Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Luận văn "Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt tại công ty bảo hiểm dầu khí việt Nam (PVI) " potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (666.01 KB, 93 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
Khoa kinh tế ngoại thương









Khoá luận tốt nghiệp

ĐỀ TÀI: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bảo hiểm
hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt tại công ty bảo hiểm dầu khí việt Nam
(PVI)



Sinh viên thực hiện: Cao Lê Thu
Trang
Lớp: A12 - K38
Giáo viên hướng dẫn: Phạm Thanh Hà






Hà Nội, 2003



Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Cao Lª Thu Trang A12– K38 §HNT
2

MỤC LỤC


Trang

BẢNG VIẾT TẮT

LỜI NÓI ĐẦU
01
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM HOẢ HOẠN

03
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BẢO HIỂM HOẢ HOẠN
03
1. Tác động của hoả hoạn tới đời sống và sản xuất kinh doanh
03
2. Sự cần thiết và tác dụng của Bảo hiểm hoả hoạn
04
3. Lịch sử ra đời và phát triển của Bảo hiểm hoả hoạn
06
II. NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HOẢ HOẠN VÀ CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT
08
1. Khái niệm
08
2. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm

08
2.1. Đối tượng
08
2.2. Phạm vi
09
a. Các rủi ro được bảo hiểm
09
b. Các rủi ro loại trừ.
12
3. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm
13
4. Phí bảo hiểm và phương pháp xác định phí bảo hiểm
15
5. Giám định và bồi thường tổn thất
27
6. Thủ tục yêu cầu bảo hiểm
29
7. Cơ sở pháp lý cho hoạt động bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt
ở Việt Nam

30
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Cao Lª Thu Trang A12– K38 §HNT
3


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM
HOẢ HOẠN VÀ CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT Ở CÔNG TY BẢO HIỂM
DẦU KHÍ VIỆT NAM (PVI)



32
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÔNG TY BẢO HIỂM DẦU KHÍ VIỆT NAM (PVI)
32
1. Vài nét về công ty
32
2. Tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty những năm qua
35
II. THỰC TRẠNG NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HOẢ HOẠN VÀ CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT Ở
CÔNG TY GIAI ĐOẠN 1998-2003

38
1. Công tác khai thác
39
1.1. Đơn bảo hiểm
40
1.2. Quy trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm
41
2. Công tác giám định và bồi thường
51
3. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất
56
4. Công tác tái bảo hiểm
58
5. Phân tích và đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh
58
III. THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRONG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HOẢ
HOẠN TẠI CÔNG TY

62

1. Thuận lợi
62
2. Khó khăn
63

CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BẢO HIỂM HOẢ HOẠN VÀ CÁC RỦI
RO ĐẶC BIỆT TẠI PVI




66
I. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN TRONG GIAI ĐOẠN ĐẾN NĂM 2010
66
I. Phương hướng phát triển của công ty
66
2. Dự báo thị trường Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt ở Việt
67
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Cao Lª Thu Trang A12– K38 §HNT
4

Nam
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
BẢO HIỂM HOẢ HOẠN VÀ RỦI RO ĐẶC BIỆT TẠI PVI
68
1. Một số kiến nghị từ phía Nhà nước
68
2. Một số giải pháp từ phía doanh nghiệp

70
2.1. Thực hiện chiến lược tiếp cận khách hàng một cách hiệu quả
70
2.2. Phân loại thị trường hợp lý
71
2.3. Gắn trách nhiệm của mình đối với khách hàng
72
2.4. Phát huy mọi thế mạnh của doanh nghiệp thành viên trực thuộc
Tổng công ty dầu khí Việt Nam
73
2.5. Nâng cao hiệu quả công tác giám định và bồi thường
74
2.6. Kiểm tra giám sát công tác đề phòng và hạn chế tổn thất.
75
2.7. Đào tạo và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đại lý, cộng tác viên
77
2.8. Tăng cưòng quan hệ với các tổ chức trong và ngoài nước
78

KẾT LUẬN


79
TÀI LIỆU THAM KHẢO
81


Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Cao Lª Thu Trang A12– K38 §HNT
5


BẢNG VIẾT TẮT

PVI
Petrovietnam Insurance
BHDK
Bảo hiểm dầu khí
TCT DKVN
Tổng công ty Dầu khí Việt Nam
KTKH
Kinh tế kế hoạch
BHNL
Bảo hiểm năng lượng
BHHH
Bảo hiểm hàng hải
BHKT
Bảo hiểm kỹ thuật

Hợp đồng
KD
Kinh doanh
CN
Chi nhánh
Phòng KD
Các phòng trực tiếp kinh doanh bảo hiểm
Phòng KH
Phòng kế hoạch
Phòng TBH
Phòng tái bảo hiểm
Phòng KT

Phòng kế toán
Phòng NVKD
Phòng nghiệp vụ kinh doanh
PCCC
Phòng cháy chữa cháy
GYCBH
Giấy yêu cầu bảo hiểm
GCNBH
Giấy chứng nhận bảo hiểm
NBH
Người bảo hiểm
GĐV
Giám định viên

LỜI NÓI ĐẦU

Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Cao Lª Thu Trang A12– K38 §HNT
6

Theo số liệu thống kê, hàng năm trên thế giới có khoảng trên 5 triệu vụ cháy lớn
nhỏ xảy ra ở tất cả các nước, gây thiệt hại hàng trăm tỷ USD, hàng trăm nghìn người bị
chết, hàng triệu người bị thương, hàng triệu gia đình phải sống cảnh “màn trời chiếu
đất”, mất việc làm, mất thu nhập. Hậu quả của hoả hoạn là không thể lường trước
được.
Người dân nước Anh khó có thể quên đám cháy lớn chưa từng thấy xảy ra vào
ngày 2 tháng 9 năm 1666, kéo dài 7 ngày 8 đêm phá huỷ nhiều phố lớn ở thành phố
Luân Đôn nước Anh. Sức phá huỷ khốc liệt của vụ hoả hoạn đó đã làm cả thế giới phải
kinh hoàng. Chỉ với một mồi lửa nó đã thiêu rụi một nửa thành phố Luân Đôn, thiêu
hủy hoàn toàn 13200 ngôi nhà, 87 nhà thờ, trong đó có cả nhà thờ Saint Paul và trụ sở

của hãng Loyds.
Ở Việt Nam, do trình độ nhận thức về sử dụng và quản lý nguồn lửa còn hạn chế,
thêm vào đó là phương tiện phòng cháy còn rất lạc hậu, số lượng nhà lá, nhà tạm bợ
còn nhiều và thường tập trung, ngõ ngách lại rất nhỏ, nguy cơ hoả hoạn là rất cao,
trong khi các biện pháp đề phòng hạn chế rủi ro còn chưa đầy đủ và hiện đại. Trong
những năm gần đây, xã hội Việt Nam càng phát triển thì tình hình hoả hoạn ngày càng
nghiêm trọng hơn và nó đang tác động to lớn đến nhiều mặt đời sống kinh tế xã hội, ví
dụ như: vụ hoả hoạn tại chợ Đồng Xuân năm 1994, vụ hoả hoạn tại Trung tâm thương
mại quốc tế năm 2002. Hoả hoạn với sự tàn phá khốc liệt của nó đã thật sự là nỗi kinh
hoàng của nhân dân ta từ xưa tới nay. Cha ông ta coi giặc lửa cũng nguy hiểm không
kém so với các loại giặc khác. “Thuỷ, hoả, đạo tặc giặc phá không bằng nhà cháy”
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, với quy mô của nền kinh tế ngày càng
tăng, công tác phòng cháy chữa cháy cần được các cấp các ngành từ trung ương đến
địa phương quan tâm hơn nữa. Công tác phòng cháy chữa cháy cần phải được phối kết
hợp giữa cơ quan cảnh sát phòng cháy chữa cháy với các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh và người dân. Chỉ có phối kết hợp thường xuyên và chặt chẽ thì công tác này
mới đạt hiệu quả cao.
Có thể nói, hoả hoạn chính là mối đe doạ thường trực rất lớn và tác động sâu sắc
đến hoạt động sản xuất nói chung. Chính vì tính chất đặc biệt nghiêm trọng đó mà bảo
hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt có vai trò và tác dụng sâu sắc. Bảo hiểm hoả hoạn
thực hiện nguyên tắc số đông bù số ít, gây dựng những quỹ bồi thường để bù đắp kịp
thời những thiệt hại do hoả hoạn gây ra, ổn định tài chính cho người được bảo hiểm và
ổn định xã hội. Mặt khác, do tính chất kết hợp đã nêu trên, bảo hiểm hoả hoạn còn có
khả năng thúc đẩy các đơn vị tham gia bảo hiểm thực hiện công tác phòng cháy chữa
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Cao Lª Thu Trang A12– K38 §HNT
7

cháy, tăng cường tính tự chủ của các đơn vị trong việc phục hồi khả năng sản xuất kinh
doanh sau hoả hoạn và tạo ra sự ổn định lớn trong nền kinh tế.

Tại Việt Nam, kể từ sau Nghị định 100/CP ngày 18 tháng 12 năm 1993 của chính
phủ về việc kinh doanh bảo hiểm, hoạt động bảo hiểm bắt đầu sôi động và phát triển,
có nhiều nghiệp vụ mới bắt đầu được triển khai trong đó có nghiệp vụ bảo hiểm hoả
hoạn và các rủi ro đặc biệt. Đây là một nghiệp vụ có nhiều tiềm năng phát triển và là
một trong những nghiệp vụ quan trọng của nhiều công ty Bảo hiểm, đặc biệt là Công ty
bảo hiểm dầu khí Việt Nam.
Nhận thức được tầm quan trọng của bảo hiểm hoả hoạn và giải pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ, sau một thời gian thực tập tại phòng Bảo hiểm kỹ
thuật của Công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam (PVI), được sự giúp đỡ và tạo mọi điều
kiện của công ty và sự hướng dẫn rất nhiệt tình của cô giáo Phạm Thanh Hà, em đã
chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động Bảo hiểm hoả
hoạn và các rủi ro đặc biệt tại công ty Bảo hiểm dầu khí Việt Nam (PVI)”.
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và dựa vào tình hình thực tế tại công ty Bảo hiểm
dầu khí Việt Nam, kết hợp với các phương pháp phân tích- tổng hợp, phương pháp đối
chiếu- so sánh, phương pháp mô tả và khái quát hoá đối tượng nghiên cứu, em đã hoàn
thành luận văn này gồm 3 chương:
Chương I: Khái quát chung về bảo hiểm hoả hoạn
Chương II: Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro
đặc biệt ở công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam
Chương III: Một số các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
doanh bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt tại PVI
Luận văn này sẽ hệ thống hoá lý luận về nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi
ro đặc biệt trong điều kiện thực tiễn tại công ty Bảo hiểm dầu khí Việt Nam. Từ đó,
luận văn cũng đưa ra một số các giải pháp cơ bản, phù hợp với đặc tính của công ty
giúp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của nghiệp vụ kinh doanh bảo hiểm còn
khá mới này.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình và thiết thực của Cô giáo Phạm
Thanh Hà và sự giúp đỡ nhiệt tình của các anh chị trong phòng bảo hiểm kỹ thuật của
PVI đã giúp em hoàn thiện luận văn này.
Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Cao Lª Thu Trang A12– K38 §HNT
8

CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM HOẢ HOẠN

I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BẢO HIỂM HOẢ HOẠN
1. Tác động của hoả hoạn tới đời sống và sản xuất kinh doanh
Hoả hoạn ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống và sinh hoạt của nhân dân. Hoả hoạn
có thể thiêu huỷ một toà nhà, một công trình kiến trúc, một khối lượng tài sản nhất
định. Ngoài ra, hoả hoạn còn ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người bị hại. Nếu
không may gặp hoả hoạn thì một gia đình hay một khu vực dân cư có thể gặp nhiều
khó khăn về chỗ ở, điều kiện sinh hoạt. Sau vụ hoả hoạn, cuộc sống của dân cư có thể
bị đảo lộn hoàn toàn và phải mất một khoảng thời gian rất dài mới ổn định cuộc sống.
Cũng cần phải tính đến tác động gây ô nhiễm của nó tới môi trường sống, ảnh hưởng
đến sức khoẻ của dân cư nói chung.
Hoả hoạn cũng gây bất ổn trong xã hội. Việc giữ gìn an ninh chính trị và ổn định
xã hội là mục tiêu của các quốc gia trên toàn thế giới. Khi một xã hội hoặc một bộ phận
của xã hội không ổn định thì chính phủ sẽ tốn rất nhiều công sức tìm ra biện pháp khắc
phục.
Cho dù hoả hoạn xảy ra ở đâu đi chăng nữa thì nó cũng có nhiều tác động xấu đến
an ninh xã hội. Hoả hoạn xảy ra ở một nhà máy, một xí nghiệp sẽ làm đình trệ sản xuất
kinh doanh. Khi sản xuất bị đình trệ, kinh doanh bị gián đoạn kéo theo công nhân của
nhà máy bị thất nghiệp. Nếu hoả hoạn xảy ra ở khu vực dân cư sẽ làm cho cuộc sống
của một số người trở nên khó khăn. Chính những người mất việc hay mất của cải này
là một gánh nặng đối với xã hội.
Chính vì vậy mỗi người dân, mỗi tổ chức, doanh nghiệp nên thực hiện các công
tác đề phòng hạn chế cháy nổ, hạn chế các thiệt hại khi xảy ra hoả hoạn. Trong thực tế
phòng tránh hoả hoạn có thể thực hiện theo nhiều phương pháp khác nhau, tuy nhiên có
ba biện pháp sau là cơ bản:
Loại bỏ rủi ro

Chấp nhận rủi ro
Chuyển giao rủi ro
- Loại bỏ rủi ro: Đây là biện pháp lâu đời với việc sử dụng các biện pháp phòng
cháy chữa cháy kết hợp với các quá trình sơ tán và cứu chữa tài sản, con người. Trong
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Cao Lª Thu Trang A12– K38 §HNT
9

quá trình phát triển của mình, biện pháp loại bỏ rủi ro không phải là một biện pháp tối
ưu nhất trong loại bỏ những tổn thất. Thực chất đây chỉ là biện pháp “đề phòng và hạn
chế” những tổn thất có thể và do vậy khi tổn thất đã xảy ra, thì vẫn có những thiệt hại
(trong trường hợp khả năng phòng cháy chữa cháy không đạt hiệu quả cao). Ngày nay,
loại bỏ rủi ro đã có những bước tiến đáng kể trong công tác đề phòng và hạn chế tổn
thất có thể xảy ra được nhiều nước trên thế giới coi là biện pháp bắt buộc đối với các
đơn vị kinh tế của mình.
- Chấp nhận rủi ro: chấp nhận rủi ro là biện pháp tài chính trong đó các đơn vị tự
trích lập các quỹ dự phòng chung để bồi thường các tổn thất có thể xảy ra. Việc trích
lập các quỹ này có nhiều hạn chế do khả năng tài chính cũng như số đơn vị tham gia
góp quỹ chung là có hạn và quỹ bồi thường không lớn nên chỉ có khả năng bù đắp
những rủi ro tổn thất tương đối nhỏ.
- Chuyển giao rủi ro: là hình thức phổ biến hiện nay, chuyển giao rủi ro có nghĩa
là đơn vị có tài sản có nguy cơ gặp rủi ro sẽ được một số đơn vị khác đảm bảo một
phần an toàn cho tài sản đó. Chuyển giao rủi ro thực chất là tham gia bảo hiểm hoả
hoạn. Đây là biện pháp toàn diện nhất do nó có khả năng khôi phục lại tài chính của
đơn vị sau khi tổn thất xảy ra, bất kể đó là tổn thất lớn hay nhỏ. Bảo hiểm hoả hoạn
thực chất còn là biện pháp kết hợp với sự tham gia của cả hai biện pháp trên.
+ Thứ nhất: việc đề phòng hạn chế tổn thất hoả hoạn là bắt buộc đối với các
đơn vị kinh tế qua công tác phòng cháy chữa cháy.
+ Thứ hai: các công ty bảo hiểm có thể đề ra mức miễn thường (có khấu trừ
hoặc không khấu trừ) để giảm mức phí, đồng thời buộc các đơn vị tham gia phải chịu

một phần trách nhiệm đối với tổn thất bằng trích lập quỹ dự phòng tổn thất nhỏ. Cho
dù bằng cách này hay bằng cách khác thì sự phối hợp giữa công ty bảo hiểm với người
được bảo hiểm là rất cần thiết.
2. Sự cần thiết và tác dụng của Bảo hiểm hoả hoạn
Bảo hiểm hoả hoạn là một biện pháp chuyển giao rủi ro hoả hoạn tối ưu nhất. Nó
có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giữ ổn định hoạt động kinh tế, tăng cường hạn
chế tổn thất và tạo nguồn vốn đầu tư lớn cũng như đóng góp vào nguồn ngân sách quốc
gia. Không ai có thể phủ nhận vai trò của bảo hiểm hoả hoạn, với các đặc tính ưu việt
của mình, bảo hiểm hoả hoạn ngày càng chiếm ưu thế và trở thành một trong những
nghiệp vụ bảo hiểm quan trọng nhất trong hệ thống bảo hiểm nói chung.
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Cao Lª Thu Trang A12– K38 §HNT
10

Ngày nay, khi khoa học kĩ thuật càng phát triển, ý thức phòng cháy chữa cháy
(PCCC) tương đối tốt, tuy nhiên không có một sự bảo đảm nào chắc chắn rằng có hệ
thống PCCC có thể ngăn ngừa hoàn toàn các yếu tố rủi ro như sét đánh, sơ suất của con
người, do thời tiết khô hạn. Tại các nước chậm phát triển, công nghệ còn lạc hậu, đặc
biệt là ý thức PCCC của người dân còn kém nên cháy thường xuyên xảy ra nhiều hơn.
Bảo hiểm cháy là một hình thức chuyển giao, tài trợ rủi ro, trong đó người bảo
hiểm chấp nhận gánh vác phần tổn thất tài chính khi rủi ro xảy ra. Thông qua việc bồi
thường một cách hợp lý, kịp thời, chính xác, trung thực đã giúp cho các tổ chức, cá
nhân nhanh chóng khắc phục được thiệt hại. Đặc biệt khi tất cả các công ty phải hạch
toán kinh doanh độc lập trong nền kinh tế thị trường thì bảo hiểm vẫn sẽ là tấm lá chắn
kinh tế cuối cùng tạo sự ổn định sản xuất kinh doanh. Đồng thời bảo hiểm cũng thể
hiện tính cộng đồng tương trợ nhân văn sâu sắc.
Nhờ có bảo hiểm những người tham gia bảo hiểm đóng góp một số phí xây dựng
nên quỹ tiền tệ tập trung. Quỹ này sẽ bồi thường tổn thất cho người được bảo hiểm và
một phần phí bảo hiểm sẽ được các công ty bảo hiểm đầu tư vào các lĩnh vực theo quy
định của pháp luật, nhằm thu hút được lợi nhuận để phát triển và tăng trưởng quỹ, góp

phần vào sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân.
Ngoài ra, khi tham gia bảo hiểm, các chủ thể của nền kinh tế không những được
đền bù thiệt hại khi tổn thất xảy ra mà còn không phải nộp quỹ dự phòng đề phòng tổn
thất. Do đó khả năng tài chính của người tham gia bảo hiểm sẽ tăng lên, quy mô sản
xuất sẽ mở rộng và giá thành sản phẩm giảm dẫn đến giá cả giảm, đem lại lợi ích cho
người tiêu dùng.
Mặt khác, để giảm thiểu được thiệt hại mà cháy có thể gây ra người ta thường sử
dụng biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất. Khi tham gia bảo hiểm, nhà bảo hiểm
cùng với người tham gia bảo hiểm sẽ thực hiện các biện pháp để phòng ngừa rủi ro xảy
ra, cố vấn về cách PCCC, tuyên truyền ý thức PCCC, xây dựng cơ sở thiết bị
PCCC.v v. nhằm giảm bớt và hạn chế hậu quả thiệt hại. Việc đề phòng và hạn chế tổn
thất làm yên tâm cho chủ hợp đồng và những người dân sống xung quanh những vùng
trước đây thường hay có cháy xảy ra, đảm bảo an ninh trật tự cho xã hội.
Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường hiện nay, bảo hiểm hoả hoạn có vai trò đặc
biệt quan trọng bởi khi tham gia bảo hiểm hoả hoạn, các chủ hợp đồng này dễ dàng
nhận được sự trợ giúp về vốn của chủ đầu tư, các ngân hàng thương mại, các bạn hàng
vì họ biết rằng họ có thể thu hồi được vốn ngay cả khi khách hàng của họ bị rủi ro, tổn
thất sẽ được bồi thường bởi các công ty bảo hiểm. Điều này làm cho hệ thống lãi suất
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Cao Lª Thu Trang A12– K38 §HNT
11

bên ngân hàng ổn định, tiền tệ lưu thông bình thường ngay cả khi có nhiều vụ cháy lớn
xảy ra liên tiếp.

3. Lịch sử ra đời và phát triển của Bảo hiểm hoả hoạn
3.1. Trên thế giới
Từ khi phát hiện ra lửa cuộc sống của con người đã thay đổi hoàn toàn, từ chỗ
chỉ “ăn tươi nuốt sống” con người chuyển sang ăn chín, từ chỗ phải sống rất khổ sở
trong mùa đông lạnh giá con người đã biết dùng lửa để sưởi ấm. Nhưng cũng vì có lửa

mà con người biết đến sự tàn phá khốc liệt của hoả hoạn, hoả hoạn đã gây ra cho con
người biết bao kinh hoàng. Khi xã hội ngày càng phát triển, của cải vật chất sản xuất ra
nhiều hơn, thiệt hại khi xảy ra hoả hoạn ngày càng lớn hơn thì cũng đã làm phát sinh
nhu cầu bảo hiểm hoả hoạn. Bảo hiểm hoả hoạn là một trong những biện pháp tối ưu
nhất để hạn chế tác động của hoả hoạn.
Năm 1591, hiệp hội Bảo hiểm cháy đầu tiên ra đời ở Đức mang tên Feuercasse.
Một thời gian ngắn sau đó đã xuất hiện thêm một số công ty nữa, nhưng nhu cầu về
bảo hiểm hoả hoạn chưa thật sự lớn nên tính chất và quy mô hoạt động của các công ty
mang nặng tính tự phát và đã không tạo được các bước phát triển quan trọng. Phải đợi
đến gần một thế kỷ sau thì bảo hiểm hoả hoạn mới chính thức ra đời ở Anh.
Giữa thế kỷ XVII (năm 1666) đã xảy ra vụ cháy khủng khiếp ở thành phố Luân
Đôn, thủ đô nước Anh. Vụ cháy kéo dài 7 ngày 8 đêm thiêu huỷ gần như toàn bộ thành
phố. Ngoài ra còn những thiệt hại về người và của vô cùng to lớn không thể thống kê
hết. Những thiệt hại này ảnh hưởng đến một bộ phận lớn dân chúng. Đám cháy là nỗi
kinh hoàng chưa từng thấy của người dân Luân Đôn, nó đã làm xuất hiện nhu cầu bảo
hiểm hoả hoạn. Ý thức được tầm quan trọng của bảo hiểm cháy ngay từ năm 1667, các
nhà chức trách thành phố Luân Đôn đã mở văn phòng bảo hiểm cháy đầu tiên. Sau đó
năm 1681, công ty bảo hiểm cháy đầu tiên ra đời lấy tên là Friendly Society Fire
Office. Công ty hoạt động trên nguyên tắc tương hỗ với hệ thống phí ổn định và quy
định người được bảo hiểm phải chịu một phần tổn thất do hoả hoạn gây ra. Sau đó có
một số công ty bảo hiểm ra đời ở Anh như Amicable (1696), West Minster (1717).
Phần lớn các công ty này vẫn duy trì hoạt động. Các công ty bảo hiểm cháy của nước
Anh hoạt động khá hiệu quả và bảo hiểm cháy đã phát triển rộng sang Châu Âu và Bắc
Mỹ. Công ty bảo hiểm cháy đầu tiên thành công trên đất Mỹ là một công ty bảo hiểm
tương hỗ, do Benjamin Franklin và một số thành viên khác sáng lập năm 1752 mang
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Cao Lª Thu Trang A12– K38 §HNT
12

tên Philadelphia Contribution Ship- công ty chuyên bảo hiểm cháy cho nhà cửa. Sau đó

vào năm 1792 công ty cổ phần bảo hiểm cháy đầu tiên được thành lập dưới tên The
Insurance Company of North America. Đến đây đã đánh dấu một thời kỳ mới cho sự
phát triển toàn diện của bảo hiểm hoả hoạn trên thế giới, đặc biệt là Châu Âu và Bắc
Mỹ.
Như vậy, bảo hiểm hoả hoạn là một trong những nghiệp vụ bảo hiểm ra đời tương
đối sớm trên thế giới. Sau nhiều năm bảo hiểm hoả hoạn đã khẳng định được vai trò
của mình trong hệ thống bảo hiểm nói chung.
Ngày nay, bảo hiểm hoả hoạn có mặt ở khắp các châu lục và ở hầu hết các công
ty Bảo hiểm phi nhân thọ đều triển khai nghiệp vụ này. Rất nhiều công ty bảo hiểm hoả
hoạn làm ăn có hiệu quả cao với doanh thu phí khá cao, chiếm một tỷ trọng lớn trong
tổng phí thu bảo hiểm nói chung.
3.2. Tại Việt Nam
Tại Việt Nam nghiệp vụ này chỉ chính thức được tiến hành từ năm 1989 sau khi
có quyết định số 06/TCQĐ của Bộ tài chính. Ngay sau đó tức là năm 1990 đã có 16
công ty thành viên của Bảo Việt triển khai nghiệp vụ với giá trị tài sản hơn 6000 tỷ
VNĐ tham gia bảo hiểm và đến năm 1994 tổng tài sản được bảo hiểm lên tới gần
27000 tỷ VNĐ. Sau khi có các thông tư, chỉ thị của hội đồng bộ trưởng (thủ tướng
chính phủ) cũng như của Bộ tài chính ra đời góp phần thúc đẩy nghiệp vụ này phát
triển mạnh mẽ, toàn diện. Đặc biệt sau vụ hoả hoạn tại công ty liên doanh sản xuất giầy
Hiệp Hưng ở TPHCM ngày 22/7/1993 với mức thiệt hại lên đến 14 tỷ VND, đã khẳng
định vai trò của Bảo hiểm trong việc bảo toàn vốn của doanh nghiệp. Chính vì vậy kể
từ năm 1994, Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam bắt đầu tiến hành triển khai trên khắp
các tỉnh, thành trong cả nước. Nghiệp vụ này có doanh thu phí cao và ngày càng chiếm
tỷ trọng lớn so với các nghiệp vụ bảo hiểm khác.
Mặc dù mới triển khai nhưng nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn đang có tốc độ phát
triển rất nhanh, là một trong những nghiệp vụ có doanh thu cao và đạt hiệu quả kinh
doanh rất tốt. Một trong các yếu tố thúc đẩy nghiệp vụ bảo hiểm cháy phát triển là do
Nghị định 42/CP ngày 16/07/1996 buộc các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
phải mua bảo hiểm tại các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam. Đây là điều có ý nghĩa to
lớn với các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam còn non trẻ. Nó đã mở ra một khu vực

khách hàng có tiềm năng lớn cho các doanh nghiệp bảo hiểm khai thác. Đặc biệt là
nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn được quy định bắt buộc, với tổng giá trị tham gia bảo
hiểm lên tới 20 tỷ USD.
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Cao Lª Thu Trang A12– K38 §HNT
13

Nói tóm lại, bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt là nghiệp vụ đang có nhu
cầu lớn trên thị trường và là nguồn doanh thu chính của các công ty bảo hiểm Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay. Trong tương lai không xa khi nhận thức của người dân
về vai trò, tầm quan trọng của bảo hiểm cháy được nâng cao thì bảo hiểm cháy sẽ còn
phát triển mạnh mẽ hơn nữa và có nhiều đóng góp cho sự phát triển của thị trường bảo
hiểm và nền kinh tế Việt Nam.
II. NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HOẢ HOẠN VÀ CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT
1.Khái niệm
Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt là bảo hiểm những thiệt hại do cháy và
các rủi ro tương tự hay các rủi ro đặc biệt như: động đất, bão lụt, núi lửa, sét đánh.v v
gây ra cho đối tượng bảo hiểm.
Chúng ta cần nắm bắt một số thuật ngữ:
- Hoả hoạn: là cháy xảy ra không kiểm soát được ngoài nguồn lửa chuyên
dùng, gây thiệt hại cho tài sản và con người.
- Đơn vị rủi ro: là nhóm tài sản tách biệt khỏi nhóm tài sản khác, với khoảng
cách không cho phép từ nhóm này lan sang nhóm khác. Khoảng cách này gần nhất
không dưới 12m, mục đích để quy vùng trách nhiệm bồi thường.
- Tài sản: bao gồm tất cả các loại tài sản trừ những loại tài sản bị thiệt hại do
những rủi ro loại trừ.
Tài sản ở đây phải là tài sản thuộc quyền sử dụng hay quyền quản lý của người
được bảo hiểm ghi trên giấy bảo hiểm. Đồng thời tài sản đó phải nằm trong phạm vi
bảo hiểm.
- Tổn thất toàn bộ, gồm:

+ Tổn thất toàn bộ thực tế: là tài sản bảo hiểm bị phá huỷ hoàn toàn hoặc hư hỏng
nghiêm trọng đến mức không thể phục hồi được như trạng thái ban đầu.
+ Tổn thất toàn bộ ước tính: là tài sản được bảo hiểm bị phá huỷ hoặc hư hỏng
đến mức nếu sửa chữa phục hồi thì số tiền phải bỏ ra sẽ bằng hoặc lớn hơn số tiền bảo
hiểm và người được bảo hiểm có hành động từ bỏ đối tượng bảo hiểm đó.
- Mức miễn bồi thường
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Cao Lª Thu Trang A12– K38 §HNT
14

Là số tiền tổn thất mà người được bảo hiểm tự gánh chịu cho mỗi vụ hoặc mỗi
tổn thất.
2. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm
2.1. Đối tượng
Đối tượng của bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt là các tài sản, kho tàng,
vật kiến trúc, công trình xây dựng, nhà máy, xí nghiệp và hàng hoá để trong kho, lưu
kho, nguyên vật liệu, thành phẩm, bán thành phẩm, tài sản thuộc quyền sở hữu và quản
lý hợp pháp của các đơn vị sản xuất kinh doanh, các cá nhân, tổ chức và mọi thành
phần kinh tế trong xã hội.
2.2. Phạm vi
Trong bảo hiểm, quan hệ bảo hiểm được xác lập trên cơ sở của sự đồng ý giữa
người tham gia và nhà bảo hiểm. Người tham gia bảo hiểm đồng ý đóng phí cho nhà
bảo hiểm, bù lại nhà bảo hiểm sẽ bồi thường cho người tham gia khi có tổn thất như đã
thoả thuận trong hợp đồng. Do tính pháp lý của hợp đồng nên mọi thuật ngữ trong hợp
đồng cần được hiểu rõ ràng theo một nghĩa duy nhất nhằm tránh những tranh chấp
pháp lý sau này. Trong bảo hiểm hoả hoạn cũng vậy, đơn bảo hiểm hoả hoạn là cơ sở
pháp lý cho quan hệ bảo hiểm hoả hoạn, do đó mọi khái niệm và thuật ngữ sử dụng
trong đơn này đều thống nhất.
- Phạm vi bảo hiểm: là một thuật ngữ nêu rõ các trường hợp mà nếu tổn thất xảy
ra trong các trường hợp đó thì sẽ được nhà bảo hiểm bồi thường, bao gồm:

+ Những thiệt hại do những rủi ro được bảo hiểm gây ra cho tài sản được bảo
hiểm ghi trong Giấy chứng nhận bảo hiểm (hoặc danh mục kèm theo Giấy chứng nhận
bảo hiểm) nếu người được bảo hiểm đã nộp phí bảo hiểm và những thiệt hại ấy xảy ra
trước 16 giờ ngày cuối cùng của thời hạn bảo hiểm ghi trong giấy chứng nhận bảo
hiểm.
+ Chi phí cần thiết và hợp lý nhằm hạn chế tổn thất tài sản được bảo hiểm trong
và sau khi cháy.
+ Ngoài ra nhà bảo hiểm cũng sẽ bồi thường cho người tham gia cả chi phí thu
dọn hiện trường sau khi cháy nếu chi phí này được ghi rõ trong giấy chứng nhận bảo
hiểm là được bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm nộp thêm phí theo một tỷ lệ quy
định.
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Cao Lª Thu Trang A12– K38 §HNT
15

Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, trách nhiệm của nhà bảo hiểm không vượt quá
số tiền bảo hiểm của mỗi hạng mục tài sản ghi trong danh mục hoặc gộp lại không vượt
quá tổng số tiền bảo hiểm ghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm.
a. Các rủi ro được bảo hiểm
Rủi ro bảo hiểm là sự cố không chắc chắn xảy ra, không ai biết xảy ra vào ngày
giờ nào, rủi ro có thể xảy ra vào bất cứ lúc nào, nó mang tính khách quan và bất ngờ,
nó có thể gây ra hư hỏng và thiệt hại cho đối tượng được bảo hiểm. Trong bảo hiểm
hoả hoạn, các rủi ro bao gồm:
+ Rủi ro chính (rủi ro nhóm A): hoả hoạn
+ Rủi ro phụ: nổ, sét, nổi loạn, bạo lực dân sự, máy bay rơi các rủi ro này đều
thuộc phạm vi bảo hiểm.
Các rủi ro được bảo hiểm.
- Rủi ro chính (rủi ro nhóm A)
 Cháy: theo định nghĩa cháy là phản ứng hoá học có toả nhiệt và phát ra ánh
sáng.

Như vậy cháy là một hiện tượng bao gồm 3 yếu tố:
+ Phản ứng hoá học
+ Toả nhiệt
+ Phát sáng
thì mới được gọi là cháy. Ví dụ, bóng đèn điện có toả nhiệt, phát sáng nhưng
không phải là phản ứng hoá học nên không được gọi là cháy. Không phải đám cháy
nào cũng là hoả hoạn, hoả hoạn phải bao gồm 3 yếu tố:
+ Cháy phải thực sự có phát lửa
+ Lửa đó không phải là lửa chuyên dùng
+ Lửa đó phải bất ngờ hay ngẫu nhiên phát ra
Khi có đủ 3 điều kiện đó thì những thiệt hại vật chất do hoả hoạn gây ra sẽ được
bồi thường cho dù thiệt hại vật chất do ảnh hưởng của khói và nhiệt gây ra. Trường
hợp hoả hoạn xảy ra do bất cẩn của người tham gia cũng vẫn thuộc phạm vi trách
nhiệm bồi thường.
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Cao Lª Thu Trang A12– K38 §HNT
16

 Sét: người được bảo hiểm sẽ được bồi thường khi tài sản bị phá huỷ trực tiếp do
sét hoặc do sét đánh gây cháy. Khi sét đánh mà không gây cháy hoặc không phá huỷ
trực tiếp tài sản thì không thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường.
 Nổ: là hiện tượng cháy cực nhanh tạo ra và giải phóng một áp lực lớn kèm theo
một tiếng động mạnh phát sinh từ sự giãn nở nhanh, mạnh của các chất lỏng, chất rắn
hoặc chất khí. Các rủi ro được bảo hiểm khi nổ xảy ra bao gồm:
+ Nổ nồi hơi phục vụ sinh hoạt
+ Nổ hơi đốt phục vụ sinh hoạt, thắp sáng, sưởi ấm trong một ngôi nhà không
phải là xưởng thợ làm các công việc sử dụng hơi đốt, nhưng loại trừ các thiệt hại do nổ
mà nguyên nhân gây nổ do động đất hoặc do lửa ngầm dưới đất gây ra.
- Rủi ro phụ: bên cạnh các rủi ro chính hay rủi ro cơ bản khách hàng có thể tham
gia bảo hiểm các rủi ro phụ dựa trên cơ sở ký kết hợp đồng và trả thêm phí bảo hiểm

cho nhà bảo hiểm.
 Rủi ro B: nổ
Khi mua rủi ro B, người được bảo hiểm sẽ được bảo hiểm cho các rủi ro nổ gây ra
tổn thất mặc dù nổ không gây cháy. Trong trường hợp nổ mà gây cháy thì đương nhiên
được bảo hiểm (rủi ro chính).
Các điều kiện loại trừ riêng trong rủi ro B:
+ Tài sản được bảo hiểm bị phá huỷ hay hư hại do nồi hơi, thùng đun nước bằng
hơi đốt, bình chứa, máy móc hoặc thiết bị mà áp suất bên trong hoàn toàn do hơi nước
tạo ra bị nổ (chứ không phải do cháy bắt nguồn từ nổ) nếu nồi hơi và những máy móc
thiết bị đó thuộc quyền sở hữu hay điều khiển của người được bảo hiểm. Chúng bị loại
trừ vì những rủi ro này thuộc bảo hiểm kỹ thuật.
+ Bình chứa, máy móc thiết bị hoặc chất liệu bên trong các dụng cụ đó bị hư hại
hay bị phá huỷ do nổ các chất liệu đó (loại trừ không áp dụng trong trường hợp cháy nổ
xăng dầu). Các rủi ro trên bị loại trừ để tránh bảo hiểm trùng với các đơn bảo hiểm kỹ
thuật.
Áp suất sóng gây ra do máy bay hoặc các phương tiện hàng không khác bay với
tốc độ bằng hay vượt quá tốc độ âm thanh không được coi là nổ.
 Rủi ro C: Máy bay hoặc các phương tiện hàng không khác hay các thiết bị trên
các phương tiện đó rớt trúng, nhưng loại trừ các tài sản bị phá huỷ hay hư hại bởi áp
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Cao Lª Thu Trang A12– K38 §HNT
17

suất sóng do máy bay, phương tiện hàng không khác bay với tốc độ ngang hoặc vượt
tiếng động âm thanh gây ra.
 Rủi ro E: Nổi loạn, bạo động dân sự, đình công, bế xưởng, hoặc hành động của
những người tham gia gây rối, bạo động hay hành vi ác ý nhưng không mang tính chất
chính trị.
Loại trừ tài sản bị:
- Mất mát hư hại do bị tịch thu, phá huỷ hoặc trưng dụng theo lệnh của chính

phủ hoặc nhà cầm quyền.
- Mất mát hư hại do ngừng công việc
 Rủi ro G: Động đất
 Rủi ro L: Lửa ngầm dưới đất
 Rủi ro N: giông bão, lũ lụt, nhưng loại trừ tổn thất sau:
- Tài sản bị phá huỷ hay hư hại do sương muối, sụt lở đất
- Hàng rào, cổng ngõ và các động sản ngoài trời bị phá huỷ hay hư hỏng
 Rủi ro P: Vỡ hay tràn nước từ các bể chứa, thiết bị chứa nước hay đường ống
dẫn, nhưng loại trừ tài sản bị phá huỷ hay hư hại do nước chảy, rò rỉ từ hệ thống thiết
bị phòng cháy chữa cháy tự động.
 Rủi ro Q: xe cộ hay súc vật không thuộc quyền sở hữu hay quyền kiểm soát của
người được bảo hiểm hay của người làm thuê cho họ đâm vào.
 Rủi ro S: nước chảy hay rò rỉ ra từ thiết bị vòi phun Sprinkle chữa cháy tự động
lắp đặt sẵn trong nhà nhưng loại trừ:
+ Thiệt hại do nước thoát ra rò rỉ từ hệ thống nước (Sprinkle) được lắp đặt tự
động.
+ Thiệt hại tại những công trình, ngôi nhà bỏ trống, không có người sử dụng.
b. Các rủi ro loại trừ.
Nhà bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt không chịu trách nhiệm bồi thường
những tổn thất sau đây:
- Những tài sản bị thiệt hại do:
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Cao Lª Thu Trang A12– K38 §HNT
18

+ Nổi loạn, bạo động dân sự, trừ khi những rủi ro này được xác nhận trong giấy
chứng nhận bảo hiểm là được bảo hiểm.
+ Chiến tranh, xâm lược, hành động thù địch của nước ngoài, chiến sự, nổi loạn,
nội chiến, khởi nghĩa, cách mạng, binh biến, bạo động, đảo chính.v v.
+ Các hành động khủng bố (sử dụng bạo lực nhằm mục đích chính trị).

- Bất kỳ tổn thất trực tiếp hay gián tiếp mà nguyên nhân gây ra có liên quan đến:
+ Phóng xạ ion hoá hay nhiễm phóng xạ từ nguyên liệu hạt nhân hay từ chất thải
hạt nhân do việc đốt cháy nhiên liệu hạt nhân.
+ Các thuộc tính phóng xạ, độc, nổ hoặc các thuộc tính nguy hiểm khác của thiết
bị nổ hạt nhân hay các bộ phận của thiết bị đó.
- Những hành động cố ý hay đồng loã của người được bảo hiểm gây ra.
- Những tổn thất về:
+ Hàng hóa nhận uỷ thác hay ký gửi trừ khi những hàng hóa này được xác nhận
trong giấy chứng nhận bảo hiểm là được bảo hiểm và người được bảo hiểm phải trả
thêm phí bảo hiểm theo tỷ lệ phí quy định.
+ Tiền, vàng, bạc, đá quý, chứng khoán, thư bảo lãnh, tem phiếu, tài liệu, bản
thảo, sổ sách kinh doanh, tài liệu lưu trữ trong máy tính, bản mẫu văn bằng, khuôn
mẫu, bản vẽ, tài liệu thiết kế trừ khi những hạng mục này được xác nhận trong giấy
chứng nhận bảo hiểm là được bảo hiểm.
+ Chất nổ
+ Người, động vật và thực vật sống
+ Những thiệt hại mà thời điểm xảy ra tổn thất được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm
hàng hải hoặc lẽ ra được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm hàng hải, trừ phần thiệt hại vượt
quá số tiền được bồi thường theo đơn bảo hiểm hàng hải hoặc lẽ ra được bồi thường
theo đơn bảo hiểm hàng hải và dù có hay không có bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc
biệt.
+ Tài sản bị cướp hay mất cắp
- Những thiệt hại mang tính hậu quả dưới bất kỳ hình thức nào (ví dụ như gián
đoạn kinh doanh, mất thu nhập, ô nhiễm môi trường ) trừ thiệt hại về tiền thuê nhà
nếu tiền thuê nhà được xác nhận trong giấy chứng nhận bảo hiểm là được bảo hiểm.
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Cao Lª Thu Trang A12– K38 §HNT
19

- Những thiệt hại gây ra cho bên thứ ba

- Những thiệt hại trong phạm vi mức miễn thường
3. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm
3.1. Giá trị bảo hiểm
Là giá trị của tài sản cần được bảo hiểm. Giá trị này có thể là giá trị thực tế, tức
là giá trị còn lại (đã trừ khấu hao hoặc hao mòn) của tài sản tại thời điểm mua bảo hiểm
hoặc giá trị thay thế, giá trị mua mới (không trừ khấu hao).
Giá trị bảo hiểm của những tài sản được xác định như sau:
- Giá trị bảo hiểm của nhà xưởng, nhà làm việc, nhà ở, nhà văn phòng được xác
định tuỳ theo giá trị xây mới (giá dự toán công trình) hoặc giá trị còn lại (giá trị xây
mới trừ đi khấu hao hoặc hao mòn do sử dụng theo thời gian).
- Giá trị của máy móc thiết bị và các tài sản cố định khác được xác định trên cơ sở
giá trị thay thế, tức giá mua mới cộng với chi phí vận chuyển và lắp đặt (nếu có) hoặc
giá trị còn lại (giá mua mới trừ đi khấu hao). Thông thường những tài sản cố định còn
mới hoặc tương đối mới (giá trị còn lại khoảng trên 70%) thì nên lấy theo giá trị thay
thế. Những tài sản giá trị còn dưới 70% thì nên lấy theo giá trị còn lại.
- Giá trị của thành phẩm, bán thành phẩm được xác định trên cơ sở giá thành sản
xuất, bao gồm chi phí nguyên vật liệu, tiền công lao động, khấu hao tài sản cố định và
chi phí quản lý, phí Trường hợp giá thành sản xuất cao hơn giá trị có thể bán được thì
lấy theo giá bán.
- Giá trị của hàng hoá mua về để trong kho, trong cửa hàng được xác định theo
giá mua (hoá đơn) cộng với chi phí vận chuyển.
3.2. Số tiền bảo hiểm
Trong bảo hiểm người ta bồi thường bằng tiền vì vậy mỗi đơn vị bảo hiểm đều
ghi số tiền bảo hiểm để làm cơ sở cho việc bồi thường. Số tiền bảo hiểm là giới hạn bồi
thường tối đa trong trường hợp tài sản được bảo hiểm bị tổn thất toàn bộ. Như vậy, số
tiền bảo hiểm là giới hạn trách nhiệm cao nhất của nhà bảo hiểm và là cơ sở quan trọng
để xác định phí bảo hiểm phải đóng.
Đối tượng bảo hiểm hoả hoạn là tài sản nên việc xác định chính xác giá trị tài sản
bị tổn thất tại thời điểm xảy ra rủi ro là một vấn đề quan trọng. Nó giúp nhà bảo hiểm
Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Cao Lª Thu Trang A12– K38 §HNT
20

chi trả tổn thất được chính xác và nó giúp cho người được bảo hiểm nhận đúng những
gì mà quyền lợi của họ phải được nhận. Số tiền bảo hiểm phải do người tham gia bảo
hiểm và nhà bảo hiểm thoả thuận trên cơ sở sổ sách kế toán của đơn vị tham gia bảo
hiểm và sự kiểm tra của nhà bảo hiểm. Nó có thể cao hơn (không quá 10%) thấp hơn
hoặc bằng giá trị bảo hiểm. Trong trường hợp người bảo hiểm muốn bảo hiểm tài sản
thấp hơn giá trị (nhưng tối thiểu không dưới 50% giá trị bảo hiểm) thì phải nói rõ và
ghi rõ trong giấy chứng nhận bảo hiểm số tiền bảo hiểm bằng bao nhiêu phần trăm giá
trị của tài sản được bảo hiểm (để khi bồi thường tổn thất bộ phận thì áp dụng nguyên
tắc bồi thường theo tỉ lệ).
Trong trường hợp số lượng tài sản (hàng hóa trong kho, trong cửa hàng )
thường xuyên thay đổi (tăng-giảm) thì có thể bảo hiểm theo giá trị trung bình hoặc giá
trị tối đa (còn gọi là giá trị điều chỉnh).
- Bảo hiểm theo giá trị trung bình
Trường hợp bảo hiểm theo giá trị trung bình, người tham gia bảo hiểm ước tính
và thông báo cho nhà bảo hiểm giá trị của số hàng hoá trung bình có trong kho, trong
cửa hàng trong thời hạn bảo hiểm. Giá trị trung bình này được coi là số tiền bảo hiểm.
Phí bảo hiểm ước tính trên cơ sở giá trị trung bình. Khi có tổn thất xảy ra thuộc trách
nhiệm bảo hiểm, nhà bảo hiểm bồi thường thiệt hại thực tế nhưng không vượt quá giá
trị trung bình đã khai báo.
- Bảo hiểm theo giá trị tối đa
Trong trường hợp này, số tiền bảo hiểm được xác định như sau:
+ Người tham gia bảo hiểm ước tính và thông báo cho nhà bảo hiểm giá trị của
số hàng hoá tối đa có thể đạt vào một thời điểm nào đó trong thời hạn bảo hiểm. Phí
bảo hiểm được tính trên cơ sở giá trị tối đa này nhưng chỉ thu trước 75%. Khi tổn thất
xảy ra thuộc trách nhiệm bảo hiểm, nhà bảo hiểm sẽ bồi thường thiệt hại thực tế nhưng
không vượt quá giá trị tối đa đã khai báo.
+ Đầu mỗi tháng hoặc mỗi quý (tuỳ theo sự thoả thuận của 2 bên) Người được

bảo hiểm thông báo cho nhà bảo hiểm số hàng tối đa thực có trong tháng hoặc trong
quý trước đó. Cuối thời hạn bảo hiểm, trên cơ sở các giá trị được thông báo, nhà bảo
hiểm tính giá trị số hàng tối đa bình quân của cả thời hạn bảo hiểm và tính lại phí bảo
hiểm trên cơ sở giá trị tối đa bình quân này. Nếu phí bảo hiểm được tính trên cơ sở giá
trị tối đa bình quân nhiều hơn số phí bảo hiểm đã nộp thì người được bảo hiểm trả
thêm cho nhà bảo hiểm số phí còn thiếu. Ngược lại, nếu số phí bảo hiểm đã nộp nhiều
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Cao Lª Thu Trang A12– K38 §HNT
21

hơn số phí bảo hiểm phải nộp thì nhà bảo hiểm sẽ hoàn trả số phí chênh lệch. Tuy
nhiên, số phí chính thức phải nộp không được thấp hơn 2/3 số phí đã nộp đầu năm.
4. Phí bảo hiểm và phương pháp xác định phí bảo hiểm
4.1. Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm là khoản tiền mà người tham gia bảo hiểm phải nộp cho cơ quan
bảo hiểm, để bảo hiểm những rủi ro mà họ tham gia. Phí bảo hiểm chính là giá cả của
dịch vụ bảo hiểm. Tính toán mức phí phù hợp với yêu cầu của khách hàng và đảm bảo
hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là mục tiêu phấn đấu của tất cả các
công ty bảo hiểm. Nó là một trong những nhân tố quyết định tính sống còn của doanh
nghiệp trong thị trường bảo hiểm cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.
Xét về mặt lý thuyết, phí bảo hiểm bao gồm hai phần phí: cơ bản và phụ phí.
Phí bảo hiểm = phí cơ bản + phụ phí
Trong đó: phí cơ bản được xác định dựa trên xác suất xảy ra rủi ro và số tiền bảo hiểm
Phí bảo hiểm = xác suất xảy ra rủi ro * số tiền bảo hiểm
Phần phụ phí thường bằng 30% thực phí bảo hiểm
Trong thực tế phí bảo hiểm gồm 2 phần: phí gốc và VAT
Trong đó: phí bảo hiểm được doanh nghiệp giữ lại còn VAT nộp cho nhà nước, thông
thường VAT = 10% phí bảo hiểm
Phí cơ bản được xác định như sau:
Phí cơ bản = Tỉ lệ phí bảo hiểm * Số tiền bảo hiểm

Tỉ lệ phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm sẽ là những cơ sở để xác định phí bảo hiểm.
* Giá trị bảo hiểm
Giá trị bảo hiểm là cơ sở đầu tiên và rất quan trọng để xác định phí bảo hiểm mà
người tham gia bảo hiểm phải đóng góp. Trong cùng một điều kiện, thì phí bảo hiểm sẽ
tỷ lệ thuận với giá trị của tài sản được bảo hiểm.
* Tỷ lệ phí bảo hiểm
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Cao Lª Thu Trang A12– K38 §HNT
22

Tuỳ vào từng loại công trình khác nhau, điều kiện phòng cháy chữa cháy
(PCCC) khác nhau thì sẽ có tỉ lệ phí khác nhau. Muốn xác định tỷ lệ phí bảo hiểm phải
dựa trên cơ sở sau:
- Vật liệu công trình: người ta chia làm 3 loại
+ Loại 1: vật liệu khó bắt lửa và có khả năng chịu nhiệt tốt như bê tông, cốt thép,
đá ;loại này sử dụng cho công trình loại D (Discount class: là công trình phải đạt các
yêu cầu về bộ phận chịu lửa và bộ phận không chịu lực).
+ Loại 2: vật liệu trung gian là loại vật liệu hỗn hợp chứa nhiều chất hoá học trộn
với vật liệu thiên nhiên, khả năng chịu lửa không tốt bằng vật liệu nặng; loại này sử
dụng cho công trình loại N (Neutral class: không đạt tiêu chuẩn như loại D nhưng ít
nhất các bộ phận chịu lực và các cấu kiện khác cũng phải làm bằng vật liệu khó cháy).
+ Loại 3: vật liệu nhẹ, nhìn chung loại vật liệu này dễ bắt lửa và được sử dụng để
xây dựng công trình loại L (là loại công trình không đạt được các yêu cầu như loại D
và N)
- Hệ thống phòng cháy chữa cháy
Đây là một yếu tố hết sức quan trọng ảnh hưởng đến việc xác định tỷ lệ phí.
Công tác phòng cháy chữa cháy là một yếu tố quan trọng nhất làm giảm khả năng
xảy ra tổn thất. Nếu công tác phòng cháy chữa cháy được đảm bảo, trang thiết bị tốt để
hạn chế thấp nhất những rủi ro xảy ra thì tỷ lệ phí bảo hiểm sẽ được tính thấp hơn.
Mặt khác ngày càng có nhiều các công ty bảo hiểm phi nhân thọ xuất hiện làm

cho tính chất cạnh tranh ngày càng khốc liệt, nên các công ty bảo hiểm còn phải dựa
vào tỷ lệ phí của các công ty bảo hiểm khác để xác định tỷ lệ phí cho công ty của mình
sao cho hợp lý và đảm bảo tính cạnh tranh.
4.2. Phương pháp xác định phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm được xác định dựa trên cơ sở số liệu thống kê tổn thất xảy ra trong
một khoảng thời gian trước, thường từ 3 đến 5 năm. Phí bảo hiểm phải đóng được xác
định trên cơ sở tỷ lệ phí và số tiền bảo hiểm.
Có hai phương pháp xác định tỷ lệ phí theo phân loại và danh mục:
- Theo phân loại
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Cao Lª Thu Trang A12– K38 §HNT
23

Đây là cách kết hợp các đơn vị có thể so sánh với nhau và cùng một loại, sau đó
tính tỉ lệ mỗi loại phản ánh số tổn thất và các chi phí khác của loại đó. Cách này phù
hợp với các tài sản như nhà cửa, công trình kiến trúc Nhưng khi xác định theo loại
này cần xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ phí:
+ Vật liệu xây dựng bằng gì?
+ Khả năng phòng cháy chữa cháy
+ Những vật bố trí xung quanh, bên ngoài (những công trình đặc biệt dễ cháy để
gần lửa lan nhanh tới tài sản được bảo hiểm)
+ Người sử dụng (chủ ở hay cho thuê)
- Theo danh mục
Phân tích từng loại tài sản một cách riêng biệt cho dù tính phí theo phương pháp
phân loại hay theo danh mục thì quá trình tính phí đều phải tuân theo những bước nhất
định không thể thiếu. Các bước xác định phí bảo hiểm bao gồm:
Bước 1: Chọn tỷ lệ phí thích hợp trong biểu phí
Trước hết cần xác định xem đối tượng bảo hiểm thuộc ngành sản xuất nào, sau
đó chọn tỉ lệ phí quy định cho ngành sản xuất kinh doanh đó trong biểu phí. Biểu phí
cơ bản là bảng thống kê xác suất rủi ro của từng loại hình tài sản. Để có được biểu phí

cơ bản, các công ty bảo hiểm phải nghiên cứu trên cơ sở thống kê tình hình thực tiễn
xảy ra rủi ro ở địa phương hay ở quốc gia mà công ty tiến hành triển khai nghiệp vụ
bảo hiểm hoả hoạn. Hiện nay biểu phí bảo hiểm hoả hoạn ở Việt Nam được xây dựng
trên cơ sở nghiên cứu áp dụng tại Việt Nam của công ty tái bảo hiểm Munich
(MunichRe).

Bảng 1: Biểu phí áp dụng chung cho tất cả các ngành
Loại công trình
Nhà làm việc, văn phòng
Nhà loại D
Nhà loại N
Phí cơ bản (
0
/
00
)
1,2
1,5
2,0
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Cao Lª Thu Trang A12– K38 §HNT
24

Nhà loại L
Nhà sản xuất đang xây dựng với số tiền bảo hiểm
tăng dần theo tiến độ thi công.
Với số tiền bảo hiểm cố định

1,5
1,2

(Nguồn: Bộ tài chính)

Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Cao Lª Thu Trang A12– K38 §HNT
25

Bảng 2: Biểu phí áp dụng cho cửa hàng, kho tàng
Mã số
9711
9713
9715
Loại hình cửa hàng
Cửa hàng bách hoá có diện tích trên 2000m2
Các công ty bán hàng theo đơn đặt hàng qua
bưu điện Cửa hàng bách hoá, trung tâm thương
mại, siêu thị
Phí cơ bản (
0
/
00
)
2,3
3,2
2,9

941
942
943
944
945

Kho (bao gồm cả tháp, hầm, bể chứa)
Kho với rủi ro cháy rất thấp
Kho với rủi ro cháy thấp
Kho với rủi ro cháy trung bình
Kho với rủi ro cháy tương đối cao
Kho với rủi ro cháy rất cao

1,0
1,5
2,3
3,5
5,0
(Nguồn: Bộ tài chính)
Đối với các loại kho, mức độ được đánh giá tuỳ theo diện tích của kho, chiều cao
của kho. Các kho 943-: -945 phải cộng thêm 50% phí nếu diện tích chứa hàng vượt quá
7500m² hoặc chiều cao xếp hàng vượt quá 7,5m mà không có các phương tiện phòng
cháy chữa cháy tự động như Sprinkler, hệ thống chữa cháy bằng CO
2
v.v
- Tỷ lệ phí bảo hiểm còn phụ thuộc vào hình thức bao gói của hàng hóa. Bao bì
hàng hoá chia làm 5 loại:
p1: Không có bao bì
p2: Bao bì bằng chất không cháy, phủ kín hàng hoá và có độ dày bằng nhau. Nếu
không phủ kín hoặc không có độ dày bằng nhau thì được xếp vào p1
p3: Bao bọc một phần bằng nhựa dễ cháy
p4: Bọc kín bằng nhựa xếp
Để nhận biết ta dựa vào các dấu hiệu sau:
+ Nếu hàng hoá được chứa trên giá gỗ thì được xếp vào loại đóng gói p3

×