Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Đề tài:Triết học cổ điển Đức pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 35 trang )

Triết học cổ điển Đức Lịch sử văn minh thế giới
Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LỊCH SỬ

Đề tài:
TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC
GVHD: TS. Trịnh Tiến Thuận
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Trang
MSSV: K37.602.104
Lớp: K37_Sử B
Môn: Lịch sử văn minh thế giới
TP Hồ Chí Minh tháng 1 năm 2013
Triết học cổ điển Đức Lịch sử văn minh thế giới
MỤC LỤC
Mở đầu 4
I. Tiền đề kinh tế chính trị - xã hội, khoa học và một số đặc điểm cơ
bản của triết học cổ điển Đức 5
1. Tiền đề kinh tế chính trị - xã hội 5
2. Những đặc điểm cơ bản của triết học cổ điển Đức 5
II. Nội dung cơ bản của triết học cổ điển Đức thông qua các tác gia tiêu
biểu 8
1. Immanuel Kant (1724 – 1804) 8
a) Vài nét về cuộc đời và triết học của Immanuel Kant 8
b) Những nội dung chính của “Triết học lí luận” 10
2. Johann Gottlieb Fichte (1762-1814) 14
a) Vài nét về Johann Gottlieb Fichte 14
b) Sơ lược về triết học của Johann Gottlieb Fichte 15
3. Friedrich Wilhelm Joseph Schelling (1775 – 1854) 16
a) Vài nét về Friedrich Wilhelm Joseph Schelling 16


b) Sơ lược về triết học của Friedrich Wilhelm Joseph Schelling 16
4. Georg Vinhem Phridich Hegel (1770 – 1831) 17
a) Vài nét về cuộc đời và triết học của Hegel 17
b) Những tác phẩm triết học lớn của Hegel 18
c) Phép biện chứng và những hạn chế trong phép biện chứng của
Hegel 25
5. Ludwig Feuerbach (1804 – 1872) 27
Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 2
Triết học cổ điển Đức Lịch sử văn minh thế giới
a) Vài nét về cuộc đời và triết học của Ludwig Feuerbach 27
b) Chủ nghĩa duy vật nhân bản Ludwig Feuerbach 28
c) Những hạn chế trong triết học của Ludwig Feuerbach 29
III. Kết luận 31
Phụ lục 32
Tài liệu tham khảo 35
Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 3
Triết học cổ điển Đức Lịch sử văn minh thế giới
MỞ ĐẦU
Khái niệm “Triết học cổ điển Đức” dùng để chỉ sự phát triển triết học của nước
Đức ở nửa cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, được mở đầu từ hệ thống triết
học của Kant (1724 – 1804) trải qua Phíchtơ (1762 – 1814), Schellinh (1775 – 1854)
đến triết học duy tâm của Hêghen (1770 – 1831) và triết học duy vật của Feuerbach
(1804 – 1872).
Triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử tư tưởng
Tây Âu và thế giới cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX. Đây là đỉnh cao của thời kì
triết học cổ điển phương Tây, đồng thời có ảnh hưởng to lớn tới triết học hiện đại.
Triết học cổ điển Đức ra đời và phát triển trong những điều kiện của chế độ
chuyên chế nhà nước Phổ và nó là sự bảo vệ về mặt tư tưởng cho chế độ đó. Thời kì
cuối thế kỉ XVIII, cuộc cách mạng Tư sản Pháp (1789) ảnh hưởng mạnh đến nước
Phổ, và Hêghen là một người tán dương cuộc cách mạng đó. Đồng thời xã hội Phổ lúc

này với những điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt đã làm nảy sinh hệ tư tưởng có tính
chất tiểu tư sản, thỏa hiệp. Tất cả cái đó tạo nên nét riêng của triết học cổ điển Đức.
Do điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội hết sức đặc biệt của nước Đức cuối thế
kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, triết học cổ điển Đức chứa đựng một nội dung cách mạng,
nhưng hình thức của nó thì cực kì “rối rắm” và có tính chất bảo thủ.
Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 4
Triết học cổ điển Đức Lịch sử văn minh thế giới
I. Tiền đề kinh tế chính trị - xã hội, khoa học và một số đặc điểm cơ
bản của triết học cổ điển đức
1. Tiền đề kinh tế chính trị - xã hội
Đến cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản được thiết lập và phát
triển mạnh mẽ hầu hết ở các nước Tây Âu. Thành quả của cuộc cách mạng công
nghiệp đã tạo ra bước nhảy đột biến trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khẳng
định tính ưu việt hơn hẳn của chủ nghĩa tư bản so với tất cả các xã hội trước đó. Trong
khi đó nước Đức vẫn đang ì ạch trong chế độ phong kiến. Xu hướng phát triển theo
khuynh hướng tư bản chủ nghĩa đã bị chế độ phong kiến quan liêu chuyên chế cản trở.
Nhà nước liên bang chỉ tồn tại trên danh nghĩa, gồm 360 công quốc nhỏ bé làm cho
đất nước Đức trở thành một quốc gia manh mún, yếu kém về mọi mặt như Ănghen đã
gọi nó là “sự cùng khổ Đức” của lịch sử nước Đức. Giai cấp Tư sản nằm mơ về cách
mạng tư sản Pháp nhưng lại chưa dám hành động.
Cùng với tình hình kinh tế - xã hội ở trong nước sự phát triển của khoa học, đặc
biệt là sự phát triển của khoa học tự nhiên đã đặt ra nhiều vấn đề phải xem xét lại. Các
phát minh khoa học đã chứng tỏ rằng phương pháp tư duy siêu hình, tư biện không thể
pát hiện ra bản chất của sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên và thực tiễn trong xã
hội đang diễn ra ngày càng phong phú phức tạp.
Thực tiễn và nhu cầu phát triển tư duy lý luận đòi hỏi và đã tạo tiền đề, điều
kiện cho sự xuất hiện của một nền triết học mới–Triết học cổ điển Đức.
2. Những đặc điểm cơ bản của triết học cổ điển Đức
Triết học cổ điển Đức là thế giới quan và ý thức hệ của giai cấp Tư sản Đức
cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Như tình trạng nước Đức lúc bấy giờ trong tư

Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 5
Triết học cổ điển Đức Lịch sử văn minh thế giới
tưởng và hệ thống của các triết gia Đức có tính hai mặt. Do các nhà triết học phần lớn
xuất thân từ tầng lớp xã hội thượng lưu, gắn bó mật thết phong trào quý tộc về lợi ích
kinh tế, địa vị chính trị, vì thế một mặt họ mong muốn thống nhất đất nước, phồn
vinh, nhưng một mặt họ sợ sức mạnh của quần chúng lao động mà thoả hiệp với các
quý tộc phong kiến dẫn đến tư tưởng bảo thủ, cải lương về mặt chính trị - xã hội, mâu
thuẫn với tính cách mạng và tính khoa học.
Triết học cổ điển Đức đặc biệt đề cao vai trò, vị trí tích cực của con người. Kế
thừa và phát huy những tư tưởng thời kỳ Phục Hưng và Cận đại, các nhà triết học cổ
điển Đức đã khẳng định con người là chủ thể, là kết quả là sản phẩm của hoạt động tự
nó, cho nó vì nó cho nên thực tiễn cao hơn lý luận, lịch sử chỉ là phương thức tồn tại
của con người, cá nhân có thể làm chủ được vận mệnh của mình và cao hơn là tư
tưởng con người trong bản chất xã hội. Như vậy triết học cổ điển Đức đã làm một
bước rẽ trong việc hình thành, phát triển của triết học. Nếu như trước đây triết học
phương Tây lấy những vấn đề nhận thức luận, bản thể luận…làm nền tảng, thì trong
bối cảnh đầy sự biến động cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX con người lại trở thành
xuất phát điểm của mọi vấn đề triết học. Tuy vậy trước sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học và ảnh hưởng to lớn của nó đến đời sống kinh tế - văn hoá – xã hội đã đưa
đến quan niệm sùng bái và tuyệt đối hoá vai trò của lý tính, của tư duy. Biến tư duy
của con người thành một thực thể độc lập đối với đời sống thực của nó, thực thể tinh
thần tối cao làm căn nguyên để giải thích cho tất cả mọi cái, mọi hiện tượng đang hiện
tồn.
Trong triết học cổ điển Đức thực tiễn và khoa học đã đặt ra yêu cầu là cần phải
có phương pháp tư duy để phản ánh chân thực về tồn tại mà lại thể hiện được tinh thần
cách mạng của thời đại. Các nhà triết học cổ điển Đức đã tiếp thu những tư tưởng biện
chứng trong di sản triết học truyền thống để xây dựng nên phép biện chứng của mình.
Lần đầu tiên phép biện chứng tồn tại là một phương pháp nhận thức có tính đồng kết,
được biểu hiện chặt chẽ qua hệ thống các khái niệm phạm trù. Mặc dù là phép biện
Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 6

Triết học cổ điển Đức Lịch sử văn minh thế giới
chứng duy tâm những vẫn được các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác – Lênin đánh giá
cao. Đó là một trong những cơ sở lý luận được triết học Mác đề ra.
Trên đây là những đăc điểm cơ bản của triết học cổ điển Đức. Luận điểm của
Mác coi những đặc điểm của triết học cổ điển Đức là “ lý luận của ngưòi Đức về cách
mạng tư sản Pháp” một mặt cho thấy đặc điểm riêng của triết học cổ điển Đức so với
triết học Pháp thế kỷ XVIII, dù giữa chúng có sự kế thừa to lớn ; mặt khác khẳng định
giá trị tư tưởng vĩ đại của triết học cổ điển Đức.
Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 7
Triết học cổ điển Đức Lịch sử văn minh thế giới
II. Nội dung cơ bản của triết học cổ điển Đức thông qua các tác gia tiêu
biểu
1. Immanuel Kant (1724 – 1804)
a) Vài nét về cuộc đời và triết học của Immanuel Kant
Imanuel Kant (1724- 1804) được mọi người biết đến là người sáng lập ra nền
triết học cổ điển Đức; là một trong những nhà tiết học vĩ đại nhất của lịch sử tư tưởng
phương Tây trước Mác. Triết học của ông là “nền tảng và điểm xuất phát của triết học
Đức hiện đại, những hạn chế trong triết học của ông không làm lu mờ công lao đó của
Kant”.
Kant sinh năm 1724 ở Kênisbec. Năm 1745 ông tốt nghiệp đại học tổng hợp
Kênisbec và trở thành một gia sư. Năm 1755 ông là giáo sư và từ năm 1770 là giáo sư
của trường đại học Kênisbec. Là một trong những học giả uyên bác nhất đương thời,
ông giảng dạy về nhiều lĩnh vực: siêu hình học, logic học và toán học, cơ học, địa chất
học…
Trong suốt cuộc đời 80 năm của mình, ông đã sản sinh ra hàng loạt các tác phẩm
nổi tiếng để đời như : Phê phán lý tính thuần túy (1781); Mở đầu khoa siêu hình học
tương lai (1783); Các nguyên tắc của siêu hình học về đạo đức (1785) Phê phán lý
tính thực tiễn (1788); Phê phán năng lực phán đoán (1790); Nhân học (1798)…
Sự phát triển về tư tưởng triết học của Kant được phân làm 2 thời kỳ: thời kỳ tiền
phê phán (trước 1770) và thời kỳ phê phán (sau 1770).

• Thời kỳ tiền phê phán:
Thời kỳ đầu các tác phẩm chủ yếu của Kant viết về triết học tự nhiên, chẳng hạn
như tác phẩm Lịch sử tự nhiên đại cương và học thuyết về bầu trời viết năm 1755 ông
đưa ra giả thuyết giải thích nguồn gốc sự hình thành của vũ trụ. Trong các tác phẩm
triết học của thời kỳ tiền phê phán lúc đầu Kant chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa duy lý
Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 8
Triết học cổ điển Đức Lịch sử văn minh thế giới
của Lépnít và Vônphơ nhưng về sau trong các tác phẩm Về những sai lầm tinh tế của
bốn loại hình tam đoạn luận (Xuất bản 1762) và trong Kinh nghiệm của việc dựa vào
triết học khái niệm các đại lượng phủ định (Xuất bản 1763) thì Kant đi tìm hạn chế
của chủ nghĩa duy lý và logic. Với ảnh hưởng của Hium, Kant ngày càng xa rời cách
nhìn suy lý và logic. Đó chính là xuất phát cho sự chuyển biến từ các tác phẩm thời kỳ
tiền phê phán sang các tác phẩm thời kỳ phê phán.
• Triết học thời kỳ phê phán:
Do chịu ảnh hưởng của các biến đổi ở Pháp và Tây âu trước cách mạng tư sản
1789 và đặc biệt là ảnh hưởng của Hium, thế giới quan của Kant đã biến đổi. Ông đặt
nhiệm vụ nghiên cứu toàn bộ các vấn đề triết học từ trước tới nay, trên tinh thần phê
phán như quan niệm về con người, về lý tính về khả năng nhận thức của con người, về
hành vi đạo đức, về trách nhiệm và hạnh phúc của con người. Theo Kant khoa học về
con người chưa được chú trọng nghiên cứu và phát triển đúng mức, chưa hướng vào
việc giải quyết những vấn đề của cuộc sống và hoạt động thực tiễn cho con người có
cách nhìn về bản thân và về thế giới từ đó vạch ra những nguyên tắc cơ bản cho hoạt
động sống của con người vì những lý tưởng nhân đạo, đạo đức, tự do, xứng với nhân
vị cuả con người. Hệ thống triết học của ông được thể hiện qua bộ 3 tác phẩm “phê
phán” nổi tiếng của ông. Trong Phê phán lý tính thuần túy, ông trình bày nhận thức
luận. Ngoài ra nhận thức luận còn được trình bày một các phổ cập hơn trong cuốn
Tiểu luận về mọi siêu hình học tương lai có quyền được tự coi là khoa học(1783).
Luân lý học của ông được trình bày trong cuốn Phê phán lý tính thực tiễn (1788).
Cuốn Phê phán năng lực phán đoán (1790) dành chủ yếu cho những vấn đề mỹ học
và cả vấn đề về tính có mục đích trong thế giới hữu cơ.

Theo Kant các triết gia từ xưa tới nay hình như quên mất vấn đề quan trọng là
con người. Vì vậy Kant đặt nhiệm vụ hàng đầu cho mình là phải xác định bản chất của
con người, toàn bộ các vấn đề của triết học phải được hướng vào việc giải quyết
những vấn đề của cuộc sống và hoạt động thực tiễn của con người. Triết học phải đem
Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 9
Triết học cổ điển Đức Lịch sử văn minh thế giới
lại cho con người một cơ sở và nền tảng thế giới quan mới, vạch ra những nguyên tắc
cơ bản của cuộc sống của con người vì những lý tưởng nhân đạo. Để làm được điều
đó thì triết học phải lý giải các vấn đề : Tôi có thể biết được cái gì?, Tôi cần phải làm
gì?, Tôi có thể hy vọng cái gì?, Con người là gì?
Bước ngoặt trong sự phát triển triết học của Kant là cuộc gặp gỡ của ông với
thuyết duy nghiệm của Hume. Ông nói: tôi công khai thú nhận, gợi ý của David Hume
chính là điều lần đầu tiên đã đánh thức tôi ra khỏi giấc ngủ giáo điều nhiều năm về
trước và đã vạch ra một hướng đi mới cho các tra cứu của tôi trong lĩnh vực tư duy
triết học”. Kant từ chối theo con đường của Hume không chỉ vì nó có thể dẫn ông tới
chủ nghĩa hoài nghi mà còn vì ông cảm thấy rằng mặc dù Hume đã đi đúng đường
nhưng không hoàn thành nhiệm vụ giải thích làm thế nào đạt được tri thức. Vì vậy,
Kant đã tìm cách xây dựng trên điều mà ông nghĩ là có giá trị cả trong chủ nghĩa duy
lý lẫn trong chủ nghĩa duy nghiệm, và bác bỏ điều gì không thể bảo vệ trong hệ thống
này. Ông bắt đầu một đường lối mới mà ông gọi là “triết học phê phán”.
Triết học phê phán của Kant chủ yếu phân tích khả năng của lý trí con người,
được ông hiểu là “ một sự truy tìm phê phán khả năng của lý trí liên quan tới mọi nhận
thức mà nó có thể cố gắng đạt tới một cách độc lập với mọi kinh nghiệm”. Đường lối
của triết học phê phán của ông đặt ra là “năng lực hiểu biết và lý trí có thể biết những
gì và bao nhiêu mà không cần kinh nghiệm?” chính vì vậy mà triết học lý luận của
Kant chủ yếu đề cập tới nhận thức luận và logic học với mục đích xây dựng một nền
tảng thế giới quan mới cho con người nhằm giải đáp cho câu hỏi “ con người có thể
biết được cái gì?”.
b) Những nội dung chính của “Triết học lí luận”
Triết học lý luận là một trong ba bộ phận cơ bản của triết học Kant, nó giải

quyết một trong ba vấn đề lớn được đặt ra trong hệ thống triết học của ông. Bộ phận
Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 10
Triết học cổ điển Đức Lịch sử văn minh thế giới
này được ông trình bày một cách chi tiết và toàn diện trong tác phẩm “ Phê phán lý
tính thuần tuý” được ông viết vào năm 1781. Tác phẩm này đã vạch ra giới hạn cho lý
trí con người trong hoạt động nhận thức và nó chính là lời giải đáp cho một trong ba
câu hỏi lớn mà Kant đã đặt ra trong hệ thống triết học của mình: Với tư cách là con
người, tôi có thể biết gì? Câu hỏi này được trả lời trong “Triết học lý luận”. Ở đây,
ông xác định những điều kiện và giới hạn nhận thức của con người, vạch ra rằng con
người có tri thức về cái gì? Giới hạn của chúng ra sao, do đó địa vị con người được
xác định trong hoạt động nhận thức như thế nào?
Trong hệ thống triết học của mình, Kant còn đặt ra hai câu hỏi lớn khác nằm
trong hai bộ phận còn lại: với tư cách là con người, tôi cần phải làm gì?, được trả lời
trong “ triết học thực tiễn”; với tư cách là con người, tôi có thể hy vọng gì?, được trả
lời trong “triết học thẫm mỹ” và “ Mục đích luận”.
Kant được coi là người đầu tiên trong lịch sử loài người đã đứng ra nghiên cứu
về khả năng cũng như giới hạn của tri thức con người. Ông phân biệt thế nào là tri
thức và thế nào là suy tưởng. Ông cũng là người phân biệt hai loại tri thức của con
người: tri thức thường nghiệm (tri thức kinh nghiệm cảm tính) và tri thức thực nghiệm
(tri thức khoa học). Kant cho rằng mỗi tri thức bao giờ cũng là một thể thống nhất của
quan niệm và cảm giác; trong đó quan niệm là khuôn hình hay hình thức của tri thức,
còn cảm giác là vật liệu hay chất thể của tri thức. Thiếu cảm giác, những quan niệm
của ta chỉ là những khuôn hình trống rỗng, không phải là tri thức; thiếu quan niệm thì
những cảm giác của ta sẽ chỉ là những cảm giác mù, tức cảm giác mà không biết là
cảm giác gì.
Khi giải quyết vấn đề khả năng tri thức của con người, Kant đã bắt đầu từ chổ
phân biệt thế nào là tri thức khoa học và thế nào là tri thức kinh nghiệm cảm tính.
Kant viết: “tất cả mọi tri thức của ta bắt đầu từ kinh nghiệm nhưng nói như thế
không có nghĩa là tri thức của ta hoàn toàn do kinh nghiệm đâu, vì trong tri thức của ta
còn có phần trí năng không lệ thuộc vào kinh nghiệm”. Như vậy, giữa hai loại tri thức

Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 11
Triết học cổ điển Đức Lịch sử văn minh thế giới
trên có một sự khác biệt lớn; một bên hoàn toàn thụ động nhưng bê kia lại rất năng
động và luôn tìm kiếm những phương pháp mới.
Khi nói về tri thức kinh nghiệm cảm tính, ông cho rằng, kinh nghiệm cho ta biết
sự vật thế này hay thế khác, nhưng không thể cho ta biết sự vật có thể là thế khác
chăng. Do đó, tri thức kinh nghiệm cảm tính luôn có tính chất vụn vặt, lẽ tẻ và bó hẹp
vào từng sự kiện mà ta đã kinh nghiệm. Trái lại, tri thức khoa học vượt tới mức phổ
quát và tất yếu, bao trùm lên tất cả mọi trường hợp có thể xãy ra giống như vậy, đó
chính là trí năng của con người, Kant gọi loại tri thức này là tri thức tiên thiên. Kant
viết: “ tính chất tất yếu và tính chất phổ quát thực sự là những dấu hiệu chắc chắn của
một tri thức tiên thiên và hai tính chất này không khi nào lìa nhau”. Từ quan niệm về
tri thức nêu trên, Kant đã phê phán nghiêm khắc những quan niệm của các triết gia
duy cảm và duy lý.
Như vậy, có thể thấy ở học thuyết của Kant, tri thức được cấu tạo bởi hai yếu tố
không thể thiếu: quan niệm và cảm giác, không có yếu tố nào được coi là cần thiết
hoặc quan trọng hơn yếu tố kia. Trên cơ sở đó ông đã dùng phương pháp phê bình để
chứng minh sự khác biệt hoàn toàn giữa hai loại tri thức trên . Từ đó, ông đi đến
khẳng định chỉ có tri thức khoa học mới có thể vạch ra được quy luật của thế giới hiện
tượng.
Kant xác định đối tượng của “ triết học lý luận” không phải là bản thân thế giới
tự nhiên như nó tồn tại, mà là hoạt động nhận thức của con người, là nghiên cứu
những điều kiện và năng lực chủ thể của nhận thức. Phù hợp với đối tượng đó thì
nhiệm vụ của triết học lý luận là vạch ra xem khoa học sản sinh ra tri thức như thế nào
và từ đó xác định bản chất của con người trong lĩnh vực sinh hoạt tri thức.
Để giải quyết các vấn đề đó, Kant đã chỉ ra đối tượng nhận thức của con người
là thế giới, nhưng bản thân thế giới này được Kant chia làm hai, thế giới hiện tượng và
thế giới “ vật tự nó”; trong đó thế giới hiện tượng là sản phẩm của sự tác động của thế
giới “ vật tự nó” vào chủ thể, còn thế giới “ vật tự nó” là thế giới của những gì tồn tại
Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 12

Triết học cổ điển Đức Lịch sử văn minh thế giới
do bản thân nó hay nó là nguyên nhân tồn tại của nó, nói cách khác đây là thế giới tồn
tại khách quan đối với con người. Thế giới hiện tượng mang tính hữu hạn vì những sự
vật của nó tồn tại trong không gian và thời gian, hơn nữa chúng có không gian và thời
gian, do đó nó là cái tạm thời. Còn thế giới “ vật tự nó” là cái vô hạn, vĩnh viễn vì nó
tồn tại ngoài không gian và thời gian, nó không có không gian và thời gian. Nếu thế
giới hiện tượng tồn tại tuân theo quy luật, tất yếu thì thế giới “ vật tự nó” tồn tại không
tuân theo quy luật, tất yếu hay nói cách khác nó không bị chi phối bởi quy luật, tất
yếu. Nếu thế giới hiện tượng mang tính nhân quả thì thế giới “ vật tự nó” tồn tại ngoài
liên hệ nhân quả. Từ đó Kant nhận xét, thế giới hiện tượng là thường nghiệm, là thế
giới của những cái tương đối, còn thế giới “ vật tự nó” là siêu nghiệm, nó là thế giới
của những cái tuyệt đối.
Khi bàn về quá trình nhận thức của con người, Kant cho rằng con người ta nhận
thức và từ đó có tri thức bởi một năng lực tiên thiên mà ông gọi là lý tính lý luận (hay
lý tính tiên thiên, lý tính thuần tuý). Ông coi lý tính là một năng lực tinh thần có sẵn ở
con người từ đầu ngay khi mới sinh ra và có như nhau ở tất thảy mọi người. Ông gọi
tính chất ấy là tiên thiên. Lý tính lý luận trong hoạt động nhận thức của con người có
ba cấp độ: cảm năng, trí năng và lý năng. Mặc dù đối tượng nhận thức là thế giới nói
chung nhưng ba cấp độ này có chức năng khác nhau và tương ứng với chúng có ba
học thuyết nghiên cứu về những khả năng nhận thức của con người. Như vậy “ triết
học lý luận” của Kant không phải nghiên cứu giới tự nhiên mà là nghiên cứu hoạt
động nhận thức của con người với mục đích là xác lập các quy luật, giới hạn của lý
tính con người.
Kant là một trong những nhà triết học vĩ đại nhất của triết học cổ điển Đức. Hệ
thống của ông có ảnh hưởng đối với sự ra đời của triết học Mác, tạo nguồn cảm hứng
mạnh mẽ cho nhiều khuynh hướng triết học Phương tây hiện đại. Kant thực sự đã tạo
ra một bước ngoặt trong lịch sử triết học, đúng như ông muốn rằng cần phải làm một
“cuộc cách mạng Côpecníc” cho triết học.
Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 13
Triết học cổ điển Đức Lịch sử văn minh thế giới

Khi xác định nhiệm vụ của “Triết học lý luận” là vạch ra xem khoa học sản sinh
ra tri thức như thế nào, Kant đã chỉ ra đối tượng nhận thức của con người là thế giới
và bản thân thế giới này được Kant chia thành hai, thế giới “vật tự nó” mang tính siêu
nghiệm và thế giới hiện tượng có tính thường nghiệm. Từ đó, Kant đi vào nghiên cứu
quá trình nhận thức của con người và ông cho rằng trong hoạt động nhận thức, con
người có được tri thức bởi một năng lực tiên thiên là lý tính lý luận với các cấp độ:
cảm năng, trí năng và lý năng; và ông đi sâu phân tích cơ cấu bên trong của mỗi cấp
độ để vạch ra công cụ và kết quả của quá trình nhận thức. Đó là cái nhìn xuyên suốt
của Kant trong tiến trình triển khai “triết học lý luận” của mình; bao gồm trong đó sự
xuất hiện lập trường duy tâm, nhị nguyên luận, bất khả tri cũng như những cống hiến
tích cực và hạn chế lịch sử của ông. Mặc dù có những hạn chế nhất định, song chừng
ấy cũng đủ để thấy rằng, Kant là một nhà triết học vĩ đại của nền triết học cổ điển Đức
nói riêng và lịch sử triết học nhân loại nói chung. Ông có nhiều đóng góp lớn lao cho
sự phát triển lịch sử tư tưởng nhân loại, trong đó “triết học lý luận” là một trong
những hạt nhân cơ bản đã thể hiện rõ những cống hiến ấy.
2. Johann Gottlieb Fichte (1762-1814)
a) Vài nét về Johann Gottlieb Fichte
Fichte (19/5/1762–27/1/1814) là một triết gia người Đức. Ông là một trong
những nhân vật sáng lập của phong trào triết học được biết dưới tên chủ nghĩa duy
tâm Đức, vốn phát triển trừ những bài viết về triết lý và đạo đức của Immanuel Kant.
Fichte thường được xem là một nhân vật người mà triết học của ông đã bắc cây cầu
giữa các tư tưởng của Kant với nhà duy tâm Đức Georg Wilhelm Friedrich Hegel.
Gần đây, nhiều nhà triết học và học giả bắt đầu đánh giá như một nhà triết học quan
trọng tự thân do những tầm nhìn độc đáo của ông vào bản chất của sự tự nhận thức
Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 14
Triết học cổ điển Đức Lịch sử văn minh thế giới
hay tự ý thức. Giống Descartes và Kant đi trước, ông được thúc đẩy bởi vấn đề tính
chủ quan và nhận thức. Fichte cũng viết các tác phẩm về triết học chính trị và được
coi là một trong những người hình thành nên chủ nghĩa dân tộc Đức.


b) Sơ lược về triết học của Johann Gottlieb Fichte
Fichte phê phán nhị nguyên luận của Kant, và ông đã phát triển nó sang khuynh
hướng duy tâm chủ quan. Xuất phát điểm của Fichte chính là khái niệm cái tôi của
con người, cái tôi của ông là lý tính và cũng là ý chí, là nhận thức và cũng là hành
động.
Từ cái tôi Fichte hình thành 3 nguyên lý dẫn luận sau đây:
Thứ nhất cái tôi thiết định “cái tôi”. Cái tôi là cái tôi thuần tuý cái tôi tuyệt đối,
cái tôi tự sản sinh “ là một hệ thống kín mít và hoàn chỉnh, nó hoàn toàn giống nhau ở
tất cả mọi người”. Đó chính là hình ảnh con người lý tưởng. “Cái tôi” là cái tôi kinh
nghiệm cái tôi hữu hạn, cái tương đối được sinh ra từ cái tôi.
Thứ hai cái tôi thiết định cái – không – tôi. Ở đây cái – không - tôi đó chính là
thế giới, và thế giới này do cái tôi mãi mãi sinh ra và làm phong phú thêm.
Thứ ba cái tôi thiết định “cái tôi” và cái–không–tôi.
Fichte giải quyết mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể trên lập trường chủ
nghĩa duy tâm. Do đó ông không giải quyết được mối quan hệ giữa con người với con
người và con người với tự nhiên.
Những quan điểm của Phich-tơ về xã hội có những điểm tiến bộ, phản ánh được
nguyện vọng của một bộ phận dân cư đông đảo trong xã hội lúc bấy giờ. Theo ông xã
hội là một thức cộng đồng có tính mục đích để đảm bảo tự do và hoàn thiện con người
Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 15
Triết học cổ điển Đức Lịch sử văn minh thế giới
Về cuối đời Fichte chuyển dần sàng lập trường duy tâm khách quan và ông coi
cái tuyệt đối chỉ là tồn tại thuần tuý, hay ý thức thuần tuý vượt ra khỏi phạm vi ý thức
cá nhân.
3. Friedrich Wilhelm Joseph Schelling (1775 – 1854)
a) Vài nét về Friedrich Wilhelm Joseph Schelling
Schelling là nhà triết học duy tâm khách quan, là một trong những người sáng
lập ra trường phái văn nghệ lãng mạng ở Châu Âu và Đức. Sự thống nhất tuyệt đối
giữa tồn tại và tư duy, giữa vật chất và tinh thần, giữa khách thể và chủ thể chính là
xuất phát điểm cũng như nền tảng triết học của ông, do đó triết học của ông được gọi

là triết học đồng nhất.
“Sự đồng nhất tuyệt đối” được Schelling gọi là cái tuyệt đối. Cái tuyệt đối
không phải là cái ở giữa vật chất và tinh thần mà chỉ là trạng thái đặc biệt, trạng thái
vô ý thức của tinh thần thế giới. Schelling giải thích sự vận động của giới tự nhiên, và
sự chuyển hoá của ý thức từ chủ thể lại trở thành khách thể thông qua cái tuyệt đối và
sự vận động nội tại của cái tuyệt đối đó.
b) Sơ lược về triết học của Friedrich Wilhelm Joseph Schelling
Schelling từ lập trường duy tâm khách quan, đã chứng minh rằng cái tuyệt đối
là đấng sáng tạo tối cao. Tuy nhiên thì trong quá trình lý giải về sự vận động phát triển
của giới tự nhiên ông cũng đã đề cập đến những quan niệm biện chứng, và chúng
được xem như đóng góp của ông vào việc định hình phép biện chứng. Đó là những tư
tưởng về mối liên hệ phổ biến, về sự thống nhất và sự phát triển.
Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 16
Triết học cổ điển Đức Lịch sử văn minh thế giới
Bên cạnh đó thì những tư tưởng triết học nghệ thuật của Schelling cũng đóng
góp rất nhiều cho sự ra đời của trường phái văn nghệ lãng mạn ở Đức cũng như cho
triết học nghệ thuật sau này. Trong ba cái nghệ thuật, triết học và khoa học thì nghệ
thuật chính là hình thức thể hiện cao nhất của cái tuyệt đối. Nghệ thuật của ông là
công cụ để giải thích cho tự nhiên chứ không phải là cái phản ánh tự nhiên.
Từ năm 1816 thế giới quan của Schelling ngày càng ngả sang lập trường tôn
giáo với quan niệm coi tự nhiên là sản phẩm của sáng toạ của Chúa, cái tuyệt đối trở
thành Chúa người ta gọi ông ở giai đoạn này là “ một kẻ lãng mạn đáng buồn, sống
mà cũng như chết”. Tuy nhiên những tư tưởng triết học của ông được phổ biến và có
ảnh hưởng rộng rãi ở Đức và nhiều nước Châu Âu.
4. Georg Vinhem Phridich Hegel (1770 – 1831)
a) Vài nét về cuộc đời và triết học của Hegel
Gioócgiơ Vinhem Phriđrích Hêghen là nhà biện chứng lỗi lạc bậc tiền bối của
triết học Mác xít. Theo nhận xét của Ph. Ăngghen, ông “không chỉ là một nhà thiên tài
sáng tạo, mà còn là một nhà bác học có tri thức bách khoa, nên những phát biểu của
ông tạo thành thời đại”.

G.V.Ph. Hêgghen sinh năm 1770 trong một gia đình quan chức cao cấp ở
Stútga thuộc Đức, sau đó theo học khoa triết học và thần học ở đại học tổng hợp
Tubingen. Thời trẻ, ông chủ yếu quan tâm nghiên cứu các vấn đề lịch sử, pháp quyền
và tôn giáo. Những năm 1800 – 1803, Hêghen làm quen và kết bạn với Senlinh. Từ
đây, ông bắt đầu chủ yếu say mê các vấn đề triết học. Ông mất năm 1831 vì bệnh tả.
Các tác phẩm lớn của Hêghen:
- Hiện tượng học tinh thần (1807)
- Khoa học lôgíc (1812 – 1814)
Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 17
Triết học cổ điển Đức Lịch sử văn minh thế giới
- Bách khoa toàn thư các khoa triết học (1817)
- Triết học pháp quyền (1821)
Ông còn là nhà triết học duy tâm khách quan, đại biểu xuất sắc của triết học cổ
điển Đức, người xây dựng nên phép biện chứng duy tâm. Triết học của Hêghen là
đỉnh cao của chủ nghĩa duy tâm Đức cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX.
Là một nhà biện chứng duy tâm khách quan nên triết học của Hêghen chứa
đựng đầy mâu thuẫn. Nếu phương pháp biện chứng của ông là hạt nhân hợp lý, chứa
đựng tư tưởng thiên tài về sự phát triển thì hệ thống triết học duy tâm của ông lại phủ
nhận tính chất khách quan của những nguyên nhân bên trong, vốn có của sự phát triển
tự nhiên và xã hội.
b) Những tác phẩm triết học lớn của Hegel
• Hiện tượng học tinh thần:
Là tác phẩm triết học lớn của Hêghen, đánh dấu sự chín muồi trong thế giới
quan triết học của ông.
Những nguyên tắc xây dựng hệ thống:
Tinh thần tuyệt đối là điểm xuất phát và nền tảng trong quan niệm về hiện thực.
Hêghen coi nền tảng thế giới quan triết học của mình là tinh thần tuyệt đối được hiểu
như đấng tối cao sáng tạo ra giới tự nhiên và con người.
Con người là sản phẩm và cũng là giai đoạn phát triển cao nhất của tinh thần
tuyệt đối. Hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới của con người chính là công cụ để

tinh thần tuyệt đối nhận thức chính bản thân mình.
Nguyên lý phát triển: Sự thống nhất giữa tư duy và tồn tại, tư tưởng và hiện
thực là sự phát triển về chất. Như vậy, Hêghen đã không coi sự phát triển chỉ là sự
tăng giảm đơn thuần về lượng hay sự dịch chuyển vị trí của trong không gian mà đó là
Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 18
Triết học cổ điển Đức Lịch sử văn minh thế giới
một quá trình phủ định biện chứng, trong đó liên tiếp diễm ra cái mới thay thế cho cái
cũ, nhưng đồng thời kế thừa những yếu tố của cái cũ mà vẫn có khả năng thúc đẩy
phát triển.
Xuất phát từ quan niệm coi sự phát triển như một quá trình vận động liên tục
theo quy luật phủ định của phủ định, Hêghen coi một trong những nguyên tắc xây
dựng hệ thống triết học của mình nhằm thể hiện quá trình phát triển của tinh thần
tuyệt đối là tam đoạn thức: chính đề - phản đề - hợp đề, trong đó giữa các yếu tố đều
có mối liên hệ hữu cơ, chuyển hóa lẫn nhau.
Ý thức con người là sản phẩm của lịch sử: Trong “Hiện tượng học tinh thần”,
Hêghen đã tiếp cận được quan niệm coi nhân cách, ý thức con người là sản phẩm của
lịch sử. Lịch sử nhân loại mặc dù được thực hiện thông qua hoạt động của các cá nhân
cụ thể, nhưng đồng thời lại là nền tảng và thực thể của ý thức các cá nhân đó.
Xuất phát từ quan niệm trên, Hêghen coi nhiệm vụ cơ bản của hiện tượng học
tinh thần là tái diễn lại toàn bộ tiến trình lịch sử mà nhân loại đã trải qua.
Tư tưởng chủ đạo của Hêghen ở đây là: thứ nhất, tư duy và ý thức con người
chỉ phát triển trong mối quan hệ và giải quyết mâu thuẫn: con người - tự nhiên. Thứ
hai, ý thức con người là sản phẩm của tiến trình lịch sử nhân loại được coi là hiện thân
của tinh thần tuyệt đối.
Trên đây là một số nguyên lý bước đầu xây dựng hệ thống của Hêghen được
trình bày trong “Hiện tượng học tinh thần”.
• Khoa học logic:
Khoa học Lôgíc là bộ phận quan trọng nhất của hệ thống Hêghen, vì nó nghiên
cứu tinh thần tuyệt đối ở giai đoạn sơ khai nhất, nhưng là điểm xuất phát và nền tảng
của toàn bộ hệ thống.

Đối tượng: Cũng như các nhà lôgíc truyền thống, Hêghen coi lôgíc là “khoa học
về tư duy, về những phạm trù và quy luật của tư duy”. Tư duy với tư cách là đối tượng
của khoa học lôgíc được Hêghen hiểu là tư tưởng thuần túy, là tinh thần tuyệt đối.
Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 19
Triết học cổ điển Đức Lịch sử văn minh thế giới
Hêghen phân biệt hai dạng tư duy:
Thứ nhất, tư duy tự nó, chính là tinh thần tuyệt đối tạo thành bản chất của toàn
bộ hiện thực.
Thứ hai, tư duy cho nó, tức tư duy con người, đây là tư duy tự nó ở giai đoạn
phát triển cao nhất, là giai đoạn tư duy có ý thức.
Luận điểm xuyên suốt toàn bộ lôgíc học cũng như hệ thống của Hêghen là “ cái
gì hợp lý thì hiện thực và cái gì hiện thực thì hợp lý”.
Luận điểm cơ bản trên đây không chỉ thể hiện lập trường của Hêghen muốn bảo
vệ và duy trì nhà nước quý tộc Phổ cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, cũng như mọi
trật tự xã hội là bất công do nó sinh ra, mà còn:
Thứ nhất, nó là sự khái quát nguyên lý xuất phát điểm và nền tảng của toàn bộ
hệ thống triết học, khẳng định tinh thần và vật chất, chủ thể và khách thể trên cơ sở
duy tâm.
Thứ hai, nó khẳng định sự thống nhất tư duy - tồn tại, tư tưởng và hiện thực là
cả một quá trình phát triển biện chứng.
Nhiệm vụ: Nhiệm vụ của khoa học lôgíc là đào thải những hình thức của tư
tưởng không thể hiện đúng bản chất đích thực của tư duy sống động, đồng thời vũ
trang cho con người một phương pháp tư duy biện chứng nhằm khám phá ra chân lý,
đi tới tự do.
Tóm lại, quan niệm trên đây của Hêghen về đối tượng và nhiệm vụ của lôgíc
học có một ý nghĩa to lớn: ông đã hiểu được lôgíc là khoa học nghiên cứu tư duy như
một quá trình của trí tuệ và tư tưởng nhân loại; ông nhận thấy tư duy con người không
chỉ bó hẹp trong ý thức cá nhân thể hiện dưới dạng ngôn ngữ, mà cả trong quá trình
hoạt động, trong công cụ lao động và sản phẩm lao động của con người.
Tính khách quan: Là nguyên lý thứ nhất của điểm khởi đầu. Nó buộc các nhà

nghiên cứu không được coi xuất phát điểm một cách tùy tiện theo ý muốn chủ quan
Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 20
Triết học cổ điển Đức Lịch sử văn minh thế giới
của mình, mà phải tuân theo tính khách quan tùy thuộc vào từng đối tượng nghiên cứu
một cách cụ thể.
Đơn giản và trừu tượng nhất: Mọi quá trình vận động khách quan đều theo xu
hướng từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện tới chỗ ngày càng hoàn thiện hơn,
cho nên điểm khởi đầu phải là cái sơ khai nhất, chưa hoàn thiện nhất, trừu tượng nhất.
Lần đầu tiên Hêghen coi nguyên lý đi từ trừu tượng đến cụ thể là một trong những
nguyên lý cơ bản trong vận động các khái niệm lôgíc học.
Khẳng định điểm khởi đầu phải là điểm xuất phát có khả năng phát triển thành
toàn bộ hệ thống, tức là phải chứa đựng mâu thuẫn cơ bản của toàn bộ hệ thống – đó
là mâu thuẫn giữa tinh thần và vật chất.
Khẳng định sự thống nhất giữa tính lịch sử và tính lôgíc trong việc xác định
điểm khởi đầu, Hêghen coi khoa học lôgíc của mình là sự tổng kết toàn bộ tiến trình
phát triển tư tưởng triết học của nhân lịch.
Trên đây là những nguyên lý trong việc xác định điểm khởi đầu của lôgíc học
Hêghen. Đó cũng là những nguyên lý cơ bản xây dựng khoa học lôgíc của ông. Chúng
là sự phát triển tiếp theo những nguyên lý bước đầu xây dựng hệ thống được ông đề
cập trong Hiện tượng học tinh thần.
• Triết học tự nhiên
Theo Hêghen: là sự nghiên cứu lý luận giới tự nhiên được hiểu như tồn tại
khách quan của tinh thần, hay sự tồn tại của tinh thần dưới dạng các sự vật vật chất.
Thế giới chúng ta, theo cách hiểu của Hêghen, là một chỉnh thể thống nhất
trong đó mọi sự vật đều có mối liên hệ hữu cơ với nhau, không ngừng vận động và
phát triển.
Triết học tự nhiên gồm ba phần:
Thế giới cơ học: Trong thế giới này, Hêghen đã nghiên cứu, phân tích phạm trù
như không gian, thời gian, vật chất, vận động. Ông đã nhìn thấy mối quan hệ khăng
khít không thể tách rời giữa vật chất và vận động. Theo ông “không có vận động nào

Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 21
Triết học cổ điển Đức Lịch sử văn minh thế giới
là vận động thiếu vắng vật chất và cũng không hoàn toàn giống như không có vật chất
nào là vật chất không vận động”.
Tuy nhiên, ông chỉ dừng lại ở quan niệm di rời vị trí trong không gian, hoặc sự
lặp lại tuần hoàn của cái đã có từ trước. Và những phạm trù trên vẫn bị ông giải thích
một cách duy tâm.
Thế giới vật lý học: Hêghen trình bày các quan niệm của ông về các vật thể của
vũ trụ, về ánh sáng, về nhiệt, về các quá trình hóa học,…
Dưới con mắt của các nhà duy tâm, ông đã xem tất cả những mối liên hệ giữa
các sự vật, hiện tượng và các quá trình ở trong thế giới chỉ là sự biểu hiện nối tiếp
nhau của bản nguyên tinh thần đã sản sinh ra chúng.
Thế giới các cơ thể sinh học: địa chất học, thực vật học, động vật học,… Theo
Hêghen, việc chuyển từ vô sinh lên hữu sinh là kết thúc của quá trình tự nhiên, tự
nhiên chỉ là tồn tại thấp, là sự biểu hiện và tự nhận thức ở cấp độ thấp của ý niệm
tuyệt đối. Giới tự nhiên, đối tượng của triết học tự nhiên về bản chất chỉ là một thế
giới ngưng đọng không phát triển, sở dĩ chúng như thế này hay như thế khác là do sự
vận động và phát triển của ý niệm tuyệt đối quy định.
Sự phát triển của giới tự nhiên không phải là sự phát triển của thế giới vật chất
mà là biểu hiện “sự biến đổi khái niệm” mà thôi
Nhìn chung, triết học tự nhiên của Hêghen, bên cạnh nhiều tư tưởng tích cực
bởi ý đồ của nó muốn đem lại cho con người một cách nhìn biện chứng về tự nhiên,
nhưng theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu, là khâu thiết yếu nhất trong hệ thống của
ông.
• Triết học pháp quyền và triết học lịch sử
Trong triết học pháp quyền và triết học lịch sử, Hêghen thể hiện những quan
niệm cơ bản của mình về các vấn đề phát triển xã hội, trong đó đặc biệt quan tâm
nghiên cứu bản chất và nguồn gốc của nhà nước. Theo ông, gia đình và xã hội công
dân chịu sự chỉ đạo của Nhà nước.
Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 22

Triết học cổ điển Đức Lịch sử văn minh thế giới
Theo Hêghen: Nhà nước “sự ngao du” của Chúa trời trong xã hội loài người, là
sự thể hiện tinh thần tuyệt đối.
Ông coi mọi sự bất công, tệ nạn xã hội như những hiện tượng tất yếu của sự
phát triển xã hội xuất phát từ bản tính con người “Luận điểm khẳng định mọi người về
bản tính vốn bình đẳng là không đúng …, cần phải nói ngược lại rằng con người về
bản tính vốn bất bình đẳng.
Xã hội thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, xung đột giữa các tầng lớp, đẳng cấp xã
hội khác nhau, cũng như mỗi cá nhân trong xã hội. Chính những mâu thuẫn xã hội ấy
mà Nhà nước xuất hiện.
Khác với nhiều nhà tư tưởng từ trước tới giờ lý giải nguồn gốc Nhà nước từ khế
ước xã hội, Hêghen khẳng định, Nhà nước hiện đại và chính phủ hiện đại chỉ xuất
hiện khi tồn tại sự khác nhau giữa các đẳng cấp khi sự chênh lệch giàu và nghèo trở
nên quá lớn, và khi mà xuất hiện những mối quan hệ trong đó đông đảo quần chúng
không thỏa mãn những nhu cầu của mình như họ đã từng quen.
Nhà nước ra đời làm dung hòa các mâu thuẫn giữa những người giàu và nghèo,
giữa các đẳng cấp xã hội khác nhau nhằm định hướng sự phát triển xã hội.
Nhà nước, theo Hêghen, không chỉ là cơ quan hành pháp, mà là tổng thể các
quy chế, kỷ cương, chuẩn mực về mọi lĩnh vực đạo đức, pháp quyền, chính trị, văn
hóa, … của xã hội, mà nhờ đó mỗi quốc gia mới có thể phát triển bình thường. Vì thế,
Nhà nước tồn tại trên bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử.
Hêghen đưa ra những nguyên tắc nghiên cứu lịch sử:
Khách quan: Nhìn nhận lịch sử một cách công minh, trung thực với lịch sử,
không được lảng tránh lịch sử. Người nào nhìn nhận thế giới một cách hợp lý thì thế
giới cũng nhìn nhận người đó một cách hợp lý.
Kết hợp với tính khách quan và tính Đảng trong nghiên cứu lịch sử “lịch sử thì
chỉ xảy ra có một lần nhưng nhận thức nó thì là cả một quá trình”.
Nội dung của triết học lịch sử:
Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 23
Triết học cổ điển Đức Lịch sử văn minh thế giới

Lịch sử là con đường đi tới tự do, tự do là sự giải phóng con người khỏi những
ràng buộc tự nhiên và xã hội.
Tự do là tiêu chí cơ bản để đánh giá sự ưu việt của thời đại này với thời đại
khác. Từ đây, ông chia lịch sử thế giới như sau:
Thời kỳ tiền sử Phương Đông
cổ đại
Hy Lạp, La Mã
cổ đại
Nước Đức, Thiên Chúa
giáo, trung cổ và cận đại
Không ai tự do
Chế độ quân
chủ: một người
được tự do
Dân chủ quý tộc:
Một số người
được tự do
Quân chủ nhân chính:
tất cả được tự do
Như vậy, Hêghen hiểu tự do theo góc độ duy tâm, coi đó là sự nhận thức và
thực hiện những quy luật tất yếu của tự nhiên với tư cách là hiện thân của tinh thần
tuyệt đối.
Nhìn chung, triết học pháp quyền và triết học lịch sử của Hêghen, bên cạnh
nhiều hạn chế bởi lập trường duy tâm và tính giai cấp hẹp hòi, chứa đựng nhiều tư
tưởng sâu sắc về sự phát triển xã hội cũng như tiến trình lịch sử nhân loại, làm nền
tảng cho quan niệm duy vật về lịch sử sau này của Mác coi sự phát triển xã hội như
một tiến trình lịch sử - tự nhiên.
Có thể thấy, triết học của Hêghen ảnh hưởng lớn tới tiến trình lịch sử tư tưởng
nhân loại. Nó đông đảo các môn phái như phái Hêghen già, phái Hêghen trẻ,… Nhưng
chỉ có các nhà kinh điển Mác – Lênin kế tục được phương pháp biện chứng – di sản

quý báu nhất của triết học Hêghen.
Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 24
Triết học cổ điển Đức Lịch sử văn minh thế giới
c) Phép biện chứng và những hạn chế trong phép biện chứng của Hegel
• Phép biện chứng của Hegel
Phép biện chứng của Hêghen coi toàn bộ thế giới, lịch sử và tinh thần là một
quá trình duy nhất đang vận động, biến hóa, phát triển và thay đổi không ngừng.
Những mâu thuẫn nội tại đều là nguồn gốc của tự thân vận động. Hêghen được coi là
người đầu tiên trình bày có tính hệ thống các nguyên lý, qui luật và phạm trù của phép
biện chứng. Một trong những luận điểm nổi tiếng của Hêghen khi ông khẳng định:
“mọi cái tồn tại đều có tính hợp lý”. Cái hợp lý theo ông là cái đều phụ thuộc vào các
qui luật nội tại vốn có của nó.
Nguyên lí xuất phát và xuyên suốt toàn bộ triết học Hêghen là sự đồng nhất
giữa tư duy và tồn tại. Toàn bộ thực tại khách quan (tự nhiên và lịch sử thế giới) là
biểu hiện của "lí tính thế giới" hay "tinh thần thế giới" mà Hêghen gọi là "ý niệm tuyệt
đối". "Ý niệm tuyệt đối" có trước tự nhiên và loài người, trải qua một quá trình phát
triển lịch sử - tự nhận thức về bản thân, qua ba giai đoạn: 1) Giai đoạn phát triển trong
"nguyên chất" thuần khiết của nó khi chưa có thế giới: nội dung của "ý niệm tuyệt
đối" thể hiện trong hệ thống các phạm trù lôgic có liên quan với nhau và chuyển hoá
lẫn nhau (lôgic học). 2) Dưới dạng tồn tại khác, khi chuyển thành giới tự nhiên (triết
học tự nhiên). 3) "Ý niệm tuyệt đối" phủ định giới tự nhiên, trở về với bản thân, nó
tiếp tục biến hoá, nhận thức nội dung của mình dưới các hình thức ý thức và đạt tới
nhận thức cao nhất qua tôn giáo, nghệ thuật, triết học (triết học tinh thần).
Học thuyết về “Ý niệm tuyệt đối”, “Tinh thần thế giới” là tư tưởng cơ bản có
tính xuyên suốt trong hệ thống triết học của ông. “Ý niệm tuyệt đối”, “Tinh thần thế
giới” theo ông là cái có trước, cái quyết định đối với hiện thực. Nhưng khi giải thích
sự “tha hóa” của nó trong tự nhiên, xã hội và tư duy thì đó lại là nhưng tư tưởng khoa
học trong phép biện chứng của Hêghen. Đây cũng là tiền đề lý luận, được Mác kế
thừa và phát triển khi xây dựng phép biện chứng duy vật.
Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 25

×