Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

TIEU LUAN TRIET HOC TIM HIEU TU TUONG PHAP TRI CUA HAN PHI VA VAN DE HANH PHAP, DINH PHAP TRONG THUC TIEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.84 KB, 29 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN
   

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ
TRONG TRIẾT HỌC HÀN PHI

1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………1
NỘI DUNG…………………………………………………………………………2
1. Cuộc đời của Hàn Phi Tử……………………………………………………….2
2. Nội dung cơ bản trong tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử……………………...4
2.1. Lý luận về “Pháp” của Hàn Phi Tử…………………………………………4
2.1.1. Vấn đề “Định pháp”……………………………………………………4
2.1.2. Vấn đề hành -pháp……………………………………………………...6
2.1.3. Vấn đề giáo dục pháp luật……………………………………………...8
2.2. Lý luận về “Thế” của Hàn Phi Tử…………………………………………..8
2.3. Lý luận về “Thuật” của Hàn Phi Tử……………………………………….10
3. Vấn đề con người trong quan niệm pháp trị của Hàn Phi Tử…………………...14
3.1. Quan niệm về bản chất con người của Hàn Phi……………………………14
3.2. Phương pháp giáo hoá đạo làm người của Hàn Phi………………………..16
4. Hạn chế trong tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử……………………………….23
KẾT LUẬN………………………………………………………………………..25
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………………27

2




MỞ ĐẦU
Ngày nay, xây dựng nhà nước pháp quyền là một xu hướng tất yếu trong q
trình văn minh hóa, dân chủ hóa các xã hội khác nhau trên thế giới. Ở nước ta, sự
nghiệp đổi mới đang đặt ra những yêu cầu về quản lý xã hội theo pháp luật phù hợp
với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng. Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN cần phải đề
cao kỷ cương, pháp luật nhằm đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất từ một khung pháp
lý hoàn thiện, để kinh tế phát triển đúng định hướng và đúng yêu cầu của sự nghiệp
đổi mới đất nước. Vì vậy, một yêu cầu quan trọng trong sự nghiệp đổi mới ở nước
ta là phải xây dựng một hệ thống pháp luật thống nhất và đồng bộ, tạo môi trường
pháp lý ổn định để phát triển kinh tế – xã hội. Trong đó, việc kế thừa chọn lọc
những tư tưởng, học thuyết quản lý xã hội trong lịch sử nhằm xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đóng vai trị đặc biệt quan trọng.
Pháp gia được biết đến với tư cách là một trong bốn trường phái lớn nhất của
hệ thống tư tưởng triết học Trung Quốc thời cổ đại. Trong sự phát triển phong phú
và sôi động của trào lưu tư tưởng “Bách gia chư tử” ở Trung Hoa cổ đại, học thuyết
Pháp trị của Hàn Phi Tử ra đời như là đỉnh cao của phái Pháp gia nói chung, đã trở
thành vũ khí sắc bén của các triều đại phong kiến phương Đông cổ đại. Đồng thời,
tư tưởng pháp trị của ông cũng đã có ảnh hưởng vơ cùng mạnh mẽ đến xã hội
phong kiến Trung Quốc và Việt Nam trong vấn đề quản lý xã hội, xây dựng đất
nước. Do đó tơi đã chọn đề tài: “Tìm hiểu tư tưởng pháp trị trong triết học Hàn Phi”

3


NỘI DUNG

1. Cuộc đời của Hàn Phi Tử

Hàn Phi Tử (280 – 233 tr.CN) được coi là nhà tư tưởng số một của phái Pháp
gia thời Xuân thu – Chiến quốc. Ơng là cơng tử con vua nước Hàn nhưng khơng
được kế vị ngơi báu vì khơng phải là con trưởng. Bản thân Hàn Phi Tử nổi tiếng là
người thông minh ham học và học rất giỏi, có năng khiếu đặc biệt về văn học. Do
ơng có tật nói ngọng nên việc diễn đạt vấn đề thường bị hạn chế, trong khi tài năng
ăn nói lúc bây giờ trở thành vũ khí đặc biệt của kẻ sĩ nên ơng dành hết tâm trí vào
cách viết để thuyết phục người đọc thơng qua các tác phẩm của mình.
Xuất thân từ tầng lớp danh gia vọng tộc nên ngay từ nhỏ Hàn Phi Tử đã nhận
thức rõ mối quan hệ giữa nhà vua và bề tôi, mặt được và hạn chế của cách cai trị
lúc bấy giờ. Chính vì vậy, điều ơng canh cánh suốt cuộc đời là làm sao đưa ra được
cách trị nước tốt nhất để chấn hưng nước Hàn.
Đến tuổi trưởng thành, Hàn Phi Tử theo học Tuân Khanh (tức Tuân Tử), là
học giả lớn và nổi tiếng bậc nhất lúc bây giờ. Ông kế thừa quan niệm nhận thức của
thầy Tuân Khanh, coi bản tính con người là ác, căm ghét mê tín, quỷ thần, coi trọng
giáo dục, đề cao vua đời Hạ – Thương – Chu mà xem nhẹ vua Nghiêu – Thuấn vốn
là mẫu mực của Khổng Tử và các đại diện học phái Nho gia đương thời. Cùng học
với Hàn Phi, có một người khá nổi tiếng sau này là Lý Tư. Cả hai cùng đi theo chủ
trương của Tuân Tử là dùng lễ để cai trị đất nước. Do lễ và pháp rất gần nhau nên
về sau Hàn Phi Tử đã nghiêng hẳn sang tư tưởng pháp trị. Xét về khía cạnh này,
ơng triệt để hơn hẳn thầy dạy của mình.
Từ trường học của Tuân Tử ở nước Tề trở về, thấy nước Hàn ngày một suy
yếu, ông đã nhiều lần dâng thư cho vua Hàn mong muốn được thực hiện cuộc cải
cách toàn diện nước này, nhưng không được chấp thuận. Mong muốn từ nhỏ đã trở
4


nên vô vọng, ông quyết tâm xây dựng một học thuyết có tính hệ thống để cho đời
sau sử dụng với nội dung chủ yếu là phục vụ cai trị, quản lý đất nước. Năm 224
tr.CN, nước Tần cho quân đội tiến đánh và chiếm được 13 thành của nước Hàn,
Hàn Phi lại nhiều lần dâng sớ lên vua Hàn để trình bày kế sách cứu nước của mình

nhưng vua Hàn khơng nghe lời tâu trình của ơng. Tuy nhiên, tập Đại thành của ông
đã đến tay vua Tần. Tần Thủy Hồng đọc hai thiên Cơ phẫn và Ngũ đổ trong tác
phẩm của Hàn Phi đã thán phục vô cùng, nghĩ đó là tác phẩm của bậc tiền nhân,
hận nỗi không gặp được tác giả. Lý Tư – tể tướng của nước Tần khi đó, liền nói với
Tần Thủy Hồng rằng đó là bạn học của mình viết, ơng đã thốt lên: “Ta được làm
bạn với con người này thì có chết cũng khơng uổng“.
Cùng thời điểm này, Hàn Phi Tử sang Tần làm nhiệm vụ cứu nước Hàn, cũng
là thực hiện lý tưởng của mình. Hàn Phi dâng vua Tần bài Tần Hàn, ra sức thuyết
phục nước Tần đừng đánh nước Hàn. Lý Tư cho rằng, Hàn Phi chỉ mưu cầu làm lợi
cho nước Hàn mà làm hại cho nước Tần, cùng với lòng ghen tài, đố kỵ, Lý Tư đã
thừa dịp nói xấu Hàn Phi để Tần Thủy Hồng giam ơng vào ngục. Trong ngục, Hàn
Phi viết bài Sơ kiến Tần, vua Tần xem xong vô cùng tâm đắc. Lý Tư sợ rằng vua
Tần thực sự muốn tin dùng Hàn Phi sẽ ảnh hưởng tới tiền đồ của mình, bèn cho
người ép ơng phải uống thuốc độc tự sát. Một nhà tư tưởng có chí lớn chưa được
đem ra thi thố đã phải nuốt hận mà ra đi. Mười hai năm sau khi ơng qua đời, Tần
Thủy Hồng đã vận dụng học thuyết của Hàn Phi để thống nhất Trung Quốc. Tư
tưởng của Hàn Phi phù hợp với thời điểm lịch sử đó, phản ánh đúng xu thế phát
triển của xã hội, có tác dụng làm chuyển biến xã hội lên một tầm cao mới, đã được
nước Tần đón nhận và thực hiện.
Về tác phẩm, theo Tư Mã Thiên, sách của Hàn Phi gồm trên một vạn chữ.
Khoảng 300 năm sau khi Hàn Phi mất, Lưu Hướng thu thập các tác phẩm của ông
sắp thành 20 quyển gồm 55 thiên, trình bày những tư tưởng và đường lối cai trị đất
nước của Hàn Phi Tử.
2. Nội dung cơ bản trong tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử
5


2.1.1. Vấn đề “Định pháp”
Trong tư tưởng Trung Quốc cổ đại, “Pháp” là phạm trù chính trị – xã hội
được hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa rộng, “Pháp” là thể chế quốc gia, là chế độ

chính trị – xã hội của đất nước; theo nghĩa hẹp, “Pháp” là những điều luật, luật lệ,
những quy định mang tính nguyên tắc và khuôn mẫu. Các nhà tư tưởng của phái
Pháp gia dùng chữ “Pháp” theo cả hai nghĩa rộng và hẹp.
Trong tác phẩm Hàn Phi Tử, thiên XLIII – Định Pháp là thiên quan trọng
nhất và được Hàn Phi sử dụng từ ngữ thận trọng rõ ràng, ý từ đơn giản, cô đọng, dễ
hiểu. Xuất phát từ quan niệm bản tính tự nhiên của con người là ln có ham muốn
mưu cầu cái lợi riêng, luôn tự tư, tự lợi, ông cho rằng pháp luật cũng phải dựa vào
nhân tính này chứ không nên đi ngược lại, mặt khác pháp luật cũng phải ngăn chặn
và loại bỏ lòng hám lợi quá đáng của con người, có như vậy xã hội mới khơng loạn,
pháp luật trở thành chuẩn mực cao của việc trị quốc. Tuy nhiên, vua không thể tùy
tiện đặt luật pháp mà phải xây dựng luật pháp dựa trên những nguyên tắc nhất định:
– Nguyên tắc thứ nhất: pháp luật phải thành văn và được công bố rộng rãi.
Hàn Phi Tử cho rằng cái gọi là “pháp” phải là bộ luật thành văn, được biên
soạn, in ấn cẩn thận, do quan phủ định ra, được công bố cho tất cả mọi người đều
biết. Đồng thời, pháp luật phải rành mạch thì dân chúng mới thi hành được.
Ở thời kỳ Cổ đại, người ta đã dùng lễ để ràng buộc giới quý tộc, sĩ, đại phu, lấy
hình phạt để đối phó với dân thường, do đó mới có tình hình “lễ” khơng xuống tới
hàng thứ dân, “hình” khơng lên tới bậc đại phu. Vì vậy, pháp luật nhằm vào tầng
lớp bên dưới của xã hội. Ở thời Xuân thu, pháp luật không cần phổ biến rộng rãi,
mà pháp luật càng kín đáo bao nhiêu thì giai cấp thống trị càng dễ tùy tiện bắt bớ
dân. Sau thời Xuân thu, khi chế độ nhà Chu lung lay thì pháp luật có sự cải biên,
nước Tấn có “đúc vạc”, nước Trịnh có Tử Sản đúc “Hình thự” và Đặng Tích chế
định ra “Trúc hình”, nước Ngụy có Lí Khơi soạn ra “Pháp kinh”, nước Tần thì
Thương Ưởng thi hành “biến pháp”. Tất cả đều chú ý tới pháp luật để thuận theo
6


thời thế. Đến Hàn Phi Tử, ông cũng chỉ rõ nguyên tắc thực thi pháp luật là pháp
luật phải được công bố rộng rãi tới mọi người dân để dân hiểu và dân thi hành.
– Nguyên tắc thứ hai: pháp luật phải tường tận, rõ ràng

Hàn Phi cho rằng nếu pháp luật mang tính sách vở, mơ hồ thì người dân phải
suy xét, tìm hiểu ý nghĩa của nó. Pháp luật quá sơ lược thì người dân phải tranh
luận, thêm bớt ngơn từ, từ đó dễ làm sai lệch ý nghĩa của nó. Trong thiên XLVTI –
Bát thuyết, Hàn Phi viết: “Pháp lệnh của các bậc minh quân nhất định phải nêu
được các sự việc và dẫn chứng tiêu biểu một cách cụ thể, tỉ mỉ, bằng mọi suy nghĩ
của các cá nhân…, như vậy vừa chẳng cần bận tâm suy nghĩ, chẳng cẩn vất vả, cực
nhọc mà đất nước vẫn được cai quản tốt”. Điều đó có nghĩa là pháp luật phải tường
tận, rõ ràng để tránh mọi người lợi dụng kẽ hở của luật pháp mà làm mất đi ý nghĩa
thực tế của nó. Làm được vậy, mọi người dân mới có cái để tuân theo, quan lại nắm
giữ và thực thi pháp luật để ràng buộc dân chúng, việc giữ gìn trị an cũng sẽ dễ
dàng hơn.
– Nguyên tắc thứ ba: pháp luật phải hợp thời
Theo Hàn Phi Tử, pháp luật là sự phản ánh đời sống xã hội trên phương diện
hình luật, do vậy khi xã hội thay đổi thì pháp luật cũng phải thay đổi theo cho phù
hợp để phát huy hiệu quả cao. Pháp luật, với một cách nhìn như vậy, ln là sự
phản ánh điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội phù hợp với tính chất, đặc điểm,
trình độ phát triển kinh tế – xã hội. Vì vậy, nhà nước như thế nào thì pháp luật như
thế ấy, điều kiện kinh tế vật chất thay đổi thì pháp luật cũng có sự thay đổi theo.
Hàn Phi là người có con mắt tinh tế ơng đã nhìn nhận lịch sử, nhà nước, pháp luật
theo quan điểm duy vật. Chủ trương của Hàn Phi là nhìn thẳng vào hiện thực, trực
tiếp đưa ra những biện pháp phù hợp. Cho nên, ơng nói: “thánh nhân cai trị dân thì
pháp lệnh thay đổi cùng thời đại, mọi điều ngăn cấm cũng sẽ phải cải biên cùng với
sự khôn ngoan, lắm mưu, nhiều kế của con người…” (Thiên LIV – Tâm độ). Trong
thiên này ông cũng nói: “Thời thế thay đổi mà cách cai trị mà khơng thay đổi thì
sinh loạn”. Như vậy, vấn đề quan trọng là phải xây dựng được các điều luật kịp
7


thời, phải dựa trên sự thay đổi của xã hội mà bổ sung thêm cho pháp luật, như vậy,
pháp luật mới có tác dụng và khi thực hiện mới có tính khả thi.

– Nguyên tắc thứ tư: pháp luật phải thống nhất và ổn định
Hàn Phi Tử vẫn thường nói: “Pháp luật khơng gì bằng thống nhất và chắc
chắn, khiến cho dân biết nó”. Thống nhất ở đây cịn có nghĩa khi ban hành pháp
luật mới thì phải bỏ pháp luật cũ, nếu giữa cái cũ và cái mói cịn lẫn lộn thì người
thực hiện sẽ khơng biết theo luật nào, cịn kẻ gian thì lợi dụng sự mập mờ đó để
thực hiện ý đồ đen tối. Trong thiên Định pháp, Hàn Phi đã phê phán Thân Bất Hại
khi ban hành pháp luật đã khơng có sự thống nhất khiến bọn gian thẩn có cơ hội lợi
dụng những khe hở của pháp luật để nổi loạn, đó là nguyên nhân của sự mất nước
cần phải thận trọng và né tránh. Đương nhiên, pháp luật phải sửa đổi cho phù hợp
với hoàn cảnh thời đại, nhưng khi pháp luật đã sửa đổi và ban hành thì khơng thể
vơ cớ mà thay đổi liên tục. Bởi pháp luật là nguyên tắc chuẩn mực mà cả nước phải
tuân theo, nó phải được thống nhất và ổn định thì dân mới hiểu, tơn trọng và thi
hành được.
– Nguyên tắc thứ năm: pháp luật định ra phải dễ hiểu, dễ thi hành
Hàn Phi chủ trương thuận theo tính tình con người để định ra sự thưởng phạt.
Thưởng phạt để động viên hoặc ngăn cấm, nhưng nó phải dễ hiểu, dễ thi hành, nếu
khơng sẽ mất hết ý nghĩa. Pháp luật dễ hiểu, dễ thực hiện sẽ khiến cho quan hệ vua
tơi hài hịa để đạt được mục đích là củng cố nền thống trị. Trong thiên Bát Thuyết,
Hàn Phi có nêu: “Những điều mà kẻ sĩ sâu sắc mới có thể hiểu được thì khơng thể
đưa ra làm lệnh, vì dân khơng phải tất cả đều sâu sắc. Những điều chỉ có những
người hiền mới có thể làm được thì khơng thể dùng làm pháp luật, vì dân khơng
phải tất cả đều hiền”.
2.2.2. Vấn đề hành -pháp
Việc thực thi pháp luật chỉ có hiệu quả khi pháp luật được coi là quy tắc
chuẩn mực của mọi hành động. Pháp lệnh nghiêm minh để ngăn chặn tội lỗi và gạt
bỏ tình riêng. Hình phạt nghiêm khắc để quán triệt pháp lệnh trừng phạt kẻ dưới.
8


Mọi chuyện ban thưởng, xử phạt đều phải tuân theo pháp lệnh. Pháp luật phải là

chuẩn mực của xã hội, quyết khơng thể vì quyền lực và trách nhiệm mà uốn cong
pháp chế. Cho nên, theo Hàn Phi, “để chỉnh đốn trật tự xã hội thì khơng có gì tốt
bằng pháp chế” (Thiên VI – Hữu độ).
Điều cần nhấn mạnh là tinh thần bình đẳng của pháp luật, nghĩa là ngồi vua
ra, mọi người đều phải bình đẳng trước pháp luật. Vua chúa cũng phải có quyết tâm
thi hành pháp trị, khơng vì tình riêng, quyền thế mà né tránh pháp luật. Trước pháp
luật, người người đều bình đẳng. Tư tưởng tiến bộ này chính là tinh hoa của Pháp
gia. Pháp luật đề ra phải công bằng, phải thể hiện sự bênh vực kẻ yếu, số ít, có như
thế trong nước mới có trật tự. Nguyên tắc này thể hiện tư tưởng tiến bộ của Hàn
Phi. Toàn bộ tư tưởng tủa ông ở 55 thiên chỉ duy nhất ở phần này đã thể hiện tư
tưởng thương dân. Theo Hàn Phi Tử cũng như các pháp gia khác, cơng bằng có
nghĩa là mọi người đều được đối xử bình đẳng trước pháp luật, khơng kể người đó
thuộc tầng lớp nào, đẳng cấp nào. Đây là tư tưởng tiến bộ, khác hẳn với quan điểm
của các nhà tư tưởng thời Xuân Thu. Bọn q tộc khơng bị hình phạt như thường
dân mà bị xử theo lễ, tức là theo lệ riêng của quý tộc. Thương Ưởng và Hàn Phi
muốn dùng luật để xóa bỏ cái đặc quyền đó của quý tộc, bắt họ phải thực hiện pháp
luật như mọi người dân.
Hàn Phi nhấn mạnh một nội dung quan trọng trong thực thi pháp luật là
“thưởng hậu, phạt nặng”. Bởi vì, thưởng phạt có tác dụng mạnh mẽ đến lịng tư lợi
của con người “Cái gọi là hình phạt nặng để kẻ gian thấy rằng lợi ích có được do
phạm tội là nhỏ bé mà hình phạt đưa tới lại vơ cùng nặng nề; người ta khơng muốn
vì cái lợi nhỏ mà phải chịu xử tội nặng nên sẽ khơng có những hành động gian trá”
(Thiên XLVI – Lục phản). Luận về thưởng phạt Hàn Phi khẳng định chỉ có ban
thưởng hậu hĩnh mới đủ khun thiện, chỉ có hình phạt thật nặng mới đủ diệt ác.
2.1.3. Vấn đề giáo dục pháp luật
Theo Hàn Phi Tử, hiệu quả của việc giáo dục pháp luật lớn hơn nhiều so với
việc giáo dục tình thương u. Có lẽ vậy mà ơng rất chú trọng đến việc thưởng hậu,
9



phạt nặng. Bởi vì, người ta sợ uy quyền mà phục tùng pháp lệnh. Vì vậy theo ơng,
vị vua anh minh nhất định phải thi hành hình phạt thật nặng cho người phạm tội
thực bụng thấy sợ, ban thưởng thật hậu hĩnh cho người được thưởng thấy được lợi.
Pháp luật phải thống nhất, không được thay đổi để người dân nhận thức rõ ràng,
chính xác.
Ơng cũng cho rằng giáo dục pháp luật khơng thể bằng tình thương. Việc trị
quốc khơng thể dựa vào lòng nhân ái mà phải trừng trị đến nơi, đến chốn. Ví như
“lịng thương u của người mẹ hiền đối với đứa con là vô bờ bến, nhưng khơng
hồn tồn giải quyết được vấn đề; nhưng nếu nó có hành vi gian tà bất chính thì
phải cho nó học thầy để tránh khỏi phạm pháp; nếu nó mắc bệnh ác tính thì phải
đưa nó đến thầy thuốc chữa trị để tránh cái chết” (Thiên XLV – Bát thuyết).
Ở đấỵ, khơng phải Hàn Phi khơng có tư tưởng giáo dục con người về lịng
nhân ái, nhưng ơng cho rằng, nếu giáo dục con người bằng lòng nhân ái thì chỉ giáo
dục được những người có đức tính bình thường giản dị, nhu mì, cịn để giáo hóa
được những người có tính cách ương bướng, hung hãn khi họ phạm tội thì chỉ bằng
cách dùng pháp luật, có như vậy mới giáo hóa được họ. Ơng đã biết phối hợp nhiều
biện pháp giáo dục, biết phân biệt từng loại người để áp dụng biện pháp khác nhau.
2.2. Lý luận về “Thế” của Hàn Phi Tử
Theo Hàn Phi, bản tính con người là tự tư, tự lợi, nên vua phải có cái thế mới
chế ngự được bề tơi; mới có thể tùy cơ ứng biến, mới bao quát được sự thay đổi của
đất nước. Trong quan hệ quốc tế khi so sánh thực lực giữa các nước với nhau cũng
phải có cái thế mới có thể tự lực, tự cường được. Trong thời kỳ Chiến Quốc, đế giữ
vững được chủ quyền bảo vệ đất nước, nhà vua phải giương cao quyển lực, dùng
quyền lực mới giữ yên đất nước, mới chống lại được sự nhiễu loạn của đám quý tộc
phân quyền, để tập trung lực lượng xây dựng đất nước làm cho đất nước phát triển.
Từ đó mới uy hiếp được lực lượng bên ngoài, cái gốc của bá vương mới bền vững
được.
10



Để hành pháp, dụng thuật nhà vua phải dùng uy quyền. Hàn Phi tin tưởng
rằng chỉ có uy quyền mới có thể trị quốc vì thơng thường, bề tơi đối với vua chúa
khơng có quan hệ huyết thống mà chỉ do uy quyền của nhà vua mà bề tôi phải
phụng sự, bởi vì họ bị trói buộc bởi quyền thế mà không thể không làm việc. Hẩu
hết dân chúng là sợ uy quyền, ít có người quy phục nhà vua bằng nhân nghĩa. Uy
thế tối cao của vua sẽ khiến cho bề tôi phải làm việc theo pháp lệnh. Tuân theo
pháp luật sẽ được trọng thưởng, vi phạm pháp luật sẽ bị trừng trị. Theo Hàn Phi “…
áp dụng uy thế sẽ làm cho mắt thêm tinh, tai thêm thính. Giỏi về sử dụng uy thế thì
nhà nước sẽ ổn định, cịn khơng biết dựa vào uy thế thì nước nhà sẽ lâm nguy”
(Thiên L – Hiển học).
Như vậy, Hàn Phi đã đặt địa vị quyền thế lên trên tài đức, miễn là người có
tài đức trung bình mà có quyền thế là trị được nước. Trong thiên Nạn thế Hàn Phi
viết: “Những người cai trị đa số là những người trung bình. Những người trung
bình trên khơng bằng Nghiêu, Thuấn nhưng ở dưới cũng không như Kiệt, Trụ. Nếu
họ giữ pháp luật ở vào cái thế thì trị an, nếu họ từ bỏ pháp luật, gạt bỏ cái thế thì
loạn”.
Tuy vậy, xét ở một góc độ nào đó thì cả hai chủ trương của Nho gia (dùng
nhân trị) và Pháp gia (dùng pháp trị) đều có điểm hạn chế. Bởi vì chủ trương “nhân
trị” cũng khơng thể bỏ qua “Pháp”, ngược lại chủ trương “Pháp” thì càng khơng thể
bỏ “Nhân”. Phải biết kết hợp cả hai chủ trương này thì việc trị quốc mới hiệu quả,
xã hội mới yên ổn.
Hàn Phi còn chỉ rõ rằng để bảo vệ được cái thế của mình thì nhà vua khơng
thể để bề tơi có chung quyền uy, đồng thời vua cũng cần phải dựa vào thưởng phạt
để củng cố quyền thế. Những học thuyết của Hàn Phi Tử như “pháp”, “thuật”, “thế”
đều không tách khỏi sự thưởng phạt. Thưởng, phạt là hai mục lớn của “pháp”, là
hai công cụ của ‘thuật”, là sự biểu hiện về sức mạnh của “quyền thế”. Đứng về
phương diện quyền thế mà nói, nếu nắm được sự thưởng, phạt thì quyền thế mới ổn
định. Thưởng, phạt là chỗ dựa để nhà vua khống chế bề tôi. Nhà vua phải nắm lấy
11



quyền sinh sát, tuyệt đối không để cho bề tôi cùng chia sẻ quyền hành. Thưởng hậu,
phạt nặng, khen chê phải đúng lúc, phù hợp. Đó chính là ngun tắc chủ yếu của sự
thưởng phạt.
Như vậy, quan niệm về “Thế ” của Hàn Phi là một trong những nguyên tắc
cơ bản của đạo trị quốc, là một chỗ dựa không thể thiếu của một ông vua trong việc
thực thi quyền lực của mình. Theo Hàn Phi, “Thế ” thể hiện một yêu cầu, một tính
chất của chế độ phong kiến trung ương tập quyền chuyên chế. “Thế ” về nội dung
là uy thế, quyền thế; về tác dụng là khuất phục người hiền tài, điều khiển được
quần thần; điểu kiện để có “Thế ” là nhà vua phải giữ độc quyền, phải thưởng hậu,
phạt nặng, phải làm sao để quần thần thừa nhận chỉ có mình là tơn q. Đảm bảo
được những u cầu đó thì vua có thể chế ngự được mọi diễn biến, và cái gốc của
sự nghiệp bá vương mới thực sự vững chắc.
2.3. Lý luận về “Thuật” của Hàn Phi Tử
Hàn Phi cho rằng vua chúa cai trị đất nước phải biết kết hợp, vận dụng
“Pháp” với “Thuật”. Một mặt, pháp luật được công bố rộng khắp cho mọi người
đều biết, vua giao trách nhiệm và yêu cầu bề tôi phải làm tốt việc tôn trọng, giữ gìn
pháp luật. Mặt khác, vua phải có sự mưu trí, linh hoạt, thích ứng với mọi hồn cảnh
để có thể tự mình cai quản quần thần. Hai mặt đó bổ sung cho nhau, phối hợp với
nhau thì vua mới đạt được mong muốn là sự trị an phú cường.
“Thuật” của Hàn Phi có nghĩa là “kỹ thuật, nghệ thuật dùng người”, hay thủ
đoạn của ông vua điều khiển quần thần. Cụ thể hơn, Hàn Phi cho rằng “Thuật” là
cách thức, phương pháp, mưu lược, thủ đoạn trong việc tuyển người, dùng người,
giao việc, xét đoán sự vật, sự việc mà nhờ đó pháp luật được thực hiện và nhà vua
có thể “trị quốc, bình thiên hạ”. Khái qt lại, “Thuật” bao gồm những nội dung
sau: thứ nhất là thuật trị quan lại; thứ hai là thuật trừ gian; thứ ba là thuật dụng
người; thứ tư là thuật thưởng phạt.
Theo Hàn Phi, bậc vua chúa muốn trị quốc được thì nhất định phải có Thuật.
Trong thiên XXXV – Ngoại trừ thuyết hữu hạ ông lập luận rằng: “đất nước cũng
12



như con ngựa của vua vậy, khơng có nghệ thuật cai quản đất nước thì bản thân tuy
cực khổ, vất vả mà vẫn khó tránh được sự hỗn loạn; bậc vua chúa có phương thuật
cũng giống như người giỏi đánh xe, có thể cai quản tốt nhất cho đất nước một cách
nhẹ nhàng, thoải mái; bản thân mình có thể an nhàn mà có thể đạt được vị trí của
bậc đế vương”.Ông cũng cho rằng “Thuật” là pháp thuật của vua dùng để đôn đốc,
cai quản quần thần một cách bí mật, cho nên nó càng kín đáo, bất ngờ càng tốt.
Ơng viết: “Dụng thuật mà bí mật bất ngờ như quỷ thần thì bề tơi khơng cịn cách gì
theo đó mà đẩu cơ trục’ lợi nữa”. (Thiên XLVIII – Bát kinh).
Khi nói về thuật dùng người, Pháp gia nói chung và Hàn Phi nói riêng coi
“Vơ vi” là ngun tắc chung của cách dùng “Thuật”. “Vô vi” theo Hàn Phi Tử là
một thứ phương thuật được chuyển hóa từ tư tưởng Đạo gia, nhưng thuật “vô vi”
của Hàn Phi khác với quan niệm của Lão – Trang. Hàn Phi Tử nói “vơ vi” nhưng
thực ra chủ trương của ơng là “hữu vi”. “Pháp” là quy tắc cho toàn dân thi hành,
dùng “thuật” cũng phải giữ gìn, tơn trọng pháp luật. Có như vậy mới có sự phục
tùng. Vua đặt ra pháp chế, đôn đốc các quan cai trị dân chúng, địi hỏi bề tơi phải
đạt được hiệu quả chắc chắn. Đó là quan điểm “vơ vi” của Hàn Phi, nó hồn tồn
khác với sự hư khơng, tĩnh lặng, khơng làm gì trong “vơ vi” của Lão Tử. Tn thủ
pháp luật thì trách nhiệm mới hồn thành, “bậc vua chúa chính là những người giữ
yên pháp chế xem xét bề tơi có làm được việc hay khơng, cho nên bậc vua chúa anh
minh chỉ cần cai quản các quan lại tốt, khơng cần phải hao phí tinh thần, sức lực để
cai trị dân chúng” (Thiên XXXV – Ngoại trừ thuyết hữu hạ). Đó là sự vận dụng cao
nhất của Thuật.
Hàn Phi cũng cho rằng nguyên tắc cơ bản của “vô vi” trị là phải dựa vào
pháp luật. Bởi vì, “vua không thể đủ thời gian để đôn đốc tất cả bề tôi làm việc;
cũng không thể dựa vào cảm giác và lý trí của mình để cai trị các quan. Vua phải
dựa vào thưởng phạt để thẩm định việc thưởng phạt” (Thiên VI – Hữu độ) . Đây
cũng giống như nguyên tắc phân quyền, phân cấp quản lý trong khoa học quản lý
hiện đại.

13


Cơng việc của xã hội là vơ cùng, vì vậy một bậc vua thông minh là phải biết
tập hợp tài trí của mn người tạo nên thành quả chung. Sức mạnh của một người
không thể thắng sức mạnh của muôn người. Cho nên bậc minh quân cai trị đất
nưóc, trước khi quyết định công việc thường trưng cầu ý kiến, tập trung trí tuệ và
sức mạnh của mọi người dân, nhờ vậy mà gặt hái được những thành quả tốt đẹp.
Bên cạnh thuật “vơ vi” thì Hàn Phi cũng cho rằng nguyên tắc cơ bản của
thuật dùng người là theo thuyết “hình danh”, “chính danh”, hay “thực danh”. Có
nghĩa là “danh” và “thực” phải phù hợp với nhau. Vua đôn đốc, nhắc nhở quần
thần, đánh giá thành tích của họ dựa trên cơ sở lời nói phải đi đơi với việc làm, thực
chất phải phù hợp với danh nghĩa, tuân theo pháp luật, định được cơng tội thì quyết
định được việc thưởng phạt. Đó là những phép tắc được sử dụng cơng khai, được
phát huy từ tài trí của vua. Nó làm cho cái “thuật” vừa bí mật, vừa cơng bằng xác
đáng trong từng cơng việc của vua. Theo đó, ai có đề xuất gì phải chứng tỏ sự phù
hợp với thực tiễn; ai đảm nhận cơng việc gì thì phải tự giải quyết công việc cho phù
hợp với chủ trương của họ. Việc làm và lời nói phải được thống nhất với nhau. Bởi
vậy, vua có thể yên lặng mà lời nói và cơng việc của bề tơi tự tỏ rõ tính chân thực
của nó.
Hàn Phi Tử đặc biệt chú ý đến phương pháp nghe của vua, ông gọi đó là
“Thính ngơn chi phương thuật”. Nghĩa là khi nghe bề tơi trình bày, vua phải trầm
mặc, khơng cử động, khơng ngắt lời; sau đó vua dùng phương pháp kiểm chứng
xem “danh – thực” có phù hợp nhau khơng; nhờ đó vua phát hiện người hiền tài.
Trong Thuật dùng người, Hàn Phi Tử còn coi bổ nhiệm người đảm nhận công việc
là then chốt của sự tồn vong đối với quốc gia. Vua chúa phải tự mình nắm quyền
phê’ – lập quan lại, phải dựa vào tài năng mà bổ nhiệm chức vụ. Bậc minh quân lập
ra bổng lộc quan chức là để sử dụng người hiền tài, khen thưởng người có cơng.
Thuật dùng người cũng địi hỏi vua chúa phải chuyên nhiệm phân chức nghĩa là
mỗi bề tôi phải đảm nhận một chức trách rõ ràng, chức vụ phải phù hợp với tài

năng, với một quyền hạn nhất định. Trong thiên XXVN – Dụng nhân, Hàn Phi lập
14


luận rằng, “khi gánh vác một chức trách thì người đó phải tn theo pháp luật mà
làm việc hết mình. Khi bề tôi nhận chức vụ phù hợp với năng lực của họ thì họ sẽ
hồn thành nhiệm vụ một cách nhẹ nhàng, không đưa đẩy bê trễ”.
Như vậy, “Thuật” của Hàn Phi là những phương pháp và thủ đoạn để ông
vua chuyên chế nắm và điều khiển được quần thần, để ông vua củng cố được ngôi
vị vững chắc của mình. Nó là điều kiện để xây dựng chế độ phong kiến trung ương
tập quyền mà lúc bây giờ đang là một xu hướng tất yếu. Hàn Phi Tử đã kế thừa và
phát triển cả bề rộng lẫn bề sâu tư tưởng “Thuật” của Thân Bất Hại để tạo cho
“Thuật” có một nội dung mới và hồn chỉnh.
Tóm lại, tư tưởng chính trị – xã hội của Hàn Phi Tử đã thể hiện rõ đường lối
chính trị là “Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ba yếu tố Pháp – Thuật – Thế. Trong
học thuyết của Hàn Phi, ba yếu tố “Pháp”, “Thế”, “Thuật” có mối quan hệ biện
chứng với nhau không tách rời. “Thế” cùng với “Pháp”, “Thuật” như ba cái chân
làm cho học thuyết được vững vàng; có cái “Thế” mới thi hành được “Pháp”,
“Thuật”; có “Pháp”, “Thuật” mói giữ vững được “Thế”‘, thiêu một trong ba yếu tố
đó sẽ khơng cai trị được đất nước.
3. Vấn đề con người trong quan niệm pháp trị của Hàn Phi Tử
Trong số các đại biểu lớn của Pháp gia, Hàn Phi Tử được coi là tập đại thành
của tư tưởng Pháp gia. Chính vì vậy, vấn đề con người trong triết thuyết chính trị
của ơng là sự tập hợp đầy đủ toàn bộ nội dung căn bản về vấn đề này của trường
phái Pháp gia. Bên cạnh đó, khi nghiên cứu vấn đề này, có thể thấy vượt lên hình
ảnh con người thần bí, đức độ với những tấm gương hoàn hảo của Nho gia, Hàn
Phi Tử đã động chạm tới điểm mấu chốt nhất của giá trị Người trên cả hai khía
cạnh tích cực và tiêu cực. Có lẽ vì thế, Pháp gia thường được đề cập tới như một
thứ công cụ để trị người hơn là dạy người và dùng người. Mặt khác, khi nghiên cứu
vấn đề con người trong tư tưởng Hàn Phi Tử, chúng ta bắt gặp khơng ít vấn đề của

xã hội hiện tại, những giá trị mới trong những nội dung tưởng như đã cũ.
3.1. Quan niệm về bản chất con người của Hàn Phi
15


Là học trò của Tuân Tử, Hàn Phi tán đồng quan niệm “tính con người ta vốn
ác” của Tuân Tử và bổ sung, phát triển nó bằng những nội dung mới. Những nội
dung về vấn đề con người trong triết thuyết của ông khá “tàn nhẫn” và thể hiện một
sự “công phá” từ bên trong khi ông nhận ra bản chất đích thực của con người lại
thường bị che dấu bởi những giá trị “khơng thật”. Ơng chấp nhận con người với
đầy đủ bản năng sinh tồn để đấu tranh cho sự tồn tại của chính bản thân mình như
một lẽ tự nhiên. Với xuất phát điểm đó, Hàn Phi đã đi thẳng vào khía cạnh lợi ích
cá nhân- chủ yếu là lợi ích về mặt vật chất, để khẳng định cơ sở sự tồn tại của con
người và bản tính vốn hám lợi, sợ hại của mọi cá thể. Bản chất này được bộc lộ qua
vô số các hiện tượng khác nhau như: người đóng quan tài thì mong cho người ta
chết, người làm cỗ xe thì mong cho người ta được sang, thầy thuốc thì mong người
ta bị bệnh nhiều, trong quan hệ vua tôi: “làm hại đến thân mình mà có lợi cho nước,
bầy tơi khơng làm…tình cảm của bề tôi là không thấy cái lợi ở chỗ mình bị thiệt
hại”. Cho nên với Hàn Phi, các quan hệ giữa người với người đều bị quyết định bởi
cái lợi ích thiết thân. Cái lợi ở đâu thì người ta theo đó mà làm, cái hại đến thân ở
đâu thì người ta theo đó mà tránh, mọi giá trị nhân, nghĩa đều chỉ là giả dối.
Thẳng thắn nhìn vào con người với tư cách là một sinh vật mang bản chất
hám lợi và ích kỷ, Hàn Phi chấp nhận sự tồn tại phổ biến của dạng người này một
cách tự nhiên như nó vốn tồn tại, một sản phẩm tất yếu của q trình phát triển.
Theo ơng, đã có thời kỳ lịch sử con người khơng đặt cái lợi ích lên hàng đầu đó là
thời thượng cổ. Lúc đó “đàn ơng khơng cày vì các sản phẩm của cây, cỏ đủ để ăn;
đàn bà khơng dệt vì da của chim muông đủ để mặc; không phải vất vả mà việc ni
dưỡng có đủ, số người thì ít mà tài sản thì có thừa. Vì vậy cho nên nhân dân không
phải tranh giành. Bởi vậy không cần thưởng hậu, khơng phải dùng hình phạt nặng
mà nhân dân tự nhiên trị an”. Nhưng về sau, khi con người đông lên, của cải ít đi,

mặc dù họ đã cố gắng vất vả làm việc nhưng vẫn không đủ sống. Lúc này xã hội
bắt đầu nảy sinh tranh giành của cải, cứơp bóc lẫn nhau và xã hội vì thế mà loạn.
Ơng đã giải thích mâu thuẫn xã hội bắt đầu từ lợi ích kinh tế trên cơ sở phân tích sự
16


biến đổi của điều kiện dân số, tình trạng dân cư, trình độ của cơng cụ lao động…Có
thể thấy, khi khẳng định ảnh hưởng mang tính quyết định của yếu tố kinh tế đối với
mỗi cá nhân và từng xã hội, Hàn Phi thực sự đã động chạm đến gốc rễ của vấn đề,
cái gốc rễ mà nhiều người đương thời phải che đậy khơng dám thẳng thắn thừa
nhận nó. Cao hơn, Hàn Phi còn nhận ra tác dụng hai chiều của yếu tố kinh tế đối
với con người. Một mặt, cái lợi là yếu tố căn bản thúc đẩy con người hành động
tranh giành của cải và là nguyên nhân gây ra mâu thuẫn, nhưng mặt khác nó cũng
là yếu tố liên kết con người với nhau. Theo đó, hành động vì cái lợi là lẽ bình
thường chỉ cần đặt cái lợi riêng trong cái lợi chung, khơng vì cái lợi riêng mà đi
ngược lại cái lợi chung. Đây là tư tưởng biện chứng khá sâu sắc của Hàn Phi. Ông
đã đánh giá xã hội đương thời và phê phán chế độ quân chủ một cách sắc bén và
thẳng thắn. Như một bản cáo trạng đối với chế độ quân chủ, trong hệ thống triết
học- chính trị của Hàn Phi, mỗi con người, với tư cách là cá nhân đều bị lột trần cái
vỏ bọc bề ngoài để hiện ra với nguyên nghĩa cá thể cần những giá trị căn bản bên
trong như nhau để tồn tại. Bản chất hám lợi, sợ hại ấy của con người, đối với Hàn
Phi là cái không thể che dấu, sửa đổi nhưng nếu biết sử dụng nó cho hợp lý trong
các mối quan hệ giữa người với người thì nó đem lại hiệu quả nhất định.
3.2. Phương pháp giáo hoá đạo làm người của Hàn Phi
Để đến được với những nội dung thực chất bên trong của xã hội quân chủ và
khẳng định bản chất của con người nói chung, từ đó chỉ ra nguyên lý cơ bản với tư
cách là đạo làm người, Hàn Phi đã xuất phát từ chính điều kiện lịch sử cụ thể, dùng
chính sự trải nghiệm của bản thân kết hợp với vốn kiến thức uyên thâm về nhiều
lĩnh vực như lịch sử, văn học, chính trị…Đặc biệt “ông là người duy nhất của
Trung Quốc thực hiện được một sự tổng hợp ba học thuyết Nho, Lão, Pháp, ở đó

Nho là tài liệu xây dựng, Pháp là cái bản thiết kế, nhưng Lão mới là kỹ thuật thi
công của cái ngôi nhà độc đáo”. Tất cả những lý do trên khiến cho đạo làm người
của Hàn Phi không đi quá nhiều vào nguyên lý mà thường xuất phát từ điều kiện xã
hội và hoàn cảnh cụ thể để phân tích đúng sai, được mất. Tư tưởng này không được
17


ông trình bày với tư cách là một nội dung độc lập mà nó biểu hiện qua những câu
chuyện luận bàn về lối xử thế và cách nhìn nhận sự vật, sự việc để hành động…Ở
đó, chúng ta gặp lại quan niệm Đạo của Lão tử, Chính danh của Nho gia nhưng
dưới hình thức, cách lý giải và vận dụng khác. Đạo ấy, đối với Hàn Phi không thể
gọi tên, định hình vì nó ln biến dịch theo thời. Trong Quyển VI, thiên XX, Giải
Lão, Hàn Phi khẳng định tính biến dịch của đạo: Đạo cũng giống như nước, kẻ khát
uống nó mà sống, người chết đuối vì uống nó nhiều mà chết. Nó cũng giống như
thanh kiếm, mũi giáo, người ngu dùng nó vào việc phẫn nộ mà sinh ra họa, bậc
thánh nhân dùng nó tạo ra cái phúc bằng cách trừng trị kẻ bạo ngược. Như vậy, có
thể thấy Hàn Phi vẫn giữ cái đạo pháp tự nhiêngiống như trong quan niệm của Lão
Tử và quan trọng hơn cả đó là hiểu được lẽ tự nhiên để đề phịng và tận dụng. Nói
cách khác, bằng cách nhìn thẳng vào các quan hệ bất biến với lối tư duy có phần
hiện đại, Hàn Phi đặt mọi vật, mọi việc, mọi cá thể vào mối quan hệ tất yếu để từ
đó đạo làm người của ơng là cái phải được chấp nhận như lẽ tất nhiên. Quan niệm
này có tiền đề từ chính tồn tại xã hội và ý thức xã hội của xã hội Trung Hoa cổ đại.
Sống vào thời đại tranh bá tranh vương, mua danh, bán tước Hàn Phi nhận ra các
mánh khoé của tất cả các hạng người trong xã hội. Nhưng ơng khơng vì thế mà bi
quan trước thế cục để ảo tưởng mơ về một thời đại huy hoàng như thời đại trước.
Đối với Hàn Phi thì các đời Nghiêu, Thuấn, Thang, Vũ đều làm trái cái nghĩa thơng
thường, làm cho việc giáo hố đời sau bị rối loạn. Đức dày không đủ để ngăn cấm
điều loạn nhưng uy thế thì có thể, cho nên ông phản đối cách đề cao các bậc đế
vương theo lối học thuật để dạy người. Theo Hàn Phi, hình phạt là gốc của lịng
thương, xét cái đạo hiếu đễ, trung thuận cho kỹ mà thi hành. Chính vì thế, quan

niệm của Hàn Phi khơng q khó hiểu nhưng cũng không hẳn là dễ áp dụng. Mặc
dù vậy, đằng sau những nội dung xử thế tưởng như khá cực đoan là một Hàn Phi
với cách nhìn khách quan, thẳng thắn, biện chứng về mối quan hệ giữa người với
người mà khơng phải nhà tư tưởng nào cũng có được và dám nhắc đến. Tuy nhiên,
xã hội dưới chế độ quân chủ chỉ có một cá thể có quyền cao nhất đó là nhà vua. Vì
18


thế, nói về ngun tắc thì đạo là ngun lý chung để con người tồn tại nhưng trên
thực tế, thi hành đạo chỉ có nhà vua, chỉ có đạo của vua chúa. Nhà vua phải thông
qua hệ thống pháp luật, dựa vào thế và thuật của mình để vận hành bộ máy quan lại
và cai trị nhân dân. Nói cách khác, nội dung phương pháp giáo hoá đạo làm người
cho mọi thành viên xã hội theo tư tưởng của Hàn Phi tập trung vào ba phạm trù căn
bản: pháp, thế, thuật.
Thứ nhất, bàn về “pháp”, Hàn Phi quan niệm, “Pháp luật là mệnh lệnh ban
bố rõ ràng nơi cửa công, hình phạt chắc chắn đối với lịng dân, thưởng cho những
kẻ cẩn thận giữ pháp luật, nhưng phạt những kẻ làm trái lệnh” . Nội dung chủ yếu
của pháp luật theo ông là những quy định thưởng và phạt. Pháp luật đã đặt ra thì
khơng phân biệt kẻ sang người hèn, đại thần hay kẻ thất phu. Đó chính là tính cơng
bằng của pháp luật. Từ xưa đến nay bậc vua sáng suốt có thể chế ngự được bầy tơi,
làm cho nước trị an là nhờ sử dụng pháp luật một cách cơng bằng thơng qua hai cái
cán hình và đức. Giết chóc gọi là hình phạt, khen thưởng gọi là ân đức. Hàn Phi
khuyến khích việc thưởng hậu cho những người có cơng và phạt nặng với những
người vi phạm. Ơng cho rằng, thưởng hậu thì cái mình muốn sẽ có được nhanh mà
phạt nặng thì cái mình muốn ngăn cấm sẽ ngăn cấm được nhanh chóng. Cái lý của
Hàn Phi về vấn đề này khá rõ ràng: “áp dụng hình phạt nhẹ nhàng người dân tất sẽ
coi thường phạm thêm lỗi lầm, nếu người dân phạm tội mà khơng bị lên án thì pháp
lệnh sẽ mất hiệu lực. Cho nên hình phạt nhẹ nếu khơng làm nhiễu loạn đất nước thì
cũng giăng bẫy người dân, đó mới thực sự là tổn hại đến trăm họ vậy”. Quan điểm
này nhất quán với nguyên tắc hình phạt là gốc của lịng thương của ơng. Trong

thiên Tâm độ, sách Hàn Phi Tử (Phan Ngọc dịch), Hàn Phi giải thích: bậc thánh
nhân trị dân là xét ở cái gốc chứ không phải theo lòng mong muốn của dân, chỉ cốt
làm lợi cho dân mà thơi. Cho nên thi hành hình phạt khơng phải là ghét dân mà là
vì yêu cái gốc. Hình phạt mà thắng thì dân yên tĩnh… Bậc vua sáng trị nước, soi
sáng việc thưởng thì dân hăng hái làm cơng việc; dùng hình phạt nghiêm thì dân
u q pháp luật.
19


Có thể thấy, tư duy của Hàn Phi về việc dùng pháp luật để trị người và ổn
định xã hội mang nội dung khá biện chứng. Ơng địi hỏi khi được soạn thảo, ban
hành, pháp luật phải dễ thi hành và có tính thống nhất, cơng bằng và khơng được
lấy tình cảm riêng tư để sửa đổi tuỳ tiện. Song, pháp luật cũng khơng có nghĩa là
nhất thành bất biến mà “pháp luật phải có sự chuyển hố theo diễn biến của thời
đại”. Tư tưởng của Hàn Phi về vấn đề này đã thực sự vượt lên trên lập trường giai
cấp của giai cấp quý tộc và đến gần với những lý luận dân chủ hiện đại. Tuy nhiên,
do nhiều yếu tố, cả khách quan và chủ quan thân phận con người trước pháp luật
trong tư tưởng của Hàn Phi là ở thế nhỏ bé, bị động, phụ thuộc với thân phận “nô
lệ” chứ không phải “công dân”.
Thứ hai, bàn về “thế”, Hàn Phi cho rằng, nhân dân sợ uy quyền chứ rất rất ít
người quy phục đạo nghĩa. Ơng viện dẫn đến như Khổng Tử là bậc thánh nhân về
mặt tu dưỡng đạo đức, lấy nhân nghĩa làm trọng, đến sau cùng cũng chỉ có bảy
mươi người nối nghiệp. Đem con số bảy mươi đó ra mà so sánh với số người trong
thiên hạ thì thấy rằng số người mến trọng nhân nghĩa là rất bé nhỏ. Trong khi đó
“bậc thánh nhân trị nước khơng cậy ở chỗ người ta u mình mà dùng cái thế khiến
người ta khơng thể làm điều sai. Trông cậy người ta làm điều hay cho mình thì
trong một nước khơng đến mười người, nhưng dùng cái thế khiến người ta không
thể làm bậy thì có thể trị được cả một nước.”
Theo Hàn Phi, pháp luật là công cụ để trị dân, ổn định xã hội nhưng để mọi
người tuân thủ theo pháp luật thì người cầm đầu chính thể phải có “thế”. Nếu cái

danh của nhà vua bị hạ thấp và địa vị bị nguy thì người dưới nhất định khơng theo
pháp lệnh. Hàn Phi cho rằng: “Uy thế là cái thống trị thiên hạ, là chỗ dựa để sai
khiến quần thần. Có quyền thế thì sẽ có được sự tơn q, cịn nếu bị mất quyền thế
thì sẽ bị mất ln quốc gia, sẽ có nguy cơ bị giết hại. Cho nên nhà vua nhất định
phải tự mình giữ lấy quyền thế, không để lơ là lọt vào tay kẻ khác” . Tư tưởng này
của Hàn Phi hoàn toàn phù hợp với thời kỳ của xã hội quân chủ, thời kỳ tôn quân
quyền. Cao hơn, Hàn Phi còn nhận ra hai mặt của một vấn đề: một mặt nhà vua cần
20


phải giữ lấy cái quyền thưởng phạt của người cầm đầu chính thể thơng qua “thế”
của mình với tư cách là cái độc tôn. Nhưng mặt khác, nhà vua không thể tự mình
làm tất cả các cơng việc mà phải cắt đặt các chức quan và trao quyền cho họ theo
nguyên tắc minh chủ trị lại bất trị dân điều này cũng có nghĩa là để cai trị xã hội có
hiệu quả nhà vua phải xác lập vị thế nhất định cho quan lại. Cho nên, nếu bề tơi có
thể mượn được và lợi dụng quyền thế của vua thì họ có nhiều sức mạnh để làm lợi,
nhà vua sẽ dần bị che lấp. Chính vì vậy nhà vua vẫn phải quản lý công việc thông
qua hệ thống quan lại nhưng khoanh vùng lại để cái thế của quan đủ để thi hành
pháp luật. Các quan đại thần vẫn được phân cấp bậc, vẫn có bổng lộc và trách
nhiệm cụ thể song họ chỉ có quyền hạn trong phạm vi nhất định, việc họ làm là để
đề cao nhà vua, mỗi người làm một chức quan không thể chuyên quyền và lấn át
người khác. Tuy nhiên, làm thế nào để sử dụng và phát huy được “thế” thì Hàn Phi
khơng chỉ rõ. Theo ông tuy cùng thi hành cái đạo bất biến nhưng ở mỗi ơng vua
đều có cái “thuật” cai trị của riêng mình.
Thứ ba, bàn về “thuật”, trong thiên Định Pháp, sách Hàn Phi Tử (Phan Ngọc
dịch), Hàn Phi khẳng định: Thuật là cái nhà vua nắm lấy, là nhân trách nhiệm mà
giao chức quan, theo tên gọi mà đặt ra yêu cầu thực sự, nắm lấy cái quyền cho sống
và giết chết, hiểu rõ năng lực của bầy tơi. Ơng vua nào khi lên ngơi cũng chuẩn bị
cho mình các phương sách cai trị đều dựa trên nội hàm căn bản đó của “thuật”.
Nhưng việc triển khai nội dung của “thuật” thì khơng có triều đại nào giống hệt các

triều đại trước đó. Tại sao như vậy? Bởi vì với mỗi triều đại, cả điều kiện khách
quan và nhân tố chủ quan đều đã thay đổi. Mặt khác, nếu “pháp” là cái được được
lưu truyền, công bố rộng rãi, thì “thuật” mang tính bí hiểm và được triển khai theo
cơ chế ngầm, “ngay cả thê thiếp yêu quý nhất, hay các cận thần được sủng ái hầu
cận bên vua cũng không ai được biết”. Cho nên, theo Hàn Phi, “vận dụng phương
thuật phải bí mật bất ngờ như quỷ thần vậy…dùng thuật mà bí mật bất ngờ như quỷ
thần thì bầy tơi khơng có cách gì theo đó mà đầu cơ trục lợi nữa”.
21


Theo Hàn Phi, “thuật” trước hết thể hiện thông qua khả năng nhận dạng và
phân loại con người. Bằng cách nhìn nhận thẳng thắn, ơng chỉ ra rằng xung quanh
nhà vua ai cũng có thể trở thành kẻ gian bởi con người không ai không ra sức liều
chết để đạt được cái mình mong muốn. Cho nên cái quan trọng nhất đối với vua
là thuật trừ gian. Muốn trừ gian, bậc thánh nhân phải bỏ cái khôn ngoan, khéo léo,
cái u ghét của mình. Ở đây khơng phải Hàn Phi chủ trương dựng lên một ông vua
ngu dốt, giả dối mà theo Hàn Phi, đó là cái đạo nhìn xa trơng rộng của bậc thánh
nhân. Ơng giải thích, nếu nhà vua có thể từ bỏ (nhưng thực chất là che dấu) cái
khéo léo, khôn ngoan và sự yêu ghét của mình thì giữ được cái nguyên lý bất biến,
khiến cho người dưới không thể lừa dối vua, không thể che dấu cái xấu của họ mà
phải tỏ lịng ngay thực.
Có năm loại người được Hàn Phi liệt vào Ngũ đố tức năm lũ sâu mọt cần xử
lý: bọn học giả trong nước khen cái đạo của các tiên vương, tỏ ra mình nhân nghĩa,
làm người ta ngờ vực pháp lệnh đương thời, làm lòng vua phân vân; bọn bày ra
những chuyện dối trá, mượn sức nước ngoài để thực hiện điều riêng tư của mình,
quên mất cái lợi của xã tắc; bọn thân tín của nhà vua tụ tập ở các nhà riêng, hối lộ
kẻ có quyền thế để khỏi phải vất vả nơi chiến trận; bọn thương nhân, bọn thợ chế
tạo những vật vô dụng, chứa chất của cải để giành cái lợi gấp đôi người cày.
Đối với các hạng người khác nhau cần có cách trừng trị và nuôi dưỡng khác
nhau song trong thuật cai trị, Hàn Phi nhấn mạnh nguyên tắc dùng công việc để sử

dụng người, đó là cái then chốt của sự cịn hay mất, trị hay loạn. Cụ thể hơn, ông
chỉ ra bảy thuật vua chúa dùng đó là: xem xét và so sánh các đầu mối; phạt chắc
chắn nêu cao uy quyền; thưởng chắc chắn để dùng hết năng lực; nghe mọi người và
bắt người dưới chịu trách nhiệm về điều đã nói; ra những mệnh lệnh đáng ngờ và
dùng mánh khoé để sai khiến; tập hợp những người hiểu biết sự thực; đảo ngược
lời nói và đảo ngược cơng việc. Ơng cịn yêu cầu phải có sự khảo sát, điều tra và
khi có kết quả lại phải tiếp tục kiểm tra kỹ lưỡng. Có thể thấy quan niệm này của
Hàn Phi rất chắt chẽ, toàn diện và đến gần với những quan điểm hiện đại.
22


Theo Hàn Phi, trong dùng “thuật” nhà vua cần thực hiện theo cơ chế: bên
trong thì có biện pháp đề phịng, thay đổi ln ln, bên ngồi thì cứ chiếu theo
phép tắc mà xử. Vua biết tập hợp cái khôn của nhiều người thì khơng giỏi cũng
thành giỏi. Song, “người tài trí chưa chắc có đạo đức, họ thường xun mưu mơ để
hại nhà vua. Cịn người tu thân, liêm khiết thì khơng đa mưu, túc trí, phán
quyết cơng việc thường tự cho là mình đúng, làm cho sự việc rối tung lên”. Như
vậy, cũng có nghĩa là việc sử dụng con người cái chính là căn cứ vào thế mạnh của
họ, nhưng bổ nhiệm những chức quan trọng thì nhất định phải xem xét nhiều mặt.
Cách tốt nhất là để cho bề tơi tự trình bày, theo đó giao việc, xét kết quả cơng việc
và lời nói ban đầu mà thưởng phạt theo quy định của pháp lệnh.
Có thể nói, nhờ có “thuật” trị nước mà nhà vua tuy ở trong cung nhưng vẫn
nắm được mọi tình hình, khơng làm gì mà thực chất lại đang chi phối tất cả, lấy cái
tĩnh của mình để khống chế cái động của lòng người. Cho nên, theo Hàn Phi cái
đạo bất biến của việc cai trị là lấy cái danh (tức tên gọi) làm đầu. Danh đã chính thì
sự vật được xác định. Cái danh mà thiên lệch thì sự vật thay đổi. Cái danh được
dùng để định rõ vị trí của mỗi người, lấy cái chức tước, cái danh phận để giao việc,
lấy bổng lộc để khuyến khích họ nhưng nhà vua xét cái hình tức tình hình thực tế
cơng việc của họ để thưởng và phạt. Đó chính là nguyên lý vua nắm cái danh, bề
tôi chạy cái thực. Cho nên xét ra, thuyết Chính danh của Nho gia và Hình danh của

Pháp gia (Hàn Phi Tử) đều đặt mục tiêu ổn định xã hội, nhưng nếu Chính danh định
phận là nhằm duy trì trật tự đẳng cấp khắc nghiệt thì Hình danh của Pháp gia đã
mang trong mình nó mầm mống của tư tưởng bình đẳng.
Nhìn chung, học thuyết Pháp trị của Hàn Phi được xây dựng và hoàn thiện
dựa trên những tiền đề lý luận và thực tiễn chắc chắn. Bằng con mắt tinh đời, ơng
nhìn nhận sự vật, sự việc một cách thẳng thắn và khách quan. Với lối tư duy biện
chứng và cách diễn đạt đầy thuyết phục, Hàn Phi đã xây dựng một lý luận có tính
thực tiễn cao bằng logíc khó bẻ gãy. Con mắt của ông đối với thế cục và con người
tuy lạnh lùng, tàn nhẫn và có phần cực đoan nhưng khơng bi quan. Ơng đề cao vai
23


trị của pháp luật và đi liền với nó là việc coi trọng giáo dục. Ông quan niệm, cứ đợi
mũi tên nó tự thẳng thì một trăm đời cũng khơng có tên, nếu đợi cây gỗ tự trịn thì
một ngàn đời cũng khơng có bánh xe. Cho nên, với Hàn Phi, hình phạt là gốc của
lịng thương, sự giáo dục cần phải được tiến hành sớm và liên tục để ngăn chặn mọi
cơ hội biểu hiện bản chất vụ lợi của con người. Nhưng nếu cho rằng học thuyết của
Hàn Phi nặng về hình, nhẹ về đức khi ơng chủ trương dùng pháp luật để giải quyết
tất cả mọi việc thì chưa thật thoả đáng bởi lẽ pháp luật theo quan điểm của Hàn Phi
là thấu suốt tình cảm con người nên có thể nói trong cái “hình” đã có cái “đức”,
khơng hề có sự tách biệt.
Quan điểm của Hàn Phi còn nhiều hạn chế, nhất là việc chỉ thấy khía cạnh vụ
lợi của con người mà khơng thấy rằng con người cịn có rất nhiều lý tưởng cao đẹp
để phấn đấu và hy sinh. Xét theo một khía cạnh nào đó mục tiêu xây dựng lý luận
của ơng cuối cùng cũng chỉ để tạo ra một công cụ phục vụ cho nhà vua củng có địa
vị và quyền lực độc tơn của mình. Cho nên, con người trong học thuyết của ông
luôn ở địa vị thấp hèn và bị phụ thuộc. Sự bình đẳng của con người trước pháp luật
là sự bình đẳng về thân phận người nơ lệ dưới ngai vàng của nhà vua. Tuy nhiên,
vượt lên trên những hạn chế đó là một Hàn Phi ghi dấu ấn của mình vào lịch sử tư
tưởng Trung Hoa nói riêng và nhân loại nói chung với một học thuyết dám nhìn

thẳng vào sự thật và khẳng định những giá trị lợi ích căn bản là động cơ cho mọi
hành động của con người, bóc trần mọi quan hệ giả tạo giữa người với người và
phê phán chế độ quân chủ từ bên trong.
Cuối cùng, để bao quát hết được nội dung, đánh giá được một cách khách
quan và đến được tầng sâu của vấn đề con người trong triết thuyết của Hàn Phi
không hề đơn giản. Song, trở lại với với một vài khía cạnh trong vấn đề này để
thêm một lần nữa khẳng định vị trí và giá trị tư tưởng của Hàn Phi - một nhà tư
tưởng lỗi lạc của Trung Hoa và của nhân loại.
4. Hạn chế trong tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử
24


Trên thực tế, sau khi sử dụng hệ thống pháp trị, nhà Tần đã thu phục được
các nước còn lại, thống nhất Trung Quốc, mở ra một trang sử mới cho dân tộc
Trung Hoa. Song, sang đến đời Hán, Nho gia đã hưng thịnh trở lại, Pháp gia cùng
hệ thống pháp trị nhanh chóng mất đi chỗ đứng của mình. Về phương diện này,
Ngô Kinh Hùng, nhà triết học pháp luật nổi tiếng người Trung Quốc, đã đưa ra một
nhận xét tương đối xác đáng rằng, sở dĩ Pháp gia thất bại là do bản thân cách làm
của Pháp gia (trong đấy có Hàn Phi) tồn tại nhiều điểm quá cực đoan:
- Đồng nhất việc cai trị dựa trên pháp luật với việc cai trị dựa vào các hình phạt
nghiêm khắc.
- Quan niệm về pháp luật của Pháp gia nói chung và Hàn Phi nói riêng quá máy
móc và cứng nhắc, hồn tồn khơng có tính đàn hồi trong việc sử dụng pháp luật.
- Coi các điều khoản pháp luật chính thức là hình thức duy nhất phù hợp với pháp
luật, hoàn toàn bỏ qua nhân tố luật tập quán.
- Giải thích mục tiêu pháp luật quá chú trọng đến phương diện vật chất; thực ra,
luật pháp cần phải giúp phát triển một cách bình đẳng các lợi ích khác nhau.
- Ở họ, có lịng nhiệt huyết cải cách mù quáng, song lại quá thiếu ý thức lịch sử,
dường như là muốn sáng tạo lại lịch sử
Tóm lại, tư tưởng của Hàn Phi hết sức sâu rộng, bao gồm chính trị, pháp luật,

triết học, xã hội, kinh tế, quân sự, giáo dục,...; trong đó, then chốt chính là tư tưởng
chính trị. Ông để tâm suy nghĩ làm sao cho vị vua trong điều kiện xã hội đương
thời có thể vận dụng vô số các phương pháp khác nhau để đạt được cục diện chính
trị ổn định, để cho nước giàu quân mạnh. Có thể nói “Hàn Phi Tử” là một bộ sách
chính trị học vĩ đại và học thuyết chính trị của ông được người xưa gọi là “học
thuyết của đế vương” (đế vương chi học).

25


×