Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

môn Lịch sử Việt Nam: Những đóng góp của vương triều Lý trong lịch sử của dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.5 KB, 31 trang )

Những đóng góp của vương triều Lý
trong lịch sử dân tộc
Nhà Lý hoặc Lý triều còn được gọi là nhà Hậu Lý (để phân biệt
với nhà Tiền Lý của Lý Nam Đế), là một triều đại phong kiến trong lịch sử Việt
Nam. Triều đại này bắt đầu khi Thái Tổ Thần Vũ hoàng đế Lý Công Uẩn lên
ngôi vào tháng 10 âm lịch năm 1009, sau khi giành được quyền lực từ tay nhà
Tiền Lê. Triều đại này trải qua 9 vị hoàng đế và chấm dứt khi Nữ hoàng đế Lý
Chiêu Hoàng, lúc đó mới có 7 tuổi, bị ép thoái vị để nhường ngôi cho chồng
là Trần Cảnh vào năm 1225 – tổng cộng là 216 năm.
Trong thời đại này, lần đầu tiên nhà Lý đã giữ vững được chính quyền một
cách lâu dài đến hơn 200 năm, khác với các vương triều cũ trước đó chỉ tồn tại
hơn vài chục năm. Vào năm 1054, hoàng đế Lý Thánh Tông đã đổi quốc hiệu
từ Đại Cồ Việt thành Đại Việt ,để lại nhiều đóng góp và mở ra kỷ nguyên Đại
Việt rực rỡ trong lịch sử Việt Nam.


Dời đô về Thăng Long

Hơn 1 năm sau khi lên ngôi vua, tháng 7 âm lịch năm 1010,Lý Thái Tổ tiến
hành dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Đại La (Hà Nội). Ông đã ban hành Chiếu
dời đô vào mùa xuân năm 1010.
Quyết định dời đô ra Thăng Long của Lý Thái Tổ được xem là sự kiện
trọng đại, đánh dấu bước phát triển vượt bậc của vương triều Lý. Trong vòng 8
thế kỷ tiếp theo, hầu hết các triều đại phong kiến kế tục nhà Lý như nhà
Trần, nhà Mạc, nhà Hậu Lê. đều tiếp tục dùng Thăng Long làm kinh đô và có
thời gian tồn tại tương đối lâu dài.
2.1 Về tư tưởng: Đưa Phật giáo phát triển trở thành quốc giáo trong
thiên hạ
Phật giáo thời kỳ này giữ vị trí quan trọng trong đời sống xã hội, nó được
giai cấp phong kiến Việt Nam sử dụng vào việc ổn định trật tự xã hội, phát triển
chế độ phong kiến, dựng nước và giữ nước.


1




Các vua Lý đều tôn sùng Phật giáo. Do nhận thấy được những giá trị mà

Phật giáo đã và sẽ đem lại cho đất nước nên ngay từ khi lên ngôi, vua Lý Công
Uẩn đã cho xây dựng một chính quyền sùng Phật và thân dân, đề cao tư tưởng từ
bi, bác ái.


Ông cho xây dựng chùa trong cả nước, độ dân làm sư, cử sứ thần sang

nước Tống xin kinh Tam tạng… Từ đó các tín đồ Phật giáo phát triển cả về số
lượng và chất lượng, hình thành nhiều trung tâm Phật giáo lớn như Đại La, Hoa
Lư.


Nhận thức được vai trò to lớn của những nhân sỹ Phật giáo như vậy nên

các vị vua nhà Lý luôn tìm cách để trọng dụng, tranh thủ đức tài của họ vào
công cuộc trị nước. Những vị như thiền sư Vạn Hạnh, Đa Bảo, Giác Hải, Mãn
Giác, Viên Chiếu, Quốc sư Minh Không, Viên Thông, Thông Biện… không chỉ
làm rạng danh Phật giáo đồ mà còn là những bậc quân sự lỗi lạc, phò trợ các bậc
quân vương gìn giữ vương quyền chính thể, để lại tiếng thơm lưu danh muôn
đời. Chính vì vậy mà chùa chiền còn là nơi đào tạo trí thức của đất nước.
⇨ Có thể nói đây là đóng góp quan trọng nhất của vương triều Lý bởi
đóng góp này đã có nhiều tác động tích cực đến tất cả mọi lĩnh vực của đất
nước ta từ chính trị - xã hội đến kinh tế, văn hóa, và quân sự.

2.2 Về chính trị - xã hội
2.2.1 Đổi mới triều đại


Cuối thời tiền Lê ( tức thời Lê Ngọa Triều), đất nước rơi vào tình thế

khủng hoảng, vua và quan ăn chơi sa đọa, nhân dân sống trong cảnh lầm than,
cực khổ. Điều này báo hiệu cho sự sụp đổ của triều đại Tiền Lê và thay thế là
một vương triều mới.


Sau khi vua Lê Long Đĩnh mất (Lê Ngọa Triều mất), không có con trai

nối ngôi, Lý Công Uẩn lên ngôi và lập ra nhà Lý (1010). Việc nhà Lý thành lập
không những không gây ra sự bất đồng trong triều đình, sự phản đối trong nhân
dân mà ngược lại nhân dân hết lòng ủng hộ, quan lại trong triều đều quy phục,

2


như đánh giá của của những người xưa “Giành ngôi một cách hòa bình ngay
trong khủng hoảng, tránh được can qua”.


Sự thành lập của vương triều Lý đã chấm dứt thời kì khủng hoảng vào

cuối thời Tiền Lê, đưa đất nước bước sang một thời kì mới – thời kì phát triển
thịnh vượng.
2.2.2 Đổi mới đế đô
Mùa thu năm 1010, Lý Thái Tổ có một quyết định lịch sử, chọn thành Đại

La kinh đô cũ do Cao Biền xây dựng nằm ven sông Tô Lịch, làm kinh đô mới
cho vương triều Lý. Bởi Kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) nằm trong miền núi non
hiểm trở, mang tính phòng thủ cao đã hoàn thành vai trò lịch sử của mình trong
buổi đầu dựng nước. Còn "…thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vươngở vào nơi
trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, đúng vị trí các hướng nam bắc
đông tây, rất tiện cho sự nhìn sông dựa núi; địa thế vừa rộng vừa bằng phẳng,
đất đai lại cao và thoáng; dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt, muôn vật
cũng rất mực phong phú, tốt tươi. Ngắm khắp nước Việt ta, chỉ có nơi đây là
"thắng địa". Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước, xứng đáng
là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời" (Trích "Chiếu dời đô" của vua
Lý Công Uẩn. Đó là một sự kiện quan trọng, đánh dấu bước chuyển mình của
vận mệnh dân tộc). Sự phát triển không ngừng của Đại La - Thăng Long - Hà
Nội hơn 1000 năm lịch sử đã minh chứng sự đúng đắn và sáng suốt cho quyết
định dời đô của vua Lý Công Uẩn.
2.2.3 Chính sách đối nội:


Đối với dân: vì dân, thương dân, gần dân

Khi đang tại vị, Lý Thái Tổ - vị vua đầu triều nhà Lý đã cho xây cung Long
Đức ở phía đông thành Thăng Long, giữa khu vực dân cư sinh sống và buôn bán
để Thái tử Lý Phật Mã ở, tạo cho Thái tử có điều kiện tìm hiểu đời sống dân
sinh, với mong muốn người kế nghiệp tương lai sẽ gần dân, hiểu dân và sau này
có những chính sách thân dân, vì dân.

3


Năm 1029, vua Lý Thái Tông (Lý Phật Mã) cho sửa sang điện Càn
Nguyên và đổi tên là điện Thiên An. Hai bên tả hữu đặt hai lầu chuông đối xứng

nhau, tạo điều kiện cho dân ai có việc kiện tụng, oan uổng thì đến đánh chuông,
nhà vua sẽ đích thân xem xét xử lý. Năm 1033, nhà vua lại cho đúc quả chuông
nặng một vạn cân (khoảng 6 tấn), treo ở lầu chuông, để tiếng chuông vang thấu
tai vua. Ngoài ra vào lễ cày Tịch Điền, vua còn trực tiếp xuống cày ruộng để hòa
mình vào dân, làm gương cho dân chúng. Việc làm đó là một minh chứng cho
chính sách thân dân của vị vua thứ hai của Nhà Lý.
Lý Thánh Tông nổi tiếng là một minh quân. Ngài có lòng thương dân như
con. Sử gia còn chép: "Nhân một năm trời rét đậm, Thánh Tông bảo các quan
hầu cận rằng: Trẫm ở trong cung ngự sưởi than thú, mặc áo hồ cừu mà còn rét
thế này. Huống chi những tù phạm giam trong ngục, phải trói buộc, cơm không
có mà ăn, áo không có mà mặc; vả lại có người xét hỏi chưa xong, gian ngay
chưa rõ, nhỡ rét quá mà chết thì thật thương tâm lắm. Nói rồi vua truyền cho
lấy chăn chiếu cho tù nằm, và mỗi ngày cho hai bữa ăn".


Đối với tù trưởng dân tộc thiểu số miền núi:

Chính sách rằng ràng buộc tầng lớp thống trị miền núi là quan hệ hôn nhân (gả
con gái cho các châu mục, tù trưởng có thế lực để lôi kéo họ).
2.2.4 Chính sách đối ngoại:


Đối với quân Tống ở phía Bắc:

Ngay sau khi mới lên ngôi, Lý Thái Tổ đã có chủ trương giao hảo với nhà
Tống. Năm 1010, viên ngoại lang Lương Nhậm Văn và Lê Tài Nguyên được cử
đi sứ Tống, do đó quan hệ giữa hai nước tương đối hòa hảo.
Từ năm 1075 - 1077, nước ta tiến hành cuộc kháng chiến chống Tống xâm
lược nên quan hệ hai bên trở nên căng thẳng. Sau khi cuộc kháng chiến kết thúc
thắng lợi, nhà Lý vẫn giữ tư thế một nước độc lập, tiếp tục giao hảo với nhà

Tống.


Đối với nước Chiêm Thành ở phía Nam:

4


Ở phía nam, nước Đại Việt giáp với Chiêm Thành, một tiểu vương quốc
vốn có tiếng hung bạo, thường hay xua quân sang đánh phá miền duyên hải
nước ta. Buổi đầu thời nhà Lý, khi Lý Thái Tổ lên ngôi, Chiêm Thành vẫn cho
sứ thần sang cống. Kể từ năm 1028, thái tử Phật Mã, tức lý Thái Tông lên làm
vua, đã mười lăm năm Chiêm Thành không chịu thông sứ. Do đó năm 1044, vua
Thái Tông đích thân ngự giá đi đánh Chiêm Thành. Quân ta kéo vào kinh đô
Vijaya, bắt sống vua nước ấy là Rudravarman III. Từ đấy phía nam được tạm
yên. Vua nước Chiêm Thành hằng năm lại vẫn phải triều cống như cũ.


Đối với nhà Kim ở miền Bắc Trung Quốc:

Có điều rất thú vị là nước Kim (nhà Kim) khi đó đang rất hùng mạnh ở
miền bắc Trung Hoa, uy hiếp nước Nam Tống thường xuyên cũng rất tôn trọng
Đại Việt. Sau khi đã có hòa bình với Nam Tống, năm 1168, vua Kim Thế
Tông sai sứ giả vượt qua lãnh thổ Nam Tống đến nước Đại Việt và đó cũng là
lần duy nhất nhà Kim có quan hệ ngoại giao với Đại Việt.
=> Trong hơn hai thế kỷ, nhà Lý vẫn theo đuổi một chính sách ngoại giao
lúc cương nghị, lúc uyển chuyển, thật linh động: nhằm mở rộng quan hệ ngành
thương nghiệp với các nước láng giềng, đồng thời bảo toàn được lãnh thổ và nền
tự chủ của dân tộc.
.2.2.5 Về xã hội:



Ngay từ khi Phật giáo du nhập vào nước ta khoảng đầu công nguyên đã

đem theo tư tưởng bình đẳng và từ bi rất thích hợp với khối đại đoàn kết toàn
dân và mở rộng tình thương yêu đùm bọc lẫn nhau của dân Việt.
Nhờ tư tưởng coi trọng đạo Phật cùng những chính sách khích lệ sự
phát triển của Phật giáo mà tinh thần vô ngã, vị tha, bình đẳng ấy càng
thấm sâu vào tiềm thức của cư dân Đại Việt và tạo nên mối đoàn kết dân
tộc sâu sắc giữa vua quan với người dân bình thường, giữa tướng lĩnh với
binh lính.


Biểu hiện:

5


Năm 1038 vua Lý Thái Tông tổ chức lễ cày tịch điền. Vua sai hữu ti quét
đất lập đàn, thân tế thần nông, sau đó cầm cày toan làm lễ cày ruộng thì tả hữu
can rằng, đó là việc của bọn nông phu, bệ hạ làm việc ấy làm gì?. Vua nói: trẫm
không tự cày thì lấy xôi đâu mà tế, lại lấy gì nêu gương cho thiên hạ. Vua đẩy
cày ba lần rồi ngừng. Nhà vua tự thân cày tịch điền đầu năm, là để làm kiểu mẫu
cho dân của nhà Lý. Đấy chính là một minh chứng biểu hiện tinh thần dân chủ
và đoàn kết giữa vua tôi Đại Việt.
2.2.6 Về cơ cấu tổ chức hành chính
Năm 1098, nhà Lý định ra quan chế gồm quan văn, quan võ và mỗi ban
chia thành 9 bậc (cửu phẩm) với nhiệm kì 9 năm.
Hệ thống quan đại thần:



Tam thái: Thái sư, Thái phó, Thái bảo



Tam thiếu: Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo



Các chức quan khác: Thái úy, Thiếu úy và Bình chương sự



Hệ thống quan nhỏ hơn:



Hệ thống quan văn



Hệ thống quan võ



Hệ thống sư tăng



Cơ quan hành chính




Cơ quan giúp việc cho hoàng đế:



Các sảnh Thượng thư và Trung thư



Hàn Lâm Viện



Cơ quan đầu não triều đình: Khu mật sứ



Các cơ quan giúp việc triều đình: viện, ty, cục, tiêu biểu là Quốc Tử giám.

2.2.7 Về pháp luật: Ban bố Hình thư - Bộ luật đầu tiên trong lịch sử.
Sự kiện này được ghi lại trong Đại Việt sử ký toàn thư: "ngày 1 tháng10
năm 1042, ban Hình thư. Trước kia việc kiện tụng trong nước phiền nhiễu, quan
lại giữ pháp luật câu nệ luật văn, cốt làm cho khắc nghiệt, thậm chí có người bị
oan uổng quá đáng. Vua lấy làm thương xót, sai Trung thư san định luật lệnh,
6


châm chước cho thích dụng với thời thế, chia ra môn loại, biên thành điều

khoản, làm thành sách Hình thư của một triều đại, để cho người xem dễ hiểu.
Sách làm xong, xuống chiếu ban hành, dân lấy làm tiện. Đến đây phép xử án
được bằng thẳng rõ ràng, cho nên mới đổi niên hiệu là Minh Đạo (làm sáng tỏ
đạo)". Theo Lịch triều hiến chương loại chí thì, Hình thư gồm có ba quyển, đã bị
thất truyền. Tuy nhiên qua sử sách để lại cho ta thấy đây là bộ luật thành văn
đầu tiên trong lịch sử dân tộc, là mốc quan trọng trong lịch sử pháp quyền Việt
Nam từ . Hình thư cho thấy bộ máy chính quyền trung ương tập quyền nhà Lý
đã có đủ các thiết chế để quản lý, điều hành đất nước.
2.3 Về kinh tế
2.3.1 Nông nghiệp
Một số vị vua nhà Lý thường vi hành tìm hiểu đời sống của nhân dân, có
nhiều chính sách phát triển tăng sản xuất và dùng hàng trong nước.


Nhà Lý khuyến khích nhân dân khai khẩn đất hoang, tăng gia sản xuất; tổ

chức lễ “cày tịch điền”; đại xá cho thiên hạ: "đốt giềng lưới, bãi ngục tụng”,
“đốt hết hình cụ”, xuống chiếu cho những kẻ trốn tránh phải về quê cũ làm ăn,
những người mồ côi, góa chồng, thiếu thuế lâu năm đều tha cho cả để họ tập
trung sản xuất; xóa thuế và tô hai đợt, mỗi đợt 3 năm. Xóa cả thuế và tô là việc
làm biểu hiện của một xã hội cực thịnh, một nền tài chính vững vàng.


Đặc biệt, nhà Lý còn thi hành chính sách “Ngụ binh ư nông” vừa tăng

sản xuất và vừa tập dượt binh lính => kết hợp xây dựng đất nước đi đôi với giữ
nước ( đến nay nước ta vẫn áp dụng chính sách này).


“Tháng 2/1040, Lý Thái Tông đã xuống chiếu nói rõ ý định dùng hàng dệt


trong nước để may lễ phục cho chính mình và cho bá quan văn võ”.
2.3.2 Thủ công nghiệp:
Do những chính sách khuyến khích tăng cường sản xuất của các vua nhà
Lý đã tạo thêm điều kiện cho thủ công nghiệp phát triển.
Nhà nước có công xưởng gọi là "Cục bách tác", chuyên chế tạo binh khí,
đồ trang sức, đóng thuyền, đúc tiền, đúc chuông, xây dựng cầu cống, cung điện
7


chùa đền v.v... Thợ làm trong các xưởng này đều tuyển lựa những tay thợ giỏi
trong dân gian. Các thợ chế tạo vũ khí cũng rất tài năng, đã chế tạo nhiều loại
súng lớn nhỏ.
Nghề dệt lụa, nuôi tằm, ươm tơ vốn là nghề cổ truyền của dân tộc ta.
Những thợ dệt giỏi, ngoài việc dệt lụa thường để cung cấp cho người dân
dùng, đã dệt gấm vóc, thảm gấm.
Nghề làm đồ gốm cũng rất tinh xảo.
Nghề làm đồ trang sức bằng vàng, bạc, thêu đan, đúc đồng, rèn sắt,
nhuộm vải, làm giấy, khắc bản in gỗ v.v.
Nghề khai mỏ cũng được phát triển.
Riêng nghề in sách ở nước ta phải chờ đến cuối thế kỷ XI do thiền sư Tín
Học sáng thiết và thực thiện
2.3.3 Thương nghiệp:
Thương nghiệp nước ta buổi ấy cũng rất phát đạt nhờ chính sách mở
mang giao thông vận tải thủy bộ của nhà Lý như đào vét sông ngòi, đắp
đường, làm cầu.
Năm 1051, đào kênh Lãm (thuộc Bắc Thái).
Năm 1192, khơi sâu sông Tô Lịch.
Các đường giao thông vận tải thủy bộ và hệ thống trạm dịch được mở
mang, phía bắc lên đến biên giới Trung Hoa, phía nam vào tận Chiêm Thành.

⇨ "Việc lưu thông hàng hóa và trao đổi sản phẩm nhờ đó được mở
rộng". Thăng Long, ngay từ khi Lý Thái Tổ mới dời đô về đây, nó không những
chỉ là trung tâm của chính trị và văn hóa của cả nước, đồng thời cũng là trung
tâm kinh tế quan trọng, nơi cửa ngõ thu hút người ở khắp bốn phương lũ lượt
kéo về tụ họp buôn bán tấp nập ở chợ cửa Đông.
2.3.4 Tiền tệ
Các vua nhà Lý cho đúc tiền để tiện việc trao đổi. Hiện nay khảo cổ học
tìm thấy đủ các loại tiền từ Thuận Thiên Thông Bảo của Lý Thái Tổ. Tiền tệ đã
thay dần vật đổi lấy vật: “Năm 1016 được mùa to, 30 bó lúa giá 70 tiền”.
8


2.4 Về Văn hóa
2.4.1 Giáo dục: Triều Lý là triều đại đầu tiên xây dựng trường học ở
nước ta


Trước khi xây dựng trường học:

Một đặc điểm phổ biến của hệ thống giáo dục Việt Nam, đặc biệt là thời Lý
chùa chiền giống như một trường học. Mỗi ngôi chùa thời ấy là một diễn đàn,
một chốn học đường với số người theo học không chỉ có thường dân mà cả bộ
phận quý tộc. Sự học hỏi giữa mọi người diễn ra bình đẳng không phân biệt
sang hèn. Ở thời Lý, các bâch danh thần như Thái úy Tô Hiến Thành và Thái
bảo Ngô Hòa Nghĩa từng thụ giáo học với Thiền sư núi Cao Dã.
Nhiều ngôi chùa trở thành các thiền viện nổi tiếng không chỉ phổ biến kinh
sách đạo Phật mà còn là diễn đàn của các nhà thơ và tầng lớp trí thức Nho giáo
bấy giờ. Tiêu biểu nhất có lẽ là ngôi chùa Quỳnh Lâm.



Triều Lý xây dựng trường học đầu tiên "Văn Miếu - Quốc tử giám"

Năm 1070, vua Lý Thánh Tông chọn khu đất ở phía Nam hoàng thành
Thăng Long để xây Văn Miếu. Ngoài chức năng thờ các bậc Tiên thánh, Tiên
nho, Văn Miếu còn mang chức năng của một trường học Hoàng gia.
Năm 1075, Nhà Lý mở khoa thi đầu tiên trong lịch sử khoa cử Việt Nam để
chọn người tài.
Tới năm 1076, Người đứng đầu nhà Lý đã quyết định xây nhà Quốc Tử
giám kề sau Văn Miếu, để làm nơi cho các hoàng tử và con các vị đại thần đến
học. Việc mở trường dạy học, cho dù ý tưởng ban đầu chỉ là để con cái hoàng
gia có nơi "nấu sử sôi kinh" cũng đã đánh dấu một cột mốc quan trọng trong sự
nghiệp giáo dục của Nhà Lý, của đất nước.
Sau này các triều vua Trần, Lê...đã tiếp tục phát triển Văn Miếu - Quốc Tử
Giám thành trường Đại học đầu tiên, là trung tâm giáo dục của cả nước.
2.4.2 Văn học


Các tác phẩm văn học:

9


Nhờ những chính sách phát triển Phật giáo của những vị vua nhà Lý giúp
đất nước thái bình đã tạo điều kiện cho nhân dân sáng tác ra các tác phẩm văn
học. Đặc biệt trong thời kì này đội ngũ sang tác chủ yếu là những nhà sư và các
tác phẩm chủ yếu là các bài kinh kệ, thơ nổi tiếng mà ta không thể không nhắc
đến như:


Sư Vạn Hạnh với các tác phẩm để lại có "Thị đệ tử" và một số bài kệ in


đậm màu sắc của sấm ngôn


Lý Thái Tổ với "Thiên đô chiếu" và 1 số bài thơ được chép lại trong Công

dư tiệp kí.


Thiền Sư Mãn Giác với tác phẩm Cáo tất thị chúng (có bệnh, báo cho mọi

người)


Lý Thường Kiệt với bài thờ thần “Nam Quốc Sơn Hà” và "Phạt Tống lộ

bố văn" (Bài văn nói rõ lý do đánh Tống).
Đáng chú ý nhất là 2 tác phẩm:


"Thiên đô chiếu" (Vua Lý Thái Tổ)

"Chiếu dời đô" của vua Lý Thái Tổ, là chiếu lệnh, một lời hịch, tự tay vua
viết, ban ra để nói rõ cho quần thần, trăm họ biết về một về một quyết sách lớn
của triều đình là dời đô, và kêu gọi sự đồng lòng. Đây là một văn kiện mang ý
nghĩa vô cùng to lớn, là tác phẩm bất hủ về nhiều mặt: văn chương, lịch sử,
chính trị, địa lý, triết học…"


Về văn chương: Chiếu dời đô là áng văn lớn, giàu hình tượng, có trí tưởng


tượng phong phú và có tính dự báo rất xa.


Về mặt địa lý: Chiếu dời đô đã thể hiện được cái lợi về mặt địa thế của

thành Đại La - Thăng Long - Hà Nội qua những kiến thức về long mạch đất.


Về mặt chính trị, lịch sử: Chiếu dời đô gắn liền với một quyết định vô

cùng sáng suốt của vua Lý Công Uẩn, đó là dời đo từ Hoa Lư về thành Đại La
để có thể dễ dàng phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa.


Về mặt triết lý, Lý Công Uẩn dựa vào để lý giải việc đời đô là “Chỉ vì

muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con
10


cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi".
Mệnh trời là cái tất yếu, không thể cưỡng lại. Còn ý của dân - đó là chỗ dựa bền
vững nhất của mọi triều đại. (Tư tưởng "thiên thời - địa lợi - nhân hòa")


"Nam quốc sơn hà" (khuyết danh).

Bài thơ thần “Nam Quốc Sơn Hà” không chỉ là một bài thơ cổ vũ tinh thần
chiến đấu của quân lính nhà Lý trong cuộc kháng chống quân Tống xâm lược

mà đây còn được coi là một bản “Tuyên ngôn lần thứ nhất” khẳng định về chủ
quyễn lãnh thổ nước ta, vì vậy nó mang ý nghĩa cả về văn học và chính trị sâu
sắc.
2.4.3 Địa lý: Lần đầu tiên Vẽ bản đồ đất nước
Lý Anh Tông là vị vua thứ sáu của Nhà Lý, trị vì Đại Việt từ năm 1138 1175. Trong hai năm:1171 -1172, nhà vua xa giá đi tới nhiều vùng núi non hiểm
trở của đất nước, tìm hiểu đời sống sinh hoạt của người dân. Sai người làm tập
bản đồ nước Đại Việt, và soạn sách "Nam Bắc Phiên giới đồ". Đây là lần đầu
tiên trong lịch sử Việt Nam, một vị vua nhà Lý đã quan tâm đến việc vẽ bản đồ
đất nước, vẽ lại hình thế núi sông, phân định rạch ròi biên giới Đại Việt với các
nước lân bang. Việc làm có ý nghĩa to lớn ấy của vua Lý Anh Tông đã đặt nền
móng cho ý thức giáo dục, xây dựng, và bảo vệ biên cương tổ quốc cho các thế
hệ sau. Tiếc rằng tập bản đồ đó đã thất lạc trong dân gian.
2.4.4 Nghệ thuật:


Về nghệ thuật kiến trúc



Xây dựng kinh thành Thăng Long (thành Đại La cũ): các nhà khảo cổ

nhận diện mặt bằng kiến trúc tại đây: Chân cột bằng đá, móng trụ sỏi, nền nhà
lát gạch vuông, có cống thoát nước. Mặt bằng kiến trúc kiểu chữ nhật nhiều
gian, có từ 3 cột đến 6 cột, bên cạnh các mặt bằng kiểu lục giác, bát giác.
⇨ Các sử gia đánh giá kiến trúc hoàng thành Thăng Long đánh dấu
bước chuyển biến vượt bậc của nghệ thuật kiến trúc và quy hoạch kinh thành
Thăng Long.

11





Do sùng bái đạo Phật và trọng dụng đức tài của các vị thiền sư nên các

vua thời Lý đã cho xây dựng rất nhiều chùa: 8 ngôi chùa ở Bắc Ninh, chùa
Thiên Quang, Thiên Đức, Thiên Vương, chùa Một Cột, chùa Báo Thiên… tạo
điều kiện cho nền kiến trúc Phật giáo phát triển trong đó chùa Một Cột được xếp
vào di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia với nghệ thuật kiến trúc vô cùng độc
đáo.
⇨ Những công trình nghệ thuật kiến trúc thời Lý mang những đặc
trưng sau:


Đẹp và công phu



Phong phú về loại hình (từ 3 hàng chân cột tới 6 hàng chân cột một vì)



Quy mô rộng lớn (có kiến trúc dài 13 gian vẫn chưa kết thúc trong hố khai

quật)


Trang

trí


rất

tinh

xảo,

kết

hợp

hài

hòa

giữa

các

chất

liệu gỗ - đá - gạch - đất nung


Quy hoạch thống nhất và cân xứng



Bên cạnh đó nhiều tác phẩm nghệ thuật tạo hình đặc biệt là điêu khắc,


tạc đúc thời Lý mang đậm yếu tố Phật giáo:
Hình tượng con rồng thời Lý hiền hòa, mềm mại trên đồ gốm, đồ trang sức,
trong các đền, chùa…Các tác phẩm chạm khắc, tạc tượng Phật…hay đúc chuông
bằng đồng…. Cho đến ngày nay các tác phẩm này có vị trí đặc biệt quan trọng,
mang giá trị lịch sử và văn hóa của một thời đại.
Nước Đại Việt có 4 công trình nghệ thuật bằng đồng nổi tiếng được gọi là
"An Nam tứ đại khí" thì 3 trong số đó được tạo ra thời Lý:


Tháp Báo Thiên



Chuông Quy Điền ở chùa Một Cột



Tượng Phật Di lặc ở chùa Quỳnh Lâm



Có thể thấy rằng một lần nữa, những chính sách khuyến khích Phật

giáo phát triển của vương triều Lý lại giúp cho việc làm phong phú thêm nền
nghệ thuật nước nhà.
12


2.5. Về Quân sự - Quốc phòng



Tổ chức quân đội:

Nhà Lý thi hành chính sách "ngụ binh ư nông" (gửi binh ở nhà nông), cho
quân sĩ luân phiên về cày ruộng và thanh niên đăng kí tên vào sổ nhưng vẫn ở
nhà sản xuất, khi cần triều đình sẽ điều động. Quân đội nhà Lý có quân bộ và
quân thuỷ, kỉ luật nghiêm minh, được huyấn luyện chu đáo; vũ khí trang bị cho
quan đội gồm giáo mác, đao kiếm, cung nỏ, mắy bắn đá…


Các vị vua thời Lý đã trực tiếp lãnh đạo những trận chiến đấu với quân

giặc giành nhiều thắng lợi không chỉ về mặt quân sự mà còn về chính trị.


Kháng chiến chống Tống (1075 - 1077) có ý nghĩa hết sức to lớn. Nó đập

tan âm mưu xâm lược của nhà Tống, bảo vệ nền độc lập chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của đất nước, củng cố niềm tin vào chính quyền và xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân đánh giặc mà trong đó không thể không kể đến vai trò của
Phật giáo và lực lượng sư tăng, Phật tử.


Thắng lợi đối với Chiêm Thành: Trong triều đại nhà Lý, tổng cộng có

khoảng 10 lần các vua hay các quan lại cao cấp như Lý Thường Kiệt, Tô Hiến
Thành, Lý Thánh Tông đã đem quân đi đánh Chiêm Thành. Sau mỗi lần
đánh,vua Chiêm Thành lại cầu hòa, cử người sang cống nhưng sau đó lại chống
đối.
Sự kiện lớn nhất là vào năm 1069, Chiêm Thành đem quân ra cướp phá

vùng Nghệ An - Hà Tĩnh. Vua Lý Thánh Tông thân chinh dẫn 10 vạn quân nam
chinh vào tận kinh đô Chiêm Thành đánh bại và bắt được vua Chiêm đưa về
Thăng Long, để được tha vua Chiêm và triều đình Chiêm Thành đã cắt phần đất
phía Bắc dâng cho Đại Việt là vùng đất Quảng Bình và bắc Quảng Trị ngày nay,
sau sự kiện này biên giới phía nam của Đại Việt lần đầu tiên tiến đến sông
Thạch Hãn (Quảng Trị).


Thắng lợi với Chân Lạp: Trong lịch sử có 4 lần tướng nước Chân Lạp

sang định cướp châu Nghệ An nhưng đều thất bại, trong đó có 3 lần bị các tướng

13


nhà Lý đánh bại năm 1128, 1132,1136. Lần thứ tư do thời tiết khắc nghiệt nên
tướng nước Chân Lạp vừa sang đã thất vọng quay về.
Kết luận: Nhờ những đóng góp trên, Đời sau xem sử ba đời vua Lý Thái
Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông kế tục nhau trong việc dựng nước và giữ
nước, những việc làm đó đều đặn thu được thành tựu, không hề thất bát, suy bại;
vua sau đã thay nhưng vua trước như thể vẫn còn; nước Đại Cồ Việt trở thành
Đại Việt tuần tự đi lên không bị suy sút, thua thiệt. Điều đó cho thấy một chính
sách, tư tưởng nhất quán của các vua Lý. Cả ba vua đầu tiên của nhà Lý đều có
tài văn võ kiêm toàn, kính Phật yêu dân. Ba vị vua Lý này là những người đặt
nền tảng cho một nhà Lý tồn tại bền vững hơn 200 năm, là triều đại đầu tiên
truyền nối được lâu dài trong lịch sử Việt Nam, đưa nhân dân vào cuộc sống quy
củ, nề nếp, đưa đất nước vào thời kỳ phát triển ổn định.
TƯ TƯỞNG PHAN BỘI CHÂU, PHAN CHÂU TRINH VÀ CUỘC
VẬN ĐỘNG VĂN HÓA ĐẦU THẾ KỶ XX
Cuối thế kỷ XIX, phong trào Cần Vương chống Pháp thất bại. Toàn bộ

đất nước ta bị đặt dưới sự thống trị của thực dân Pháp. Chúng bắt đầu thực hiện
kế hoạch “khai thác thuộc địa”. Xã hội phong kiến Việt Nam đình trệ từ lâu, nay
đã bị phá vỡ, chuyển thành một xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Quá trình
chuyển biến này đã tạo ra một giai đoạn giao thời kéo dài trong khoảng vài chục
năm đầu thế kỷ XX.
Nhà nước “bảo hộ” thi hành nhiều chính sách thực dân nhằm biến nước ta
thành một thị trường tiêu thụ hàng hoá và bóc lột nhân công để thu về lợi nhuận
cao nhất tư bản Pháp, đồng thời vẫn kìm hãm xã hội Việt Nam trong tình trạng
tối tăm của một nước nông nghiệp lạc hậu để dễ bề thống trị.
Trên lĩnh vực văn hoá, thực dân Pháp đã thực hiện một chính sách văn hoá
nô dịch, nhằm làm cho nhân dân Việt Nam đoạn tuyệt với những giá trị truyền
thống tốt đẹp, đồng thời phục hồi những mặt lạc hậu, phản động trong văn hoá
14


phong kiến. Chúng khuyến khích việc truyền bá văn chương yêu đương uỷ mị,
đưa văn hoá phương Tây, trước hết là văn hoá Pháp vào nước ta để chống lại
văn hoá truyền thống dân tộc. Cùng với việc hạn chế đi tới sự thủ tiêu Nho học,
thực dân Pháp đào tạo những người Tây học để phục vụ bộ máy thống trị của
thực dân Pháp, đúng như nhận xét của một nhà chí sĩ yêu nước:
“Nó mở trường học Pháp Việt … chỉ dạy cho biết sơ sơ chữ Pháp, dịch
được qua loa tiếng Pháp, đã coi là đủ rồi. Còn như điện học, hoá học, hình học,
thương học người Pháp có đặt ra một khoa nào đâu … người Pháp chỉ khoái trá
về chỗ nó làm mất chí khí của người nước ta thôi … Cách làm cho ta ngu, ta yếu
nó chỉ sợ ta không càng ngày càng ngu hơn, càng ngày càng yếu hơn mà thôi” .
Tuy vậy, cùng với chế độ thuộc địa nửa phong kiến ra đời và thay thế chế
độ phong kiến vốn đã tàn lụi, xã hội Việt Nam cũng có những chuyển biến nhất
định. Sự thay đổi này không chỉ do hoàn cảnh lịch sử trong nước mà còn do ảnh
hưởng tác động của trào lưu cách mạng trên thế giới.
Ở châu Á vào đầu thế kỷ XX, sau khi Minh Trị Thiên Hoàng cải cách duy

tân, Nhật Bản trở thành một nước tư bản chủ nghĩa tương đối phát triển về mọi
mặt. Đặc biệt, thắng lợi của Nhật trong cuộc chiến tranh với Nga năm 19041905 càng làm cho thanh thế Nhật càng vang dội, và Nhật Bản được xem như là
một tấm gương đáng học tập.
Còn ở Trung Quốc, cuối thế kỷ XIX, Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu tổ
chức Cường học hội, chủ trương duy tân. Trong quá trình ấy, ở Trung Quốc xuất
hiện nhiều tân thư, trong đó có một số sách dịch các tác phẩm của các nhà tư
tưởng dân chủ tư sản và được đưa vào nước ta làm ảnh hưởng đến tư tưởng các
sĩ phu yêu nước lúc bấy giờ.
Nói về ảnh hưởng của các tác phẩm ấy, báo Thần Chung ở Sài Gòn ra ngày
01-01-1929 viết: “Những “Thanh Nghị báo”, “Tân Dân tùng báo”, “Ẩm băng
thất”, “Tự do thư”, “Trung Quốc hồn” đã đánh thức đám sĩ phu ta gần như trực
tiếp, vì trong đó nói chuyện nước Tàu mà có nhiều chỗ trùng bệnh người mình
lắm”.
15


Khác với tuyệt đại đại bộ phận người của giai cấp phong kiến, hoặc đầu
hàng thực dân, hoặc than thở, bi quan. Những sĩ phu này ý thức được trách
nhiệm trước lịch sử, họ biết dựa vào nhân dân và cố gắng tìm con đường cứu
nước, cứu dân. Vừa lúc đó, họ lại tiếp thu được nguồn tư tưởng mới từ các cuộc
cách mạng dân chủ tư sản phương Tây, công cuộc cải cách thành công ở Nhật
Bản, đã làm cho họ có thêm niềm tin trên con đường giải phóng dân tộc.
Các nhà Nho yêu nước thời kỳ này đã chú trọng đến vai trò của văn hoá tư
tưởng. Họ công khai tuyên chiến với ý thức hệ lạc hậu phong kiến. Tố cáo chính
sách làm ngu dân của bọn thực dân xâm lược. Xưa nay, trong truyền thống văn
hoá Nho gia, chưa hề có chuyện các nhà Nho đả kích kịch liệt tư tưởng Nho giáo
như vậy. Người ta phê phán từ cách học, cách thi cho đến hệ thống những giá trị
luân lý xa rời cuộc sống của xã hội. Người ta đề cao khoa học kỹ thuật và lấy
tính hiện đại của văn minh xã hội làm phương châm cứu nước. Để chống lại tư
tưởng của những kẻ làm tay sai cho giặc, chỉ thừa nhận đạo đức kinh viện của

giai cấp phong kiến, hoặc sùng bái học thuật của bọn thực dân, các nhà Nho yêu
nước đã phác họa hình ảnh con người mới. Đó là mẫu người có tinh thần: yêu
nước quật cường, yêu đồng bào, ghét cường quyền, trọng danh dự, trọng nghĩa
vụ, thông minh, can đảm, lấy quyền lợi chung của tổ quốc, nhân dân đặt trên lợi
ích cá nhân … Cuộc đấu tranh chống thực dân và tay sai phong kiến lồng trong
cuộc đấu tranh xây dựng nền văn hoá mới làm xuất hiện những khuynh hướng
sau: Hoặc lấy cường quốc Nhật làm tấm gương để canh tân đất nước; hoặc dựa
vào văn minh Pháp để xây dựng, phục hưng dân tộc. Những phong trào này gắn
liền với tư tưởng yêu nước của các nhà chí sĩ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh.
Tư tưởng của Phan Bội Châu và phong trào Duy tân
Trước những thành công của Nhật Bản trong cuộc cải cách duy tân, một số
các sĩ phu yêu nước muốn dựa vào sức mạnh quân sự, kinh tế của Nhật để đòi
lại độc lập cho dân tộc Việt Nam. Theo như nhận xét của Nguyễn Hàm: “Trông
vào thế lực liệt cường hiện nay, nếu không phải nước đồng văn, đồng chủng với
mình, tất không nước nào họ viện trợ cho mình. … Chỉ có nước Nhật Bản là
16


giống da vàng lại là nước tân tiến. Từ ngày thắng Nga lại càng sinh dã tâm. Bây
giờ ta sang Nhật, đem lợi hại thuyết phục họ, tất nhiên họ sẽ vui lòng viện trợ
ta”. Tin tưởng vào tính chất “đồng văn”, “đồng chủng”, Phan Bội Châu một mặt
truyền bá tư tưởng duy tân trong nước, một mặt nêu gương của Nhật Bản làm
chỗ dựa cho công cuộc duy tân.
Theo Phan Bội Châu, để thực hiện “Duy tân”, trước hết phải xây dựng con
người. Trong toàn bộ những sáng tác thơ văn của Phan Bội Châu đều là sự phản
ánh nổi đau, nổi nhục mất nước của dân tộc Việt Nam, mà nguyên nhân được
ông chỉ ra là xuất phát từ con người, theo ông: “Biến cố do người gây nên, vận
trời theo liền đó”. Rõ ràng, quan niệm của Phan Bội Châu hoàn toàn khác hẳn
quan niệm “Thiên mệnh” của các nhà nho cũ. Ông khẳng định : “Người trong
một nước đều là chủ tể của một nước để cạnh tranh với nước khác”, vì vậy “...

nhân dân là quan trọng nhất, nhân dân còn thì nước còn, nhân dân mất thì nước
mất”. Theo đó, Phan Bội Châu yêu cầu mỗi con người phải tự thức tỉnh để nhận
thức được thực trạng vong quốc của đất nước. Trong tác phẩm Cao đăng quốc
dân, Phan Bội Châu vạch ra mười điều mà ông gọi là tệ bệnh của quốc dân:
1. Tính ỉ lại
2. Lòng giả dối.
3. Thói nhút nhát.
4. Tham lợi riêng.
5. Đua những việc hư danh.
6. Không thực lòng yêu nước
7. Không biết nghĩa hiệp quần.
10. Không thương nòi giống.
9. Không biết đường kinh tế.
8. Mê tín những tục cổ hủ
Để khắc phục những điều nêu trên, dân tộc phải tự đổi mới (Phan Bội Châu
gọi là “tự tân”). Bởi theo ông, có “Tự tân” thì mới có “Tự cường”, mới có sức

17


mạnh để chiến thắng bản thân và chiến thắng kẻ thù. Tinh thần đổi mới theo
quan niệm của Phan Bội Châu gồm sáu điểm:
1. Đổi mới ý chí thái độ, nâng cao chí tiến thủ.
2. Đổi mới cách sống, đổi mới quan hệ, tăng cường tinh thần thương mến
tin yêu nhau.
3. Đổi mới hành động nghề nghiệp.
4. Đổi mới tinh thần trách nhiệm đối với dân, nước.
5. Đổi mới sự nghiệp công đức.
6. Đổi mới nhận thức và đổi mới thực hành, mối quan hệ giữa lẽ sống và
cái chết; đổi mới quan hệ giữa tri và hành; danh và lợi; hoạ và phúc.

Trong sáu yêu cầu đổi mới, Phan Bội Châu đã nhấn mạnh đến vấn đề “ý
chí” tự rèn luyện bản thân con người.
“Theo Phan Bội Châu, ta phải tự mài “gương tri thức ta”cho trong, ta phải
tự khêu “đèn tri thức ta” cho sáng, ta phải biết tự mình suy, tự mình nghĩ, tự
mình làm, ta phải biết “Tự tân” để “Tự tồn”, ta phải biết tự trọng tự chủ, tự bán
“cái dã man”, tự mua “cái văn minhtrong tủy”” .
Đặc biệt, tư tưởng phải đổi mới của Phan Bội Châu rất chú trọng đến đối
tượng thanh niên và phụ nữ. Trong Bài ca chúc tết thanh niên ông kêu gọi:
“Đừng ham chơi ! Đừng ham mặc ! Ham ăn !
Dựng gan óc để đánh tan sắt lửa
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ !
Mới thế này là mới hỡi chư quân
Chữ rằng: Nhật nhật tân, hựu nhật tân”
Đối với phụ nữ, Phan Bội Châu muốn rằng phụ nữ phải được giáo dục
nghiêm chỉnh và phải trao cho họ những vị trí xứng đáng trong xã hội và họ sẽ
ra tài giúp nước không kém gì nam giới. Để thực hiện điều này, theo Phan Bội
Châu phải vận động giới phụ nữ trên bốn nội dung sau :
1. Mở mang về đường tri thức của phụ nữ.
2. Liên kết đoàn thể của phụ nữ.
18


3. Chấn hưng chức nghiệp của phụ nữ.
4. Nâng cao địa vị của phụ nữ.
Dù Phan Bội Châu không nêu rõ tính bình đẳng về quyền lợi giữa nam và
nữ, nhưng tư tưởng của ông đã có một cách nhìn mới về vai trò của người phụ
nữ trong đời sống xã hội, điều này khác xa với sự qui định của lễ giáo phong
kiến.
Từ yêu cầu tự thức tỉnh, Phan Bội Châu chủ trương giáo dục con người,
nhằm giải phóng con người tiến đến giải phóng dân tộc. Ông giải nghĩa hai chữ

giáo dục :
“Chữ “giáo dục” theo hai nghĩa : Khơi đắc trí khôn, mở rộng tai mắt, gọi
bằng “giáo”, điêu luyện chân tay, nuôi nấng thể lực gọi bằng “dục”. Chữ “Dục”
có nghĩa là nuôi. Gần đây nền học mới có 3 chữ “dục”. Nuôi đức tính gọi là đức
dục, nuôi trí khôn gọi là trí dục, nuôi chất mạnh gọi là thể dục”. Ông chỉ ra mối
liên hệ giữa đức dục, trí dục và thể dục như sau :
“Làm nên người quốc dân tốt, thời trước hết phải bồi dưỡng cái giáo dục
thuần khiết như lòng ái quốc, như lòng hợp quần, như lòng công ích, tất cả cầu
cho thật thà hết sức, không có một chút gì dối trá để cho người ta nghi ngờ, thế
thì cái cội gốc làm quốc dân rất tốt đã kiên cố rồi. Lại thứ nữa phải cầu cho được
tri thức mở mang, như thế nào là lợi dụng được, như thế nào là rộng đường kinh
tế mà lợi ích cho nhân quần, tất phải mỗi việc phải theo trên đường khoa học mà
cầu cho tri thức mỗi ngày mỗi phát đạt để cho vừa với sự yêu cầu trong xã hội;
lại như thế thời cơ sở làm quốc dân tốt đã dầy dặn rồi, mà còn lại một sự rất cần
cấp thời không chi bằng chăm chỉ về đường thể dục”.
Như vậy với mục tiêu đức dục, trí dục và thể dục, quan niệm của Phan Bội
Châu rất sát với đường lối giáo dục của nước ta hiện nay. Chẳng những đề cao
tinh thần giáo dục, Phan Bội Châu còn phê phán cả nền giáo dục phong kiến chỉ
biết tạo ra những “Hủ nho, nhút nhát, ý tưởng hẹp hòi, chỉ chú trọng tới khoa cử,
văn tự ”. Đồng thời ông cũng cảnh báo và phê phán kiểu giáo dục theo thực dân
Pháp lúc bấy giờ chỉ nhằm tạo ra một lớp người làm tay sai cho giặc, đó là
19


“những bình đựng rượu Tây, những túi chứa cơm Tây, những giá mắc áo Tây,
những bù nhìn ngồi xe Tây”. Phan Bội Châu cũng cho rằng, nền giáo dục mới
không phải chỉ nhắm vào một tầng lớp người mà phải là toàn thể nhân dân, vì
“Trong cuộc cạnh tranh bằng trí lực giữa các nước, cái quyết định không phải là
trí khôn của một số người mà phải là trí khôn của tất cả mọi người”. Trong Lưu
cầu huyết lệ tân thư, ông đề ra “Những kế hoạch sẽ cấp cứu đồ tồn” là :

- Khai dân trí (mở trí khôn cho dân).
- Chấn dân khí (làm cho nhân dân phấn chấn, tự tin).
- Thực nhân tài (vun trồng nhân tài).
Với Phan Bội Châu, “giáo dục là sinh mệnh của quốc dân ”. Quốc dân suy
đồi là do bụng đói và óc đói. Ở đây, chúng ta thấy có một sự đồng cảm giữa
quan niệm của Phan Bội Châu và Hồ Chí Minh : “Một dân tộc dốt là một dân
tộc yếu” .
Để chấn hưng giáo dục, Phan Bội Châu đề ra nội dung chương trình học
bao gồm các môn học : triết, văn, sử, chính trị, kinh tế, quân sự, luật pháp, công
nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, nữ công, y thuật, ngoại ngữ, vật lý, hóa
học, thể dục, âm nhạc ... Nhìn chung, Phan Bội Châu đã xác định một nền giáo
dục toàn diện, hiện đại khác xa đường lối giáo dục của nhà nước phong kiến.
Song Phan Bội Châu cũng không phủ định nền học vấn Nho giáo đã trở thành
một bộ phận quan trọng trong nền văn hóa dân tộc. Bởi lẻ ông nhận thấy được
những giá trị từ trong học thuyết Nho gia với những phạm trù : Nhân, Hiếu,
Nghĩa, Trí, Dũng.
Những tư tưởng về giáo dục của Phan Bội Châu là một trong những nội
dung góp phần xây dựng một nền văn hóa vừa thể hiện tính hiện đại, vừa mang
đậm bản sắc truyền thống của dân tộc.
Để thực hiện “Duy tân”, Phan Bội Châu đã có ý thức rất sâu sắc vai trò của
hoạt động kinh tế. Ông cho rằng : “Cuộc cạnh tranh thế giới hiện nay, tri thức
với kinh tế chiếm phần rất lớn, còn dũng lực chỉ là một bộ phận mà thôi”. Trong
Việt Nam quốc sử khảo, chương V, Ông viết : “Thân mình làm ra của cải thì
20


phải lấy của cải mà mở thêm thân. Đó mới là việc làm đủ cả trí lẫn nhân. Lấy
tiền của mình đã tích trữ để hô hào quốc dân hoặc mở thương điếm hoặc lập
ngân hàng, liên hợp nhiều người góp vốn làm công lợi ... Ở các nước châu Âu,
Nhật Bản không một ai không kết xã mà nên giàu. Ở các nước ấy tuyệt nhiên

không có việc đào đất chôn tiền. Có phải người ta không yêu quý tiền của đâu ?
Góp gió thành bão, biến vật chết thành vật sống, thế mới gọi là khôn. Còn mình
thì bo bo giữ chặt, một đồng chinh cũng không chịu bỏ ra, có nhiều của thì đem
chôn dưới đất” .
Để giải quyết vấn đề kinh tế Phan Bội Châu cho rằng : “Nước ta dẫu là
nước nghèo, nhưng nếu biết tước bỏ đi những sự tổn phí không cần thiết, đem số
tiền ấy chi dùng vào việc có ích” thì có thể huy động được nhiều vốn cho kinh
doanh, khi ấy “góp vốn nhiều người lại thành một khoản vốn to, rồi chọn những
nơi đô hội, nơi tụ tập đông người sinh sống, lập ra các cửa hàng, chia vốn lo
buôn, hết lòng công chính để làm việc” . Và điều Phan Bội Châu nói không chỉ
là lý thuyết, bản thân ông đã tổ chức hội Nông thương học, Việt Nam thương
đoàn công hội làm cơ sở tài chính cho công cuộc cách mạng, xây dựng và phát
triển nền văn hóa mới nước nhà.
Tư tưởng của Phan Châu Trinh với phong trào Đông Kinh nghĩa thục.
Đối lập với biện pháp canh tân của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh cho
rằng để chấn hưng dân tộc phải dựa trên những thành tựu văn minh của Pháp để
tranh thủ thực hiện canh tân.
Ba mục tiêu đổi mới nhằm chấn chỉnh phong hoá nước nhà theo Phan Châu
Trinh là:
Chấn dân khí: kêu gọi tinh thần yêu nước và dũng khí đấu tranh của đồng
bào, mà trước hết là giới trí thức phong kiến.
Khai dân trí: nhằm mở mang trí tuệ cho nhân dân, bồi dưỡng nhân tài cho
đất nước. Bỏ lối học của Nho giáo, chú trọng khoa học kỹ thuật phương Tây.
Chống mê tín dị đoan, bài trừ hủ tục ở hương thôn. Xây dựng một nền học vấn
và văn hoá tiến bộ, xây dựng con người toàn diện thích ứng cuộc sống văn minh.
21


Hậu dân sinh: thúc đẩy phát triển kinh tế bằng sức tự lực, tự cường. Vận
động nhân dân tiêu dùng hàng trong nước, gầy dựng những cơ sở sản xuất, kinh

doanh các ngành nghề, khẩn hoang, lập vườn …
Với cách xếp đặt cho thấy Phan Châu Trinh rất quan tâm đến vấn đề dân
trí, theo ông phải “ Làm thế nào tạo được một số đồng chí dám có cái nhìn đảo
lộn ngai vàng, đảo lộn quý tộc, đảo lộn Khổng Mạnh, đảo lộn đặc quyền, đảo
lộn phương thức sinh hoạt, phong tục tập quán vào một thời xã hội còn tối ngòm
ngòm”.
Trong bài diễn thuyết Đạo đức là luân lý Đông Tây đêm 19-11-1925, là
một trong hai bài đầu tiên và cũng là cuối cùng của cụ Phan trước quốc dân
đồng bào, chủ yếu tập trung những vấn đề sau:
Thứ nhất, theo Phan Châu Trinh cuộc cạnh tranh hơn thua trên thế giới,
không thuần nhờ sức mạnh (vật chất) mà thôi phải nhờ có đạo đức làm gốc nữa.
Đạo đức ấy có cơ sở từ những sự vẻ vang trong lịch sử dân tộc, đó là những đức
tính tốt, hay của cha ông, khiến cho kẻ nào, dân tộc nào đối với mình cũng phải
đem lòng kính trọng. Nó là cái tính chất của dân tộc kết tinh lại như hòn ngọc
mài mà không mòn, như sắt nguội đánh mà không bể. Cụ kêu gọi đồng bào lấy
tinh thần cơ bản đó làm sức mạnh đấu tranh của dân tộc.
Thứ hai, Phan Châu Trinh phân tích luân lý châu Âu trên ba mặt: luân lý
gia đình, luân lý quốc gia và luân lý xã hội. Cụ đả phá quan niệm cho châu Âu là
“mọi rợ”. Cụ khẳng định những mặt tốt của nền luân lý Tây phương và cho rằng
nhờ những đức tính tốt đó mà giảm được sự phân cách giàu nghèo và có sự bình
đẳng con người trong xã hội.
Thứ ba, Phan Châu Trinh cực lực phê phán bọn “hủ nho”, lấy quan hệ vua
tôi, cha con, vợ chồng, bè bạn … làm giềng mối. Nhưng thực chất là lợi dụng
những mối quan hệ đó để củng cố cho quan hệ phong kiến chuyên chế, coi
thường nhân dân. Cụ kêu gọi: nước ta muốn độc lập tự do, phải có đoàn thể,
phải truyền bá chủ nghĩa xã hội trong dân.

22



Thứ tư, Phan Chu Trinh phân tích vấn đề tiếp thu tư tưởng châu Âu. Sau
khi so sánh hai nền đạo đức và luân lý, cụ kết luận đạo đức luân lý châu Âu
không trái với đạo Khổng Mạnh chân chính. Ta cần giữ cái gốc đạo đức luân lý
người, đem điều hoà lại rồi khuếch trương ra đến mức quốc gia luân lý. Cái cốt
lõi của luân lý quốc gia đó là lòng yêu nước.
Cũng như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh chủ trương học tập văn minh
phương Tây do xuất phát từ nhận thức cho rằng, các nước lớn Âu Mỹ là “xứ sở
văn minh”, là “quê hương của tiến bộ”, tin rằng “nước Pháp làm tiền đạo văn
minh cả hoàn cầu” . Nhưng để trở thành một nước tiến bộ thì phải dựa vào sức
mạnh của nhân dân.
Tuy chưa giải quyết được các yêu cầu dân tộc một cách căn bản do sự đàn
áp và ngăn chặn của thực dân Pháp nhưng chủ trương của Phan Châu Trinh và
các sĩ phu duy tân trên thực tế đã đẩy dân khí, dân trí, dân sinh lên một bước ở
các nơi có phong trào, từ đó ảnh hưởng tốt đến các địa phương khác ở khắp
Trung bộ và nhiều địa phương ở Bắc bộ. “ Quần chúng nhân dân rùng rùng đứng
dậy trong một phong trào văn hóa mới rộng khắp và sôi nổi chưa từng thấy : cắt
tóc và ăn mặc kiểu mới gọn gàng sạch sẽ, đưa nhau đi học chữ Quốc ngữ, nô
nức kéo nhau đi nghe diễn thuyết, xôn xao bàn tán về những vấn đề tự do và dân
chủ, cả một xã hội đi học, cả một xã hội tự mình đứng ra tổ chức lại cuộc sống
của mình. Cả một xã hội đang tự đổi mới và là ở tầng sâu nhất của nó, trong
hang cùng ngõ hẻm , trong quần chúng lao khổ nhất” . Đó là cống hiến to lớn
của Phan Châu Trinh và các sĩ phu duy tân.
Từ phong trào Duy tân đến khuynh hướng vận động nền văn hóa mới theo
các nhà nho Đông Kinh nghĩa thục.
Đông Kinh nghĩa thục ra đời ở Hà Nội từ tháng 3-1907 đến tháng 12-1907.
Mở trường Đông Kinh nghĩa thục không chỉ để gây tiếng vang phong trào Duy
tân ở miền Bắc mà “thâm ý Phan Châu Trinh và các đồng chí còn muốn giải tỏa

23



áp lực của chính quyền đối với các tỉnh miền Trung nơi đã có vài thân sĩ bị bắt,
phong trào bị đe dọa, đàn áp” .
Mục đích của Đông Kinh nghĩa thục là “khai trí cho dân”, mở những lớp
dạy học không lấy tiền (để đúng với cái tên nghĩa thục) và tổ chức những cuộc
diễn thuyết để trao đổi tư tưởng cùng cổ động trong dân chúng. Chương trình thì
bỏ lối học khoa cử mà chú trọng vào thường thức và thực nghiệp. Điển hình như
tác phẩm Văn minh tân học sách.
Sách này cho rằng các nước phương Tây có nhiều mặt văn minh, trái lại
nước ta thì còn nhiều mặt lạc hậu bảo thủ, vì vậy chúng ta phải học tập phương
Tây để đưa đất nước tiến lên.. Chủ trương của sách này là phải thực hiện đường
lối đổi mới về văn hoá và kinh tế. Về chế độ giáo dục, sách đó chủ trương phải
dạy và thi những môn thiết thực, do đó ngoài kinh, truyện, sử Trung Quốc còn
phải có các môn như chữ quốc ngữ, lịch sử Việt Nam, lịch sử Pháp, địa lý, toán
… Về kinh tế, sách đề xướng phải chấn hưng công nghệ và thương mại. Sách
còn đưa ra những biện pháp duy tân khác như cổ vũ nhân tài, phát triển báo chí.
Ảnh hưởng của Nho giáo về tư tưởng, đạo đức, luân lý trong thơ văn Đông
Kinh nghĩa thục còn khá đậm nét. Mặc dù trong quá trình hiện đại hoá, các sĩ
phu yêu nước khi sử dụng các khái niệm đạo đức của Nho gia như: tam cương,
ngũ thường; các cặp phạm trù trung – hiếu, trung – nghĩa, trung – tín, nghĩa –
dũng … đã lượt bớt một số nội hàm có nội dung bảo thủ, lạc hậu và đưa thêm
vào những nội dung mới làm thay đổi nội hàm cũ. Sự thay đổi này mang tính
cách ôn hoà, ít gây ra sự xáo trộn, đổ vỡ, lại gần gũi với quan niệm truyền thống
của dân tộc. Tuy nhiên, vẫn không thể khắc phục được những hạn chế của lối tư
duy tiểu nông kinh nghiệm, duy cảm và trực giác của cha ông chúng ta. Thí dụ
trong sác Luân lý giáo khoa thư có viết: “Trung và hiếu cùng một gốc, không
phải hai gốc. Trung với vua tức là hiếu với cha mẹ; hiếu với cha mẹ tức là trung
với vua. Tên gọi có khác, nhưng thực chất là một. … Trung và hiếu không phải
là hai gốc, căn bản là phải xử sự như thế nào cho đúng ”.


24


Như vậy, trong cách hiểu của các nhà Nho Đông Kinh nghĩa thục cái gốc
luân lý của Nho giáo truyền thống đã được nhận thức bằng quan điểm mới. Họ
đã tỏ thái độ dứt khoát phải phá bỏ sự cố kết bền vững nội tại của một số giá trị
Nho giáo độc tôn đã được chấp nhận trong một lịch sử lâu dài. Với ý nghĩa đó,
có thể coi luận điểm tổng kết bốn nguyên nhân khởi điểm dẫn đến nước nhà suy
vong là những tư tưởng hết sức lớn làm cơ sở cho những đổi mới về sau. Tán
thành sự phân tích những hạn chế trong các tác phẩm của Đông Kinh nghĩa thục
mà nhiều nhà nghiên cứu trước đây đã đề cập đến, chúng tôi muốn lưu ý thêm
rằng, khi các nhà Nho Đông Kinh nghĩa thục cố gắng phân tích kết cấu hệ thống
giá trị Nho giáo truyền thống vốn đã xơ cứng, lạc hậu, họ đã ý thức được sự cần
thiết phải kế thừa những yếu tố có giá trị ở trong đó, và coi đó là điều cần thiết
bảo đảm cho sự tiếp thu những giá trị mới có lợi cho dân tộc. Trong hoàn cảnh
đen tối của đất nước lúc bấy giờ, do chưa nắm được bản chất của chế độ thực
dân và bọn tay sai phong kiến, nên họ đã bị thất vọng khi cho rằng con đường
dẫn đến văn minh, giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ là sự trau dồi phẩm chất
tinh thần, “ nâng cao dân trí ”. Theo quan niệm của họ:
“Thiết nghĩ: văn minh là một danh từ đẹp đẽ không phải do sự hào nhoáng
mầu mỡ mà làm nên; các món học văn minh là những phúc tốt lành, không phải
chuyện một sớm, một chiều có thể lấy được. Muốn làm nên và lấy được là nhờ
có một chủ nghĩa lớn. Chủ nghĩa gì thế? Ấy là chủ nghĩa mở trí khôn cho nhân
dân ” .
Trong thực tế của một đất nước bị xâm lược thì những đòi hỏi trên là điều
không tưởng.
Nhiều ý kiến cho rằng, trong lịch sử du nhập và tồn tại lâu dài ở Việt Nam,
Nho giáo đã tham gia như là một yếu tố của hệ tư tưởng Việt Nam, có những
đóng góp tích cực và hạn chế. Ở những nhà Nho yêu nước, thương dân, chủ
nghĩa yêu nước truyền thống đã chiếu sáng những giá trị nhân bản, nhân đạo

trong tư tưởng nho giáo. Qua thơ văn của Đông Kinh nghĩa thục ta thấy rõ điều
đó. Các nhà Nho duy tân không chỉ dựa vào những lý tưởng Tựï do – Bình đẳng
25


×