thức” của cá nhân, khát vọng phá vỡ các chuẩn mực lỗi thời
trói buộc con người; 2) chống lại thói quen tín ngưỡng, sự mê tín và tâm lý sùng
22

bái thần linh, một mình lên tiếng chống lại cả cộng đồng, ví như Prômêtê thách
thức thần Dớt, đem lửa đến cho con người (Mác xem Epiquya là “nhà khai sáng
vĩ đại bậc nhất” của thể giới Hy Lạp); 3) sự kết hợp nguyên tử luận với duy cảm
luận và chủ nghĩa khoái lạc, qua đó đề cao phẩm giá của “con người sống thực”.
Epiquya là đại biểu cuối cùng của nguyên tử luận, nhưng đó không còn là
nguyên tử luận như một học thuyết thuần túy về thế giới vật lý nữa; nó đã mang
thông điệp bất khuất của những con người dám thách thức cả một trật tự xã hội.
Đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật Hy Lạp cũng báo hiệu sự suy thoái của nó. Triết
học tự nhiên nhường chỗ cho những hướng đi mới, ở đó con người không chỉ là
chủ thể, mà còn là đối tượng.
Một số đặc điểm (và dấu hiệu) của chủ nghĩa duy vật trong triết học Hy
Lạp – La Mã cổ đại.
Trong triết học phương Tây cổ đại Hy Lạp là người mở đường, đồng thời
đưa chủ nghĩa duy vật chất phác đến nấc thang “cổ điển”, còn La Mã là người kế
thừa, cụ thể hoá nội dung vốn có, song chưa thể tạo nên những đột phá lớn, mà
chỉ là sự lặp lại mô típ tư duy sẵn có, bớt “hàm lâm” hơn, giàu tính “thực tế”
hơn. Trên thực tế các nhà tư tưởng La Mã đều tự hào tuyên bố mình là người La
Mã đã “Hy Lạp hoá”.
- Dấu hiệu đặc trưng đầu tiên của tư tưởng duy vật ở Hy Lạp là sự ra đời
của nó gắn liền với quá trình giải phóng tư duy khỏi bức tranh huyền thoại về
thế giới, thay tư duy hình tượng – biểu tượng bằng tư duy ở trình độ khái niệm,
thay sùng bái thần linh bằng sự đề cao lý trí con người. Cho nên cách hiểu triết
học (từ nguyên Hy Lạp viết theo chữ Latinh: philosophia) là sự thể hiện khát

vọng (yêu mến) vươn đến sự thông thái thần linh, đồng thời thế tục hoá sự thông
thái đó. Tại sao sự ra đời của triết học tại Hy Lạp lại gắn với sự hình thành (một
cách tự phát) tư tưởng duy vật?
- Mối liên hệ giữa chủ nghĩa duy vật với trình độ khoa học, nhất là khoa
học tự nhiên, dù lĩnh vực này đang trong dạng phôi thai, mầm mống. Mối liên hệ
này mang tính tất yếu, tạo nên xung lực cho quá trình phát triển của chủ nghĩa
duy vật. Phần lớn các nhà duy vật (các nhà triết học nói chung) đều có kiến thức
sâu sắc về tự nhiên, hoặc đồng thời là nhà khoa học (sophos). Nhờ sự hiểu biết
này mà họ đã cố gắng vượt qua thói quen tư duy truyền thống, tạo cho mình
hướng đi riêng, không lặp lại. Điều này lý giải vì sao trong cuộc tranh luận về
bản nguyên thế giới tinh thần phản biện được đẩy mạnh, thậm chí đến mức độ
23

gay gắt. Anaximandros không chấp cái cụ thể hữu hình (nước) như khởi nguyên
thế giới, mà đưa ra apeiron như yếu tố vật chất giả định, cái “bất định”, vô hạn,
nhưng lại là cơ sở cho sự hình thành và chuyển hoá của các sự vật, hiện tượng.
Như thế là ông đã vươn đến quan điểm thực thể, bản chất (substance) về cơ sở
của tồn tại. Anaxago nhấn mạnh đến khía cạnh “chất” trong sự hình thành vạn
vật. Nguyên tử luận (Leucippos và Democritos, Epicuros) nói đến nguyên tử
(atomos) như cái bé nhất, bất khả phân và “hư không” như bản nguyên của thế
giới… Trong mối liên hệ giữa triết học và khoa học cả hai đều cùng phát triển
với sự tác động và chi phối lẫn nhau. Tính biện chứng tự phát, bẩm sinh thể hiện
ở phần lớn các học thuyết duy vật, với những mức độ khác nhau, trong đó
Hêraclít là người tiêu biểu.
- Xét từ cách tiếp cận chính trị - xã hội, chủ nghĩa duy vật thường thể hiện
lập trường của các lực lượng tiến bộ trong cuộc đấu tranh chống lại những tàn
tích của cái lỗi thời, hoặc các lực lượng chính trị bảo thủ, vì chủ nghĩa duy vật,
trong nội dung của nó, đã hàm chứa những yếu tố tích cực, hiện thực.
Tuy nhiên, như đã nói trên, tri thức khoa học ở Hy Lạp cổ đại còn trong
tình trạng tản mạn, sơ khai, trình độ nhận thức chung còn thấp đã góp phần tạo

nên một đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật thời đó:
- Tính chất trực quan, chất phác, ngây thơ, gắn với trình độ của khoa học
và nhận thức, sự hiện diện của tư duy huyền thoại. Quan điểm về thế giới ở chủ
nghĩa duy vật thời này phần lớn căn cứ vào sự quan sát trực tiếp, sự cảm nhận
hay suy tưởng của các triết gia, không được luận chứng bằng các dữ liệu khoa
học. Hơn nữa, xét theo quan điểm của vật lý học hiện đại thì cách tiếp cận về
bản nguyên như “viên gạch đầu tiên xây nên tòa lâu đài vũ trụ”, hay như “cái mà
từ đó mọi thứ sinh ra và trở về” chưa thực sự hợp lý.
- CNDV ra đời và phát triển trong sự phân cực về thế giới quan – cuộc
đấu tranh giữa “đường lối Đêmôcrít” và “đường lối Platôn”; cuộc đấu tranh ấy là
động lực thực sự của sự phát triển tri thức triết học.
Chủ nghĩa duy tâm không tự nhiên xuất hiện. Một mặt, nó gắn liền với
những vấn đề của xã hội, với tình trạng không thỏa mãn và khát vọng vượt qua
những chướng ngại đối với tâm hồn bằng những phương thức khác nhau. Mặt
khác, theo Lênin, chủ nghĩa duy tâm là sự phát triển một cách thái quá một mặt,
một khía cạnh của nhận thức, tách khỏi mảnh đất trần tục, hiện thực.
*Khái quát sự phát triển của CNDV chất phác, sơ khai tại phương Tây
24


Sơ khai Cực thịnh
Hy Lạp hoá, La

Bản thể luận
(BN)
“nhất nguyên”-
trường phái Milet,
Ephese
“đa nguyên”-
Empedosles,

Anaxagoras,
nguyên tử luận
Leucippos và
Demokritos
“đa nguyên”,
nhân bản hóa –
Epicuros,
Lucretius
(231)
Nhận thức Hêraclít: lý
trí-logos
Emped: cảm
tính – lý tính: lý
tính sâu sắc hơn,
cảm tính hiện thực
hơn
Demokritos:
phân biệt cảm giác
và tư duy, đề cao
lý tính
Epicuros:
ưu thế của cảm
giác (duy cảm
luận); vấn đề tiêu
chuẩn chân lý
(224-225); lôgíc
học
Đạo đức,
chính trị
Milet: Chưa

đặt ra, hoặc đặt ra
một cách trừu
tượng
Heraklitos:
coi trọng quyền và
pháp luật (dưới
dạng cách ngôn)
Emped:
thanh tẩy
Anaxagoras:

Demok: đề
cao giáo dục, tình
bạn, “hiền nhân”,
ủng hộ dân chủ
Epic:
Nguyên tắc khoái
lạc, chủ nghĩa
hạnh phúc, khai
sáng (Prometei)
Mối liên
hệ giữa TH và
TDHT
Thales: vật
hoạt luận;
Anaximenes:
huyền học
17
;
Emped:

Nhân hình hóa,
luân hồi
Anaxagoras:
Epic: Bác
bỏ vai trò của
thần linh; chống
lại thói quen ý

17
Huyền học (occultism, nguyên gốc Latinh: occultus, nghĩa là bí hiểm, thầm kín): tên gọi chung của các học
thuyết thừa nhận sự tồn tại các lực lượng bí hiểm trong con người và vũ trụ mà kinh nghiệm phổ biến không thể
đạt tới, chỉ dành cho những người đã có những trải nghiệm đặc biệt và sự khổ luyện kỳ công. Ở khía cạnh triết
25

apeiros= không
khí, sinh khí
Herak: lửa –
vũ trụ, thần linh,
con người
Nous
Dem:
Không thừa nhận
sự can thiệp của
thần linh; tôn giáo
là sản phẩm của
lịch sử
thức
Vấn đề sự
sống và những
vấn đề khác

Đã đặt ra vấn
đề nguồn gốc sự
sống
(Anaximandros)
Emped g/t
nguồn gốc sự sống
dựa theo nhân
hình hóa
Anax:
nguồn gốc từ bên
ngoài
- Demok:
nguồn gốc tự
nhiên của sự sống;
Bậc tiền bối
của lôgíc quy nạp;
gợi mở khoa học
Epi: vật lý
học (225);

Nhận định từ bảng so sánh:
- Sơ khai: triết học tự nhiên thuần túy, cực thịnh: mở rộng sang nhận thức,
đạo đức, chính trị; Hy Lạp hóa: triết học ít tính “hàn lâm” siêu hình, giàu tính
thực tiễn, thay những vấn đề tầm mức vũ trụ bằng những mảnh vụn của đời
thường, thay con người lý tưởng bằng con người-cá nhân; CNDV: nhân bản hóa
các vấn đề tự nhiên, vũ trụ; đánh giá của Marx về Epic trong luận án tiến sĩ: 1)
Nhân bản hóa; 2) vô thần; 3) duy cảm luận và chủ nghĩa lạc quan trong thế giới
đầy ắp bi quan.
- Dấu ấn của tư duy huyền thoại còn ở cả duy vật sơ khai lẫn thời cực


học huyền học gần với vật hoạt luận (hylozoism)và phiếm thần luận (pantheism), xem xét thế giới như một cơ
thể sống động, các sức mạnh của nó nằm trong sự tác động hỗ tương mãnh liệt, không ngừng nghỉ. Khối lượng
và nội dung của khái niệm HH, cũng như vai trò của nó, biến đổi trong dòng chảy lịch sử: trên những giai đoạn
khác nhau của văn hóa nó tạo nên mối liên hệ phức tạp với khoa học, triết học, tôn giáo, nghệ thuật.

×