Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

MÔN LỊCH sử các học THUYẾT KINH tế sự tiến triển của lý luận về tiền tệ từ w petty, a smith, d ricacdo, đến k marx ý nghĩa thực tiễn của lý luận tiền tệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.36 KB, 24 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ

SỰ TIẾN TRIỂN CỦA LÝ LUẬN VỀ TIỀN TỆ TỪ W.PETTY,
A.SMITH, D.RICACDO, ĐẾN K.MARX. Ý NGHĨA THỰC TIỄN
CỦA LÝ LUẬN TIỀN TỆ


MỞ ĐẦU
Trong quá trinh hình thành phát triển của kinh tế học, tiền tệ đã làn
lượt tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát
triển của nền kinh tế, đặc biệt là hoạt động sản xuất, lưu thơng, trao đổi hàng
hố. Cùng với nó là hệ thống các lý thuyết tiền tệ của các nhà kinh tế học
qua các thời kỳ đã nghiên cứu về nguồn gốc, bản chất, chức năng của tiền tệ,
nghiên cứu về quy luật tiền tệ, mức cung, mức cầu tiền tệ để có các chính
sách tiền tệ cho phù hợp. Điển hình trong kinh tế chính trị học giai đoạn tư
sản cổ điển lần đầu tiên chuyển đối tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông
sang lĩnh vực sản xuất. Các đại biểu xuất sắc của trường phái cổ điển là
W.Petty, A.Smith, D.Ricacdo. cho đến K.Marx. Các ông nghiên cứu những
vấn đề cơ bản của lý luận kinh tế chính trị học đặc biệt là vấn đề tiền tệ. Các
nhà kinh tế học tư sản cổ điển là người đầu tiên đặt cơ sở khoa học cho sự
phân tích các phạm trù và quy luật kinh tế của phương thức sản xuất chủ
nghĩa tư bản, có thể được coi là người đã thực hiện cuộc cách mạng quan
trọng sự phát triển của các học thuyết kinh tế. là một trường phái khoa học
có nhiều đóng góp to lớn cho lịch sử tư tưởng kinh tế chung của loài người.
Để khái quát hóa lịch sử phát triển lý luận về tiền tệ trong các học
thuyết kinh tế nên em đã chọn đề tài “Sự tiến triển của lý luận về tiền tệ từ
W.Petty, A.Smith, D.Ricacdo, đến K.Marx. Ý nghĩa thực tiễn của lý luận
tiền tệ” làm đề tài tiểu luận cho mơn học của mình.

2




NỘI DUNG
Chương 1
SỰ TIẾN TRIỂN CỦA LÝ LUẬN VỀ TIỀN TỆ TỪ W.PETTY,
A.SMITH, D.RICACDO, ĐẾN K.MARX
1.1. Lý luận tiền tệ của W.Petty
Wiliam Petty sinh ra trong một gia đình làm nghề thủ cơng, nhưng
được học hành có hệ thống. Ơng là một con người uyên bác trên nhiều lĩnh
vực. Năm 1647 phát minh ra máy chữ. Năm 1649 nhận học vị tiến sỹ vật
lý. Năm 1657 là giáo sư giải phẫu và âm nhạc. Năm 1658 làm bác sỹ trong
quân đội. Ơng cịn là một chủ đất, một nhà cơng nghiệp phát đạt. Ngồi ra,
ơng cịn được coi là cha đẻ của khoa Thống kê học và là cha đẻ của Kinh tế
chính trị học.
Trong nghiên cứu kinh tế học Wiliam Petty cố gắng gạt bỏ những quan
niệm Trọng thương về tiền tệ, nên đã có những cống hiến đáng kể về lý luận
tiền tệ.
Trước hết, ông phê phán chế độ song bản vị dùng cả vàng và bạc đóng
vai trị tiền tệ, theo ơng chỉ nên dùng một loại tiền tệ, đó là dùng tiền vàng.
Qua đây, ơng cũng phê phán việc phát hành tiền tệ không đúng giá trị. Theo
ơng, tiền tệ nhất thiết phải có đủ giá trị trước khi nó lưu hành, việc giảm giá
trị thực tế của tiền tệ là một tai hoạ thực sự cho nền kinh tế.
Tiếp đó, Wiliam Petty cịn phê phán tư tưởng tích trữ tiền lại của học
thuyết kinh tế Trọng thương. Ở đây, ơng đã thấy được vai trị của lưu thông
tiền tệ, ông cho rằng: Tiền trong lưu thơng hàng hố giống như mỡ trong cơ
thể con người, sự thừa tiền cũng tác hại như sự thiếu tiền vậy.
Ơng viết: Tiền là mỡ của một cơ thể chính trị (Nhà nước), béo phị cũng
như thiếu mỡ là bệnh tật của cơ thể.
Từ sự phê phán đó, Wiliam Petty là người đầu tiên nghiên cứu lượng
tiền tệ cần thiết cho lưu thông. Theo ông, khối lượng tiền trong lưu thông dựa

3


trên cơ sở số lượng hàng hoá và tốc độ chu chuyển của tiền tệ. Nghĩa là khối
lượng tiền tệ lưu thông phụ thuộc vào giá trị khối lượng hàng hố và tốc độ
vịng quay của đồng tiền. Giá trị hàng hố tăng thì khối lượng tiền tệ trong lưu
thơng tăng, còn tốc độ vòng quay của đồng tiền tăng thì khối lượng tiền trong
lưu thơng giảm. Như vậy, khối lượng tiền trong lưu thông tỷ lệ thuận với giá
trị hàng hố và tỷ lệ nghịch với tốc độ vịng quay của đồng tiền.
1.2. Lý luận tiền tệ của A.Smith
A.Smith đã phân biệt được tiền tệ với của cải. Ông phê phán chủ nghĩa
trọng thương đã đề cao quá mức vai trị của tiền tệ. Theo ơng, sự giàu có
khơng phải ở chỗ có tiền mà là ở chỗ người ta có thể mua được cái gì với tiền.
Ơng cho rằng lưu thơng hàng hố chỉ thu hút được một số tiền nhất định và
không bao giờ dung nạp quá số đó.
Adam Smith đã trình bày lịch sử ra đời của tiền tệ thông qua sự phát
triển của lịch sử trao đổi, từ súc vật làm ngang giá đến kim loại vàng, ơng đã
nhìn thấy sự phát triển của các hình thái giá trị. Ơng đã chỉ ra chức năng của
tiền là phương tiện lưu thông và đặc biệt coi trọng chức năng này của tiền tệ.
A.Smith cho rằng xã hội là 1 khối liên minh giữa những người trao đổi
sản phẩm có ích trong quan hệ trao đổi phải có cơng cụ, cơng cụ đó chính là
tiền tệ. Ơng ví “đồng tiền như con đường rộng lớn, trên đó người ta chở cỏ
khơ và lúa mì, con đường khơng làm tăng thêm cỏ khơ với lúa mì”. Điều này
thể hiện sự phân biệt rõ ràng của ông giữa tiền tệ với của cải và khẳng định
tiền chỉ là phương tiện lưu thơng của hàng hóa. Tuy nhiên, khi khẳng định
“con đường không làm tăng thêm cỏ khô và lúa mì chứng tỏ A.Smith đã
khơng thấy được chức năng tư bản của tiền.
Tuy nhiên A.Smith đã đánh giá quá cao chức năng phương tiện lưu
thông của tiền khi ông ca ngợi: “Tiền là bánh xe vĩ đại của lưu thông, là công
cụ đặc biệt của trao đổi và thương mại”.Từ đó, ơng cho rằng khơng phải số

lượng tiền tệ quyết định giá cả hàng hóa mà chính giá cả hàng hóa quy định
số lượng tiền tệ. Cụ thể, số lượng tiền tệ cần thiết trong lưu thông được xác
4


định bởi giá trị của khối lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường. A.Smith là
người đầu tiên khuyên dùng tiền giấy. Ơng nói: “Tiền có thể được thay thế
bằng mọi thứ, trong lưu thơng người ta có thể dùng vàng, bạc, nhôm, tiền
giấy. Bản thân tiền giấy rẻ hơn cịn ích lợi thì cũng thế”. Ơng đánh đồng vai
trị của tiền vàng, tiền giấy thậm chí cịn coi trọng việc sử dụng tiền giấy vì
cho rằng giá trị của tiền giấy “rẻ” hơn. Bản thân tiền giấy khơng có giá trị mà
nó chỉ là sự kí hiệu quy ước giá trị của tiền vàng, tiền vàng mới là thước đo
giá trị thực sự. Số lượng tiền giấy in ra phụ thuộc vào số lượng vàng hay bạc
do tiền giấy tượng trưng, lẽ ra sẽ dùng trong lưu thông. Nếu khối lượng tiền
giấy vượt quá số lượng đo, thì giá trị của tiền tệ sẽ giảm xuống dẫn đến tình
trạng lạm phạt. Điều này thể hiện ông chưa biết đến bản chất của tiền – tiền tệ
là hàng hóa đặc biệt được tách ra từ trong thế giới hàng hóa làm vật ngang giá
chung thống nhất cho các hàng hóa khác, nó thể hiện lao động xã hội và biểu
hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa. Hơn nữa cịn thể hiện việc
ơng đang nhầm lẫn giữa giá trị tiền và số lượng tiền.
Tóm lại, lí luận tiền tệ của A.Smith thể hiện phân biệt đươc tiền tệ với
của cải, đã thấy được chức năng phương tiện lưu thơng của tiền song chưa
đầy đủ (Tiền có các chức năng là thước đo giá trị – phương tiện lưu thơng –
phương tiện cất trữ – phương tiện thanh tốn – tiền tệ thế giới và chức năng tư
bản của tiền tệ). Đồng thời A.Smith chưa hiều được bản chất của tiền tệ khi
không phân biệt được sự khác nhau giữa tiền vàng (bạc) và tiền giấy.
1.3. Lý luận tiền tệ của D.Ricardo
D.Ricardo đã phát triển lý luận về tiền tệ lên cao hơn và ông cũng đã
viết khá nhiều về vấn đề tiền tệ, trong các tác phẩm khác nhau. Ơng hiểu rõ
bản chất hàng hố của tiền tệ, tiền tệ là hàng hoá, vàng và bạc cũng giống

những hàng hoá khác tỉ lệ với số lượng lao động càn thiết để sản xuất ra
chúng và đưa chúng ra thị trường, số luợng tiền tệ ở trong nước phụ thuộc vào
giá trị của chúng. Theo ơng, tiền có chức năng thước đo giá trị và phương tiện
lưu thông. Nhưng ông không hiểu được nguồn gốc của tiền tệ và đơn giản hoá
5


những chức năng của nó. Khi nghiên cứu về tiền giấy, ơng cũng vạch rõ tiền
giấy khơng có giá trị nội tại, giá tri này tuỳ thuộc vào số lượng của chúng. Sau
đó ơng đã nhầm lẫn quy luật lưu thông tiền giấy và quy luật lưu thông tiền tệ,
đã rơi vào thuyết số lượng tiền tệ.
Trong học thuyết của D.Ricardo Vấn đề lưu thông tiền tệ và ngân hàng
chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Tư tưởng chính của ông là:
Một nền kinh tế muốn phát triển tốt cần dựa trên một sự lưu thông tiền
tệ vững chắc.
Lưu thông tiền tệ chỉ vững chắc khi hệ thống tiền tệ dựa vào vàng làm
cơ sở.
Vàng trong lưu thơng có thể được thay thế một phần hoặc toàn bộ là
tiền giấy nhưng với điều kiện nghiêm ngặt là tiền giấy này phải được vàng
đảm bảo. Ricardo vẫn coi vàng là cơ sở của tiền tệ, nhưng theo ông muốn việc
trao đổi thuận lợi thì ngân hàng phải phát hành tiền giấy. Ông cho rằng giá trị
của tiền là do giá trị của vật liệu làm ra tiền quyết định. Nó bằng số lượng lao
động hao phí để khai thác vàng bạc quyết định. Tiền giấy chỉ là ký hiệu giá trị
của tiền tệ, được so sánh tưởng tượng với một lượng vàng nào đó, do nhà
nước và ngân hàng quy định.
Giá cả hàng hóa là giá trị trao đổi của hàng hóa được trao đổi bằng tiền.
Ơng phát triển lý luận của W. Petty về tính quy luật của số lượng tiền
trong lưu thơng.Ơng đối chiếu giá trị của khối lượng hàng hoá với giá trị của
tiền tệ và cho rằng tác động qua lại giữa số lượng hàng hoá với lượng tiền
trong lưu thông diễn ra trong những khuôn khổ nhất định.

Ricardo đã có nhiều luận điểm đúng đắn về tiền tệ song vẫn còn những
hạn chế nhất định, như: Ông chưa phân biệt được tiền giấy với tiền tín dụng,
chưa phân biệt rõ ràng giữa lưu thơng tiền giấy và tiền kim loại nên đi đến
một kết luận chung rằng: giá trị của tiền là do lượng của chúng điều tiết, cịn
giá cả của hàng hố thì tăng lên một cách tỷ lệ với tăng số lượng tiền. Ông là
người theo lập trường của thuyết số lượng tiền và lý thuyết của ơng chưa phân
tích đầy đủ các chức năng của tiền tệ.
6


Sự phát triển của quy luật lưu thơng tiền tệ?
• W.Petty:
W. Petty là người đầu tiên nghiên cứu số lượng tiền tệ cấn thiết trong
lưu thông trên cơ sở thiết lập mối quan hệ giữa khối lượng hàng hoá trong lưu
thông và tốc độ chu chuyển của tiền tệ. Chẳng hạn ơng xác định (tính tốn tùy
tiện) số lượng tiền cần thiết cho lưu thông như sau: Số lượng tiền để lưu thơng
chỉ cần 1/10 số tiền chi phí trong một năm là hoàn toàn đủ cho nước Anh.
Trong cuốn bàn về tiền tệ, ơng tính tốn nước Anh cần 1 số lượng tiền tệ để
lưu thông đủ để trả ½ địa tơ, ¼ tiền th nhà, tồn bộ chi tiêu hàng tuần của
dân số và khoảng 25% giá trị xuất khẩu.
Ơng cịn nghiên cứu ảnh hưởng của thời hạn thanh tốn với số lượng
tiền cần thiết cho lưu thơng. Ơng cho rằng thời gian thanh tốn càng dài thì số
lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thơng càng lớn.
Ơng chống lại tư tưởng trọng thương về tích lũy tiền không hạn độ, và
cho rằng không cần thiết tăng số lượng tiền tệ đến mức vơ tận.
• A.Smith:
A.Smith cho rằng không phải số lượng tiền tệ quyết định giá cả hàng
hóa mà chính giá cả hàng hóa quy định số lượng tiền tệ.
Số lượng tiền tệ cần thiết trong lưu thông được xác định bởi giá trị của
khối lượng hàng hóa lưu thơng trên thị trường. Giá trị hàng hóa mua vào bán

ra trên thị trường hàng năm đòi hỏi 1 lượng tiền tệ nhất định lưu thông và
phân hàng hóa đó đến tay người tiêu dùng và khơng dùng q số lượng đó
được. Con kênh lưu thơng chỉ thu hút một cách tất yếu số lượng thích đáng
cho đầy đủ và khơng thể chứa đựng hơn nữa.
• D.Ricardo:
Ơng phát triển lý luận của W. Petty về tính quy luật của số lượng tiền
trong lưu thơng.Ơng đối chiếu giá trị của khối lượng hàng hoá với giá trị của
tiền tệ và cho rằng tác động qua lại giữa số lượng hàng hố với lượng tiền
trong lưu thơng diễn ra trong những khn khổ nhất định. Ơng kết luận: “Với
giá trị nhất định của tiền, số lượng tiền trong lưu thông phụ thuộc vào tổng giá
cả hàng hóa”

7


Tuy nhiên ông lại không nhất quán giữ vững quan điểm của mình và
nói rằng bất cứ lượng tiền giấy tiền vàng nào cũng có thể tham gia lưu thơng.
Tổng giá cả hàng hóa đối diện với tổng số tiền và được quyết định bởi tương
quan giữa các đại lượng trên. Như vậy, ông quy giá trị của tiền bằng số lượng
của chúng.
• Đánh giá chung:
Ba nhà kinh tế đại biểu cho trường phái cổ điển Anh đều đã bước đầu
đặt nền móng cho việc nghiên cứu quy luật lưu thông tiền tệ và số tiền cần
thiết cho lưu thông phụ thuộc vào giá cả hàng hóa trên thị trường nhưng chưa
thể hồn thiện lí luận, vẫn tồn tại một số sai lầm và đưa ra được công thức xác
định chính xác.
Nguyên nhân là do chưa hiểu được nguồn gốc và bản chất của tiền,
chưa biết đến đầy đủ các chức năng khác của tiền và chưa phân biệt được các
hình thái của chúng.
1.4. Lý luận tiền tệ của K.Marx

K.Marx đã khắc phục được sai lầm của các nhà kinh tế học đi trước
trong lí luận về tiền tệ. Cụ thể:
 Ông đã hiểu được nguồn gốc và bản chất của tiền tệ.
Để hiểu nguồn gốc của tiền tệ, K.Marx nghiên cứu các hình thái biểu
hiện của giá trị trong nền kinh tế hàng hóa được biểu hiện thơng qua 4 hình
thái cụ thể:
- Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên: giá trị của 1 hàng hóa chỉ
được phát hiện trên 1 hàng hóa nhất định khác với nó, chứ khơng biểu hiện ở
mọi hàng hóa khác. Hình thái này chỉ thích hợp với việc trao đổi ngẫu nhiên
nguyên thủy.
- Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng: là sự mở rộng của hình thái
giản đơn ra nhiều hàng hóa hơn.
- Hình thái chung của giá trị: tất cả các hàng hóa đều biểu hiện giá trị
của mình ở cùng một thứ hàng hóa đóng vai trị là vật ngang giá chung. Các
địa phương khác nhau thì vật ngang giá chung khác nhau.
- Hình thái tiền tệ: hình thành vật ngang giá chung cho mọi địa
8


phương là vật độc tôn và phổ biến. Cuối cùng, vàng là kim loại được chọn.
Tiền tệ xuất hiện là kết quả của quá trình sản xuất và trao đổi hàng hóa, khi
tiền tệ ra đời, thế giới hàng hóa được phân thành 2 cực: một bên là các hàng
hóa thơng thường, một bên là hàng hóa đặc biệt đóng vai trị tiền tệ.
Tiền tệ là một hình thái giá trị của hàng hóa, là sản phẩm của q trình
phát triển sản xuất, trao đổi hàng hóa. Ơng phát biểu: “tiền tệ là hàng hóa đặc
biệt được tách ra từ trong thế giới hàng hóa làm vật ngang giá chung thống
nhất cho các hàng hóa khác, nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ
giữa những người sản xuất hàng hóa”.
 Thấy được đầy đủ các chức năng của tiền tệ:
Thước đo giá trị: Tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của hàng

hóa phải là tiền vàng. Cơ sở của nó là thời gian lao động xã hội cần thiết hao
phí để sản xuất ra hàng hóa đó. Giá cả hàng hóa là hình thái biểu hiện bằng
tiền của giá trị hàng hóa.
Phương tiện lưu thông: Với chức năng làm phương tiện lưu thơng, tiền
là mơi giới trong q trình trao đổi hàng hóa. Cụ thể, với cơng thức H-T-H,
hàng vi mua và bán có thể tách rời nhau về khơng gian lẫn thời gian, con
người khơng nhất thiết phải tìm đến trao đổi trực tiếp với người có nhu cầu về
hàng hóa mà họ có và có hàng hóa họ cần. Lưu thơng hàng hóa và lưu thơng
tiền tệ là 2 mặt của quá trinh thống nhất với nhau. Lưu thông tiền tệ xuất hiện
dựa trên cơ sở của lưu thông hàng hóa.
Phương tiện cất trữ: tiền rút ra khỏi lưu thơng để đi vào cất trữ vì tiền là
đại biểu cho của cải xã hội dưới hình thức giá trị, cất trữ tiền là hình thức cất
trữ của cải.
Phương tiện thanh toán: tiền thể hiện chức năng này khi nảy sinh việc
mua bán chịu.
Tiền tệ quốc tế: Tiền vượt qua biên giới quốc gia làm chức năng tiền tệ
quốc tế. Với chức năng này tiền có đầy đủ giá trị giống như vàng.
Ngồi ra, K.Marx cịn chỉ ra chức năng tư bản của tiền: bản thân tiền
không phải là tư bản, tiền chỉ chuyển hóa thành tư bản trong điều kiện nhất
định, khi chúng được sử dụng để bóc lột sức lao động của người khác. Tiền là
9


tư bản vận động theo cơng thức T-H-T.
 Hồn thiện quy luật lưu thơng của tiền:
Ơng xác định lượng tiền cần thiết trong lưu thông bằng công thức:
T: số lượng tiền cần thiết trong lưu thông.
G: tống số giá cả hàng hóa.
Gc: tổng số giá cả hàng hóa bán chịu.
Tk: Tổng số tiền khấu trừ cho nhau.

Ttt: Tổng số tiền thanh tốn đến kì hạn.
N: Số vịng lưu thơng của các đồng tiền cùng loại
T=

10


Chương 2
Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA LÝ LUẬN TIỀN TỆ ĐỐI VỚI
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Áp dụng những lý luận về tiền tệ để đảm bảo giá cả được ổn định, giữ
giá đồng tiền, phát triển kinh tế một cách bền vững là một trong những mục
tiêu quan trọng của việc quản lý nền kinh tế vĩ mô của nhà nước. Trong các
công cụ điều tiết vĩ mơ của nhà nước thì chính sách tiền tệ là một trong những
chính sách quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp vào lĩnh vực lưu thơng
tiền tệ. Nó cũng có những quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mơ
khác như: chính sách tài khố, chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đối
ngoại. Những nội dung chính của chính sách tiền tệ ở Việt Nam bao gồm:
- Cung ứng và điều hoà khối lượng tiền tệ ngân hàng nhà nước tăng
hay giảm khối lượng tiền tệ để duy trì tương quan giữa tổng cung và tổng cầu
giữa tiền và hàng
- Chính sách tín dụng cho nền kinh tế: khi các ngân hàng thương mại
và có các tổ chức tín dụng thiếu khả năng thanh tốn thì họ đến ngân hàng
trung ương xin tái cấp vốn. Ngân hàng trung ương ln đóng vai trò là một tổ
chức cho vay cuối cùng để thúc đẩy các ngân hàng thương mại và tổ chức tín
dụng huy động tối đa lượng tiền nhàn rỗi trong dân chúng để đầu tư phát triển
kinh tế.
- Chính sách quản lý ngoại hối: hướng vào việc ngăn chặn tích cực
ngoại tệ trong các doanh nghiệp và tầng lớp nhân dân. Đề thực hiện việc ổn
định giá cả của đồng tiền quốc gia, ngân hàng nhà nước thực hiện các nhiệm

vụ: quản lý ngoại hối, lập bảng theo dõi diễn biến của cán cân thanh toán
quốc tế, thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, tổ chức điều tiết thị trường hối
đoái, tổ chức điều tiết thị trường hối đoái, xây dựng và thống nhất quản lý dự
trữ ngoại hối quốc gia,...
- Chính sách tạm ứng cho ngân hàng nhà nước
11


+ Trường họp ngân sách cân bằng: Chính phủ thu thuế vào ngân sách,
ngân sách chi ra cho bộ máy quản lý nhà nước và nền kinh tế lượng tiền vẫn
nằm nguyên trong lưu thông.
+ Trường họp ngân sách thiếu hụt: lúc này chi lớn hơn thu, giải quyết
bằng bốn cách: vay của dân, vay của hệ thống ngân hàng và tổ chức tín dụng ,
vay của ngân hàng nhà nước, vay nợ nước ngoài.
+Trường họp ngân sách thặng dư: khối lượng tiền tệ trong thị trường
được rút bớt cất đi.
Chính sách tiền tệ là hoạt động cơ bản chủ yếu nhất của Ngân hàng
trung ương. Có thể nói chính sách tiền tệ là linh hồn, xuyên suốt mọi hoạt
động của Ngân hàng trung ương. Các hoạt động khác của Ngân hàng trung
ương đều nhằm thực thi chính sách tiền tệ đạt được các mục tiêu đó. Trong
những năm qua, những nội dung chính của chính sách tiền tệ đã được ngân
hàng nhà nước thực hiện thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ sau:
2.1.

Cơng cụ lãi suất

Khi sử dụng các cơng cụ của chính sách tiền tệ của ngân hàng trung
ương (thị trường mở, chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, v.v....) đều có tác động
đến lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế. Trong
đó, đặc biệt là lãi suất chiết khấu của Ngân hàng trung ương tác động mạnh

đến lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại. Song, khi các công cụ
trên đây hoạt động chưa có hiệu quả, thì Ngân hàng trung ương có thể trực
tiếp quy định khung lãi suất hoặc trần lãi suất cho vay của các ngân hàng
thương mại. Để tránh rủi ro, bảo vệ quyền lợi các ngân hàng, Ngân hàng trung
ương thường quy định mức lãi suất “sàn” tối đa cho tiền gửi và lãi suất “trần”
tối thiểu cho tiền vay. Nếu nhằm bảo đảm quyền lợi cho khách hàng của ngân
hàng thương mại, thì Ngân hàng trung ương thường quy định ngược lại mức
lãi suất tối thiểu cho tiền gửi và mức tối đa cho tiền vay. Ngân hàng trung
ương muốn kiểm sốt được lãi suất, bởi vì lãi suất có tác động mạnh đến tiết
kiệm và đầu tư, qua đó tác động vào tăng trưởng kinh tế và giá cả. Tuy nhiên,
12


việc sử dụng công cụ lãi suất dễ làm mất đi tính khách quan của lãi suất trong
nền kinh tế vì thực chất lãi suất là “giá cả” của vốn, do vậy, nó phải được hình
thành từ chính quan hệ cung cầu - về vốn trong nền kinh tế.
Lãi suất là một yếu tố rất nhạy cảm đối với nền kinh tế của các nước. Ở
Việt Nam Ngân hàng Trung ương đã rất linh hoạt trong việc sử dụng công cụ
lãi suất nhằm tác động tích cực đến nền kinh tế trong q trình chuyển đổi, có
thể thấy rõ tính linh hoạt của chính sách lãi suất qua các thời điểm:
- Trước ngày 1/6/2002 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện cơ
chế điều hành lãi suất cơ bản Đồng Việt Nam, mức lãi suất cơ bản được công
bố trong các tháng đầu năm 2002 là 0,6%/tháng. Ngân hàng Nhà nước cũng
đã mạnh dạn thực hiện chính sách tự do hố lãi suất đối với ngoại tệ từ tháng
6/2001. Chính sách lãi suất như vậy là phù họp với thực tiễn của Việt Nam
trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường và bám sát với diễn biến
của thị trường tiền tệ quốc tế.
- Từ ngày 1/6/2002 Ngân hàng Nhà nước quyết định chuyển sang cơ
chế lãi suất thoả thuận Đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng đối với khách
hàng. Đây là một sự "cởi trói" cho các tổ chức tín dụng trong hoạt động kinh

doanh, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng chủ động trong hoạt động huy
động vốn và cho vay đối với khách hàng. Cơ chế mới đã tạo ra sự sôi động
trong hoạt động kinh doanh và cạnh tranh của các tổ chức tín dụng. Nếu như
với cơ chế lãi suất cơ bản, trong các tháng đầu năm 2002 lãi suất huy động
vốn dừng lại ở mức 0,6%/tháng, lãi suất cho vay bình quân là 0,7%/tháng, thì
từ khi áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận từ tháng 6/2002 là nhất là trong các
tháng 8 và 9/2002 lãi suất huy động vốn cao nhất của các ngân hàng thương
mại lên tới 0,7%, thậm chí 0,72%/tháng - Mức lãi suất cao nhất trong vịng
gần 2 năm. Khơng dừng lại ở đó, các tháng đầu năm 2003 do nhu cầu vay vốn
trên thị trường vẫn cao, các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng tiếp
tục cuộc cạnh tranh huy động vốn thông qua các biện pháp nâng lãi suất huy
động; Thực hiện các hình thức khuyến mãi rầm rộ và hấp dẫn. Đã xuất hiện
13


diễn biến bất thường trên thị trường tiền tệ Việt Nam là lãi suất nội tệ tăng lên
quá cao, trong khi đó lãi suất ngoại tệ giảm xuống quá thấp. Thị trường tiền tệ
VND nóng lên, tuy vậy vẫn khơng tác động tích cực đến vấn đề tiết kiệm và
đầu tư. Thực tế trên cho thấy các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín
dụng đã vào cuộc rất nhanh với cơ chế mới, theo sát diễn biến của thị trường,
năng động trong kinh doanh để huy động vốn và đáp ứng nhu cầu của khách
hàng, nhưng với lãi suất quá nóng sẽ tiềm ẩn những rủi ro cho các tổ chức tín
dụng và khách hàng. Đối với các tổ chức tín dụng chi phí cao, lợi nhuận giảm
thậm chí thua lỗ, đối với các doanh nghiệp chi phí vốn cao, đẩy giá thành lên
cao sẽ giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Ở Việt Nam thời gian qua Ngân hàng Trung ương cũng đã cố gắng sử
dụng công cụ lãi suất để điều hành chính sách tiền tệ phù họp với nền kinh tế
đang trong quá trình chuyển đổi. Cho đến cuối năm 2002, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam đã thiết kế đủ hệ thống lãi suất chủ đạo bao gồm: cặp lãi suất
tái suất vốn, lãi suất cơ bản và hệ thống lãi suất của phương tiện thường

xuyên gắn liền với hoạt động cho vay qua đêm (Quyết định 1085/2002/QĐNHNN) và lãi suất cho số dư tiền gửi thường xuyên của các tổ chức tín dụng
tại ngân hàng Nhà nước (Quyết định 1284/2002/QĐ-NHNN).
Trong thực tế, mặc dù ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất cơ bản
nhưng nó ít tác động đến lãi suất thị trường bởi vì nhu cầu vay vốn là rất lớn
khách hàng chấp nhận vay vốn với lãi suất cao, các tổ chức tín dụng đua nhau
tăng lãi suất huy động vốn để cho vay, các tổ chức tài chính phi ngân hàng
cũng tham gia cạnh tranh tích cực trên thị trường vốn, lãi suất trái phiếu kho
bạc được đẩy lên cao, lãi suất trái phiếu địa phương tăng vọt... điều đó làm
cho thị trường tiền tệ nóng lên Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khó kiểm sốt
được lãi suất thị trường.
Trước thực trạng như vậy, Ngân hàng Nhà nước đã phải thực hiện một
số biện pháp quản lý phù họp để làm hạ nhiệt lãi suất quá nóng trên thị trường
tiền tệ:
14


- Trước hết là từ tháng 8/2003, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyết
định giảm đáng kể lãi suất tái cấp vốn từ 6,0%/năm, xuống 5,0%/năm; lãi suất
tái chiết khấu từ 5,0%/năm xuống 4,2%/năm; tỷ lệ dự trữ bắt buộc cả nội tệ,
ngoại tệ có mức giảm 0,5% -1,0% so với mức thực hiện trước đó.
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã làm việc với 4 ngân hàng thương
mại Nhà nước, chiếm 70% thị phần huy động vốn và cho vay, để bàn biện
pháp giảm lãi suất trên thị trường. Qua cuộc họp với Ngân hàng Nhà nước,
các ngân hàng thương mại này đã cắt giảm lãi suất huy động vốn kỹ hạn ngắn.
Riêng Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chiếm tới 25
thị phàn huy động vốn và cho vay trong tồn quốc cịn quyết định giảm cả lãi
suất điều hành vốn trong hệ thống của mình, đồng thời giảm mức lãi suất mà
các chi nhánh đi vay các ngân hàng thương mại khác.
- Hiệp hội Ngân hàng cũng đã vào cuộc bằng việc tổ chức cuộc họp
với 4 Ngân hàng thương mại Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước để bàn biện

pháp hạ mặt bằng lãi suất trong nền kinh tế, thống nhất phương pháp hoạt
động của các ngân hàng nhằm đảm bảo lợi ích chung trong tồn hệ thống, đến
hiệu quả của nền kinh tế và lợi ích của từng tổ chức tín dụng. Cuộc họp đã
thống nhất các ngân hàng thương mại lấy mức lãi suất huy động vốn kỳ hạn 6
tháng làm lãi suất cơ bản giữa các ngân hàng hội viên; đồng thời thường
xuyên thông báo cho nhau việc thay đổi các mức lãi suất của mình thơng qua
Hiệp hội Ngân hàng.
Các biện pháp kể trên đã thể hiện sự chủ động của Ngân hàng Nhà
nước sử dụng đúng các cơng cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ và tơn trọng
tính quy luật về lãi suất, phản ánh cung cầu vốn trong nền kinh tế theo cơ chế
thị trường, đồng thời thúc đẩy sự họp tác giữa các thành viên của Hiệp hội
ngân hàng trong khi vẫn tôn trọng tính tự chủ trong hoạt động kinh doanh của
các ngân hàng thương mại. Kết quả là lãi suất huy động vốn kỳ hạn ngắn đã
giảm xuống.
15


Đến cuối tháng 8 năm 2003 có một nghịch lý là trong khi lãi suất huy
động vốn ngắn hạn giảm xuống, thì lãi suất huy động vốn và cho vay trung và
dài hạn vẫn đứng ở mức cao, thậm chí ở một số ngân hàng thương mại cịn có
xu hướng tăng lên. Chẳng hạn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn lãi suất trái phiếu kỳ hạn 5 năm vẫn duy trì ở mức 9,17%/năm cho năm
đầu tiên, lãi suất huy động vốn kỳ hạn 24 tháng của ngân hàng thương mại cổ
phần Phương Nam, cho khoản tiền gửi từ 50 triệu đồng trở lên tới
0,785%/tháng (tương đương 9,42%/năm)... Một thực tế đáng quan tâm nữa là
lãi suất huy động vốn của ngân hàng thương mại này tương đương hoặc cao
hơn lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại khác. Bởi vậy, nếu các ngân
hàng thương mại cứ tăng lãi suất trung và dài hạn lên, thì vốn từ ngân hàng có
lãi suất thấp hơn sẽ chạy sang ngân hàng có lãi suất cao hơn và nếu phát hành
trái phiếu Chính phủ và trái phiếu Đơ thị với lãi suất cao, thì chủ yếu hút vốn

từ các ngân hàng thương mại đầu tư vào đó, ảnh hưởng đến việc cho vay vốn
trung và dài hạn của ngân hàng cho khách hàng và các dự án. Thực trạng này
cho thấy thị trường liên ngân hàng chưa phát triển, chưa có tác dụng điều hồ
lãi suất trong nền kinh tế. Từ đó địi hỏi ngân hàng thương mại phải có các
giải pháp để điều hành chính sách tiền tệ phù họp.
2.2.

Công cụ tỷ giá

Từ năm 1992, tỷ giá của Việt Nam được điều hành theo quy luật cung
cầu ngoại tệ trên thị trường có sự quản lý của Nhà nước thay cho chế độ tỷ giá
cố định trước đó. Đầu năm 1999, quản lý tỷ giá lại có thêm bước tiến nữa với
việc công bố tỷ giá giao dịch bình qn ngày hơm trước làm căn cứ cho
NHTM tự ấn định tỷ giá giao dịch cho mình. Tỷ giá chính thức cũng đã được
nới lỏng dần dần và đến nay giữ ổn định xê dịch trên dưới 16.000 VND/USD.
Bên cạnh đó, tỷ lệ kết hối cũng liên tục được nới lỏng từ mức 80% nay chỉ
còn 20%, cũng đang tạo động lực khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh
xuất khẩu cũng như nhập khẩu nguyên liệu đầu vào cho sản xuất hàng xuất
khẩu. Gần đây tuy tỷ giá có tăng lên vượt mức 16.000 VND/USD, nhưng theo
16


NHNN đây là sự vận động bình thường của thị trường, chưa gây biến động
cho nền kinh tế và hoàn tồn nằm trong tầm kiểm sốt. Tỷ giá VND/USD ổn
định tạo thuận lợi cho cả xuất khẩu và cả nhập khẩu, nhất là vay nợ nước
ngoài của Việt Nam. Đồng thời, với chính sách điều hành tỷ giá biến động 2
chiều nên hầu như loại bỏ được yếu tố đầu cơ, lại càng làm cho thị trường
ngoại tệ ổn định, cầu ngoại tệ tăng chậm. Có thể nói, cơ chế quản lý tỷ giá đã
góp một phần quan trọng trong việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mơ, tạo đà cho
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao trong những năm qua của Việt Nam.

Nhằm ổn định cán cân thanh toán quốc tế, trong những năm qua Việt
Nam theo đuổi mục tiêu tăng cường củng cố dự trữ ngoại tệ đạt mức dự trữ an
toàn. NHTW chịu trách nhiệm kiểm soát chặt chẽ động thái và trạng thái dự
trữ ngoại hối quốc gia; thống nhất một đầu mối dự trữ ngoại hối tại NHTW và
tại các NHTM. Dự trữ ngoại hối quốc gia ngày càng ổn định, đủ khả năng
điều tiết thị trường trong trường họp tình hình thị trường có biến động lớn.
Năm 2005, dự trữ ngoại tệ của ta đạt mức lớn nhất từ trước tới nay, đạt trên
14 tuần nhập khẩu. Tuy nhiên con số này là rất nhỏ bé khi so sánh với các
nước, ước chỉ bằng 1% lượng dự trữ của các quốc gia như Nhập Bản, Trung
Quốc (từ 700 - 1.000 tỷ USD).
Tuy đạt được những bước tiến quan trọng trong tăng dự trữ ngoại tệ
quốc gia, song về chính sách quản lý ngoại tệ vẫn còn nhiều điều cần xem xét.
Hiện nay cách tính quỹ dự trữ ngoại hối chủ yếu được xác định theo tuần
nhập khẩu. Theo cách tính này, nguồn ngoại hối dự trữ chỉ mới dừng lại ở
việc sẵn sàng cung ứng ngoại tệ để cân bằng cán cân thương mại, trong khi đó
cán cân vãng lai, cán cân vốn đang ngày càng tăng, tạo lên một áp lực lớn về
ngoại hối do mất cân bằng trong thời gian gần đây. Do phải trả nợ nước ngoài,
lợi nhuận của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhu cầu chuyển
vốn ra nước ngoài kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam đang có xu
hướng tăng. Đây là những nhu cầu ngoại tệ họp lý mà Chính phủ phải thỏa
mãn.NHNN đã rất linh hoạt trong sử dụng công cụ này.
17


2.3.

Cơng cụ hạn mức tín dụng

Hạn mức tín dụng được xác định trên cơ sở chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế
và chỉ tiêu lạm phát dự kiến hàng năm, ngoài ra cịn dựa vào một số tín hiệu

thị trường khác: tỷ lệ thất nghiệp, tỷ giá, thâm hụt ngân sách nhà nước, tốc độ
lưu thông tiền tệ,... Trên cơ sở đó, hạn mức tín dụng được phân bổ cho các
ngân hàng thương mại, cho từng thời kì phù hợp với mục tiêu chính sách tiền
tệ. Để hạn chế việc tạo tiền quá mức của ngân hàng thương mại làm tăng khối
lượng tiền tệ trong nền kinh tế, Ngân hàng trung ương quy định hạn mức tín
dụng tối đa cho từng ngân hàng thương mại. Trong phần lớn các trường họp,
những hạn mức riêng này được xác định căn cứ vào tỷ trọng cho vay của nó
trong quá khứ so với tổng mức cho vay của hệ thống ngân hàng. Ngân hàng
thương mại chỉ được cấp tín dụng cho nền kinh tế tối đa bằng hạn mức tín
dụng quy định.
Hạn mức tín dụng được Ngân hàng trung ương sử dụng như một cơng
cụ quan trọng của chính sách tiền tệ, khi mà các công cụ truyền thống khác
kém hiệu quả. Tuy nhiên, khống chế hạn mức tín dụng có thể làm cho lãi suất
thị trường tăng lên, làm giảm cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại, làm
lệch lạc cơ cấu đầu tư của các ngân hàng thương mại, làm phát sinh các thị
trường tài chính “ngầm” ngồi sự kiểm sốt của Ngân hàng trung ương, gây
khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đây là công cụ được coi là cần thiết ở Việt Nam trong những năm đầu
của thời kì đổi mới. Hiệu quả của nó đã thể hiện rõ rệt trong việc chống lạm
phát. Năm 1990 - 1991, do mức độ lạm phát còn ở tỉ lệ cao (67,6%) nên ngân
hàng nhà nước đã chủ trương thi hành chính sách chặt ngay từ đầu. Năm
1992, tăng trưởng kinh tế đạt 8.65% mức lạm phát chỉ là 17,6%. Những năm
sau đó, đặc biệt là từ 1995 - 1997, ngân hàng nhà nước tiếp tục thực hiện
chính sách thắt chặt. Tuy nhiên, từ năm 1998 tới nay, công cụ hạn mức tín
dụng đã mất dàn vai trị của nó trong việc hạn chế sự gia tăng của tổng
phương tiện thanh toán nên từ quý n - 1998, ngân hàng nhà nước đã không áp
18


dụng công cụ này như một công cụ thường xuyên để điều hành chính sách

tiền tệ.
2.4.

Cơng cụ dự trữ bắt buộc

Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các tổ chức tín dụng phải giữ lại, mà
khơng được dùng để cho vay hoặc đầu tư. Mức dự trữ này do Ngân hàng
trung ương quy định và bằng một tỷ lệ nhất định so với tổng số tiền gửi của
khách hàng tại các tổ chức tín dụng. Chế độ dự trữ bắt buộc ở các nước khác
nhau, ở các thời kì khác nhau thì có thể khác nhau. Song nhìn chung, dự trữ
bắt buộc đều mang tính pháp luật, được gửi ở Ngân hàng trung ương và
không được hưởng lãi. Ngân hàng trung ương sử dụng dự trữ bắt buộc để tác
động đến lượng tiền cung ứng trên hai phương diện:
Thứ nhất, tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến cơ chế tạo tiền gửi của các
ngân hàng thương mại. Theo thuyết tạo tiền, từ một lượng tiền dự trữ ban đầu,
hệ thống ngân hàng thương mại có thể tạo ra một lượng tiền gửi lớn gấp nhiều
lần, với công thức tổng quát:
Tiền gửi mới được tạo ra = tiền dự trữ ban đầu X 1/ tỷ lệ dự trữ bắt
buộc Trong đó 1/ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là hệ số nhân tiền với hai giả thiết +
Các ngân hàng thương mại khơng có tiền dự trữ dư thừa so với tỷ lệ dự trữ bắt
buộc mà Ngân hàng trung ương yêu cầu.
+ Các khoản tiền gửi do các ngân hàng thương mại tạo ra đều được giữ
lại trong hệ thống ngân hàng.
Do vậy, nếu Ngân hàng trung ương quyết định tăng hoặc giảm tỷ lệ dụ
trữ bắt buộc sẽ làm cho hệ số tạo tiền thu hẹp hoặc tăng lên. Ví dụ, nếu tỉ lệ
dự trữ bắt buộc là 10% thì với một lượng tiền dự trữ ban đầu, hệ thống ngân
hàng thương mại tạo ra một lượng tiền gửi gấp 10 lần. Tương tự như vậy, nếu
tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên 20% thì lượng tiền gửi mới do hệ thống ngân
hàng thương mại tạo ra tăng lên 5 lần, nếu dự trữ bắt buộc giảm xuống 5% thì
lượng tiền mới do hệ thống ngân hàng thương mại tạo ra tăng 20 lần

19


Thứ hai, tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến lãi suất cho vay của hệ
thống ngân hàng thương mại. Như đã nói ở trên, tiền dự trữ bắt buộc đều phải
mở tài khoản và gửi ở Ngân hàng trung ương và không được hưởng lãi suất,
cho dù các ngân hàng thương mại vẫn phải trả lợi tức cho các khoản tiền gửi
ở ngân hàng của mình. Vì vậy, khi mức dự trữ tăng lên, đòi hỏi các ngân hàng
thương mại phải tăng lãi suất cho vay đối với nền kinh tế, giá các khoản vay
đắt hơn, khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại giảm xuống và theo
đó lượng tiền cung ứng cũng giảm xuống. Ngược lại, khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc
giảm xuống, các ngân hàng thương mại có cơ hội giảm lãi suất cho vay đối
với nền kinh tế, giá các khoản vay rẻ hơn, tăng khả năng cho vay của các
ngân hàng thương mại và theo đó lượng tiền cung ứng tăng lên.
2.5.

Nghiệp vụ thị trường mở

Nghiệp vụ thị trường mở là việc Ngân hàng trung ương mua và bán các
chứng khoán có giá mà chủ yếu là tín phiếu kho bạc nhà nước, nhằm làm thay
đổi lượng tiền cung ứng. Sở dĩ Ngân hàng trung ương tiến hành đại bộ phận
nghiệp vụ thị trường tự do của mình với tín phiếu kho bạc nhà nước là vì thị
trường tín phiếu kho bạc có dung lượng lớn, rủi ro thấp, tính lỏng cao.
Ngân hàng trung ương mua bán chứng khoán trên thị trường sẽ làm
thay đổi cơ số tiền tệ (tiền đang lưu hành ngoài hệ thống ngân hàng và tiền dự
trữ trong hệ thống ngân hàng ). Đó là nguồn gốc chính gây nên sự biến động
trong cung ứng tiền tệ.
+ Khi Ngân hàng trung ương mua chứng khoán, làm tăng cơ số tiền tệ,
qua đó làm tăng lượng tiền cung ứng.
+ Khi Ngân hàng trung ương bán chứng khoán, thu hẹp cơ số tiền tệ,

qua đó giảm lượng cung ứng.
Thị trường mở là công cụ quan trọng nhất của Ngân hàng trung ương
trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng bởi những ưu thế vốn có của nó
+ Ngân hàng trung ương có thể kiểm sốt được hồn tồn lượng nghiệp
vụ thị trường tự do
20


+ Linh hoạt và chính xác, có thể được sử dụng ở bất cứ mức độ nào,
điều chỉnh một lượng tiền cung ứng lớn hay nhỏ
+ Ngân hàng trung ương dễ dàng đảo ngược lại tình thế của mình
+ Thực hiện nhanh chóng, ít tốn kém về mặt chi phí và thời gian,...

21


KẾT LUẬN
Vấn đề tiền tệ luôn là tiêu điểm của nhiều mối quan tâm đặc biệt là lịch
sử phát triển của nó, sự ra đời của nó kéo dài theo từng thời kì lịch sử. Ở mỗi
thời kỳ khác nhau thì lại có những biến đổi khác nhau ở khắp các nước trên
toàn thế giới và riêng ở việt nam vấn đề này luôn thu hút được sự quan tâm
của những chuyên gia nghiên cứu về phát triển lý luận của tiền tệ. Hiểu biết
về tiền tệ và quá trình phát triển sẽ giúp định hướng theo chiều tích cực. Ở
Việt Nam hiện nay, chính sách tiền tệ với những đồi mới, hồn thiện các cơng
cụ của nó đã tác động tích cực tới q trình phát triển nền kinh tế thị trường ở
trong những năm qua. Chính sách tiền tệ đã duy trì sự ổn định và tăng trưởng
nhanh của nền kinh tế, vượt qua sự ảnh hưởng tiêu cực của những tác động
của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực, tạo cơ sở vững chắc cho
Việt Nam mở cửa và hội nhập vào cộng đồng kinh tế khu vực và thế giới an
toàn và hiệu quả.


22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
GS.TS. Chu Văn cấp, GS.TS. Phạm Quang Phan, PGS.TS. Tràn Bình
Trọng, 2006, Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin, Nhà xuất bản Chính Trị
Quốc Gia
PGS.TS. Nguyễn Văn Hảo, PGS.TS Nguyễn Đình Kháng, 2003, Giáo
trình kinh tế chính trị Mác - Lênin, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia
TS. Nguyễn Hữu Tài, 2002, Giáo trình Lý thuyết tài chính - tiền tệ, Nhà
xuất bản thống kê
[2] Bộ mơn Kinh tế học (2013), Giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh
tế, Khoa Kinh tế trường ĐH Kinh tế & QTKD - Lưu hành nội bộ.
[3] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Giáo trình Những nguyên lý cơ bản
của Chủ nghĩa Mác – Lênin, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[4] Mai Ngọc Cường (1999), Lịch sử các học thuyết kinh tế, NXB
Thống kê, Hà Nội.
[5] Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia (2000),
Giáo trình Kinh tế chính trị học Mác – Lênin, NXB Chính trị - Hành chính,
Hà Nội.
[6] Tơ Văn Lương – Vũ Xuân Lai (2004), Lịch sử các học thuyết kinh
tế, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[7] Nguyễn Văn Trình, Nguyễn Văn Luân, Vũ Văn Nghinh (2000),
Lịch sử các học thuyết kinh tế, NXB Thống kê.

23


MỤC LỤC


24



×