Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

TIỂU LUẬN GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM của ĐẢNG TRONG KIỂM SOÁT QUẢN lý CÔNG ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.29 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
Trang
PHẦN I. MỞ ĐẦU
PHẦN II. NỘI DUNG

1
2

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ, TRÁCH
Chương 1. NHIỆM CỦA ĐẢNG TRONG KIỂM SỐT QUẢN
LÝ CƠNG
1.1.
Quản lý cơng và kiểm sốt quản lý cơng ở Việt Nam
Tính tất yếu và vai trị, trách nhiệm của Đảng trong kiểm
1.2.
sốt quản lý công ở Việt Nam

2
2

Chương 2.

2.1.
2.2.

THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT HUY
VAI TRỊ, TRÁCH NHIỆM CỦA ĐẢNG TRONG
KIỂM SỐT QUẢN LÝ CƠNG Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY

Thực trạng vai trị, trách nhiệm của Đảng trong kiểm sốt


quản lý cơng ở Việt Nam hiện nay
Một số giải pháp phát huy vai trị, trách nhiệm của Đảng
trong kiểm sốt quản lý cơng ở Việt Nam hiện nay

PHẦN III. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

6

10
10
12
15
15


PHẦN I. MỞ ĐẦU
“Nước ta là một nước dân chủ, bao nhiêu quyền lực đều là của dân,
chính quyền từ xã đến Chính phủ đều là của dân, chính quyền từ xã đến Chính
phủ Trung ương do dân cử ra, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương do dân
tổ chức ra. Nói tóm lại quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” [8, tr.698].
Luận điểm trên thể hiện những vấn đề căn bản nhất đó là: Nhà nước do
dân thiết lập và trao quyền lực, nghĩa là quyền lực nhân dân trở thành quyền
lực nhà nước. Quyền lực đó thể hiện ý chí của nhân dân được bảo đảm thực
hiện bằng sức mạnh của bộ máy nhà nước, trong đó có độc quyền bộ máy
cưỡng chế, trấn áp và hệ thống quy phạm pháp luật. Được sự ủy quyền của
toàn thể nhân dân, nhà nước trở thành một bộ máy có quyền lực rất lớn, độc
lập với xã hội. Trong xã hội có giai cấp khi quyền lực nhà nước khơng được
kiểm sốt, nhà nước sẽ là cơ quan đứng trên xã hội, xa lạ với xã hội, trở thành
một lực lượng ăn bám xã hội, trong nhiều thời kỳ nhà nước trở thành lực

lượng cản trở sự phát triển của xã hội.
Ở nước ta hiện nay, ở nơi này, nơi khác đã xuất hiện nguy cơ Đảng và
Nhà nước khơng cịn là của dân, với những biểu hiện là một số cán bộ công
chức nắm quyền lực được nhân dân ủy thác lại xa dân, xa cấp dưới, xa cơ sở,
không chủ động phục vụ nhân dân vô điều kiện mà chỉ lo làm ăn phát tài, lo
thăng quan tiến chức, đánh mất bản chất cách mạng chân chính của mình.
Một số tài sản quốc gia và của nhân dân bị bọn tham nhũng - những kẻ vô
trách nhiệm phần lớn là nắm quyền lực, chiếm đoạt và làm thất thốt. Có
những vụ ăn cắp tài sản quốc gia hàng ngàn tỷ đồng, một số khơng ít nắm
quyền lực nhà nước đã và đang tiếp tục làm giàu bất chính, gây hậu quả xấu
cho xã hội, làm suy yếu mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Như vậy, quyền lực nhà nước ở nước ta có biểu hiện là khơng được
kiểm sốt tốt cả từ trên xuống và từ dưới lên, từ bên trong các tổ chức nhà
nước và từ bên ngoài xã hội. Do đó, vấn đề kiểm sốt quyền lực nhà nước ở
nước ta đã trở thành yêu cầu cấp bách, đòi hỏi phải được giải quyết cả về mặt
lý luận và thực tiễn.

2


PHẦN II. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRỊ, TRÁCH
NHIỆM CỦA ĐẢNG TRONG KIỂM SỐT QUẢN LÝ CƠNG

1. Quản lý cơng và kiểm sốt quản lý công ở Việt Nam
* Về quản lý công ở Việt Nam
Quản lý là một khái niệm rất quen thuộc đối với nhiều người, quản lý
được thực hiện ở nhiều lĩnh vực khác nhau với các tên gọi khác nhau. Một
trong những lĩnh vực quản lý mà chúng ta thường gặp đó là quản lý cơng. Vậy
quản lý cơng là gì?

Quản lý cơng là hoạt động được tiến hành trong q trình thực hiện
quản lý hành chính nhà nước, bao gồm các hoạt động thu thập, phân tích, xử
lý các số liệu thống kê của Nhà nước, giám sát quỹ hành chính Quốc gia, theo
dõi sự phát triển và thi hành các chính sách của nhà nước. Người thực hiện
quản lý công là cán bộ, công chức làm việc trong bộ máy Nhà nước có thẩm
quyền quản lý cơng.
Như vậy, quản lý công là một nội dung của quản lý hành chính nhà
nước, do đó, quản lý cơng mang những đặc điểm của quản lý hành chính nhà
nước, bao gồm:
Quản lý cơng là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước. Điều này
được biểu hiện bằng việc các chủ thể có thẩm quyền được Nhà nước trao
quyền để thực hiện ý chí của Nhà nước.
Quản lý cơng được thực hiện bởi cơ quan, cán bộ, cơng chức có chức
năng hành pháp. Quản lý cơng là hoạt động có tính thống nhất, được tổ chức
chặt chẽ. Điều này được lý giải bởi bộ máy các cơ quan hành pháp được tổ
chức thành một khối thống nhất từ Trung ương tới địa phương, nhờ đó các
hoạt động của bộ máy được chỉ đạo, điều hành thống nhất, phối hợp nhịp
nhàng giữa các cơ quan.
Hoạt động quản lý cơng có tính chấp hành và điều hành. Tính chấp
hành và điều hành của hoạt động quản lý công thể hiện trong việc những hoạt
động này được tiến hành trên cơ sở pháp luật và nhằm mục đích thực hiện
pháp luật, do đó hoạt động này không được vượt quá khuôn khổ pháp luật,
điều hành cấp dưới, trực tiếp áp dụng pháp luật hoặc tổ chức những hoạt động
thực tiễn.
3


* Về kiểm sốt quản lý cơng
Hoạt động quản lý công bao giờ cũng được thực hiện bởi các cơ quan
trong bộ máy, với những con người cụ thể trong bộ máy ấy. Vì vậy, việc thực

thi hoạt động quản lý công phụ thuộc vào phương thức tổ chức bộ máy nhà
nước và con người trong bộ máy ấy. Nếu những người có thẩm quyền được
Nhà nước trao quyền để thực hiện ý chí của Nhà nước khơng biết thực thi
quyền lực cho đúng, hoặc sử dụng quyền lực vì mục đích vụ lợi thì sức mạnh
của quyền lực nhà nước sẽ gây nguy hiểm cho xã hội. Vì thế muốn có một xã
hội tốt đẹp, quyền tự do con người được đề cao, xã hội không phải gánh chịu
những lộng hành sai phạm vơ ý thức hoặc có ý thức của nhà nước thì phải có
cơ chế kiểm sốt hoạt động quản lý cơng, tức có cơ chế kiểm soát việc thực
hiện quyền lực nhà nước, kiểm soát hoạt động của công chức, viên chức nhà
nước. Đây là một yêu cầu tất yếu trong tổ chức và hoạt động của một nhà
nước dân chủ, kể cả trong nền dân chủ XHCN của chúng ta.
Kiểm sốt quản lý cơng là loại hoạt động đặc biệt, là chức năng nhà
nước và xã hội đặc thù nhằm bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong q trình
thực hiện quản lý hành chính nhà nước. Đó là tổng thể những phương tiện tổ
chức - pháp lý được các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân sử
dụng nhằm bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong quá trình thực hiện quản lý
hành chính nhà nước, thiết lập trật tự trong quản lý, bảo vệ các quyền, tự do,
lợi ích hợp pháp của cơng dân, lợi ích của Nhà nước và xã hội.
Những hình thức cơ bản kiểm sốt quản lý cơng:
Hoạt động kiểm sốt có nội dung, tính chất, đối tượng tác động, thủ tục
tiến hành khác nhau. Mỗi loại hoạt động có vai trị, tác động xã hội nhất định,
chúng phối hợp tạo thành công lực để củng cố pháp chế, trật tự pháp luật. Khi
đánh giá về vai trò các loại hoạt động này V.I.Lênin viết: “Thống kê và kiểm
tra là điều chủ yếu để bảo đảm sự hoạt động đúng đắn trong chủ nghĩa xã
hội”, rằng: “kiểm tra con người và kiểm tra việc chấp hành nhiệm vụ trên thực
tế ln là mấu chốt của tồn bộ cơng tác, của chính trị”.
Kế thừa phát huy những luận điểm cơ bản đó của V.I.Lênin, Chủ tịch
Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm tới hoạt động kiểm tra,
thanh tra. Cụ thể là Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều Nghị quyết và văn
bản pháp luật nhằm lãnh đạo và điều chỉnh hoạt động này.


4


Để kiểm sốt quản lý cơng, có nhiều hình thức khác nhau, sau đây là
những hình thức cơ bản:
Giám sát dùng để chỉ hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước, tồ án,
các tổ chức xã hội và cơng dân nhằm bảo đảm sự tuân thủ nghiêm chỉnh pháp
luật trong q trình thực hiện quản lý hành chính nhà nước. Như vậy, hoạt động
giám sát chủ yếu thực hiện ngoài quan hệ trực thuộc theo chiều dọc.
Kiểm tra là khái niệm rộng được vận dụng theo hai hướng. Một là,
kiểm tra là hoạt động thường xuyên của cơ quan nhà nước cấp trên với cơ
quan nhà nước cấp dưới nhằm xem xét, đánh giá mọi mặt hoạt động của cấp
dưới khi cần thiết, hoặc kiểm tra một vấn đề cụ thể, việc thực hiện một quyết
định quản lý hành chính nhà nước nào đó. Ở đây, hoạt động kiểm tra thực
hiện trong quan hệ trực thuộc. Vì vậy, khi thực hiện kiểm tra, cơ quan cấp
trên, thủ trưởng cơ quan có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế kỷ luật,
biện pháp bồi thường thiệt hại vật chất, hoặc áp dụng các biện pháp tác động
tích cực tới đối tượng bị kiểm tra như khen thưởng về vật chất, tinh thần. Hai
là, kiểm tra là hoạt động của các tổ chức, xã hội như kiểm tra Đảng, giám sát,
kiểm tra các tổ chức xã hội đối với hành chính nhà nước. Vì vậy, kiểm tra ở
phạm vi này ít mang tính quyền lực nhà nước, mà chỉ áp dụng các biện pháp
tác động mang tính xã hội.
Thanh tra là phạm trù dùng để chỉ hoạt động của các tổ chức thuộc
Tổng thanh tra Nhà nước và thanh tra nhà nước chuyên ngành (thanh tra bộ,
thanh tra sở). Cơ quan thanh tra và đối tượng bị thanh tra thường không có
quan hệ trực thuộc. Tuy nhiên, các cơ quan thanh tra do thủ trưởng các cơ
quan hành chính thành lập, do vậy nó hoạt động với tư cách là cơ quan chức
năng giúp thủ trưởng cùng cấp. Vì vậy, có thể coi hoạt động thanh tra được cơ
quan cấp trên tiến hành trong quan hệ đối với cơ quan trực thuộc. Trong q

trình thanh tra, cơ quan thanh tra có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế để
bảo đảm công tác thanh tra, kể cả các biện pháp trách nhiệm kỷ luật (tạm đình
chỉ cơng tác...) và xử lý vi phạm hành chính, nhưng khơng có quyền sửa đổi,
bãi bỏ quyết định của đối tượng bị thanh tra mà chỉ có quyền tạm đình chỉ
việc thi hành một số loại quyết định quản lý hành chính nhà nước nào đó,
trong những trường hợp đặc biệt cần thiết, hoặc đình chỉ hành vi hành chính
trái pháp luật.
5


Các phương thức bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong q trình thực hiện
quản lý hành chính nhà nước có đối tượng tác động rất lớn, trong đó hoạt
động của hệ thống hành chính là đối tượng chủ yếu. Do nhu cầu đặt ra, ở đây
tập trung xem xét hoạt động kiểm soát của Đảng đối với cơ quan, cán bộ,
cơng chức trong q trình thực hiện quản lý hành chính nhà nước.
1.2. Tính tất yếu và vai trị, trách nhiệm của Đảng trong kiểm sốt
quản lý cơng ở Việt Nam
* Tính tất yếu Đảng phải kiểm sốt hoạt động quản lý công
Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng duy nhất đã và đang
vạch ra đường lối, chủ trương, sách lược cách mạng phù hợp cho dân tộc, có
sức thuyết phục và tạo được niềm tin để tập hợp dân tộc Việt Nam thực hiện
thành công nhiều cuộc cách mạng như thành lập ra Nhà nước Việt Nam, thống
nhất đất nước và trong cuộc cách mạng xây dựng đất nước, phát triển kinh tế:
“quần chúng tin theo sự lãnh đạo của Đảng là do Đảng có đường lối đúng
đắn. Đường lối đúng đắn là kết quả tổng hợp của nghiên cứu lý luận khoa
học, nghiên cứu sáng tạo phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và các khoa học
khác (chứ khơng phải chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin) với tổng kết hoạt động
thực tiễn của cách mạng” [3, tr.4]. Bởi lẽ khơng có nền dân chủ nào, cũng như
một mơ hình tổ chức quyền lực nào (một đảng hay đa đảng) ưu việt, hoàn hảo
tuyệt đối mà vấn đề ở chỗ mơ hình nào được người dân ủng hộ lớn hơn; sự

hiện diện của chính đảng nào phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội
trong lịch sử, thực tiễn và được người dân ủng hộ hơn. Trong giai đoạn hiện
nay, hoạt động quản lý hành chính nhà nước ln cần sự lãnh đạo của Đảng
để tiếp tục phát triển, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Những lý luận về con
đường, mục tiêu phát triển đất nước lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác –
Lênin vẫn luôn đúng với mong muốn, nguyện vọng của nhân dân Việt Nam
về việc xây dựng một đất nước hịa bình, có thể chế chính trị ổn định, có nền
kinh tế phát triển bền vững, đảm bảo an sinh xã hội cho người dân và xây
dựng thành công nhà nước pháp quyền, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng
của đơng đảo nhân dân lao động. Sự nhất quán, kiên định trong định hướng,
con đường phát triển kinh tế- xã hội cũng như những sách lược đối thoại hịa
bình, hợp tác trong quan hệ đối ngoại với các nước trong khu vực và trên thế
giới đã tạo ra lòng tin đối với sự lãnh đạo của Đảng trong nhân dân và cộng
đồng quốc tế; góp phần đảm bảo an ninh, ổn định chính trị trong nước và hòa
6


bình trong trong khu vực. Đây là những tiền đề hết sức quan trọng để toàn dân
tộc sát cánh dưới sự lãnh đạo của Đảng dần tháo gỡ những khó khăn trong
phát triển kinh tế- xã hội và đưa đất nước phát triển đi lên, hội nhập quốc tế.
Như vậy có thể khẳng định, hoạt động quản lý hành chính nhà nước và nhân
dân Việt Nam vẫn tiếp tục cần có sự lãnh đạo của Đảng để phát triển đất nước
và con người Việt Nam theo định hướng đúng đắn do chính người dân mong
muốn, lựa chọn. Thiếu đi sự lãnh đạo của Đảng, chắc chắn hoạt động quản lý
hành chính nhà nước sẽ chệch khỏi mục tiêu đó và tạo ra sự bất ổn trong nước
cũng như trong khu vực.
Hai là, Đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng duy nhất có lực lượng
cách mạng là đơng đảo quần chúng nhân dân; đủ sức bảo vệ các thành quả
cách mạng đã đạt được và tiến hành các cuộc cách mạng khác trong tương lai.
Lãnh đạo lực lượng cách mạng nhân dân, khơng ai khác, chính là đội ngũ

đảng viên ngày càng phát triển không ngừng về số lượng và chất lượng với
4.450.000 đảng viên [2]. Chính lượng đảng viên này là nhân tố quan trọng
nhất đảm bảo sự ổn định về tư tưởng, chính trị, kinh tế, xã hội. Ngồi ra, để
thực hiện được vai trị lãnh đạo của mình đối với hoạt động quản lý hành
chính nhà nước, Đảng đã thực hiện các phương thức lãnh đạo hữu hiệu. Một
trong số đó là về cơng tác tổ chức cán bộ. Hầu hết những chức danh lãnh đạo
chủ chốt trong bộ máy cơ quan nhà nước, từ cấp trung ương đến cấp địa
phương đều do tổ chức đảng của Đảng giới thiệu, cử người đảm nhiệm.
Nhờ lực lượng đảng viên nói chung và đảng viên có trình độ chun
mơn và uy tín giữ chức vụ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống các cơ quan nhà
nước, cơ sở kinh tế, sự nghiệp… Đảng đã thực hiện chức năng, nhiệm vụ
truyền tải ý chí của Đảng vào các quyết định của cơ quan nhà nước; đồng
thời, có đủ năng lực để tự đổi mới, hồn thiện, thích ứng khi các điều kiện về
kinh tế, xã hội thay đổi. Vì vậy, mọi sự thay đổi về vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với hoạt động quản lý hành chính nhà nước sẽ dẫn đến phá vỡ tổ chức bộ
máy nhà nước, phá vỡ tính ổn định của nền hành chính nhà nước. Hiệu quả
lãnh đạo hoạt động quản lý hành chính nhà nước và đất nước Việt Nam phát
triển bền vững như thế nào, không phải ở chỗ đa đảng hay một đảng mà ở chỗ
đảng lãnh đạo đó có thực sự đại diện cho quyền lợi, nguyện vọng của đông
đảo nhân dân lao động hay khơng? có thực sự là một đảng cách mạng, trí tuệ
để đưa ra được những chủ trương, đường lối lãnh đạo trong từng thời điểm
7


đúng đắn hay không? Với những kết quả của Đảng đã đạt được trong quá khứ,
với nỗ lực không ngừng của Đảng để nâng cao năng lực lãnh đạo hoạt động
quản lý hành chính nhà nước và xã hội, chúng ta hồn tồn có thể tin tưởng
vào tính cách mạng, trí tuệ của Đảng để tiếp tục đảm đương sứ mệnh là đảng
chính trị giữ vai trị lãnh đạo tồn diện với Nhà nước và xã hội Việt Nam
trong thời gian tới.

Ba là, trong mỗi quốc gia ln cần có sự lãnh đạo của một đảng chính
trị. Hiện nay, trong nội bộ quốc gia dân tộc Việt Nam, khơng có một lực
lượng, một giai cấp, một tổ chức chính trị nào có đủ những điều kiện như: hệ
tư tưởng, lý luận khoa học sắc bén, lực lượng cách mạng mạnh mẽ, đặc biệt là
uy tín chính trị để có thể thay thế được vai trò của Đảng trong hệ thống chính
trị và xã hội Việt Nam. Đảng là chính đảng duy nhất thực hiện được việc tác
động, gây ảnh hưởng đến toàn bộ máy nhà nước và xã hội trong quá khứ, hiện
tại và tương lai. Đảng không chỉ lãnh đạo được nhân dân làm cách mạng dân
tộc giành độc lập dân tộc, thành lập Nhà nước, thống nhất đất nước mà cịn
lãnh đạo hoạt động quản lý hành chính nhà nước để thực hiện thành công
nhiệm vụ ổn định, phát triển kinh tế, giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội,
đặc biệt trong những giai đoạn kinh tế - chính trị - xã hội của thế giới đang
gặp nhiều khủng hoảng.
* Biểu hiện vai trò, trách nhiệm của Đảng trong kiểm sốt quản lý
cơng ở Việt Nam hiện nay
Kiểm sốt hoạt động quản lý hành chính nhà nước là hoạt động mang
tính dưới luật, điều đó địi hỏi mọi hoạt động của các cơ quan hành chính nhà
nước phải chịu sự kiểm soát của Đảng nhằm đảm bảo pháp chế và kỷ luật
trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Hoạt động kiểm sốt của Đảng
đối với các hoạt động quản lý hành chính nhà nước khơng đối lập, khơng cản
trở hoạt động đó, ngược lại làm cho nó trở nên trong sạch, lành mạnh và vững
mạnh hơn.
Mặt khác, hoạt động quản lý hành chính nhà nước sẽ không được đảm
bảo nếu kỷ luật Nhà nước cũng như kỷ luật lao động, kỷ luật trực thuộc trong
hoạt động cơng vụ, kỷ luật tài chính, kỷ luật kế tốn, kỷ luật trong hoạt động
thơng tin, văn bản,... không được các cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức nhà
nước thực hiện nghiêm túc. Đồng thời, tình trạng thiếu kỷ cương, trật tự trong
hoạt động của bộ máy hành pháp sẽ tác động tiêu cực đến tình trạng pháp chế,
8



tới việc thực hiện pháp luật của cơng dân. Vì vậy, cơng tác kiểm sốt của
Đảng đối với hoạt động quản lý hành chính nhà nước nhằm đảm bảo kỷ luật
trong quản lý hành chính nhà nước là tiền đề để bảo đảm pháp chế trong quản
lý hành chính nhà nước.
Với vai trò lãnh đạo, trước hết Đảng tạo lập các cơ sở chính trị, định
hướng nội dung, mục tiêu cho tồn bộ hoạt động quản lý hành chính nhà
nước. Điều đó có nghĩa, những vấn đề về hoạt động quản lý hành chính nhà
nước trước hết được nhận thức và xác định thành các nguyên tắc chung, qua
đó tạo thành cơ sở chính trị cho tồn bộ hoạt động quản lý hành chính nhà
nước. Đảng lãnh đạo hoạt động quản lý hành chính nhà nước bằng cương lĩnh
chính trị, chiến lược, chính sách, chủ trương; bằng cơng tác tư tưởng, tổ chức,
cán bộ và kiểm tra giám sát việc thực hiện. Chẳng hạn Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII của Đảng
Cộng sản Việt Nam vạch ra xác định các mục tiêu, nhiệm vụ, lực lượng và
phương pháp thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của nước ta trong thời kì cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước [12].
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(năm 1991) đưa ra quan niệm tổng quát nhất về xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam và những phương hướng cơ bản để xây dựng xã hội đó; khẳng định chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động của Đảng; khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể
tạo thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân; khẳng định xây dựng nền văn
hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong những phương hướng chiến
lược lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam [13].
Trong số các văn kiện của Đảng, ngồi cương lĩnh chính trị thì các nghị
quyết đại hội đại biểu tồn quốc của Đảng, các nghị quyết hội nghị Ban chấp
hành trung ương Đảng có vai trị và ý nghĩa quan trọng hàng đầu cho hoạt

động thể chế hố. Đó là Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, các
nghị quyết các hội nghị Ban chấp hành trung ương khoá X về những vấn đề
phát triển kinh tế - xã hội như Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành
trung ương Đảng (khố X) về tiếp tục hồn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa... Những chủ trương, định hướng lớn của Đảng
9


đã và đang được triển khai thực hiện có thể nêu như Nghị quyết số 48TW/NQ về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam;
Nghị quyết số 49-TW/NQ về chiến lược cải cách hệ thống tư pháp 2006 2010, định hướng đến năm 2020 v.v..
Nhìn tổng thể, vai trò trách nhiệm của Đảng trong kiểm sốt hoạt động
quản lý hành chính nhà nước được xác định theo hai nội dung căn bản sau:
Thứ nhất, Đảng tạo lập cơ sở và đảm bảo định hướng chính trị cho hoạt
động quản lý hành chính nhà nước. Điều này được quy định thành nguyên tắc
Hiến pháp (Điều 4 Hiến pháp năm 1992). Hoạt động của Đảng trước hết là
việc xác định đường lối phát triển của cách mạng Việt Nam, trong đó có
đường lối xây dựng, củng cố và phát triển Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam mà hoạt động thể chế hoá là một trong những nội dung quan
trọng hàng đầu. Vai trò, trách nhiệm của Đảng là lãnh đạo việc thể chế hoá
trước hết thông qua các quan điểm đường lối do Đảng vạch ra và được thể
hiện tập trung trong các văn kiện của Đảng. Đảng phải xác định một cách
đúng đắn, phù hợp, kịp thời toàn bộ con đường và bước đi của cách mạng
Việt Nam trong từng thời kỳ, hướng tới các mục tiêu trước mắt cũng như lâu
dài theo lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng chỉ rõ để tiến tới mục tiêu đó, Việt Nam
phải xây dựng nhà nước pháp quyền, của dân, do dân, vì dân trên nền tảng
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tích cực, chủ động hội
nhập quốc tế.
Thứ hai, Đảng không chỉ dừng lại ở việc xác định chủ trương, đường
lối làm cơ sở chính trị cho tồn bộ q trình và nội dung hoạt động quản lý

hành chính nhà nước mà Đảng cịn lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện hoạt động
quản lý hành chính nhà nước nhằm tạo lập hệ thống các nguyên tắc, cơ chế,
chính sách, luật pháp phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước. Trách nhiệm
của Đảng là theo dõi để kịp thời uốn nắn các hoạt động quản lý hành chính
nhà nước đảm bảo tính định hướng chính trị của hoạt động này. Các cấp uỷ
Đảng lãnh đạo, chỉ đạo sát sao hoạt động quản lý hành chính nhà nước, từ
khâu hình thành chính sách, phân tích chính sách đến xác định nhu cầu lập
pháp, lập quy, cho ý kiến đối với các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp
luật, lắng nghe nguyện vọng và ý kiến đóng góp, tham gia, phản biện của các
tầng lớp nhân dân.
10


CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT HUY
VAI TRỊ, TRÁCH NHIỆM CỦA ĐẢNG TRONG KIỂM SỐT QUẢN LÝ
CƠNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Thực trạng vai trị, trách nhiệm của Đảng trong kiểm sốt quản
lý cơng ở Việt Nam hiện nay
Trong những năm qua, thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, các
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII về cơng tác xây dựng và chỉnh đốn
Đảng, việc nhận diện đúng về quyền lực, tha hóa quyền lực, kiểm sốt quyền
lực để ngăn chặn, phịng và chống sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của đảng viên không giữ chức vụ
lãnh đạo, quản lý đến đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý các cấp đã được
triển khai từ Trung ương đến cơ sở.
Có thể nói, cùng với việc “tiếp tục xây dựng, hồn thiện và thực hiện
nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ
luật, kỷ cương” [5, tr.47] theo Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, “các cấp ủy,
tổ chức Đảng chỉ đạo rà sốt, hồn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra,

giám sát, kiểm sốt việc thực thi quyền lực của người có chức, có quyền, theo
hướng quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó; phân định rõ thẩm quyền và
trách nhiệm tập thể, cá nhân trong từng công đoạn giải quyết công việc và có
chế tài xử lý nghiêm những hành vi vi phạm” [6]; đồng thời “xây dựng, hoàn
thiện thể chế để kiểm sốt quyền lực trong cơng tác cán bộ theo nguyên tắc
mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế; quyền hạn, phải
được ràng buộc bằng trách nhiệm” [7] theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương
4, 7 khóa XII đã cho thấy vấn đề kiểm soát quyền lực được chú trọng thực
hiện, từng bước đem lại kết quả rõ rệt.
Trong đó, dấu ấn đậm nét nhất chính là tại các cấp ủy Đảng: thơng qua
tự phê bình và phê bình, kiểm tra và giám sát đã kịp thời phát hiện và tiến
hành đúng trình tự để xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm pháp luật về tham ô,
tham nhũng, v.v.. Công tác kiểm tra, giám sát việc kê khai tài sản của cán bộ
thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý được thực thi nghiêm túc. Việc
xây dựng, ban hành nhiều văn bản pháp luật về phòng, chống tham nhũng đã
từng bước khắc phục những sơ hở, bất cập trong các quy định của pháp luật…
Cơng tác phịng, chống sự tha hóa quyền lực, suy thoái về đạo đức, lối sống,
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng đã và đang cho thấy, việc
xây dựng cơ chế và quá trình kiểm soát quyền lực được đẩy mạnh. Cùng với
11


đó, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã mở rộng phạm vi, đối tượng kiểm tra
xuống đến cấp ủy cấp huyện và cơ sở, đã phát hiện và xử lý nhiều vụ án tham
nhũng, từng bước khắc phục tình trạng “trên nóng dưới lạnh”. Đồng thời, các
cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã tập trung kiểm tra, xử lý nghiêm các tổ
chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; xử lý nghiêm cả cán bộ đương
chức, nghỉ hưu và cán bộ cấp cao; kỷ luật từ trên xuống dưới “khơng có vùng
cấm”, “khơng có trường hợp ngoại lệ”... góp phần củng cố niềm tin của nhân
dân như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh.

Tuy nhiên, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật về thực trạng
suy thoái của một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên có chức quyền, Nghị
quyết Trung ương 4 khóa XII đã chỉ rõ: Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có
người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; cịn biểu hiện
quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở. Công tác kiểm tra,
giám sát và kỷ luật đảng chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy
thối… Trong khi đó, tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt,
có bộ phận cịn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực
vẫn cịn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy
nhà nước như Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã chỉ rõ.
Việc đăng ký, tự soi theo 27 biểu hiện suy thoái (9 biểu hiện suy thối
về tư tưởng chính trị; 9 biểu hiện suy thối về đạo đức, lối sống; 9 biểu hiện
về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ) theo Nghị quyết Trung ương
4 khóa XII ở các cấp ủy (thơng qua cơng tác tự phê bình và phê bình, kiểm tra
và giám sát) vẫn cho thấy: ở đâu đó, với quyền lực được giao phó, sự suy
thối của bộ phận cán bộ, đảng viên giữ cương vị lãnh đạo, quản lý, nhất là
cán bộ cao cấp vẫn đang diễn ra, không chỉ gây bức xúc trong nhân dân mà
còn ảnh hưởng đến uy tín của Đảng cầm quyền.
Trong thực tế: 1) Sự suy thoái ở bộ phận cán bộ, đảng viên có chức, có
quyền này là coi thường kỷ luật, nguyên tắc lãnh đạo của Đảng; không thực
hiện đúng các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng; coi thường nguyên tắc “tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” với các biểu hiện độc đoán, chuyên quyền,
sử dụng đặc quyền, đặc lợi để lạm dụng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn nhằm
tham ô, tham nhũng, mưu cầu cho cá nhân và nhóm lợi ích; ngày càng quan
liêu, xa dân, vơ cảm trước khó khăn, bức xúc của nhân dân; trục lợi từ chức
12


quyền để chạy dự án, chạy tuổi, chạy quy hoạch, chạy chức cho mình và

người thân… 2) Sự suy thối ở bộ phận đảng viên chưa hoặc không được giao
các chức vụ lãnh đạo, quản lý trong Đảng và chính quyền mà chỉ chịu trách
nhiệm cá nhân khi thực hiện các nhiệm vụ đảng viên thì thường là các biểu
hiện thiếu niềm tin và nghi ngờ vai trò lãnh đạo của Đảng; phai nhạt lý tưởng
cách mạng, dao động về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; bàng quan, thiếu
tinh thần và quyết tâm phấn đấu, vượt gian khổ, khó khăn để hồn thành tốt
nhiệm vụ được giao, khơng gương mẫu giữa nói và làm, v.v..
2.2. Một số giải pháp phát huy vai trò, trách nhiệm của Đảng trong
kiểm sốt quản lý cơng ở Việt Nam hiện nay
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định phải tăng
cường, nâng cao hiệu quả công tác giám sát, kiểm sốt hoạt động quản lý
hành chính nhà nước. Cụ thể, “phải thiết lập cho được một cơ chế kiểm sốt
việc thực thi quyền lực đối với người có chức vụ, quyền hạn theo nguyên tắc
mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế; quyền hạn phải
được ràng buộc với trách nhiệm, quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó,
quyền hạn càng cao, trách nhiệm càng lớn” [10]; phải đồng thời tiến hành
kiểm tra ngang và kiểm tra dọc, từ trên xuống và từ dưới lên; phải phát huy
vai trị của nhân dân trong cơng tác kiểm tra và giám sát; từng đoàn thể phải
xây dựng và thực hiện cơ chế kiểm tra, giám sát, chống lạm quyền, trục lợi từ
quyền lực đảm bảo hiệu quả... Trên tinh thần đó, trong thời gian tới, để phát
huy vai trị trách nhiệm của Đảng trong kiểm sốt hoạt động quản lý hành
chính nhà nước, cần tập trung thực hiện những giải pháp sau:
Một là, tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và chỉnh đốn Đảng, coi thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII và các Quy định số 47-QĐ/TW của Ban
Chấp hành Trung ương khoá XI về “Những điều đảng viên không được làm”,
Quy định 101-QÐ/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI về “Trách
nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các
cấp”, Quy định 55-QĐ/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Một số việc cần
làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên” và Quy
định số 08-QĐi/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về “Trách

nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị,
Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương” gắn với Chỉ thị 05CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư
13


tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” theo chương trình tồn khóa và
chủ đề hằng năm là giải pháp căn cốt để thực hiện kiểm soát quyền lực trong
Đảng, trong cả hệ thống chính trị.
Hai là, chú trọng và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ theo chuyên
đề; trong đó, căn cứ theo bản đăng ký của mỗi cấp ủy và cá nhân về phòng
và chống các biểu hiện suy thoái theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4
khóa XII gắn với nội dung học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh để triển khai đồng bộ, hiệu quả các biện pháp về tự phê
bình và phê bình, kiểm tra, giám sát theo nguyên tắc kết hợp chặt chẽ giữa
“xây và chống, lấy xây là chính”. Cụ thể, “thường xuyên và nghiêm chỉnh
thực hiện tự phê bình và phê bình” theo Di chúc đi liền với tăng cường giám
sát và kiểm tra, thực hiện kỷ luật trong Đảng theo phương châm “trên trước,
dưới sau”, “từ trong ra, từ ngoài vào”, “từ trên xuống, từ dưới lên”. Nâng
cao chất lượng, hiệu quả tự phê bình và phê bình, kiểm tra và giám sát theo
nguyên tắc dân chủ, khách quan, trung thực, đầy đủ gắn với tăng cường công
tác kiểm tra, giám sát công tác lãnh đạo, quản lý nói chung và kiểm tra,
kiểm sốt đội ngũ cán bộ, đảng viên có chức, có quyền nói riêng theo định
kỳ và đột xuất, với sự giám sát của quần chúng nhân dân và đảng viên ở nơi
công tác và địa bàn cư trú.
Ba là, “phải nhốt quyền lực vào trong lồng cơ chế, luật pháp”, tiếp tục
xây dựng và hồn thiện cơ chế kiểm sốt quyền lực, giữa các cơ quan lãnh
đạo của Đảng ở từng cấp và giữa các cấp, từ trên xuống và từ dưới lên, bảo
đảm sự kiểm soát nhiều chiều. Tăng cường giám sát và kiểm tra đội ngũ cán
bộ, đảng viên đối với việc thực hiện quyền lực trong Đảng thông qua những
quy định, quy chế nghiêm ngặt. Phải coi kiểm soát quyền lực là kỷ luật của

Đảng; đảm bảo quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cấp ủy, cá
nhân trong cấp ủy và từng vị trí lãnh đạo; cơng khai các quy định, quy chế về
kiểm sốt quyền lực để mọi cán bộ, đảng viên đều phải nghiêm túc thực hiện,
khơng có ngoại lệ. Theo đó, mỗi cơ quan, tổ chức Đảng, mỗi cá nhân cán bộ,
đảng viên được trao quyền đều phải gương mẫu đi đầu trong việc kiểm soát
quyền lực được giao theo đúng quy định của Hiến pháp, pháp luật và Điều lệ
Đảng. Đồng thời, Đảng phải tăng cường cơ chế “tự kiểm soát” thơng qua các
sinh hoạt Đảng, tự phê bình và phê bình, qua hoạt động kiểm tra, giám sát,
chất vấn, giải trình từ các tổ chức cơ sở Đảng đến Ban Chấp hành Trung
14


ương; tăng cường giám sát việc thực hiện quyền lực của các cơ quan nhà
nước, các tổ chức chính trị - xã hội; tạo cơ chế để các tổ chức trong hệ thống
chính trị giám sát trở lại việc thực thi quyền lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên
và của Đảng gắn với khen thưởng và kỷ luật nghiêm minh, để thơng qua đó
củng cố và tăng cường khối đoàn kết thống nhất trong mỗi tổ chức, cơ quan,
địa phương, đơn vị.
Bốn là, cùng với việc thực hiện nghiêm theo đúng quy định của Hiến
pháp, pháp luật, Điều lệ và kỷ luật Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên phải “tự kiểm
sốt mình”, xây dựng và rèn luyện cho mình bản lĩnh chính trị vững vàng để:
1) Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; 2) Kiên tâm tự đề
kháng và miễn dịch trước “bả vinh hoa của quyền lực, chức quyền”; trước
những tác động tiêu cực từ những thông tin xấu độc, sự chống phá của các thế
lực thù địch, phản động, phòng và chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; 3)
Kiên trì tu dưỡng để “thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực hiện cần kiệm
liêm chính, chí cơng vơ tư”, phịng và chống chủ nghĩa cá nhân gắn liền với
nỗ lực học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ lý luận, chun mơn nghiệp vụ
để bồi đắp, hồn thiện mình, xứng đáng là “người lãnh đạo, người đày tớ thật
trung thành của nhân dân” như Hồ Chí Minh căn dặn trong Di chúc. Thơng

qua đó, khơng chỉ nhận diện rõ những biểu hiện lạm dụng, trục lợi từ quyền
lực, tha hóa bởi quyền lực dẫn tới sự suy thoái của cán bộ, đảng viên để đấu
tranh quyết liệt, có hiệu quả với các việc làm sai trái mà còn kịp thời xử lý và
đưa ra khỏi Đảng những cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật, bất kể đó là ai,
ở vị trí cơng tác nào; đồng thời, phát huy vai trị nêu gương của cán bộ lãnh
đạo, quản lý, người đứng đầu các cơ quan, địa phương, đơn vị trên tinh thần
chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, tiền phong trong thực thi quyền lực./.

15


PHẦN IV. KẾT LUẬN

Nâng cao vai trị kiểm sốt của Đảng đối với hoạt động quản lý hành
chính nhà nước là bằng chứng sinh động bác bỏ mọi luận điệu của các thế lực
thù địch xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo, trách nhiệm cầm quyền của
Đảng; khẳng định tính tất yếu là dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam cần có
Đảng lãnh đạo để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, các lợi ích chiến lược đất nước và thực hiện khát vọng tự cường dân
tộc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện hiện nay, vấn đề
nâng cao vai trị kiểm sốt của Đảng đối với hoạt động quản lý hành chính
nhà nước và xã hội càng có tầm quan trọng đặc biệt, cấp thiết hơn bao giờ hết
gắn với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tăng
cường sự kiểm soát của Đảng đối với hoạt động quản lý hành chính nhà nước
là nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, trách nhiệm cầm quyền của Đảng, làm
cho hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước được tăng cường, nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa được phát huy đầy đủ, nhất là huy động, lôi cuốn nhân dân
tham gia xây dựng Đảng và quản lý nhà nước, thực hiện tốt hơn việc bảo vệ
quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân, đưa đất nước phát triển
nhanh và bền vững.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.
3.
4.
5.
6.

7.

Ban Tổ chức Trung ương (2011), Một số vấn đề về đảng cầm quyền và
công tác xây dựng Đảng trong tình hình mới (Tài liệu bồi dưỡng thi nâng
ngạch chuyên viên cao cấp khối Đảng, đoàn thể năm 2011), Hà Nội.
Báo cáo Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới
(1986 - 2016), Nxb Chính trị quốc gia.
Lê Quang Đạo (1993), Mấy vấn đề về mối quan hệ giữa Đảng với Nhà
nước, Đề tài KX 05-06, Chương trình KX 05, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về
“Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thối
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ”, số 04-NQ/TW, ngày 30/10/2016, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Nghị quyết Trung ương 7 khóa XII Nghị quyết số 26 về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là
16



8.
9.
10.
11.

12.
13.

cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”,
số 26-NQ/TW, ngày 19/5/2018, Hà Nội.
Hồ Chí Minh tồn tập (2000), Tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
Nguyễn Phú Trọng (2018), Phát biểu của Tổng Bí thư tại Hội nghị tồn
quốc về phịng, chống tham nhũng, ngày 25/6/2018, Hà Nội.
Nguyễn Phú Trọng (2020), “Tiếp tục đi theo con đường cách mạng vẻ
vang của Chủ tịch Hồ Chí Minh; tồn Đảng, tồn dân, tồn quân ta
nguyện kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp của Người”, Tạp chí
Cộng sản, số 943, tháng 6-2020
Xem:
Xem: />
17



×