Tải bản đầy đủ (.pdf) (162 trang)

Luận văn " Thực trạng và một số giải pháp nhằm đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu quế của Việt Nam " pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 162 trang )




KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP


Thực trạng và một số giải
pháp nhằm đẩy mạnh sản
xuất và xuất khẩu quế của
Việt Nam

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ MẶT HÀNG QUẾ VÀ THỊ TRƯỜNG QUẾ TRÊN
THẾ GIỚI 4
I. Đặc điểm mặt hàng quế 4
Vài nét về cây quế và sản phẩm quế 4
Các giống quế chính ở Việt Nam 9
Các sản phẩm chính của cây quế 11
3.1 Vỏ quế 11
3.2 Gỗ và tinh dầu quế 12
II. Tình hình cung cầu sản phẩm quế trên thị trường thế giới vài năm
gần đây 13
1. Nhu cầu về sản phẩm quế trên thế giới 14
2. Tình hình cung cấp mặt hàng quế trên thế giới hiện nay 17
3. Giá cả mặt hàng quế trên thế giới 18
4. Dự báo triển vọng thị trường quế trên thế giới 19
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU QUẾ CỦA VIỆT NAM 20
I. Thực trạng sản xuất quế ở Việt Nam 20
1. Những thuận lợi và khó khăn trong ngành sản xuất quế 20
1.1 Những thuận lợi 20


1.1.1 Điều kiện khí hậu và đất đai: 20
1.1.2 Lợi thế kinh nghiệm sản xuất 22
1.1.3 Lợi thế về lao động 24
1.2 Một số khó khăn trong ngành sản xuất quế 26
2. Thực trạng sản xuất quế ở Việt Nam 28
2.1 Các vùng trồng quế chính ở nước ta 28
2.1.1 Vùng quế Yên Bái 28
2.1.2 Vùng quế Quảng Ninh 29
2.1.3 Vùng quế Thanh Hoá, Nghệ An 30
2.1.4. Vùng quế Quảng Nam, Quảng Ngãi 31
2.2 Diện tích và sản lượng 32
2.3 Kĩ thuật lâm sinh và gây trồng quế 35
2.3.1 Kĩ thuật về giống 35
2.3.2 Kĩ thuật trồng quế 39
2.3.4 Khai thác và chế biến vỏ quế 41
2.3.5 Kĩ thuật chế biến vỏ quế 43
2.4 Chất lượng quế Việt Nam 44
II. Tình hình xuất khẩu quế của Việt Nam những năm qua 46

1. Những thuận lợi và khó khăn trong xuất khẩu quế 46
1.1 Những thuận lợi 46
1.2 Những khó khăn 48
2. Khối lượng và kim ngạch 49
3. Giá cả và thị trường xuất khẩu 51
3.1 Giá cả 51
3.2 Thị trường 55
III. Một số đánh giá về công tác sản xuất và xuất khẩu quế 59
1. Một số đánh giá về công tác sản xuất và xuất khẩu quế của Việt Nam
những năm qua 59
1.1 Đánh giá về công tác sản xuất 59

1.2 Đánh giá về công tác xuất khẩu 61
1.3 Một số tồn tại hạn chế 63
2. Hiệu quả kinh tế của việc sản xuất và xuất khẩu quế thời gian qua 65
2.1 Hiệu quả trực tiếp 65
2.2 Hiệu quả gián tiếp 68
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM ĐẨY MẠNH SẢN
XUẤT VÀ XUẤT KHẨU QUẾ CỦA VIỆT NAM 71
I. Định hướng sản xuất và xuất khẩu sản phẩm quế giai đoạn từ nay đến
năm 2010 71
1. Qui hoạch vùng và đổi mới phương thức trồng quế 71
2. Định hướng về sản phẩm 73
3. Định hướng về thị trường 74
II. Một số giải pháp và kiến nghị 75
1. Biện pháp và kiến nghị đối với sản xuất 76
1.1 Tổ chức lại sản xuất theo hướng kinh tế trang trại, qui hoạch vùng
sản xuất quế tập trung 75
1.2. Xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng các vùng trồng quế 76
1.3. Chính sách tài chính 77
1.4. Đẩy mạnh nghiên cứu, áp dụng khoa học công nghệ và đào tạo lao
động trong ngành sản xuất quế 78
1.5. Tăng cường khâu quản lý thu gom quế xuất khẩu 80
2. Biện pháp đối với xuất khẩu 81
2.1 Biện pháp tín dụng, Bảo hiểm 81
2.2 Biện pháp về thị trường và xúc tiến thương mại 82
KẾT LUẬN 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO





Trong các loại cây lâm sản thì cây quế được biết đến như một loại cây đặc
sản của vùng nhiệt đới và từ lâu cây quế đã trở thành một trong những mặt hàng
xuất khẩu của Việt Nam. Trong thời phong kiến, cây quế là một mặt hàng không
thể thiếu trong các loại lễ vật mà các vua chúa phong kiến Việt Nam mang đi tiến
cống các vua chúa phương Bắc. Ngày nay, qua hàng chục năm, nhất là từ khi Việt
Nam tiến hành cải cách mở cửa thì cây quế Việt Nam đã trở nên rất nổi tiếng trên
thế giới. Giá cả của nó lại cao hơn hẳn các loại nông sản khác và đặc biệt khi nhu
cầu về quế và sản phẩm quế trên thế giới hiện nay tăng cao thì quế trở thành một
mặt hàng được giá, mặt khác khả năng sản xuất lại có hạn nên cây quế nhiều khi có
giá độc quyền. Đây chính là một lợi thế rất lớn của Việt Nam.

Trên thế giới chỉ có một số nước như Trung Quốc, Việt Nam, Srilanca,
Seichelles, ấn Độ, Indonesia, Nhật Bản mới có điều kiện tự nhiên thuận lợi để sản
xuất cây quế. Do đó giá cả mặt hàng quế rất cao và vì vậy mà hiệu quả của ngành
sản xuất quế cao hơn rất nhiều so với sản xuất nông nghiệp. Cây quế Việt Nam có
điều kiện thuận lợi để phát triển nhưng ngành sản xuất quế hiện nay còn quá nhỏ
bé và vẫn còn trong tình trạng lạc hậu, lao động trong ngành trồng quế chủ yếu là
các hộ đồng bào dân tộc ít người, chưa có đầu tư lớn vì vậy năng suất và chất
lượng chưa cao nên chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường trong nước và xuất
khẩu. Ngành xuất khẩu quế của Việt Nam còn quá nhỏ bé so với tiềm năng và chỉ
dừng lại ở xuất khẩu sản phẩm thô nên kim ngạch còn rất khiêm tốn trong tổng
kim ngạch xuất khẩu và so với các sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp khác.

Từ khi nước ta tiến hành cải cách mở cửa đến nay, nền kinh tế đã có những
chuyển biến mạnh mẽ. Khoảng cách thu nhập giữa nông thôn và thành thị, giữa
đồng bằng và miền núi ngày càng xa. Đời sống nhân dân đồng bào các dân tộc
miền núi còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn. Để giải quyết tình trạng này, Đảng và
nhà nước ta đã và đang tìm mọi cách để đưa các phương thức sản xuất mới áp
dụng vào các vùng khó khăn, đưa cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp để bà con


nhân dân các dân tộc có thể thoát nghèo. Một trong những cây trồng có thể giúp họ
xoá đói, giảm nghèo chính là cây quế, đặc biệt là đối với bà con dân tộc các vùng
Tiên Yên, Ba Chẽ (Quảng Ninh), Văn Yên, Văn Chấn, Trấn Yên (Yên Bái), Lang
Chánh, Thường Xuân (Thanh Hoá), Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp (Nghệ An),
Trà My (Quảng Nam), Trà Bồng (Quảng Ngãi) nơi mà cây quế rất thích hợp với
điều kiện tự nhiên.

Với lí do đó, tác giả đã chọn đề tài “ Thực trạng và một số giải pháp nhằm
đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu quế của Việt Nam “ để viết Khoá luận tốt
nghiệp (KLTN) trường Đại học Ngoại Thương của mình.

Mục đích của KLTN này nhằm nghiên cứu tình hình sản xuất và xuất khẩu
mặt hàng quế của Việt Nam từ đó rút ra các giải pháp và một số kiến nghị đối với
Nhà nước, các Ban, ngành, địa phương và các nhà sản xuất quế để có thể đưa
ngành sản xuất và xuất khẩu quế phát triển hơn nữa.

Đối tượng nghiên cứu của công trình này là các sản phẩm từ cây quế nhưng
tập trung chủ yếu vào mặt hàng chính là vỏ quế. Phạm vi nghiên cứu của KLTN
được giới hạn từ năm 1990 trở về đây và việc nghiên cứu chủ yếu tập trung vào
bốn vùng sản xuất quế chính ở nước ta là Yên Bái, Quảng Ninh, Thanh Hoá- Nghệ
An và Quảng Nam- Quảng Ngãi.

Để hoàn thành KLTN, tác giả đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp trên cơ sở những thông tin thu
thập được cùng các phương pháp thống kê, so sánh để nghiên cứu những yêu cầu
mà đề tài đặt ra. Với một thời gian không dài và việc thu thập tài liệu còn gặp
nhiều hạn chế nên KLTN này không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận
được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo, các bạn sinh viên để Khoá Luận được
hoàn thiện hơn
Nội dung của Khoá Luận Tốt Nghiệp bao gồm 3 chương sau:

Chương 1: Giới thiệu về mặt hàng quế và thị trường quế trên thế giới
Chương 2: Thực trạng sản xuất và xuất khẩu quế của Việt Nam

Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh sản xuất và xuất
khẩu quế của Việt Nam

Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Ban giám hiệu, Phòng
Đào Tạo, Khoa KTNT và các Phòng Ban khác của trương ĐH Ngoại Thương đã
tạo môi trường thuận lợi cho tôi được học tập và rèn luyện 4 năm qua. Đặc biệt tôi
xin vô cùng cảm tạ Thạc sĩ Nguyễn Xuân Nữ, người đã nhiệt tình trực tiếp hướng
dẫn tôi; Bác Nguyễn Đăng Chi, Phó Vụ trưởng Vụ Quản lí Xuất Nhập khẩu, Bộ
Thương mại; Bác Cao Thị Cúc nguyên cán bộ của thư viện, các cán bộ khác của
thư viện trường và các bạn bè đã giúp đỡ tôi hoàn thành KLTN này. Qua KLTN,
tôi cũng tỏ lòng cảm ơn chân thành tới cha mẹ, các anh chị và những người thân
của tôi, những người đã ủng hộ tôi cả về vật chất lẫn tinh thần trong suốt 4 năm
học vừa qua.

Hà nội tháng 12 năm 2003

Sinh viên
Đỗ Mạnh Cường










CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU VỀ MẶT HÀNG QUẾ VÀ THỊ TRƯỜNG QUẾ TRÊN THẾ
GIỚI

III. ĐẶC ĐIỂM MẶT HÀNG QUẾ
Vài nét về cây quế và sản phẩm quế


Cây quế tên khoa học là Cinnamomum Cassia. BL thuộc họ long não
Lauraceae. Tên tiếng anh là Cinnamon, tên thông thường là cây quế, ở Việt Nam,
nhân dân ta gọi với tên gọi khác nhau theo từng địa phương như Quế Thanh, Quế
Quỳ, Quế Quảng, Quế Yên Bái, Quế Bì, Mạy quế.

Cây quế là loài cây thân gỗ, sống lâu năm, cây trưởng thành có thể cao trên
15 mét, đường kính thân cây có thể đạt 1,3 m. Quế có lá đơn mọc cách hay gần đối
lá, có ba gân gốc kéo dài đến tận đầu lá và nổi rõ ở mặt dưới của lá, các gân bên
gần như song song, mặt trên lá xanh bóng, mặt dưới lá xanh đậm. Quế lá to trưởng
thành dài từ 18-20 cm, quế lá nhỏ từ 6-8 cm, cuống lá dài khoảng 1 cm. Quế có tán
lá hình trứng, thường xanh quanh năm, thân cây tròn đều, vỏ cây màu xám và hơi
nứt rạn theo chiều dọc. Các bộ phận của cây quế như vỏ, lá, hoa, gỗ, rễ đều có
chứa tinh dầu, trong đó vỏ cây có chứa nhiều tinh dầu nhất. Tinh dầu quế có màu
vàng, thành phần chủ yếu là Aldehyt Cinamic chiếm khoảng 70-90%. Cây quế sinh
trưởng đến 8 hoặc 10 tuổi thì ra hoa, hoa quế mọc ở nách lá đầu cành, hoa ra thành
từng chùm, hoa nhỏ bằng nửa hạt gạo, màu trắng hay phớt vàng. Quế ra hoa vào
tháng 4, 5 và quả chín vào tháng 1, 2 năm sau. Quả quế chưa chín có màu xanh,
khi chín chuyển màu tím than, mỗi quả chứa một hạt hình bầu dục, một kg hạt
chứa khoảng 2500-3000 hạt. Quế có bộ rễ phát triển mạnh, rễ cọc cắm sâu vào
lòng đất, rễ bàng đan rộng và đan chéo vào nhau, vì vậy cây quế có khả năng sống
tốt ở những vùng đồi núi dốc. Cây quế lúc nhỏ ưa bóng râm, khi lớn thì cần nhiều
ánh sáng và khi trưởng thành thì hoàn toàn chịu sáng. Tinh dầu quế có vị cay,

thơm, ngọt nên rất được ưa chuộng.

Quế là một loại cây có yêu cầu tương đối đặc biệt về điều kiện tự nhiên và
phát triển được ở một số nơi nhất định ở miền nhiệt đới, nắng lắm, mưa nhiều, độ
ẩm cao vv Cây quế phát triển thích hợp trên loại đất mùn xốp, thoáng nước, có độ
dốc 10-20
0
, cây ưa mát với nhiệt độ trung bình 20-25
0
C. Do vậy trên thế giới chỉ
có một số nước mới có điều kiện thuận lợi để cho cây quế phát triển như Việt
Nam, Trung quốc, Indonesia, Ấn Độ, Srilanca, Nhật Bản, Nga. Song ở những nơi

này cây quế cũng chỉ có thể sinh trưởng được ở một số vùng nhất định, do vậy cây
quế từ lâu đã trở thành một loại cây đặc sản của một số vùng nhiệt đới.

Tất cả các bộ phận của cây quế đều có giá trị sử dụng cho một số ngành sản
xuất. Vỏ quế có thể dùng vào việc chữa bệnh, gia vị thực phẩm, đồ dùng gia đình,
vv. Gỗ quế có thể dùng để chế tạo các đồ dùng như bàn ghế, tủ, đồ mỹ nghệ, cành
lá có thể dùng làm củi đốt. Tuy nhiên vỏ quế lại là bộ phận có giá trị nhất vì tinh
dầu quế được chưng cất chủ yếu từ vỏ cây.

Cây quế ngoài thành phần chủ yếu là Andehyt Cinnamic, còn chứa nhiều
chất khác như ơgenola, saprola, fuaurola vv các chất này có công dụng trong một
số lĩnh vực như y học để làm thuốc chữa bệnh, trong công nghiệp chế biến hàng
tiêu dùng. Ngày nay, người ta thường tách lấy andehyt từ cây quế rồi chuyển hóa
thành những chất thơm có giá trị khác. Trong công nghiệp thực phẩm quế được
dùng làm gia vị để chế biến bánh kẹo, chất định hương, trong công nghiệp hàng
tiêu dùng, quế được dùng làm nguyên liệu chế biến xà phòng, nước hoa, dầu chải,
phấn sáp vv Nhiều nơi trên thế giới, người ta đã biết dùng quế làm gia vị thực

phẩm cách đây hàng trăm năm, ngày nay, quế, hồ tiêu, sa nhân, đinh hương, gừng
đã trở thành một tập đoàn gia vị có giá trị phù hợp với khẩu vị của nhiều nước
trên thế giới. Đặc biệt hơn nữa, khi y học hiện đại phát triển, người ta lại phát hiện
ra nhiều công dụng chữa bệnh của cây quế.

Theo Đông y, cây quế có vị cay, tính đại nhiệt, vị đắng, thơm và ngọt, có tác
dụng bổ mật, thông huyết mạch, dùng để chữa chứng chân tay co quắp, đau bụng
do khí lạnh, chữa phong hàn, viêm khớp, hư tâm tỳ, mạch chạy nhỏ, bệnh dịch tả
cấp tính Từ xa xưa, nhân dân ta đã biết dùng vỏ của cây quế mài vào nước đun
sôi để nguội rồi uống sẽ chữa được các bệnh về tiêu hoá, hô hấp, kích thích sự tuần
hoàn của máu, lưu thông huyết mạch, làm cho cơ thể ấm lên…. Quế có tính năng
chống lại giá lạnh, có tính sát trùng nên nó được nhân dân ta coi là một trong bốn
loại thuốc quí bao gồm: Sâm, Nhung, Quế, Phụ. Trong đời sống hàng ngày, quế
được dùng để khử bớt mùi tanh của cá, làm cho món ăn thơm ngon, hấp dẫn hơn,

kích thích được tiêu hoá. Ngoài ra quế còn được dùng để sản xuất bánh kẹo, rượu
như bánh quế, kẹo quế, rượu quế… Quế còn được sử dụng làm hương vị, bột quế
được trộn với các vật liệu khác sau đó đem làm hương khi đốt lên có mùi thơm dễ
chịu, được sử dụng trong các đền chùa, đình miếu ở các nước Châu Á nơi có
phong tục thờ cúng tổ tiên và theo đạo Khổng, đạo Hồi. Gần đây, nhiều địa phương
còn sử dụng gỗ quế, vỏ quế để làm ra các sản phẩm thủ công mỹ nghệ như bộ
khay, ấm, chén, đĩa bằng gỗ quế; vỏ quế được dùng để sản xuất các tấm lót giày,
làm dép đi trong nhà. Hiện nay các sản phẩm này đang rất được ưa chuộng. Riêng
mặt hàng dép đi trong nhà có tẩm bột quế đã được xuất khẩu đi một số nước như
Hàn Quốc, Nhật Bản…

Nhiều nơi trên thế giới gọi cây quế là cây “chữa bách bệnh”. Từ hàng ngàn
năm qua, cây quế đã được nhân dân ta dùng làm thuốc chữa bệnh, và Quế Chi trở
thành một vị thuốc không thể thiếu được trong các hiệu thuốc đông y, trong các toa
thuốc. Chính vì quế có nhiều tính năng công dụng như vậy nên từ lâu nó đã trở

thành một loại hàng hoá được buôn bán ở khắp nơi trên thế giới.
Một trong những tính chất đặc trưng của cây quế là làm tăng khả năng chống
lạnh của cơ thể người và động vật nên quế rất được ưa chuộng ở xứ lạnh. Quế
không chỉ được dùng làm gia vị cho con người mà nó còn được sử dụng để làm
thức ăn cho gia súc. Ở một số nước có ngành chăn nuôi phát triển, người ta còn
dùng các loại quế kém phẩm chất hay các sản phẩm phụ của quế pha trộn với các
loại thức ăn khác để sản xuất thức ăn tổng hợp nhằm kích thích tiêu hoá và phòng
bệnh cho gia súc đặc biệt là vào mùa đông.

Tuy nhiên công dụng của cây quế có được khai thác triệt để hay không lại
phụ thuộc vào trình độ sản xuất của công nghệ chế biến và trình độ thâm canh và
điều kiện thổ nhưỡng, qui trình khai thác, bảo quản, chế biến cũng ảnh hưởng
không nhỏ tới chất lượng mặt hàng này.

Ở Việt Nam, nhân dân ta đã có tập quán trồng quế từ lâu đời và người trồng
chủ yếu là bà con các dân tộc ít người ở các vùng miền núi Yên Bái, Quảng Ninh,

Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Nam, Quảng Ngãi và một số địa phương khác
nhưng với diện tích không lớn lắm. Hiện nay nhận thấy giá trị của cây quế rất lớn,
bà con các dân tộc ở các vùng cao khác như Hà Giang, Tuyên Quang, hay ở Tây
Nguyên đã đưa cây quế vào trồng thử nghiệm. Qua một thời gian trồng thử, cây
quế sinh trưởng rất tốt. Nhưng vì thời gian thử nghiệm chưa lâu, cây quế chưa cho
thu hoạch nên chưa biết chất lượng quế trồng ở những vùng đất mới như thế nào.
Hi vọng rằng cây quế trồng trên đất thử nghiệm sẽ cho kết quả tốt để nhân dân có
thể nhân rộng ra trồng ở nhiều nơi.

Quế thường được gieo trồng vào tháng 1, 2 âm lịch khi mà điều kiện thời tiết
rất phù hợp cho cây con phát triển. Trong 2 đến 3 năm đầu, người trồng tiến hành
tỉa thưa và trồng dặm để đảm bảo cho mật độ trồng không quá 3000 cây/ha. Thời
gian 5 năm đầu cần chú ý chăm sóc cây, che nắng cho cây con vì khi còn non cây

ưa bóng râm, khi cây đã trưởng thành thì không phải chăm sóc nhiều. Sau khi
trồng được khoảng 10 năm thì cây quế có thể cho thu hoạch. Việc thu hoạch được
tiến hành trong hai vụ, từ tháng 2 tới tháng 4 và từ tháng 9 tới tháng 11. Thời kì
này hàm lượng tinh dầu tập trung nhiều nhất trong vỏ quế.

Khi cây quế đến tuổi cho khai thác, người trồng sẽ tiến hành thu hoạch. Việc
thu hoạch có thể được tiến hành bằng cách chặt hạ cả cây xuống, sau đó chặt hết
các cành lá rồi tiến hành bóc vỏ hoặc người ta không chặt cây mà chỉ khai thác một
phần vỏ để cây quế có thể được khai thác nhiều lần. Việc khai thác một phần vỏ
được tiến hành bằng cách người ta không chặt cây quế mà chỉ bóc tách một phần
vỏ quế. Khi bóc vỏ người ta không bóc hết phần biểu bì ở trong cùng để sau một
thời gian nó sẽ tự tái sinh thành lớp vỏ mới. Sau khi khai thác được khoảng 1 năm
thì cây quế lại có thể cho khai thác lần tiếp theo. Cách khai thác này mới được
nhân dân áp dụng gần đây và trong quá trình khai thác đòi hỏi người trồng quế
phải rất khéo tay và có nhiều kinh nghiệm thì mới tiến hành được.

Từ lâu, nhân dân ta đã có kinh nghiệm trồng và chế biến các sản phẩm quế.
Cây quế có thể dùng làm thuốc bổ, thuốc chữa bệnh, dùng làm hương liệu, thực
phẩm Quế Việt Nam nổi tiếng từ thời Bắc thuộc, khi đó quế được mệnh danh là

“Giao Chỉ ngọc quế” và luôn là vật phẩm dùng vào việc tiến cống cho các vua
chúa phương Bắc. Ngày nay, do nhu cầu về sản phẩm quế ở trong nước và trên thế
giới ngày một tăng thì các vùng trồng quế ở nước ta ngày càng được mở rộng để
đáp ứng nhu cầu đó. Trên thế giới có nhiều loại quế nhưng quế Việt Nam vẫn được
coi là một loại quế quí, vẫn được các nước nhập khẩu đánh giá cao về chất lượng.
Ở Việt Nam, quế được xuất khẩu dưới dạng thô là vỏ quế còn cành, lá thì được
chưng cất thành tinh dầu sau đó dùng để sản xuất các loại dược phẩm như cao sao
vàng, làm hương liệu cho ngành công nghiệp thực phẩm, hàng tiêu dùng

Như vậy, mặt hàng quế có rất nhiều công dụng trong cuộc sống đời thường

nên nó ngày càng được đánh giá cao và sử dụng phổ biến không chỉ ở thị trường
Việt Nam mà cả trên thế giới.
Các giống quế chính ở Việt Nam


Trên thế giới phổ biến có hai loại quế chính, thứ nhất là quế Trung Quốc
(Cinnamomum cassia BL) và thứ hai là quế Srilanca (Cinnamomum zeylacium). Ở
Việt Nam ngoài hai loại quế trên còn có quế Thanh (Cinamomum loureiri ness)
thường trồng ở Thanh Hoá, Nghệ An, ngoài ra còn có một số quế địa phương như
quế Nghĩa Lộ, Yên Bái Như vậy ở nước ta có khoảng 10 loại quế trong đó đa
phần là quế quí.

Loại quế Cinamomum cassia BL còn gọi là quế Đơn thân cao từ 12-17m,
lá quế mọc cách, dai, sáng bóng và nhẵn ở mặt trên, có một lớp lông mịn ở mặt
dưới lá. Gân lá nhỏ, mọc ngang song song, hoa mọc thành chùm. Quả hình bầu dục
đựng trong đấu nguyên hoặc hơi chia thuỳ. Loại quế này thường được trồng ở các
tỉnh Quảng Ninh, Yên Bái và Quảng Nam, sản phẩm chủ yếu dùng làm gia vị và
thực phẩm. Quế Đơn có thể nói là một loại quế tốt nhất, một loại quế đặc sản, các
nước thường đặt mua với giá rất cao để dùng làm dược liệu chữa bệnh và làm
thuốc bổ. Tuy nhiên mùi vị của loại quế này thì lại khác nhau nếu được trồng ở nơi
khác nhau. Nếu trồng ở Yên Bái thì nó có mùi cay dịu còn trồng ở Quảng Ninh hay
Quảng Nam thì có mùi cay đậm. Trung bình một cây quế trồng ở Yên Bái khi 10
năm tuổi thì có đường kính từ 15-20cm cho thu hoạch từ 15-30kg vỏ tươi ( 8-15 kg

vỏ khô) 0,3- 0,5 m
3
gỗ, 1,2 ste củi và 30 kg lá có thể chưng cất được 0,21 kg tinh
dầu.

Giống quế Thanh hay còn có tên là quế Quỳ cây thường cao từ 12-20m,

cành non vuông chẵn. Lá cây gần như bầu dục, thuôn lại ở hai đầu, gần như mọc
đối mũi nhọn ba gân rõ. Hoa quế hợp thành chùm, quả hình trứng, khi non có màu
lục, khi chín có màu nâu tím và sáng bóng. Quả đựng trong đấu có bao hoa tồn tại
dưới quả, thuỳ cắt cụt gần đỉnh. Đây là loại quế có giá trị dược liệu rất cao, nhân
dân ta thường dùng để chữa một số bệnh như đau bụng, cảm lạnh và để bồi bổ
sức khoẻ. Trước đây chúng ta không xuất khẩu loại quế này do diện tích trồng rất
nhỏ, chủ yếu là các hộ gia đình và được tiêu dùng trong nước. Nhưng hiện nay do
nhận thấy đây là một loại quế quý và do nhu cầu trên thế giới tăng cao nên chúng
ta đã bắt đầu nhân rộng và xuất khẩu loại quế này. Quế Thanh có thân cây cao, nếu
trồng được 15-20 năm thì sẽ có đường kính 20-30 cm, cho 30-50 kg vỏ tươi ( 15-
20 kg vỏ khô) , 0,3-0,5 m
3
gỗ và khoảng 50 kg lá chưng cất được 0,28-0,35 kg tinh
dầu.

Giống quế Srilanca mà nhân dân ta thường gọi với tên khác là quế Quan có
thân cao khoảng 20-25 m, cành non vuông, có lông ngắn và rải rác. Lá quế Quan
mọc đối, dài và có hình bầu dục, nhẵn bóng và hơi nhọn ở gốc, tù ở đầu hoa. Hoa
mọc thành chùm, quả mọc hình bầu dục, trong đấu có ba hoa tồn tại, thuỳ cắt gọt ở
giữa. Loại quế này thích ứng rộng nên được trồng ở các tỉnh như Thanh Hoá, Nghệ
An, Vũng Tàu và Tây Ninh. So với hai loại quế trên thì loại quế này không được
thị trường thế giới ưa chuộng vì đây là loại quế thân nhỏ, hàm lượng tinh dầu ít và
kém năng suất.

Ngoài các giống quế trên, nước ta còn có một số giống quế khác mọc tự nhiên ở
các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Lào Cai, Hà Giang, Hoà Bình như quế Nâu hay
quế đỏ ( Cinamomum tetregomum Chev), quế Rành ( Cinamomum caryophyllus
Moore), quế Lợn ( Cinamomum iners Reinw) các loại quế này thường sống lâu
năm trong rừng rậm và có giá trị dược liệu cao.



Từ trước đến nay, chúng ta không chỉ khai thác quế trồng để xuất khẩu mà con
khai thác cả quế rừng tự nhiên. Việc khai thác quế tự nhiên một cách bừa bãi đã
làm cho nguồn lợi này ngày một cạn kiệt. Vì vậy chúng ta cần phải bảo vệ nguồn
quế rừng tự nhiên không chỉ nhằm mục đích khai thác nguồn lợi mà còn để bảo vệ
môi trường tự nhiên, bảo vệ nguồn gen quý. Lợi thế về cây quế của nước ta là rất
lớn. Do đó chúng ta cần phải phát huy lợi thế này để đẩy mạnh sản xuất và xuất
khẩu mặt hàng quế.

Các sản phẩm chính của cây quế

Tuy cây quế là một loại thực vật sống lâu năm nhưng sản phẩm chính của cây
quế không phải là gỗ như những loại cây khác mà lại là vỏ quế. Từ trước tới nay
khi nói tới quế thì người ta thường nghĩ ngay tới vỏ quế. Tuy nhiên sản xuất quế
không chỉ lấy mỗi vỏ mà cành và lá của nó cũng có thể dùng để ép lấy tinh dầu. Từ
lâu nay chúng ta chỉ chủ yếu xuất khẩu vỏ quế thô mà chưa chú ý xuất khẩu tinh
dầu quế mặc dù đây là một loại sản phẩm có giá trị xuất khẩu cao. Xuất khẩu tinh
dầu chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng
quế bởi vì công nghệ chưng cất tinh dầu quế của ta vẫn còn rất lạc hậu. Ngoài hai
sản phẩm chính trên, gỗ quế cũng được dùng nhiều trong ngành công nghiệp và thủ
công nghiệp khác.

3.1 Vỏ quế

Đối với ngành sản xuất quế thì khai thác vỏ là chủ yếu. Như đã nói ở phần
trên, vỏ quế tập trung rất nhiều Andehyt cinamic. Do vậy đánh giá năng suất hay
chất lượng của sản phẩm quế người ta dựa vào vỏ cây. Cũng giống như các ngành
sản xuất lâm nghiệp khác, sản xuất quế có đặc điểm diễn ra trong thời gian dài.
Thông thường sản xuất quế diễn ra trong khoảng thời gian từ 10- 15 năm. Các điều
kiện tự nhiên như đất đai, khí hậu, độ ẩm, ánh sáng, lượng mưa… sẽ quyết định tới

năng suất và chất lượng quế. Tuy nhiên nếu được chăm sóc tốt chất lượng của quế
cũng sẽ được cải thiện. Trung bình một cây quế có tuổi từ 10- 15 năm thường có

đường kính từ 20- 30 cm sẽ cho 20-40 kg vỏ tươi. Từ vỏ tươi này có thể làm gia vị
thực phẩm, làm nguyên liệu chế biến hàng tiêu dùng hay đem xuất khẩu dưới dạng
vỏ nguyên liệu. Cây quế nếu trồng dùng vào mục đích làm gia vị thực phẩm hay
nguyên liệu cho ngành công nghiệp hàng tiêu dùng thì chỉ cần trồng trong thời gian
10 năm là có thể thu hoạch được. Còn nếu trồng để làm dược liệu thì thời gian
thường lâu hơn, có thể 20-30 năm với thời gian lâu như vậy giá trị dược liệu của
cây quế mới phát huy hết công dụng. Ở Yên Bái, người ta trồng quế với mật độ
khoảng 2500- 3000 cây trên một héc ta, sau 10 năm thì thu hoạch cho năng suất
20- 25 tấn vỏ quế. Tuy nhiên ngày nay do nhu cầu về cây quế rất cao nên thời gian
sản xuất của cây quế rút ngắn xuống chỉ còn khoảng 10 năm.

3.2 Gỗ và tinh dầu quế

Đối với ngành sản xuất quế, ngoài khai thác vỏ quế là chủ yếu thì người ta
còn thu hoạch được gỗ, còn các phần còn lại như lá, cành, rễ quế thì có thể dùng để
chưng cất tinh dầu. Cây quế nếu được trồng với mật độ thích hợp và được chăm
sóc tốt thì có thể cho thu hoạch sản lượng vỏ rất cao, một lượng gỗ tương đối lớn
có chất lượng tốt. Mỗi cây quế sau khi thu hoạch vỏ thì còn lại hàng chục kg lá,
cành và rễ. Phần này đem đi chưng cất lấy tinh dầu. Tinh dầu quế tuy chiếm một tỷ
trọng nhỏ nhưng giá trị và công dụng của nó không phải là nhỏ. Tinh dầu quế sau
khi được chưng cất sẽ dùng làm nguyên liệu đầu vào cho ngành công nghiệp sản
xuất hàng tiêu dùng, công nghiệp dược và mỹ phẩm. Mỗi một hec ta quế sau khi
thu hoạch, lột vỏ đi sẽ còn lại từ 8- 10 m
3
gỗ, cho từ 5-8 ste củi. Gỗ quế có nhiều
giá trị sử dụng như các loại cây khác, có thể dùng gỗ quế để làm cốp pha xây dựng,
đóng đồ mộc, làm gỗ trụ hầm mỏ… Gỗ quế được đánh giá là có chất lượng tốt như

các lạo gỗ khác là bồ đề, mỡ, bạch đàn. Tuy nhiên điều đặc biệt là trong gỗ quế có
một lượng tinh dầu nên không bị mối mọt. Thân cây lại thẳng đều và cứng. Vì vậy
dùng gỗ quế vào làm trụ hầm mỏ rất bền.

Bên cạnh đó gỗ quế lại có mùi thơm nên hiện nay ở một số địa phương như
ở Trà Bồng tỉnh Quảng Nam, người dân đã dùng gỗ quế để sản xuất hàng thủ công

mỹ nghệ. Việc làm này vừa mang lại thu nhập cho nhân dân, vừa tận dụng được
phụ phẩm của cây quế và lại còn góp phần bảo tồn ngành nghề truyền thống của
cha ông. Do đó đối với ngành sản xuất quế bên cạnh việc khai thác vỏ quế thì việc
khai thác gỗ quế cũng là một hướng đi cần được các ngành, các cấp quan tâm trong
vấn đề giải quyết yêu cầu về gỗ cho công nghiệp hầm mỏ, làm hàng thủ công mỹ
nghệ để tránh tình trạng chặt phá rừng bừa bãi.

Mặc dù cây quế phải 10 năm mới cho thu hoạch nhưng không phải trong
thời gian cây quế sinh trưởng người trồng không khai thác được gì từ cây quế.
Trong thời gian chăm sóc cây quế, người trồng có thể chặt những cành con ở gần
gốc để lấy lá, cành, thu hoạch những mầm non tập trung lại để chưng cất tinh dầu.
Ở các tỉnh Quảng Ninh và Quảng Nam mỗi năm một ha quế có thể cho một lượng
cành lá chưng cất được một lượng tinh dầu vào khoảng 30-60 kg, ở Yên Bái là 50
kg. Ngoài ra các cành nhỏ, mầm non cũng có thể cho thu hoạch khoảng 20-30 kg
tinh dầu một năm. Tiềm năng về tinh dầu của Việt Nam là tương đối lớn, nhu cầu
về tinh dầu quế trên thế giới ngày một tăng do sự tăng trưởng của ngành công
nghiệp hàng tiêu dùng. Tuy nhiên nước ta mới chỉ xuất khẩu một lượng tinh dầu
không đáng kể. Bên cạnh đó công nghệ ép tinh dầu của nước ta hiện nay còn thô sơ
và lạc hậu nên tỷ lệ hao hụt khá cao và chất lượng tinh dầu được ép từ những loại
máy móc này chưa cao nên đa số chưa phù hợp với yêu cầu của các nước nhập
khẩu.



IV. TÌNH HÌNH CUNG CẦU SẢN PHẨM QUẾ TRÊN THỊ TRƯỜNG
THẾ GIỚI VÀI NĂM GẦN ĐÂY


Sản phẩm quế ở nước ta là mặt hàng được buôn bán từ lâu đời. Sự hình thành
thị trường quế từ nhỏ lẻ đến rộng lớn như hiện nay là do nhu cầu về sản phẩm quế
ngày một tăng trên thị trường thế giới. Do cây quế chỉ thích hợp ở một số nơi trên
thế giới nên tình hình buôn bán mặt hàng này trên thế giới ngày một sôi động.
Những năm gần đây, trong các mặt hàng gia vị xuất khẩu thì chỉ có mặt hàng quế
là có xu hướng tăng còn các mặt hàng khác như hồ tiêu, gừng, tỏi hay ớt quả thì

có xu hướng chững lại hoặc có tăng nhưng tăng chậm. Từ trước đến nay, chỉ có
những nước trồng quế mới có lợi thế xuất khẩu quế, mà những nước như thế không
có nhiều trên thế giới. Chính vì vậy mà nhiều khi giá mặt hàng quế trở thành giá
“độc quyền” của một số nước. Ở các nước này nhu cầu tiêu dùng thường không
lớn lắm mà chủ yếu tập trung cho xuất khẩu bên cạnh đó nhu cầu về mặt hàng quế
cho sản xuất và tiêu dùng ở một số nước lại luôn tăng và rất ổn định nên tình hình
buôn bán quế và các sản phẩm quế trên thế giới hiện nay rất có triển vọng.

5. Nhu cầu về sản phẩm quế trên thế giới

Từ hàng ngàn năm qua, quế đã là một mặt hàng luôn luôn được ưa chuộng và
được buôn bán trên thị trường thế giới theo con đường tơ lụa, gia vị từ Đông sang
Tây. Ngày nay, do sự phát triển mạnh mẽ của các ngành sản xuất hàng tiêu dùng
như công nghiệp mỹ phẩm, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp dược phẩm nên
mặt hàng quế ngày càng được sử dụng rộng rãi. Theo tài liệu Plantation Crops, trên
thế giới hiện nay, Mỹ là nước tiêu thụ nhiều nhất mặt hàng quế. Mỗi năm nước này
cần nhập một lượng khoảng 25 đến 30 ngàn tấn quế nhưng do khả năng xuất khẩu
của các nước sản xuất có hạn nên chỉ đáp ứng được khoảng 15.000 tấn. Các nước
tiếp theo là Nhật Bản với nhu cầu 10.000 tấn/năm, Mêhicô cần 3000 tấn/năm, Đức

khoảng 1500 tấn/năm. Nga là một nước có nhu cầu lớn nhưng mỗi năm chỉ nhập
khẩu khoảng 1000 tấn. Ấn Độ là một thị trường với trên 1 tỷ dân, sức tiêu thụ quế
và các sản phẩm có nguồn gốc từ quế cũng rất lớn. Đây là những thị trường đầy
tiềm năng của các nước xuất khẩu quế như nước ta.

Sau đây là một số nước có nhu cầu cao về sản phẩm quế trên thế giới:
Bảng 1: Nhu cầu và lượng nhập khẩu bình quân/năm mặt hàng quế giai
đoạn 1995-2000 (đơn vị: tấn)

Tên nước Nhu cầu Lượng nhập
Mỹ 20.000 17.000
Nhật Bản 3.000 2.000
Ấn Độ 8.000 1.000
Nga 8.000 600

Pháp 2.000 550
Hàn Quốc 3.500 3.500
Hà Lan 5.000 4.500
Thái Lan 5.000 550
Mêhicô 6.000 5.500
Đức 2.000 1.500

Nguồn: Plantation Crops

Qua bảng số liệu trên ta thấy nhu cầu về mặt hàng quế trên thế giới là rất
lớn. Các nước có nhu cầu cao là những nước có ngành công nghiệp thực phẩm, mỹ
phẩm và hàng tiêu dùng rất phát triển. Tuy nhiên trên thực tế số lượng quế xuất
khẩu vẫn chưa đủ đáp ứng nhu cầu của các nước. Có những nước chỉ nhập khẩu
được một lượng quế rất nhỏ so với nhu cầu trong nước. Số lượng quế nhập khẩu
chỉ bằng 1/3 hay 1/4 nhu cầu thậm chí là 1/15 hay 1/20 như Ấn Độ hay Nga.

Những năm qua, đa số các nước không nhập đủ lượng quế cần thiết phục vụ nhu
cầu tiêu thụ ngày một tăng của các ngành sản xuất trong nước. Trong khi đó nhu
cầu về tiêu thụ mặt hàng quế lại ngày một tăng. Theo dự báo của các chuyên gia
thuộc Hiệp hội gia vị thế giới thì nhu cầu quế trên thế giới từ nay đến năm 2010
mỗi năm tăng 5%. Đây quả thực là một vấn đề nan giải của các nước nhập khẩu
quế. Đối với các mặt hàng khác thì có thể sản xuất thay thế được nhưng riêng mặt
hàng quế thì không phải nước nào muốn là có thể tự sản xuất ra được. Bởi vì ngành
sản xuất quế là một ngành sản xuất đặc thù riêng có của một số nước có điều kiện
thuận lợi. Muốn đáp ứng đủ nhu cầu về mặt hàng quế thì chỉ có thể dựa vào các
nước sản xuất ra nó mà thôi.
Bảng 2 Bảng các nước nhập khẩu quế chính
( Q: Lượng, tấn; V: Giá trị, nghìn USD)

Tên nước 1996 1997 1998 1999 2000

Q V Q V Q V Q V Q V
Australia
320 631 341 549 399 734 479 781 394 617
Braxin
1007 2061 935 1582 1082 1277 1118 1081 1220 1176
Canada
1154 2501 1224 2755 854 2243 802 2005 846 2260
Pháp
857 1607 720 1303 750 1317 703 1319 686 1070
Đức
2536 6243 2845 6316 2635 5962 2469 4862 2163 3525
Hong kong

6671 8678 1563 1970 749 798 415 490 275 261


Nhật
2360 5359 1809 3957 1797 3908 1479 3156 2052 4768
Hàn quốc
3589 5722 2628 3427 2355 2617 3612 3592 3052 2937
Malaysia
496 1141 567 921 793 767 810 711 944 801
Mexico
5264 21175 5255 26389 5005 30031 5413 29892 5884 29629
Hà lan
3183 3173 3282 5184 5435 6331 7289 7168 5606 4663
Pakistan
742 1184 753 1016 1500 2030 1394 1713 1567 1912
Saudi arabi
1724 1637 1546 1550 2265 1993 2052 1367 1658 1281
Singapore
5387 7411 5514 6887 3139 3578 3415 3862 2548 2988
Anh
1207 2193 1251 2139 1391 2605 1139 1962 1168 1962
Mỹ
17098 37363 17495 33273 19457 29256 17566 24030 16797 21115
Tổng
53595 108079 47728 99218 49606 95447 50155 87991 46860 80965

Nguồn: COMTRADE, UNSO

Ngày nay, nhu cầu về mặt hàng quế trên thế giới tăng mạnh do có xu hướng
dùng các loại dược phẩm bào chế từ các loại nguyên liệu có nguồn gốc tự nhiên
thay cho các sản phẩm hoá học, trong khi đó khả năng sản xuất và sản lượng lại có
hạn do cây quế chỉ trồng được ở một số nơi nhất định. Điều này làm cho cầu vượt
quá cung dẫn đến cây quế càng trở thành một thứ hàng “ độc”.


Tuy nhiên lại có một nghịch lí là hầu hết các nước có nhu cầu cao về mặt hàng
quế lại không nhập khẩu đủ. Nguyên nhân là do khả năng sản xuất của các nước
trồng quế bị hạn chế. Đặc điểm của ngành này là thời gian sản xuất rất dài. Từ khi
trồng đến khi cho thu hoạch có thể kéo dài từ 10- 15 năm thậm chí còn lâu hơn
nữa. Do đó không thể ngay một lúc có thể cung cấp được một lượng quế lớn. Việc
mở rộng qui mô sản xuất cũng gặp khó khăn do cây quế chỉ thích hợp với chất đất
ở một số vùng. Thời gian quay vòng sản xuất cũng kéo dài và yêu cầu vốn đầu tư
cũng cần rất lớn, trong khi đó các nước sản xuất quế đều là những nước đang phát
triển nên khả năng đầu tư vốn cho ngành sản xuất quế cũng hạn chế. Các nước này
lại đang tập trung chủ yếu vốn vào ngành công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng…
nên phần nào cũng hạn chế đầu tư vào ngành trồng quế. Bên cạnh đó, các vùng
trồng quế lại nằm ở khu vực miền núi, đường sá đi lại không thuận tiện, phương
thức canh tác lạc hậu, quá trình sản xuất gặp rất nhiều khó khăn nên khả năng mở
rộng và phát triển sản xuất là rất hạn chế. Mặt khác cũng chính do giá của mặt
hàng quế rất cao nên nhiều khi các nước có nhu cầu rất cao nhưng lại không có khả

năng mua được, do đó mà tình hình cung cầu mới có hiện tượng mất cân bằng như
thế.

6. Tình hình cung cấp mặt hàng quế trên thế giới hiện nay


Trong những năm gần đây, khối lượng mặt hàng quế được buôn bán trên thế
giới ngày một gia tăng, mỗi năm trên 50 ngàn tấn. Những nước tiêu dùng quế
chính lại là những nước không tự sản xuất được mặt hàng này do không có sự ưu
đãi của thiên nhiên về đất đai lẫn khí hậu. Do đó các nước này phụ thuộc hoàn toàn
vào nguồn cung cấp từ các nước sản xuất quế. Các nước cung cấp chính trên thế
giới là Srilanca, Indonesia, Trung Quốc và Việt Nam. Nước xuất khẩu quế lớn nhất
là Srilanca với gần 45%, tiếp đến là Indonesia với khoảng 25% sau đó là Trung

Quốc 12,7% và Việt Nam khoảng 6%.

Bảng 3: Các nước xuất khẩu quế trên thế giới năm 2000

Tên nước xuất
khẩu
Số lượng
(Kg)
Giá trị
(1000 USD)
Tỷ lệ
Sri lanca
35.623,7 49.517
44,7%
Indonesia
19.697,8 27.380
24,7%
Trung Quốc
10.310,6 14.083
12,7%
Việt Nam
4.526 5.253
5,4%

Nguồn: ITC/UNCTAD/WTO “Global Spice market- Import 1996-2000”

7. Giá cả mặt hàng quế trên thế giới

Do mặt hàng quế là một loại lâm đặc sản nên giá cả của nó khá cao so với các
mặt hàng khác. Tính từ năm 1990 trở lại đây, giá mặt hàng này luôn tăng trên thị

trường thế giới, năm tăng cao nhất là năm 1998 ở mức 2,69 USD/kg, nhưng từ đó
đến nay giá lại biến động giảm theo xu thế chung của các mặt hàng nông- lâm sản
và hiện giá mặt hàng này chỉ đứng ở mức 1,39 USD/kg. Tuy vậy đây vẫn là mức
giá cao so với trước đây.

Bảng 4: Giá mặt hàng quế trên thế giới một số năm qua
Năm
1996

1997 1998 1999 2000 2001 2002
Giá (USD/kg)
2,67 2,19 2,69 1,69 1,39 1,33 1,294

Tăng/giảm so với năm
trước

-18% +22,83% -37,17% -17,75% -4,3% -2,7%

Nguồn: ITC/UNCTAD/WTO “Global Spice market- Import 1996-2000”


Qua bảng trên ta thấy, giá quế một số năm qua có sự biến động mạnh mẽ. Biểu
hiện rõ nhất là từ năm 1997 đến năm 2000. Năm 1998 mức tăng so với năm 1997
là 22,83% nhưng đến năm 1999 lại giảm rất mạnh, gần 50%. Từ năm 2000 đến nay
giá quế giảm nhẹ không đến 5%.

Mặt hàng quế là một loại đặc sản riêng có ở một số nước trên thế giới. Tuy
nhiên ngày nay giá cả của mặt hàng này không còn giữ được thế độc quyền như
trước đây nữa. Nguyên nhân là do các nước xuất khẩu quế đã đẩy mạnh sản xuất
và tiêu thụ mặt hàng này. Mặt khác cũng ở các nước xuất khẩu quế có hiện tượng

tranh giành khách hàng cả ở cấp quốc gia lẫn trong nội bộ các doanh nghiệp nên đã
dẫn đến hiện tượng giá mặt hàng quế giảm trong những năm vừa qua. Ngoài ra
các nhà nhập khẩu nhiều khi o ép giá người bán bởi vì quế cũng là một mặt hàng
nhạy cảm.

8. Dự báo triển vọng thị trường quế trên thế giới

Theo dự báo của Hiệp hội gia vị thế giới thì đến năm 2005, lượng quế mà các
nước có nhu cầu nhập khẩu sẽ ở vào khoảng 85.000 tấn đến 92.000 tấn. Trong thời
gian từ nay đến năm 2010, sức tiêu thụ quế trên thế giới dự đoán vẫn tiếp tục tăng
lên, đó là do kết quả xu hướng sau đây:

- Ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và ngành ăn uống công cộng sẽ tiếp tục
phát triển nhanh ở cả những nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát
triển sẽ dẫn đến tăng nhu cầu tiêu thụ mặt hàng quế trên qui mô toàn thế giới.
Ngoài ra ở các nước phương Tây hiện nay có xu hướng dùng nhiều Đông dược
trong đó có mặt hàng quế. Do đặc điểm của cây quế có tác dụng chữa được
nhiều bệnh, đặc biệt là các bệnh về mùa lạnh nên nó ngày càng được ưa dùng.


- Quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra rất mạnh mẽ hiện nay trên thế giới, trong
đó có hiện tượng di dân. Dòng người Châu á nhất là người Trung Quốc di cư
sang các nước phương Tây làm ăn sinh sống ngày một nhiều. Họ mang theo
phong tục dùng thực phẩm truyền thống, trong đó có sản phẩm quế. Mặt khác
họ cũng thường dùng sản phẩm này để làm dược liệu. Chính vì thế tương lai
mặt hàng quế sẽ vẫn tiếp tục được buôn bán sôi động trên thế giới.

- Ở các nước đang phát triển, dự đoán nhu cầu tiêu thụ quế sẽ tăng nhanh hơn ở
các nước phát triển do ngành công nghiệp chế biến thực phẩm sẽ rất phát triển
bởi sự tăng dân số, tăng thu nhập sẽ kích thích tiêu dùng các sản phẩm có sử

dụng quế như mỹ phẩm, đồ uống











CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU QUẾ
CỦA VIỆT NAM

IV. THỰC TRẠNG SẢN XUẤT QUẾ Ở VIỆT NAM

3. Những thuận lợi và khó khăn trong ngành sản xuất quế
1.1 Những thuận lợi

Đối với các ngành sản xuất nông- lâm nghiệp như sản xuất quế chẳng hạn thì
điều kiện tự nhiên là một nhân tố rất quan trọng quyết định đến sản phẩm. Việt
Nam là một trong số ít nước được thiên nhiên ban tặng cho những điều kiện tự
nhiên rất thuận lợi để cho cây quế phát triển. Ngành sản xuất quế của Việt Nam có
những thuận lợi chủ yếu sau đây:


1.1.1 Điều kiện khí hậu và đất đai:


Thứ nhất là về khí hậu: Khí hậu nước ta cơ bản là khí hậu nhiệt đới ẩm, ở
miền Bắc tuy có một mùa đông không lạnh lắm nên cây trồng có thể sinh trưởng
xanh tốt quanh năm. Việt Nam có lượng mưa và độ ẩm bình quân hàng năm rất
cao, điều này rất phù hợp cho cây quế, một loài cây ưa ẩm phát triển. Tính chất
biến động mạnh mẽ cũng là một đặc trưng của khí hậu nhiệt đới ẩm ở nước ta. Thể
hiện rõ nhất là sự thay đổi khí hậu theo mùa trong năm và nhiệt độ trong ngày,
trong vùng, sự biến động này nhiều khi trái ngược nhau. Đây quả là một tài nguyên
phong phú để phát triển nông lâm nghiệp theo hướng chuyên môn hoá kết hợp với
phát triển tổng hợp, sản xuất hỗn giao nhiều loại cây có giá trị kinh tế trong đó có
cây quế.

Các vùng trồng quế ở nước ta như Yên Bái, Quảng Ninh, Thanh Hoá, Nghệ
An, Quảng Nam, Quảng Ngãi đều có khí hậu nhiệt đới ẩm thuận lợi cho cây quế
phát triển. Ở các vùng nói trên, nhiệt độ bình quân hàng năm đều cao hơn cả nước,
ví dụ Móng Cái, Tiên Yên 22,5
0
C, Thường Xuân 23
0
C, Nghệ An 23,9
0
C. Bên
cạnh đó tổng bức xạ mặt trời lớn, trung bình đạt từ 110- 120 kcal/cm/năm, điều
này đảm bảo cho sự hình thành tinh dầu trong lá và cành của cây quế. Một điều
kiện thuận lợi khác là, lượng mưa bình quân của nước ta cũng rất cao, trung bình
đạt 1500- 2000 mm/năm cùng với nhiệt độ cao như thế dẫn đến độ ẩm có thừa để
cây quế có thể sinh trưởng tốt. Như vậy với khí hậu nhiệt đới ẩm như Việt Nam là
một trong số ít nước có khả năng trống cây quế. Đây có thể nói là điều kiện thuận
lợi nhất, một nhân tố quyết định đến chất lượng của cây quế.

Thứ hai là đất đai:


Khả năng đất đai có thể cho cây quế sinh trưởng và phát triển ở nước ta rất
lớn. Theo thống kê của các cán bộ ngành kiểm lâm thì nước ta có khoảng 10 triệu
héc ta đất đồi rừng trong đó đất có khả năng cho khai thác lâm nghiệp chiếm
khoảng 90%. Ở vùng đồi núi phía Đông Bắc và Tây Bắc có khoảng 1 triệu ha đất
tốt có thể cho khái thác trồng cây lâm sản dài ngày như cây quế. Ở vùng Đông Bắc
có khoảng gần 70 ngàn ha đất feralit màu vàng đỏ, có độ PH thích hợp để trồng

cây quế và được phân bố chủ yếu ở hai tỉnh Quảng Ninh và Lạng Sơn. Ở Tây Bắc
thì loại đất này có nhiều mùn hơn so với ở Đông Bắc và càng lên cao thì độ ẩm
của đất càng tăng, tầng đất càng dày và có độ phì nhiêu càng cao. Nhìn chung thì
loại đất feralít có độ ẩm cao và nhiều mùn này thì thích hợp với nhiều loại cây
không riêng gì cây quế. Chính vì vậy mà những địa phương có loại đất này thì cây
công nghiệp phát triển rất tốt và cho năng suất và chất lượng cao hơn hẳn các địa
phương khác. Chẳng hạn quế trồng ở Yên Bái, Nghệ An có năng suất và chất
lượng thường cao hơn ở Quảng Ninh. Nói chung ở miền Bắc nước ta diện tích có
khả năng trồng quế khoảng 30.000 đến 40.000 ha.

Đối với các tỉnh phía Nam, diện tích trồng quế ở các tỉnh từ Quảng Nam đến
Kông Tum ước tính khoảng 20.000 ha. Theo điều tra sơ bộ của ngành lâm nghiệp
thì nước ta có khoảng từ 70.000- 80.000 ha đất có khả năng trồng quế và phân bổ
chủ yếu ở các vùng sau:
- Vùng Đông Bắc 15.000 ha
- Vùng trung tâm ( dọc theo lưu vực sông Hồng và sông Đà): 30.000 ha
- Vùng khu IV cũ: 10.00 ha
- Duyên hải Trung Trung bộ: 20.000 ha
Đó là còn chưa kể đến các địa phương khác như khu vực Tây Nguyên có hàng
nghìn ha đất đang trong giai đoạn thử nghiệm trồng quế.
Như vậy nói về điều kiện tự nhiên: khí hậu và đất đai thì nước ta có điều kiện
hết sức thuận lợi để phát triển ngành sản xuất quế. Bên cạnh đó chúng ta cũng

phải xem xét tới các yếu tố khác như giống cây trồng, vốn đầu tư, lao động, kĩ
thuật chăm sóc… để có thể tận dụng tối đa các điều kiện tự nhiên.

1.1.2 Lợi thế kinh nghiệm sản xuất

Quế là một loài cây đặc sản quí hiếm đã được trồng từ lâu đời ở Việt Nam . việc
sản xuất quế từ lâu đã trở thành tập quán của bà con các dân tộc ít người ở các tỉnh
miền núi nước ta. Trước thời kì đổi mới, việc sản xuất quế chủ yếu dựa vào phong
tục tập quán và kinh nghiệm vốn có của cha ông để lại. Từ năm 1990 trở lại đây,

tình hình kinh tế xã hội đã có nhiều thay đổi, ngành sản xuất quế cũng được trú
trọng và từng bước được áp dụng khoa học kĩ thuật trong các khâu từ giống tới thu
hoạch, chế biến. Tuy nhiên về cơ bản ngành sản xuất quế ở nước ta vẫn dựa vào
những kinh nghiệm quí báu của cha ông để lại.
Qua hàng ngàn năm đúc kết kinh nghiệm, ngày nay việc trồng quế phải tuân thủ
các bước sau:

Về trồng quế: cây quế phải được trồng với mật độ thích hợp để tạo ra một tán
che phủ đất thích hợp để giữ độ ẩm cho đất, nhất là khi cây quế con nhỏ cần nhiều
nước. Kinh nghiệm này mang lại kết quả là tỉ lệ cây sống cao, chất lượng cây tốt.
Trên thực tế hiện nay nhiều nơi áp dụng phương thức nông lâm kết hợp trong sản
xuất quế, tức là người ta trồng cây công nghiệp dài ngày hoặc ngắn ngày như hoa
màu lương thực như ngô, sắn …để tạo một tán che thích hợp cho cây quế khi còn
non, vừa có tác dụng chống sói mòn vừa có tác dụng hạn chế cỏ dại, tăng độ mùn
trong đất, cải tạo rừng trong những năm đầu khi rừng chưa phát tán. Trong quá
trình trồng xen như vậy người trồng vừa chăm sóc cây quế, vừa chăm sóc các cây
công nghiệp khác, đây là một việc làm mang lại nhiều lợi ích thiết thực. Kinh
doanh theo phương thức nông- lâm kết hợp này cho thấy giá thành sản xuất một ha
quế không tăng lên bao nhiêu nhưng hiệu quả lại tăng lên đáng kể, ngoài sản lượng
quế còn thu được một lượng đáng kể các loại cây trồng khác. Cũng nhờ phương

thức này mà ở một số địa phương đã giải quyết được nhiều vấn đề trước mắt như
lương thực trong thời kì giáp hạt.

Về thu hoạch quế: thông thường ở nước ta quế được thu hoạch vào hai mùa, tuỳ
theo đặc điểm của từng vùng mà thời điểm khai thác khác nhau. ở các tỉnh phía
Bắc, quế thường được thu hoạch vào tháng 4- 5 hoặc tháng 9- 10 còn ở các tỉnh
phía Nam vụ xuân thu hoạch vào tháng 1- 2 và vụ mùa thu hoạch vào tháng 7- 10.
kinh nghiệm cho thấy thu hoạch vào thời kì này là lúc cây quế phát triển mạnh do
lượng mưa nhiều nên có nhiều nhựa nên dễ bóc vỏ, ít bị hư hao. Mặt khác thời gian
này ánh sáng mặt trời chiếu nhiều nên tỷ lệ tinh dầu nhiều và tập trung lại trong vỏ
cây.


Cây quế có đặc điểm là càng được trồng lâu năm thì vỏ càng dày, tỉ lệ dầu càng
cao, phẩm chất càng tốt. Tuy nhiên sau khoảng 10 năm khi cây quế đã ở tuổi
trưởng thành thì quá trình sinh trưởng sẽ chậm lại vì vậy không nên trồng cây quế
trong thời gian quá lâu vì như vậy sẽ không mạng lại hiệu quả kinh tế cao. Đối với
loại quế dùng làm thuốc chữa bệnh thì theo kinh nghiệm của cha ông ta trồng càng
lâu càng có giá trị cao. Nhưng số lượng quế dùng vào mục đích này không lớn lắm
mà quế chủ yếu dùng vào mục đích làm gia vị thực phẩm và dùng trong công
nghiệp mỹ phẩm. Tuỳ theo nhu cầu kinh tế mà xác định tuổi khai thác cho thích
hợp. Nhìn chung, khi cây quế có đường kính khoảng 20 cm thì có thể thu hoạch
được. Nhưng ở độ tuổi này thì vỏ quế chỉ có thể dùng làm gia vị thực phẩm, dùng
để sản xuất hàng tiêu dùng. Còn muốn dùng để làm dược liệu thì cần thời gian
trồng lâu hơn. Ngày nay nhu cầu về sản phẩm quế để sản xuất các mặt hàng tiêu
dùng vẫn chiếm đa số.

Như vậy tập quán sản xuất quế mà cha ông ta đã để lại có nhiều ưu điểm và đây
là một lợi thế cần được duy trì và sử dụng cho phù hợp với tình hình sản xuất và
xuất khẩu hiện nay.


1.1.3 Lợi thế về lao động
Hiện nay nước ta là một trong những nước có số dân đông trên thế giới, khoảng
gần 80 triệu người, trong đó số người ở độ tuổi lao động chiếm khoảng hơn 40
triệu và hơn 70% lao động lại thuộc về ngành nông, lâm nghiệp. Trình độ lao động
phổ thông của nước ta ngày càng được nâng cao tay nghề, chất lượng. Lao động
nông, lâm nghiệp của nước ta rất phong phú cả về tốc độ tăng tự nhiên và tỉ suất
huy động. Đây là một lợi thế rất lớn, một khả năng vật chất tiềm tàng mà không
phải bất cứ một quốc gia nào cũng có được. Tuy nhiên những năm qua lợi thế này
của Việt Nam vẫn chưa được khai thác một cách có hiệu quả. Vì vậy trong thời
gian tới việc khai thác nguồn nhân lực một cách tối ưu là việc làm cần thiết.
Sau đây là bảng thống kê số liệu dân số lao động ở nước ta.

Bảng 5: Số liệu thống kê dân số- lao động (Tính đến 1/7/2002)

×