Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

TIEU LUAN MÔN TRIẾT VỀ VẤN ĐỀ CON NGƯỜI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.59 KB, 16 trang )

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên nhóm em xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Trường Đại học
Trà Vinh, Trường Đại học Bình Dương phân hiệu Cà Mau, tỉnh Cà Mau đã tạo mọi
điều kiện cho em được học lớp Thạc sĩ Quản lý Giáo dục tại tỉnh Cà Mau. Nhân đây
em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và lời chúc sức khỏe đến Ban lãnh đạo, quý
thầy cơ giảng viên của cả hai trường.
Kính thưa Tiến sĩ- Giảng viên chính- Lê Thị Kim Chi bằng sự tận tâm, nhiệt
tình và đầy tình cảm, Cơ đã truyền thụ những kinh nghiệm quý báu, kết hợp với
phương pháp giảng dạy sinh động đã truyền đạt những kiến thức cần thiết, thật bổ
ích cho cơng tác quản lý cũng như trong cuộc sống, cơng việc. Trong q trình học
tập, tìm hiểu và bộ môn triết học, em đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ, hướng dẫn
rất tận tình, tâm huyết của cơ. Cơ đã giúp em tích lũy thêm nhiều kiến thức để có cái
nhìn sâu sắc và hồn thiện hơn về con người trong cuộc sống. Từ những kiến thức
quý báu mà cô truyền tải em đã từng bước trả lời được những câu hỏi trong cuộc
sống thông qua chủ nghĩa Mác - Lê nin để giúp em định hướng hồn thành tiểu luận
cuối khóa, cũng như vận dụng trong công tác quản lý ở đơn vị.
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện tiểu luận này khơng tránh khỏi
những thiếu sót, em rất mong được sự góp ý của Cơ để tiểu luận của em được hồn
thiện hơn và có thể vận dụng vào thực tế.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn Cô!

1


MỤC LỤC
NỘI DUNG
LỜI CẢM ƠN
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Mục tiêu nghiên cứu
3. Tổng quan các nghiên cứu có liên quan đến đề tài


4. Phương pháp nghiên cứu
CHƯƠNG 1. Nội dung cơ bản của quan điểm triết học Mác - Lênin về con
người
1. Bản chất con người
1.1. Quan điểm của các nhà triết học trước Mác về con người
1.2. Quan điểm của Mác - Lê Nin về con người
CHƯƠNG 2. Quan điểm của Đảng ta về phát triển con người toàn diện và

Trang
1
3
4
5
5
2
2
2
2
6

liên hệ với nhận thức và thực tiễn hiện nay
1. Tư Tưởng Hồ Chí Minh về con người trong sự nghiệp cách mạng do
Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo
2. Quan điểm của Đảng ta về phát triển con người toàn diện
3. Phát huy nhân tố con người Việt Nam trong quá trình phát triển đất nước
bền vững
CHƯƠNG 3. Liên hệ với nhận thức và thực tiễn của bản thân
PHẦN KẾT LUẬN

6

6
7
9

TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Theo Giáo trình Triết học Mác- Lênin, GS.TS. Phạm Văn Đức chủ biên.
(2) Theo C.Mác và Ph.Angghen (1994), Toàn tập, t.20. Sdd.
(3) Theo C.Mác và Ph.Angghen (1995). Toàn tập, t.3, Nxb. Chính trị QGHN
(4) Theo Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), tr.78-79.
(6) Bài viết Quan điểm toàn diện với định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 –

2030 của ThS. Nguyễn Thị Như Quỳnh Giảng viên Khoa Lý luận cơ sở trường Chính
trị Lê Duẩn

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

2


Trong thời đại ngày nay, nguồn tài nguyên, của cải đích thực và quý giá nhất
của mỗi quốc gia chính là con người. Vì vậy, mục đích phát triển kinh tế - xã hội của
mỗi quốc gia, xét đến cùng, phải vì con người, cho con người, tạo mơi trường thuận lợi
để con người có cuộc sống hạnh phúc, có sức khoẻ và có cơ hội phát huy mọi năng lực
sáng tạo. Nhận thức được điều đó, trong q trình lãnh đạo cách mạng giải phóng dân
tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định vai trò đặc biệt
của nhân tố con người là động lực của sự phát triển xã hội, của sự nghiệp xây dựng xã
hội xã hội chủ nghĩa.
Theo chiều dài của bánh xe lịch sử, con người dần khám phá được hằng trăm

nghìn những điều mới lạ trong và ngồi Trái Đất. Con người say mê tìm hiểu cấu tạo
của mọi vật xung quanh, về những dải ngân hà, về những điều kì bí. Nhưng khi nhìn
lại, bản chất con người là một sinh vật kì bí hơn cả. Vấn đề về con người đã được tiến
hành nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực khác nhau, song những lĩnh vực đó mới chỉ nghiên
cứu những mặt riêng biệt, cụ thể về con người. Riêng với triết học, vì có đặc trưng của
tư duy triết học là sự phản ánh của tư duy con người đối với chính bản thân mình, có
đối tượng nghiên cứu là những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội nên vấn đề về
“Bản chất con người” được nghiên cứu một cách bao quát và đầy đủ nhất. Hơn nữa,
với triết học Mác – Lênin, lần đầu tiên, vấn đề con người được giải quyết một cách
đúng đắn trên quan điểm duy vật biện chứng. Vấn đề phát triển con người
toàn diện đã được Đại hội IX của Đảng xác định: “Xây dựng con
người Việt Nam phát triển tồn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ,
đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lịng nhân
ái, khoan dung, tơn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ
hài hịa trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Văn hóa trở thành nhân
tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống
cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự
cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Với những lý do nêu trên và xuất phát từ tình hình thực tế về quan điểm của
Triết học Mác – Lênin về con người và vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ ở Việt Nam
hiện nay, em xin chọn đề tài nghiên cứu: “Quan điểm của Triết học Mác – Lênin về
con người và bản chất của con người; Từ đó trình bày quan điểm của Đảng ta về
phát triển con người toàn diện và liên hệ với nhận thức và thực tiễn của bản thân”.
3


2. Mục tiêu nghiên cứu
Nhận thức sâu sắc được vai trò và tầm quan trọng của vấn đề con người đặc biệt
là vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở nước ta hiện nay.
Đảng ta đã và đang xây dựng và phát triển đất nước toàn diện về nhiều mặt đặc biệt là

lĩnh vực kinh tế, nó phụ thuộc rất lớn vào nhiều chiến lược con người: Cần đào tạo con
người một cách có chiều sâu lấy tư tưởng và chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng,
cũng như trên thế giới ở nước ta chiến lược con người nó có một ý nghĩa hết sức quan
trọng và để phát triển đúng hướng chiến lược đó cần có một chính sách phát triển con
người, không để con người đi lệch tư tưởng.
Phát triển con người là mục tiêu cao cả nhất của toàn dân, đưa loài người tới
một kỷ nguyên mới, mở ra nhiều khả năng để tìm ra những con đường tối ưu đi tới
tương lai con đường phát triển cơng nghiệp hố- hiện đại hoá đất nước. Trong đời sống
xã hội thực tiễn cơ sở vận dụng khoa học và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về con
người tại hội nghị lần thứ tư của ban chấp hành trung ương Đảng khố VII đề ra nghị
quyết và thơng qua nghị quyết về việc phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư
cách là "Động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, đồng thời là mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội". Đó là "con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất
phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức". Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định "Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn
lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi cuả công cuộc đổi
mới đất nước". Thực tiễn đã chứng tỏ xã hội ta hiện nay tình trạng mất hài hồ về mặt
bản thể của mỗi cá nhân là chủ yếu, là tất cả bản thể cá nhân phát triển toàn diện và hài
hoà về đạo đức, trí tuệ, thể lực là mục tiêu xây dựng con người trong chủ nghĩa xã hội
nhưng mục tiêu cơ bản và quan trọng hơn cả là vấn đề con người phải trở thành nhân
tố quyết định lịch sử xã hội và lịch sử của chính mình.
Với nghiên cứu đề tài “Quan điểm của Triết học Mác - Lênin về con người và
bản chất của con người; từ đó trình bày quan điểm của Đảng ta về phát triển con
người toàn diện và liên hệ với nhận thức và thực tiễn của bản thân”, bản thân em
mong muốn góp phần tìm hiểu về quan điểm của Triết học Mác – Lênin về con người
và bản chất của con người; Quan điểm của Đảng ta về phát triển con người tồn diện.
Từ đó, góp phần tìm hiểu những giá trị, các biện pháp để xây dựng con người trong

4



thời đại mới, đáp ứng đúng tiêu chuẩn, phẩm chất theo quan điểm của Đảng và tư
tưởng Hồ Chí Minh.
3. Tổng quan các nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Quan điểm triết học về con người ra đời là hệ thống những quan điểm sâu sắc và
toàn diện về cách mạng Việt Nam từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách
mạng XHCN, là kết quả của một quá trình nhận thức và vận dụng sáng tạo, phát triển
cao của chủ nghĩa Mác – Lenin trong điều kiện của cách mạng Việt Nam, là sự kết tinh
tinh hoa của dân tộc với tinh hoa của thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giai cấp và xã
hội lồi người.
4. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật, sử dụng chủ yếu các
phương pháp kết hợp giữa phân tích và tổng hợp.

CHƯƠNG 1.
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC
MÁC - LÊNIN VỀ CON NGƯỜI
1. Quan điểm về bản chất con người của những nhà triết học trước Mác
Các nhà triết học cổ điển Đức trước kia nói chung, từ Cartơ đến Heghen nói
riêng đã phát triển quan điểm triết học về con người theo hướng của chủ nghĩa duy
tâm. Heghen quan niệm con người là sản phẩm của ý niệm, tức là con người do thần
thánh hoặc thượng đế sinh ra, cuộc sống con người do đấng tối cao sắp đặt. Đối lập với
Hêghen, Phơbách lại đưa ra quan điểm duy vật, cho rằng con người không phải là nô
lệ của thượng đế hay tinh thần tuyệt đối, mà là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của
quá trình phát triển của tự nhiên, là cái cao quý nhất mà giới tự nhiên có. Ơng đã sử
dụng thành tựu của khoa học tự nhiên để chứng minh mối liên hệ khơng thể chia cắt
của tư duy với những q trình vật chất diễn ra trong cơ thể con người, song khi giải
thích con người trong mối liên hệ cộng đồng thì Phơbách lại rơi vào lập trường của
chủ nghĩa duy tâm.
Các quan niệm nói trên đều tuyệt đối hóa mặt tinh thần hoặc thể xác con người,

tuyệt đối hóa mặt sinh học mà không thấy mặt xã hội của con người. Chủ nghĩa Mác
5


đã kế thừa và khắc phục những mặt hạn chế đó, đồng thời phát triển những quan niệm
về con người đã có trong các học thuyết triết học trước đây để đưa ra quan niệm về
bản chất con người.
2. Quan điểm của Mác- Lênin về bản chất con người
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học. Với
triết học Mác – Lênin, lần đầu tiên vấn đề con người được giải quyết một
cách đúng đắn trên quan điểm biên chứng duy vật. Theo C.Mác, con người là một sinh
vật có tính xã hội ở trình độ cao nhất của giới tự nhiên và lịch sử xã hội, là chủ thể của
lịch sử, sáng tạo nên tất cả thành tựu của văn minh và văn hóa.
2.1 Con người là thực thể sinh học – xã hội
Dựa trên kết quả của những thành tựu của khoa học tự nhiên, triết học Mác
khẳng định: Con người vừa là sản phẩm phát triển lâu dài của giới tự nhiên,vừa là sản
phẩm hoạt động chính của bản thân con người. Con người hiện thực là sự thống nhất
giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội. Là thực thể sinh học, con người là kết quả của
quá trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên (theo thuyết tiến hóa của ĐacUyn). Vì con
người là sản phẩm của q trình tiến hóa tự nhiên nên con người là một bộ phận tất
yếu, không tách rời của giới tự nhiên. Ph.Angghen cho rằng : “Bản thân cái sự kiện là
con người từ loài động vật mà ra, cũng đã quyết định việc con người khơng bao giờ
hồn tồn thốt ly khỏi những đặc tính vốn có của con vật”. Hay nói cách khác, Tiền
đề vật chất đầu tiên quyết định cho sự tồn tại của con người là giới tự nhiên.
Con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng là
“thân thể vô cơ của con người”. Con người tồn tại được trước tiên phải có cơ thể sống,
trong khi đó, cơ thể sống là một bộ phận của tự nhiên, là sản phẩm của sự tiến hóa lâu
dài của giới tự nhiên. Mặt khác, con người phải đấu tranh để sinh tồn
và chịu sự chi phối của các quy luật tự nhiên, các quy luật sinh học (Ví dụ: quy luật
sinh tử, quy luật về quan hệ giữa cơ thể và môi trường, quy luật dinh dưỡng, quy luật

di truyền và biến dị, quy luật đồng hóa, dị hóa…). Tuy nhiên, con người khơng chỉ
sống dựa vào tư nhiên mà cịn cải biến tự nhiên dựa trên các quy luật khách quan, đây
cũng là một trong những điểm đặc biệt để phân biệt con người với các loài vật khác.
Tuy nhiên, chúng ta khơng được tuyệt đối hóa điều đó. Các đặc tính sinh học,
bản năng sinh học hay sự sinh tồn thể xác không phải là những cái duy nhất quy định
bản chất con người, mà chúng ta còn phải nhắc đến phương diện xã hội. Bởi lẽ, đặc
6


trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới lồi vật là phương diện xã hội
của nó. Con người là một thực thể xã hội có các hoạt động xã hội mà điển hình chính
là hoạt động lao động. Chính nhờ lao động mà con người có khả năng vượt qua lồi
động vật để tiến hóa và phát triển thành người. Con người sống bằng lao động sản
xuất, bằng việc cải tạo tự nhiên, sáng tạo ra các vật phẩm để thỏa mãn nhu cầu của
mình. Vì vậy, ta hồn tồn có thể khẳng định: Lao động là điều kiện kiên quyết, cần
thiết và chủ yếu quyết định sự hình thành và phát triển của con người. Mặt khác, tính
xã hội của con người chỉ có trong “xã hội lồi người”, con người khơng thể tách khỏi
xã hội và đó là điểm cơ bản làm cho con người khác với con vật. Hoạt động của con
người gắn liền với các quan hệ xã hội không chỉ phục vụ cho con người mà cịn cho xã
hội như ngơn ngữ giao tiếp, lương tâm, ý thức con người,…… Xã hội biến đổi thì mỗi
con người cũng do đó mà cũng có sự thay đổi tương ứng và ngược lại, sự phát triển
của mỗi cá nhân là tiền đề cho sự phát triển của xã hội.
Con người là một chỉnh thể thống nhất giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội. Hai
mặt này vừa đối lập nhau, vừa quy định ràng buộc và làm tiền đề cho nhau, trong đó
mặt tự nhiên quyết định sự tồn tại của con người, còn mặt xã hội quyết định bản chất
con người
2.2 Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội
Có thể nói, con người vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác
nhau: quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con
người. Cả ba mối quan hệ đó đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa người

với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt động
trong chừng mực liên quan đến con người. Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của
con người, C.Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng trong tác phẩm Luận cương về
Phoiơbắc: "Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân
riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ
xã hội”. Mác cho rằng xem xét yếu tố cấu thành bản chất con người phải vạch ra bản
chất con người trong tính hiện thực của nó. Đây là một luận đề hết sức khoa học, đầy
đủ. Luận đề khẳng định rằng, khơng có con người trừu tượng, thốt ly mọi điều kiện,
hồn cảnh lịch sử xã hội. Con người ln ln cụ thể, xác định, sống trong một điều
kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Khi nói con người thì khơng phải
là nói con người trong trạng thái tự nhiên thuần tuý, mà là con người hoạt động thực
7


tiễn. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi đời sống xã hội đồng thời
cũng biến đổi chính bản thân mình. Chỉ trong tồn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như
quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia
đình, xã hội...), con người mới bộc lộ tồn bộ bản chất xã hội của mình. Tất cả các
quan hệ đó đều góp phần vào việc hình thành bản chất con người, tùy theo thời gian
cường độ tác động mà mức độ ảnh hưởng khác nhau, nhưng suy cho cùng thì các quan
hệ kinh tế hiện tại, trực tiếp, ổn định sẽ giữ vai trò quyết định. Đây là phát hiện có giá
trị to lớn của Mác về bản chất con người. Trong điều kiện đó sự tác động giữa con
người và hoàn cảnh cụ thể tạo nên những bản sắc riêng của con người mỗi thời đại.
Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội khơng có nghĩa là phủ
nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người. Song, ở con người, mặt tự nhiên tồn tại
trong sự thống nhất với mặt xã hội; ngay cả việc thực hiện những nhu cầu sinh vật ở
con người cũng đã mang tính xã hội. Quan niệm bản chất con người là tổng hoà những
quan hệ xã hội mới giúp cho chúng ta nhận thức đúng đắn, tránh khỏi cách hiểu thô
thiển về mặt tự nhiên, cái sinh vật ở con người.
2.3 Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử

Lịch sử là quá trình đan xen, nối tiếp nhau với tất cả những bảo tồn và biến đổi
xảy ra trong quá trình ấy. Lịch sử xã hội lồi người hình thành khi con người biết chế
tạo ra cơng cụ lao động, từ đó khơng cịn lệ thuộc vào tự nhiên, tách mình ra khỏi thế
giới lồi vật, chuyển sang thế giới loài người và lịch sử xã hội bắt đầu. Để tồn tại và
phát triển, con người phải lao động, tạo ra của cải vật chất để ni sống mình và xã
hội. Sản xuất ra của cải vật chất là đặc trưng riêng chỉ có ở con người. Đó là q trình
lao động có mục đích và không ngừng sáng tạo của con người, tạo của cải vật chất
đảm bảo cho sự tồn tại của xã hội và thúc đẩy xã hội phát triển. Hoạt động lao động
sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm biến
đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Vì thế, con người là chủ thể sáng tạo nên các giá trị vật
chất và tinh thần của xã hội cũng như là động lực của các cuộc cách mạng xã hội. Có
thể nói, con người là chủ thể của lịch sử.
Con người làm ra lịch sử, nhưng không phải làm theo ý muốn tùy tiện của mình
mà phải dựa trên những điều kiện có sẵn do q khứ để lại. Khơng có thế giới tự
nhiên, khơng có lịch sử xã hội thì khơng tồn tại con người. Bởi vậy, con người là sản
phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh. Con người tồn tại và phát
8


triển trong một hệ thống môi trường xác định, là sản phẩm của lịch sử tự nhiên và lịch
sử xã hội. Con người sống, hoạt động trong một xã hội nhất định, một thời đại nhất
định, trong những điều kiện lịch sử nhất định, nghĩa là những con người cùng với xã
hội mình khai thác thiên nhiên, sinh hoạt xã hội, phát triển ý thức. Trên thực tế, con
người lại là những con người ở những thời đại khác nhau, các dân tộc khác nhau, các
giai cấp, các nhóm xã hội khác nhau, nên trong họ, cái tự nhiên tồn tại trong sự tác
động của cái xã hội. Như vậy, con người vừa là sản phẩm của lịch sử, vừa là chủ thể
của lịch sử.

CHƯƠNG 2.
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN

DIỆN VÀ LIÊN HỆ VỚI NHẬN THỨC VÀ THỰC TIỄN HIỆN NAY
1. Tư Tưởng Hồ Chí Minh về con người trong sự nghiệp cách mạng do
Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo
Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng lỗi lạc, có nhiều cống hiến kiệt xuất vào kho
tàng tư tưởng – lý luận của dân tộc và nhân loại. Hồ Chí Minh đã tiếp nhận những bài
học sâu sắc từ Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga nhưng Người không rập khuôn,
sao chép theo nền tảng đó mà tiếp thu cái tinh thần của Chủ nghĩa Mác – Lênin. Cụ
thể, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người là sản phẩm của sự kết hợp giữa nhu cầu
khách quan của lịch sử - xã hội, là sự kết tinh truyền thống của người Việt Nam, tinh
hoa văn hóa nhân loại với phẩm chất, năng lực cá nhân.
Hồ chí Minh có quan điểm đúng đắn về quần chúng nhân dân. Chính quần
chúng nhân dân là chủ thể của lịch sử, chủ thể của mọi sáng tạo, chủ thể của mọi
phong trào cách mạng. “Lấy dân làm gốc” là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng Hồ
Chí Minh. Người cho rằng cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân và khẳng
định: “Nước lấy dân làm gốc….Gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền
nhân dân”. Với Hồ Chí Minh, quần chúng nhân dân còn là người quyết định lịch sử.
Người thường hay trích dẫn câu ca của người dân vùng Quảng Bình, Vĩnh Linh “Dễ
mười lần khơng dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong” để nói lên vai trị to
lớn của quần chúng nhân dân. Vai trò của Nhân dân còn được Người khẳng định rõ:
“Ở đâu có dân là có núi, có sơng, có biển. Dân có sức mạnh hơn cả sơng núi. Nếu ta
9


biết dựa vào dân thì sẽ thành cơng”. Hồ Chí Minh khẳng định, đại đoàn kết dân tộc là
một chiến lược cơ bản, nhất quán, lâu dài, là vấn đề sống cịn, quyết định thành cơng
của cách mạng. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng nhằm hình thành và phát triển
sức mạnh to lớn của toàn dân trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù của dân tộc, của nhân
dân. Theo Người, đoàn kết làm nên sức mạnh và là cội nguồn của mọi thành cơng.
Tóm lại, Hồ Chí Minh đã nhìn rõ được bản chất con người trong cơng cuộc xây
dựng cách mạng nói riêng và tạo nên lịch sử nhân loại nói chung.

2. Quan điểm của Đảng ta về phát triển con người toàn diện
Hiểu được tầm quan trọng của việc phát triển nhân tố con người, kế thừa quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin trong tiến trình xây dựng xã hội mới, Đảng ta đã
khẳng định: nguồn lực q báu nhất, có vai trị quyết định nhất là con người Việt Nam;
nhân tố con người chính là nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam. Đối với
một nước chủ động lựa chọn và kiên trì con đường phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa như Việt Nam, sự phát triển, tăng trưởng kinh tế, xét đến cùng cũng là vì
con người, hướng đến con người. Trong bối cảnh tồn cầu hố và hội nhập quốc tế,
Đảng ta xác định một trong những yếu tố quyết định việc chúng ta có tranh thủ tận
dụng thành công những thuận lợi, cơ hội và vượt qua thách thức, khó khăn mà q
trình đó đặt ra hay khơng phụ thuộc đáng kể vào con người. Vì thế, Đại hội XI của
Đảng đã đề ra chủ trương phát triển tồn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hịa với
phát triển kinh tế: Hồn thiện hệ thống chính sách, kết hợp chính sách kinh tế với
chính sách xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính
sách phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững. Đại
hội XI của Đảng cũng định hướng các chính sách về giáo dục, đào tạo; về y tế; về lao
động và việc làm; về nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của nhân dân, hạn
chế phân hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nơng thôn và thành thị; về
hệ thống an sinh xã hội, về xóa đói, giảm nghèo;……. Có thể nói, những chính sách
của Đảng và Nhà nước là những bước đi đúng đắn và mang tính đột phá trong việc
khai thác và phát huy nhân tố con người.
“Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030” của
văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã nêu: “Phát triển con người toàn
diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh
10


nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”. Đồng thời,
phần “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất

lượng nguồn nhân lực, phát triển con người” cũng chỉ rõ: “Tiếp tục
đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức,
phương pháp giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập
quốc tế, phát triển con người toàn diện, đáp ứng những yêu cầu mới
của phát triển kinh tế - xã hội, khoa học và cơng nghệ, thích ứng với
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”. Việt Nam đang trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vì thế vấn đề xây dựng và phát huy
nhân tố con là một trong những nhiệm vụ trọng tâm đối với sự
nghiệp cách mạng của nước ta. Trong Cương lĩnh của Đảng Cộng sản
Việt Nam (1991) khẳng định: con người giữ vị trí trung tâm trong sự
nghiệp cách mạng. “Nguồn lực lớn nhất, quý báu nhất của chúng ta
là tiềm lực con người Việt Nam”. Vấn đề này vẫn tiếp tục được khẳng
định thông qua các kỳ Đại hội gần đây. Để phát huy nhân tố con
người trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cần phải
thực hiện đồng bộ các vấn đề sau:
Trên lĩnh vực kinh tế: Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường là thành tựu phát triển
của nền văn minh nhân loại, không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà tồn tại khách quan
trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế này phải đảm bảo được sự tăng
trưởng kinh tế với sự tăng lên của GDP bình quân đầu người hàng năm, từ đó nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho con người.
Trên lĩnh vực giáo dục: Nâng cao hiệu quả giáo dục, phát triển nguồn nhân lực.
Nhiệm vụ của giáo dục là “giáo dục cái mà đất nước cần chứ khơng giáo dục cáimà ta
có”. Mục tiêu của giáo dục phải hướng tới phát triển con người toàn diện: đức - trí thể - mỹ. Cần tăng cường giáo dục đạo đức, giáo dục pháp luật, lý tưởng sống
trong nhân dân, đặc biệt là tầng lớp thanh niên.
Trên lĩnh vực văn hóa nghệ thuật: Văn hóa nghệ thuật là sự sáng tạo theo yêu cầu
của cái đẹp, là động lực thúc đẩy con người vươn tới sự hoàn thiện toàn mĩ. Văn hóa
nghệ thuật góp phần xây dựng tình cảm tốt đẹp, tác động tới nếp nghĩ, lối sống, phong
11



cách làm việc của con người. Việc xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc sẽ có tác dụng tích cực góp phần xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn
diện trong thời đại tồn cầu hóa.
3. Phát huy nhân tố con người Việt Nam trong quá trình phát triển đất
nước bền vững
Trải qua quá trình hội nhập nền kinh tế nước nhà với nền kinh tế quốc tế, Việt
Nam được đánh giá là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và
triển vọng nhất. Thế nhưng, chỉ tăng trưởng kinh tế nhanh thôi là chưa đủ. Một nền
kinh tế phát triển bền vững đòi hỏi phải tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội. Mà thực hiện các chính sách xã hội chính là đầu tư vào nhân tố
con người. Hay nói cách khác, muốn đất nước có thể phát triển bền vững thì phải tập
trung vào phát triển nhân tố con người.
Thực chất, khái niệm nhân tố con người là sự tiếp tục triển khai quan điểm của
triết học Mác - Lênin. Xuất phát từ quan điểm của Mác cho thấy, khi là một thực thể tự
nhiên - xã hội, con người nói chung biểu hiện ra trên nhiều phương diện. Chẳng hạn,
con người tồn tại với tư cách là một nguồn tài nguyên đặc biệt - tài nguyên con người;
con người tồn tại với tư cách là một nguồn lực đặc biệt - nguồn lực con người, hoặc
tồn tại với tư cách là một nhân tố thúc đẩy đời sống kinh tế - xã hội gọi là nhân tố con
người…Vậy, chúng ta nên khai thác, tìm hiểu, phát triển và phát huy nhân tố con
người như thế nào để phát triển đất nước bền vững?
Khi đi sâu vào khai thác nhân tố con người trong công cuộc phát triển đất nước,
ta phải đặt nó trong mối quan hệ với cộng đồng và xã hội. Muốn duy trì cuộc sống của
mình, con người phải lao động và liên hệ với những người khác. Đời sống con người
về bản chất là có tính xã hội. Mối quan hệ giữa con người và xã hội rất chặt chẽ, tác
động qua lại với nhau. Vì vậy, muốn đất nước- xã hội phát triển bền vững thì cần phải
phát triển nhân tố con người.
Nói đến phát triển nhân tố con người là nói đến việc rèn luyện bản chất của nó.
Con người là sản phẩm của lịch sử. Mỗi thời đại lịch sử cụ thể bao giờ cũng đặt ra
những chuẩn mực nhất định cho con người trong xã hội đó. Mà bản chất con người

được quy định bởi môi trường và điều kiện xã hội. Do vậy, bản chất con người trong
mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động biến đổi, cùng phải thay
đổi cho phù hợp. Vì thế, muốn phát triển bản chất con người theo hướng tích cực thì
12


phải hiểu rõ môi trường, điều kiện xã hội ở nơi mình đang sinh sống, ở thời đại mình
đang tồn tại u cầu địi hỏi con người cần những gì.
Thực tiễn cho thấy, việc giải quyết vấn đề phát triển con người Việt Nam những
năm qua được đánh giá có nhiều chuyển biến tích cực và đạt kết quả quan trọng. Quá
trình cách mạng Việt Nam chứng tỏ rằng trong những thời điểm lịch sử hiểm nghèo,
những tình thế hết sức khó khăn, con người Việt Nam đều rất sáng tạo, năng động và
ln tìm ra những lối thốt, những đường hướng đi lên làm kinh ngạc cả bạn bè quốc
tế. . Lịch sử cũng chứng minh: thời kỳ nào cách mạng biết phát huy mạnh mẽ nhân tố
con người, tạo mọi điều kiện cho hoạt động sáng tạo của con người thì con người Việt
Nam ln biết "chuyển bại thành thắng", chuyển từ tình thế khó khăn thành lợi thế
trong đó con người là động lực trung tâm. Do đó, Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý
luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng
định: “Con người và sự phát triển con người được đặt vào vị trí trung tâm của chiến
lược kinh tế - xã hội, mở rộng cơ hội, nâng cao điều kiện cho con người phát triển”.
Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố theo
định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh tồn cầu hố và tích cực hội nhập quốc tế.
Q trình này địi hỏi con người Việt Nam cần phải biết xây dựng nhân cách với nội
dung tồn diện, từ đạo đức, trí tuệ , thể chất, tâm hồn và đặc biệt là phải có khả năng
chủ động, sáng tạo, linh hoạt, và năng động. Quá trình hội nhập đưa tới cho Việt Nam
cơ hội để tiếp xúc với những nền kinh tế khác nhau, những cộng đồng, xã hội, văn hóa
khác nhau và cả những con người khác nhau. Điều này đòi hỏi mỗi cá nhân phải có
thái độ chủ động và cầu tiến để học hỏi những cái hay, cái đẹp từ nước bạn, đồng thời
phải linh hoạt trong việc phân loai, chọn lọc và tiếp thu thơng tin.Từ đó, vận dụng óc
sáng tạo để chuyển hóa thành kiến thức mới, áp dụng vào công cuộc xây dựng, đổi

mới và phát triển đất nước bền vững.
CHƯƠNG 3.
LIÊN HỆ VỚI NHẬN THỨC VÀ THỰC TIỄN CỦA BẢN THÂN
Hiện nay, bên cạnh những thuận lợi, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn
biến phức tạp, khó lường, tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định. Cách mạng khoa học
- công nghệ hiện đại và xu thế tồn cầu hóa đã và đang tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, đặt ra nhiều vấn đề mới cần được giải quyết trong bảo vệ độc
13


lập, chủ quyền. Ở trong nước, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được trong
những năm đổi mới cũng còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế. Đặc biệt, tình trạng suy
thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn cịn nghiêm trọng, tập trung vào một số đảng
viên có chức vụ trong bộ máy Nhà nước… Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế
trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn
chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Các thế lực thù địch, phản động tăng cường thực
hiện chiến lược “diễn biến hịa bình” chống phá cách mạng nước ta bằng các thủ đoạn
tinh vi, nguy hiểm, nhất là triệt để sử dụng các phương tiện truyền thông trên mạng
internet để chống phá
Trước những khó khăn, thách thức đó, chúng ta cần tiếp tục vận dụng sáng tạo
tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nhân tố con người, khơi dậy và phát huy mọi
nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp để giữ
vững và phát huy giá trị độc lập, tự do của dân tộc. Bản thân mỗi chúng ta cần:
Học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin giúp chúng ta từng
bước xây dựng và hình thành thế giới quan khoa học, có phương
pháp tiếp thu một cách hiệu quản lý luận mới, những thành tựu khoa
học - công nghệ của nhân loại, có niềm tin vào sứ mệnh lịch sử của
giai cấp cơng nhân, có cơ sở khoa học chống lại tư tưởng lạc hậu,

phản động. Hiểu và nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin, mỗi người có
điều kiện hiểu rõ mục đích, con đường, lực lượng, cách thức bước đi
của sự nghiệp giải phóng con người, khơng sa vào tình trạng mị
mẫm, mất phương hướng, chủ quan, duy ý chí. Có cách nhìn xa trơng
rộng, chủ động sáng tạo trong cơng việc, khắc phục chủ nghĩa giáo
điều, máy móc, tư tưởng nơn nóng đốt cháy giai đoạn và các sai lầm
khác. Học tập các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin giúp học sinh
trung cấp chuyên nghiệp có động cơ học tập đúng đắn, thái độ
nghiêm túc trong rèn luyện đạo đức công dân, ý thức nghề nghiệp
của người lao động tương lai. Để đạt được mục đích đó người học cần
chú ý liên hệ từng nguyên lý, có ý thức trách nhiệm trong học tập,
rèn luyện, từng bước vận dụng vào đời sống, xây dựng tập thể, góp
phần lớn nhất vào sự nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
14


hóa đất nước, phát huy vai trị tích cực của ý thức, vai trị tích cực
của nhân tố con người

PHẦN KẾT LUẬN
Trong tất cả những nghiên cứu về bản chất con người cho đến thời điểm hiện tại
thì quan điểm triết học Mác-Lênin đã giải quyết vấn đề một cách đúng đắn và đầy đủ
nhất trên quan điểm biên chứng duy vật. Quan điểm triết học Mác-Lênin về bản chất
con người mang lại ý nghĩa vô cùng to lớn trên nhiều phương diện. Nghiên cứu về vấn
đề này, con người sẽ tiến gần hơn một bước trong việc khám phá về chính mình, từ đó
ứng dụng vào đời sống ở những lĩnh vực khác nhau như: chính trị, kinh tế, xã hội,…..
Hiểu rõ hơn về bản chất của bản thân và những mối quan hệ liên quan , con người sẽ
biết tự điều chỉnh hành vi sao cho phù hợp với những mối quan hệ đó, từ đó có động
lực phát triển bản thân nói riêng cũng như cộng đồng, xã hội nói chung bền vững đi
lên.

Đảng ta cũng khẳng định muốn phát huy nhân tố con người cần phải biết đấu
tranh chống lại sự suy thoái, xuống cấp về đạo đức về con người có thể phát triển một
cách toàn diện: “Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống
các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm
tha hóa con người. Có giải pháp ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội,
khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam”. Với những quan điểm của
Đảng ta về phát huy nhân tố con người trong suốt chặng đường phát triển đất nước đã
phát huy hiệu quả và đạt được nhiều thành tựu to lớn: Trình độ dân trí ngày càng cao,
kinh tế cũng ngày càng khởi sắc và trên đà phát triển ổn định, đời sống của người dân
được cải biến rõ nét, con người được tạo điều kiện phát triển toàn diện, nhân dân ngày
càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Điều này một lần nữa khẳng định đường lối
đúng đắn của Đảng và thể hiện sự quan tâm, coi con người là vốn quý nhất; chăm lo
cho hạnh phúc của con người là tư tưởng xuyên suốt trong toàn bộ sự nghiệp cách
mạng của Đảng, là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta./

15


16



×