Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

phân biệt vật chất và ý thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.31 KB, 12 trang )

Kế thừa tư tưởng của C. Mác và Ph. ăngghen; tổng kết những thành tựu khoa học tự nhiên cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX và từ nhu cầu của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, V.I. Lênin đã định nghĩa:
"Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong
cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm
giác”.
Ở định nghĩa này, V.I.Lênin phân biệt hai vấn đề quan trọng:
Trước hết: là phân biệt vật chất với tư cách là phạm trù triết học với các quan niệm của khoa học tự
nhiên về cấu tạo và những thuộc tính cụ thể của các đối tượng các dạng vật chất khác nhau. Vật chất với
tư cách là phạm trù triết học dùng chỉ vật chất nói chung, vơ hạn, vơ tận, khơng sinh ra, khơng mất đi; cịn
các đối tượng, các dạng vật chất khoa học cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn, có sinh ra và mất đi để
chuyển hóa thành cái khác. Vì vậy, khơng thể quy vật chất nói chung về vật thể, khơng thể đồng nhất vật
chất nói chung với những dạng cụ thể của vật chất như các nhà duy vật trong lịch sử cổ đại, cận đại đã
làm.
Thứ hai: là trong nhận thức luận, đặc trưng quan trọng nhất để nhận biết vật chất chính là thuộc tính
khách quan. Khách quan, theo V.I.Lênin là "cái đang tồn tại độc lập với loài người và với cảm giác của
con người". Trong đời sống xã hội, vật chất "theo ý nghĩa là tồn tại xã hội không phụ thuộc vào ý thức xã
hội của con người". Về mặt nhận thức luận thì khái niệm vật chất khơng có nghĩa gì khác hơn: "thực tại
khách quan tồn tại độc lập với ý thức con người và được ý thức con người phản ánh".
Như vậy, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau:
- Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức, bất kể sự tồn tại ấy
con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được.
- Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hoặc trực tiếp tác động lên giác quan của
con người.
- Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất.
Với những nội dung cơ bản như trên định nghĩa vật chất của V. I. Lênin có nhiều ý nghĩa to lớn.:
- Khi khẳng định vật chất là "thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác", "tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác", V.I.Lênin đã thừa nhận rằng, trong nhận thức luận, vật chất là tính thứ
nhất, là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức. Và khi khẳng định vật chất là cái "được cảm giác
của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh", V.I.Lênin muốn nhấn mạnh rằng bằng những phương thức
nhận thức khác nhau (chép lại, chụp lại, phản ánh...) con người có thể nhận thức được thế giới vật chất.
Như vậy, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã bác bỏ quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, bác bỏ thuyết


không thể biết, đã khắc phục được những hạn chế trong các quan điểm của chủ nghĩa duy vật trước Mác
về vật chất. Đồng thời, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin cịn có ý nghĩa định hướng đối với khoa học cụ
thể trong việc tìm kiếm các dạng hoặc các hình thức mới của vật thể trong thế giới.


- Khi nhận thức các hiện tượng thuộc đời sống xã hội, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã cho phép xác
định cái gì là vật chất trong lĩnh vực xã hội. Từ đó giúp các nhà khoa học có cơ sở lý luận để giải thích
những nguyên nhân cuối cùng của các biến cố xã hội, những nguyên nhân thuộc về sự vận động của
phương thức sản xuất; trên cơ sở ấy, người ta có thể tìm ra các phương án tối ưu để hoạt động thúc đẩy
xã hội phát triển.

2.

-

Khái niệm chân lý

Trong phạm vi lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác - Lênin, khái niệm chân lý dùng để chỉ những tri
thức có nội dung phù hợp với thực tế khách quan; sự phù hợp đó đã được kiểm tra và chứng minh
bởi thực tiễn.
Ví dụ, hiểu biết sau đây là một chân lý: “không phải mặt trời xoay quanh trái đất mà là ngược lại, trái
đất xoay quanh mặt trời”.
- Các tính chất của chân lý
Mọi chân lý đều có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và tính cụ thể.
+ Tính khách quan của chân lý là nói: tính phù hợp nữa tri thức và thực tại khách quan; không phụ
thuộc ý chí chủ quan.
Ví dụ, sự phù hợp giữa quan niệm “quả đất có hình cầu chứ khơng phải hình vng” là phù hợp với
thực tế khách quan; nó khơng phụ thuộc vào quan niệm truyền thống đã từng có hàng nghìn năm
trước thời Phục hưng.
+ Tính cụ thể của chân lý là nói: tính có điều kiện của mỗi tri thức, phản ánh sự vật trong các điều

kiện xác định khơng gian, thời gian, góc độ phản ánh,...).
Ví dụ, mọi phát biểu định lý trong các khoa học đều kèm theo các điều kiện xác định nhằm đảm bảo
tính chính xác của nó: “trong giới hạn của mặt phẳng, tổng các góc trong của một tam giác là 2
vng; nước sôi ở 100°C với điều kiện nước nguyên chất và áp suất 1 atmotphe,...
+ Tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý là nói: mỗi chân lý chỉ tuyệt đối đúng trong một giới
hạn nhất dịnh, cịn ngồi giới hạn đó thì nó có thể khơng đúng; mặt khác, mỗi chân lý, trong điều
kiện xác định, nó mới chỉ phản ánh được một phần thực tại khách quan.
Ví dụ, trong giới hạn mặt phẳng (có độ cong bằng 0) thì tổng các góc trong của tam giác tuyệt đối
bằng 2 vng (tính tuyệt đối), nhưng nếu điều kiện đó thay đổi đi (có độ cong khác 0) thì định lý đó
khơng cịn đúng nữa (tính tương đối), nó cần phải được bổ sung bằng định lý mới (sự phát triển quá
trình nhận thức dần tới chân lý đầy đủ hơn - tức chân lý tuyệt đối).
-

Chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối

Chân lý tương đối là chân lý chưa phản ánh được đầy đủ đối với thực tại khách quan; còn chân lý
tuyệt đối là chân lý phản ánh được đầy đủ đối với thực tại khách quan. Theo nghĩa đó, chân lý tuyệt
đối chính là tổng số của chân lý tương đối xét trong quá trình phát triển của nhận thức nhân loại.


Ví dụ, hai khẳng định sau đây đều là chân lý, nhưng chỉ là chân lý tương đối: (1) Bản chất của ánh
sáng có đặc tính sóng; (2) Bản chất của ánh sáng có đặc tính hạt. Trên cơ sở hai chân lý đó có thể
tiến tới một khẳng định đầy đủ hơn: ánh sáng mang bản chất lưỡng tính là sóng và hạt.

Xem thêm tại: />Kiểu nhà nước phong kiến là kiểu nhà nước thứ  hai trong lịch sử xã hội lồi người, ra đời trên sự
tan rã của chế độ chiếm hữu nơ lệ hoặc xuất hiện trực tiếp từ sự tan rã của xã hội cộng sản ngun
thủy.
Bản chất của nhà nước phong kiến thể  hiện  ở việc xây dựng bộ  máy chun chính của vua chúa
phong kiến và địa chủ.
Hình thức phổ  biến của nhà nước phong kiến là chính thể  qn chủ  chun chế  với quyền lực vơ

hạn của hồng đế.

Nhà nước phong kiến là kiểu nhà nước thứ hai ra đời trên cơ sở thay thế nhà
nước chủ nô bị diệt vong.
Xã hội phong kiến là xã hội có kết cấu giai cấp rất phức tạp. Kết cấu này phụ thuộc vào sự khác
nhau về kinh tế mà đặc biệt là đất đai. Có thể nói, đất đai trong xã hội phong kiến quyết định sự
giàu sang, thứ bậc và địa vị của mỗi người trong xã hội.

1. Cơ sở kinh tế - xã hội
- Cơ sở: Nhà nước phong kiến là kiểu nhà nước thứ hai ra đời trên cơ sở thay thế nhà nước chủ nô bị
diệt vong. Trong xã hội chiếm hữu nơ lệ, do giai cấp chủ nơ bóc lột khơng có giới hạn đối với người nơ lệ
nên đã làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp chủ nô với giai cấp nô lệ ngày càng trở nên gay gắt. Nô lệ khơng
muốn lao động, khơng muốn bị áp bức bóc lột như trước nữa. Họ đứng lên đấu tranh chống lại giai cấp
chủ nơ địi thay đổi chế độ chiếm hữu nơ lệ. Về phía giai cấp chủ nơ, họ cũng nhận thấy rằng không thể
tiếp tục cai trị, áp bức, bóc lột nơ lệ như cũ được nữa. Đáp ứng nhu cầu về quyền sở hữu của nô lệ, giai
cấp chủ nơ buộc phải giải phóng nơ lệ, giao đất, giao vùng canh tác cho họ và tiến hành thu thuế trên
những vùng đất đó. Điều này đã dẫn đến sự chuyển hóa dần từ phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ
sang phương thức sản xuất phong kiến. Chế độ chiếm hữu nô lệ dần từng bước bị diệt vong thay vào đó
là chế độ phong kiến và Nhà nước phong kiến ra đời thay thế cho Nhà nước chủ nơ bì diệt vong.
Cũng cần phải nói thêm là ở một số nơi trên thế giới, Nhà nước phong kiến xuất hiện trực tiếp từ sự tan
rã của chế độ công xã nguyên thủy. Sự xuất hiện của Nhà nước phong kiến đánh dấu một bước phát
triển mới của xã hội lồi người, nó đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kình tế - xã hội
mà đặc biệt là xóa bỏ ách nơ lệ cho những người lao động, nâng cao năng suất lao động trong xã hội.
Cơ sở kinh tế của Nhà nước phong kiến là quan hệ sản xuất phong kiến. Quan hệ này được xây dựng
trên cơ sở chế độ chiếm hữu của địa chủ phong kiến đối với đất đai, đối với các tư liệu sản xuất khác và
đối với việc chiếm đoạt một phần sức lao động của nơng dân. Nền kinh tế phong kiến là nền kính tế tự
cung tự cấp, hoạt động bao trùm là sản xuất nông nghiệp. Do vậy, đất đai, quyền sở hữu đất đai, quyền
thu thuế trên những vùng đất nhất định là những yếu tố quan trọng bậc nhất trong kinh tế cũng như trong
đời sống xã hội phong kiến.
Trong xã hội phong kiến, về ngun tắc địa chủ khơng có quyền sở hữu đối với người sản xuất là nông

dân mà chỉ có quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Nhưng vì khơng có đất khơng có tư liệu sản xuất
nên nơng dân rơi vào tình trạng lệ thuộc vào địa chủ phong kiến về mặt kinh tế, họ buộc phải làm thuê


cho đìa chủ phong kiến và phải làm nhiều nghĩa vụ nặng nề đối với địa chủ phong kiến. Hình thức bóc lột
phổ biến của địa chủ đối với nơng dân là địa tô.
Địa vị của nông dân phần nào đã tốt hơn so với địa vị của nô lệ nơng dân đã có kinh tế riêng, có một số
quyền cơng dân, có thể thành lập gia đình riêng ... Tuy nhiên, giai đoạn đầu khi mới xuất hiện chế độ
phong kiến " . . . trên thực tế địa vị của nơng dân chỉ khác chút ít địa vị của nô lệ trong xã hội chiếm hữu
nô lệ". Với sự phát triển của kinh tế- xã hội cùng chính sách an dân của các Nhà nước phong kiến đã
từng bước cải thiện đời sống và địa vị của người nông dân trong xã hội phong kiến.
Xã hội phong kiến là xã hội có kết cấu giai cấp rất phức tạp. Kết cấu này phụ thuộc vào sự khác nhau về
kinh tế mà đặc biệt là đất đai. Có thể nói, đất đai trong xã hội phong kiến quyết định sự giàu sang, thứ
bậc và địa vị của mỗi người trong xã hội. Ngoài ra, sự phân chia đẳng cấp cịn phụ thuộc vào địa vị pháp
lý, tính chất và số lượng các quyền mà đại diện của đẳng cấp ấy có thể có ... Mỗi đẳng cấp có địa vị xã
hội khác nhau, có lợi ích kinh tế, chính trị - xã hội khác nhau: Những đẳng cấp thống trị trong xã hội gồm
những người nắm giữ quyền hành trong xã hội (vua, chúa), tầng lớp quý tộc (các loại địa chủ lớn, nhỏ
với rất nhiều những đanh
vị khác nhau) tầng lớp tăng lữ (cha cố, sư sãi ...). Những đẳng cấp bị thống trị gồm nông dân tự do, nông
dân lệ thuộc, nông nô, thợ thủ công, dân nghèo thành thị ...
Trong xã hội phong kiến, bên cạnh quyền lực của vua chúa phong kiến thì mỗi địa chủ phong kiến đều
thiết lập và duy trì quyền lực riêng của mình trên những phạm vi lãnh thổ nhất định. Dù ở thời kỳ phân
quyền cát cứ hay thời kỳ trung ương tập quyền thì quyền lực trong xã hội phong kiến cũng ln mang
tính đẳng cấp khắc nghiệt. Điều này dẫn tới tình trạng người nơng dân phải chịu rất nhiều tầng nấc áp
bức bóc lột.

-

Bản chất của nhà nước phong kiến


Cơ sở kinh tế và kết cấu giai cấp của xã hội phong kiến đã quyết định bản chất của Nhà nước phong
kiến. Nhà nước phong kiến xét về mặt giai cấp là cơng cụ chun chính chủ yếu của giai cấp địa chủ
phong kiến để chống lại nông dân và những người lao động khác nhằm củng cố, bảo vệ sự thống trị về
mọi mặt của địa chủ phong kiến.
Quyền lực Nhà nước trong chế độ phong kiến là quyền lực được duy trì theo cách thức cha truyền cáp
nối. Ngồi quyền lực Nhà nước cịn phải kể đến quyền lực của các tổ chức tôn giáo (thần quyền) cũng
có vai trị rất lớn trong đời sống chính trị của đất nước. Trong xã hội phong kiến, các tổ chức tơn giáo cịn
đồng thời là tổ chức kinh tế (các tổ chức tơn giáo có rất nhiệt đất đai và các tài sản quý khác), tổ chức
chính trị (các tổ chức tơn giáo có quyền đặt ra luật lệ riêng, có quyền thu thuế, có các đội qn vũ trang,
có tồ án riêng...) và là trung tâm văn hố (các tổ chức tơn giáo có thể mở trường học, thành lập các viện
nghiên cứu về khoa học, nghệ thuật..:). Với những ưu thế về kinh tế, chính trị, văn hóa như vậy, các tổ
chức tơn giáo thường can thiệp, chi phối các công việc của Nhà nước phong kiến, đôi khi lấn át Nhà
nước trong một số lĩnh vực nhất định đích sử nhân loại thời kỳ trung cổ đã chứng kiến nhiều cuộc xung
đột giữa thần quyền và thế quyền). Tầng lớp tăng lữ, cha cố, sư sãi là những người có học thức cao
trong xã hội, do vậy, họ thường được trọng dụng và giữ những cương vị quan trọng trong triều đình. Ở
các nước phương Đông, người đứng đầu Nhà nước (vua) cũng chính là người lãnh đạo tơn giáo (giáo
chủ).
Chính những đặc điểm trên của xã hội phong kiến mà quyền lực của Nhà nước phong kiến thường thỏa
hiệp và liên kết chặt chẽ với quyền lực của các tổ chức tôn giáo thành một chế độ cai trị cực kỳ chuyên
chế để đàn áp, áp bức, bóc lột nơng dân về thể xác cũng như về tinh thần, đẩy người dân vào tình trạng
tối tăm, ngu dốt, lạc hậu, luẩn quẩn trong những “đêm dài trung cổ”.
Ngồi tính giai cấp, Nhà nước phong kiến cịn có tính xã hội. Các nhà nước phong kiến tuỳ thuộc điều
kiện cụ thể của đất nước mình ln tiến hành các hoạt động kinh tế- xã hội vì sự phát triển đất nước, vì
lợi ích của nhân dân trong nước, vì sự phồn thịnh của quốc gia. Sự tham gia của các nhà nước phong
kiến trong việc giải quyết những công việc của xã hội


là xuất phát từ nhu cầu đòi hỏi của xã hội phong kiến, từ mong muốn và nguyện vọng của nhân dân và
cả từ ý chí chủ quan, lịng tết của những người cầm quyền. Trong xã hội phong kiến, khi mà mọi quyền
lực đều thuộc về các vua chúa phong kiến thì nền chính trị tết hay xấu trong nhiều trường hợp phụ thuộc

vào nhân cách, phẩm hạnh của vua, chúa và tầng lớp quan lại trong nước. Việc đưa đất nước đến thịnh
vượng hay suy vong, nhân dân ấm no hay đói khổ lầm than trong nhiều trường hợp phụ thuộc rất nhiều
vào vai trò, sự sáng suốt, nhân từ hay ngu muội, bạo ngược của vua chúa trong đất nước. Tuy nhiên, sự
quan tâm tới các hoạt động xã hội của Nhà nước phong kiến chưa nhiều, chưa đúng với vị trí vai trị của
nó trong xã hội.
2. Bản chất: Bản chất của Nhà nước phong kiến thể hiện ở các chức năng của nó. Các chức năng của
Nhà nước phong kiến bao gồm:
- Các chức năng đối nội
(i) Chức năng bảo vệ chế độ sở hữu của địa chủ phong kiến, duy trì các hình thức bóc lột phong kiến đối
với nơng dân và các tầng lớp lao động khác.
Dưới chế độ phong kiến, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu bởi vì sản xuất nơng nghiệp chí phối gần như
tồn bộ nền sản xuất của xã hội. Đất đai chủ yếu nằm trong tay vua chúa phong kiến cũng như các địa
chủ lớn nhỏ. Người nơng dân hầu như khơng có ruộng đất và nếu có thì cũng rất ít và khó có thể giữ
được. Do chế độ sưu cao, thuế nặng, họ phải cầm cố hoặc bán đất cho địa chủ. Ở các nước phương
Đông, vua được coi là chủ sở hữu tối cao đối với đất đai và là chủ sở hữu khơng hạn chế đối với các tài
sản khác. Chính vì vậy, Nhà nước phong kiến rất quan tâm tới việc bảo vệ và phát triển sở hữu phong
kiến, đặc biệt là đất đai. Nhà nước phong kiến bằng pháp luật, bằng các biện pháp kinh tế và bằng cả
bạo lực, khơng loại trừ một biện pháp, hình thức nào mà không sử dụng để bảo vệ và phát triển sở hữu
phong kiến. Mọi hành vi xâm hại tới sở hữu phong kiến đều bị Nhà nước phong kiến, cùng địa chủ phong
kiến trừng phạt rất khắc nghiệt. Bằng việc bảo vệ các hình thức sở hữu phong kiến, Nhà nước phong
kiến đã củng cố, duy trì các hình thức bóc lột tàn nhẫn của địa chủ phong kiến đối với nông dân và
những người lao động khác. Bằng các chính sách về sưu thuế Nhà nước phong kiến cịn trực tiếp tham
gia vào việc bóc lột một cách khơng thương xót đối với nơng dân. Sự bóc lột của địa chủ phong kiến, quý
tộc đối với nông dân càng ngày càng tinh vi, thâm hiểm hơn. Ngồi ra, nơng dân còn phải nộp nhiều
khoản khác nhau cho nhà thờ, cho tầng lớp tăng lữ có thể nói hầu hết các đẳng cấp quan lại trong xã hội
phong kiến đều sống bằng cách bòn rút của cải và sức lực của người nông dân.
(ii) Chức năng trấn áp nông dân và những người lao động khác
Do sự áp bức bóc lột nặng nề của địa chủ phong kiến, nông dân cùng những người lao động khác luôn
luôn phản kháng chống lại. Nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân đã nổ ra ở khắp nơi trong quá trình tồn
tại của các Nhà nước phong kiến. Tuy nhiên, do tình trạng phân tán, địa phương chủ nghĩa đã lam cho

những người nông dân hết sức khó khăn trong việc liên kết với nhau để chống lại giai cấp địa chủ, chống
lại Nhà nước phong kiến. Thói quen chịu đựng của nơng dân từ thế hệ này qua thế hệ khác cũng làm
cho các cuộc khởi nghĩa của nông dân chủ yếu mang tính chất địa phương (từng vùng, từng địa
phương) chứ ít có cuộc khởi nghĩa nơng dân nào có quy mơ cả nước. Thêm vào đó, “một mình giai cấp
nơng dân khơng có khả năng làm cách mạng, chừng nào họ cịn đứng trước lực lượng có tổ chức của
các vương cơng, q tộc và thành thị thơng nhất và đồn kết với nhau". Chính vì thế, Nhà nước phong
kiến cũng như từng lãnh chúa phong kiến đã sử dụng mọi biện pháp, thủ đoạn có thể để đàn áp quần
chúng nhân dân. Biện pháp phổ biến là bạo lực như dùng qn đội để đàn áp, chém giết khơng thương
xót đối với nơng dân, ngồi ra cịn giam cầm, tra tấn, đánh đập nông dân đến chết. Trong những trường
hợp nổ ra các cuộc khởi nghĩa nơng dân thì Nhà nước phong kiến, các chúa phong kiến luôn chi viện cho
nhau, cùng nhau đàn áp dã man nông dân.
Đi đôi với việc sử dụng bạo lực, Nhà nước phong kiến cịn sử dụng tơn giáo, kết hợp chặt chẽ với các tổ
chức tôn giáo để khống chế, đàn áp nông dân về tinh thần. Hình thức phổ biến là ngu dân, lừa gạt nông
dân, tuyên truyền giáo dục hệ tư tưởng phong kiến, thần thánh hoá chế độ phong kiến cũng như quyền
lực, địa vị của giai cấp địa chủ phong kiến.


Các vua chúa phong kiến thường tự cho mình là "thiên tử", là "cái bóng" của trời, là sứ giả của thượng
đế thừa hành thiên mệnh, thay trời trị dân. Trong xã hội phong kiến hầu như các hình thái ý thức xã hội
đều chịu sự khống chế của tôn giáo và thần học. Ơ nhiều nước phong kiến có những tôn giáo được coi
là quốc giáo buộc mọi người dân phải tin, phải theo. Những người có tư tưởng, quan điểm tiến bộ, khoa
học nhưng trái với quan điểm tơn giáo và lợi ích của giai cấp thống trị thường bị bức hại. Trong số những
người nông dân bị trấn áp thì phụ nữ là lớp người bị trấn áp nhiều nhất, chịu nhiều đè nén áp bức nhất
và thiệt thòi nhất.
(iii) Chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước phong kiến
Cũng như tất cả các nhà nước khác Nhà nước phong kiến phải thực hiện các hoạt động quản lý kinh tếxã hội duy trì sự ổn định và tạo điều kiện cho xã hội phát triển. Trong nhưng chừng mực nhất định, Nhà
nước phong kiến đã tham gia vào các hoạt động như xây dựng và bảo vệ đê điều, làm thủy lợi, khai
hoang, di dân tới những vùng đất mới, đấu tranh chống bệnh tật, nghèo đói, diệt trừ trộm cướp ... tạo
điều kiện để nhân dân yên ổn làm ăn. Các Nhà nước phong kiến thường tìm nhiều cách phát triển đất
nước, chăm lo bảo vệ lài sản của dân, khuyến khích nhân dân tích cực tăng gia sản xuất, đặc biệt là sản

xuất nông nghiệp. Một số nhà nước phong kiến đã có những chính sách đất đai, tài chính … có tác dụng
thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước vì lợi ích của tồn xã hội. Tuy nhiên, có thể thấy rằng sự
quan tâm của Nhà nước phong kiến đến các hoạt động kinh tế - xã hội trong nhiều trường hợp phụ thuộc
vào ý chí chủ quan của những người cầm quyền.

-

Các chức năng đối ngoại

(i) Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược xâm chiếm lãnh thổ mới, mở rộng quyền lực và làm giàu
bằng tài nguyên, của cải của các dân tộc khác
Trong xã hội phong kiến, chiến tranh là biện pháp để giải quyết mâu thuẫn, là phương tiện để làm giàu và
mở rộng quyền lực. Nhà nước phong kiến có thể tham gia vào bất kì một cuộc chiến tranh nào dù là
chính nghĩa cũng như khơng chính nghĩa, miễn là có lợi cho lợi ích của giai cấp địa chủ phong kiến nắm
quyền, thậm chí chỉ có lợi cho cá nhân nhà vua. Trong thời kỳ cát cứ, mỗi chúa phong kiến đều có thể
gây chiến và tiến hành chiến tranh với các chúa phong kiến khác.
Các cuộc chiến tranh thời kỳ phong kiến thường kéo dài liên miên và có tính chất hủy diệt (giết sạch, đốt
sạch) gây thiệt hại rất lớn về người và của cho nhân dân trong nước cũng như nhân dân các dân tộc
khác.
(ii) Chức năng phòng thủ đất nước và bang giao với các nước khác
Đi đôi với việc tiến hành chiến tranh xâm lược, các Nhà nước phong kiến trong phạm vi khu vực cũng
như quốc tế ln ln tìm mọi biện pháp tiến hành các hoạt động bảo vệ lãnh thổ của mình trước nguy
cơ xâm lấn của nước ngoài. Nhiều Nhà nước phong kiến cịn thực hiện chính sách bang giao hợp tác,
phát triển kinh tế, thương mại với các nước khác vì sự hưng thịnh của quốc gia.

3. Các hình thức nhà nước phong kiến
Về hình thức chính thể của Nhà nước phong kiến phổ biến là chính thể quân chủ. Đứng đầu đất nước,
thâu tóm quyền hành tối cao trong tay là vua đầy uy lực và thiêng liêng. Quyền lực nhà nước trong tay
vua thường được truyền từ đời này sang đời khác. Đôi khi, ở một số thành phố của quốc gia phong kiến
có thể bắt gặp chính thể cộng hịa phong kiến.

Hình thức cấu trúc nhà nước của Nhà nước phong kiến chủ yếu là cấu trúc đơn nhất, có thể là đơn nhất
tập trung (Nhà nước phong kiến thường xâm chiếm rồi sát nhập các nước khác vào lãnh thổ của mình


chứ không chấp nhận cấu trúc liên bang) hoặc đơn nhất chia lẻ. Hãn hữu mới gặp cấu trúc liên bang
phong kiến (như Cộng hịa liên bang Gugenơtốp ở phía Nam nước Pháp thế kỷ XVI).
Về chế độ chính trị của các Nhà nước phong kiến, biện pháp chủ yếu để thực hiện quyền lực nhà nước
là lừa dối và bạo lực. Nhà nước phong kiến công khai và hợp pháp hóa việc sử dụng bạo lực để quản lý
nhà nước.
Trong quá trình phát triển của chế độ phong kiến, hình thức của Nhà nước phong kiến có nhiều biến
dạng khác nhau. Ơ các nước Châu Âu thường diễn ra hai thời kỳ phát triển của chế độ phong kiến là
thời kỳ phân quyền cát cứ và thời kỳ trung ương tập quyền.
(i)Nhà nước phong kiến thời kỳ phân quyền cát cứ
Nhà nước quân chủ thời kỳ phân quyền cát cứ là những Nhà nước xuất hiện ở giai đoạn đầu của chế độ
phong kiến.
Giai đoạn này, chính quyền trung ương còn yếu, trong đất nước tồn tại nhiều lãnh chúa phong kiến lớn
nhỏ khác nhau. Mỗi lãnh chúa thường chiếm cứ một vùng lãnh thổ, thiết lập và thực hiện quyền lực riêng
của mình trên vùng lãnh thổ đó gần như một Nhà nước của riêng mình. Về nguyên tắc, các chúa đất phải
phục tùng quyền lực của vua (hoàng đế), phải làm nghĩa vụ với vua, phải nộp thuế, cống nạp, phối hợp
lực lượng với vua để đàn áp nông dân và tiến hành chiến tranh chống các nước khác ... Nhưng các chúa
phong kiến lớn thường bành trướng, tăng cường quyền lực của mình bằng cách tự đặt ra luật lệ riêng,
thu thuế riêng, thành lập các lực lượng vũ trang riêng ... để khống chế sự lớn mạnh của chính quyền
trung ương, khơng chịu thần phục chính quyền trung ương. Do vậy, chính quyền của vua (trung ương)
thời kỳ này chỉ mang tính hình thức, cịn quyền lực thực sự nằm trong tay các lãnh chúa.
Ngoài việc chèn ép chính quyền trung ương, các chúa đất còn chèn ép lẫn nhau. Các chúa đất lớn
thường bắt các chúa đất nhỏ thần phục, chịu sự chi phối của mình. Sự thần phục của các chúa đất
thường mang tính cá nhân. Các địa chủ nhỏ, yếu thế bị chèn ép, sợ bị xâm lược, sợ nông dân nổi dậy ...
thường phải cầu cạnh sự che chở của các địa chủ lớn hơn và tơn sùng người đó làm chúa của mình. Địa
chủ nhỏ được chúa che chở nhưng phải thừa nhận cho chúa có quyền siêu việt trên đất đai của mình.
(ii) Nhà nước phong kiến thời kỳ trung ương tập quyền

Do sự phát triển của xã hội phong kiến, đặc biệt là sự phát triển kinh tế sản xuất hàng hóa, sự lớn mạnh
của các đơ thị làm cho nhu cầu về sản xuất và trao đổi hàng hóa tăng nhanh. Điều này địi hỏi phải có sự
thống nhất trong đất nước, xóa bỏ tình trạng cát cứ, phân tán, tình trạng thuế quan nặng nề và phức tạp
từ lãnh địa này sang lãnh địa khác, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển.
Để tránh sự chèn ép của các chúa đất lớn, các tầng lớp thị dân, các chúa đất vừa và nhỏ cũng ủng hộ
việc tập trung quyền lực mạnh vào tay vua để được vua che chở, bảo vệ. Bản thân vua để có thể đấu
tranh chống lại các chúa đất phong kiến lớn buộc phải dựa vào nhà thờ, các chúa đất vừa và nhỏ cùng
tầng lớp thị dân để củng cố chính quyền của mình. Thêm vào đó là nhu cầu đấu tranh chống giặc ngoại
xâm, chống các cuộc nổi dậy của nơng dân cũng địi hỏi phải có một chính quyền trung ương hùng mạnh
đủ khả năng để giải quyết những cơng việc nói trên. Tất cả những ngun nhân đó đã dẫn đến chính
quyền của vua ngày càng được củng cố, số lượng quân đội của vua ngày càng đông và được trang bị
hiện đại hơn. Quyền lực từng bước tập trung vào tay vua hình thành nên Nhà nước phong kiến trung
ương tập quyền.
Giai đoạn đầu của thời kỳ trung ương tập quyền xuất hiện hình thức nhà nước phong kiến quân chủ đại
diện đẳng cấp. Nắm giữ quyền lực tối cao trong đất nước là vua và một cơ quan đại diện cho đẳng cấp
ủng hộ vua (như Hội nghị quốc dân ở Nga, Hội nghị tam cấp ở Pháp hay Nghị viện ở Anh ...). Cơ quan
đại diện đẳng cấp bao gồm đại biểu của giới quý tộc, tăng lữ, sư sãi và thị dân.
Cơ quan đại diện đẳng cấp chủ yếu góp ý với vua về các vấn đề chiến tranh, hồ bình, ấn định các loại
thuế ... Khi đã củng cố và tăng cương được quyền lực khá mạnh, vua thường coi nhẹ, xem thường vai
trò của các cơ quan đại diện đẳng cấp.


Vào giai đoạn cuối của chế độ phong kiến, vua dựa vào sức mạnh của quân đội thường trực từng bước
thâu tóm quyền lực nhà nước trong tay mình, thiết lập nên Nhà nước phong kiến quân chủ tuyệt đối
(chuyên chế). Vua trực tiếp ban hành pháp luật, bổ nhiệm quan lại, thu chi ngân sách nhà nước, quyết
định mọi vấn đề quan trọng của đất nước. Triều đình trở thành trung tâm sinh hoạt chính trị của cả nước.
Nếu như ở giai đoạn đầu, sự hình thành Nhà nước phong kiến trung ương tập quyền có tác dụng tích
cực, nó thúc đẩy sự phát triển của đất nước về kinh tế, chính trị, qn sự ... thì giai đoạn sau đó mà đặc
biệt là giai đoạn xuất hiện Nhà nước phong kiến quân chủ chuyên chế đã cản trở sự phát triển của
phương thức sản xuất tiến bộ hơn - phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vua trở thành kẻ thi hành

chính sách của các tập đồn quý tộc phong kiến phản động cản trở sự phát triển của tầng lớp thị dân tiền thân của giai cấp tư sản.
(iii) Cộng hòa phong kiến
Với sự phát triển thủ công nghiệp và thương nghiệp, các thành phố trong xã hội phong kiến ngày càng
lớn mạnh cả về quy mô và tiềm lực. Phần lớn các thành phố phong kiến đều lệ thuộc vào các lãnh chúa
phong kiến hoặc lệ thuộc trực tiếp vào vua. Cũng có trường hợp các thành phố đó vừa lệ thuộc vào vua
và lại vừa phụ thuộc vào giáo chủ. Với sự phát triển của mình các thành phố trong nhà nước phong kiến
đã từng bước đấu tranh với vua chúa phong kiến đòi quyền tự quyết trong một số vấn đề nhất định như
được bầu ra những cơ quan đại diện của mình để quản lý thành phố, được thành tập lực lượng vũ trang
để canh phòng, tổ chức tòa án riêng, thậm chí có thể có đồng tiền riêng và có thể được phép thu một số
loại thuế ... Quá trình phát triển đó của các thành phố trong xã hội phong kiến đã từng bước hình thành ở
đây mơ hình chính thề cộng hoà phong kiến tự trị trong các nhà nước phong kiến.
Các thành thì này tuy có một vài chế đính của chính thể cộng hịa (bầu cử cơ quan tự trị, cơng dân bình
đẳng ...) nhưng về thực chất vẫn thuộc chế độ phong kiến vì vẫn là một bộ phận của lãnh địa, lãnh thổ
phong kiến. Tuy nhiên, ở nhiều thành phố, công thương nghiệp đã phát triển mạnh mẽ tạo điều kiện cho
sự hình thành và phát triển quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong lòng xã hội phong kiến.

4. Bộ máy nhà nước phong kiến
Nhà nước phong kiến với chính thể quân chủ là phổ biến nên bộ máy nhà nước phong kiến ln mang
nặng tính qn sự tập trung quan liêu gắn liền với chế độ đẳng cấp của xã hội phong kiến.
Trong bộ máy nhà nước phong kiến, ở trung ương có triều đình. Đứng đầu triều đình là vua (quốc
vương) thâu tóm gần như tồn bộ quyền lực nhà nước. Vua được coi là người thay trời trị dân. Quyền
lực của vua đơi khi cịn cao hơn cả quyền lực của giai cấp phong kiến thống trị mà vua là người đại diện.
Vua là người ban hành pháp luật, người tổ chức thi hành pháp luật đồng thời là người xét xử tối cao. Các
quan lại đều do vua bổ nhiệm, cắt cử. Triều đình được tổ chức để giúp vua cai quản đất nước. Tất cả các
cơ quan nhà nước đều phải báo cáo và phải chịu trách nhiệm trước vua. Bộ máy chính quyền ở địa
phương cũng do vua bổ nhiệm và chịu trách nhiệm trước vua.
Trong thời kỳ phân quyền cát cứ, mỗi lãnh địa các lãnh chúa đều tổ chức cho mình một bộ máy riêng
gồm lực lượng vũ trang riêng, những cơ quan giúp việc lãnh chúa quản lý các công việc trong lãnh địa.
Nhà nước phong kiến nhiều khi được xem là của nhà vua nên trong bộ máy nhà nước phong kiến nhiều
khi khơng có sự phân định rành mạch giữa cơng việc nhà nước (phục vụ đất nước) với công việc riêng

của vua (phục vụ cá nhân nhà vua).


Stress là trạng thái của cơ thể khi
phản
ứng để đối phó với những hồn
cảnh/điều kiện mới
; là hậu quả của sự
kiện, tác động không mong muốn hoặc
sự đe doạ từ mơi trường bên ngồi.
Stress là
kiểu đáp ứng của cá nhân
, được tạo
ra khi có những
sự kiện kích thích
(yếu tố bên
trong hoặc bên ngoài) làm đảo lộn thế cân bằng
sinh thể. Những đáp ứng cá nhân chính là
tổ
hợp những phản ứng đa dạng
về sinh lí, cảm
xúc, nhận thức và ứng xử.
Nói cách khác, làm những gì bạn thích miễn là nó giúp thư giãn bạn và thoải mái, và
khiến tâm trí bạn bận rộn hơn để không suy nghĩ tiêu cực. Ví dụ như: đi bộ, vẽ, tập
thể thao,… sẽ có hiệu quả hơn với một số người
Như vậy để tránh tình trạng kiệt sức bạn cần phải biết lắng nghe cơ thể của bạn
và mong muốn của chính bạn. Mỗi người là khác nhau và mỗi tình huống cũng
vậy, khơng ai hiểu bạn tốt hơn bạn.

2) Sự áp dụng ngun tắc phân chia quyền lực nhà nước trong tổ chức và 

hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản 
a) Lý do phải áp dụng tư tưởng phân quyền 
Thứ nhất, cùng với sự phát triển của xã hội thì các lĩnh vực quản lý của nhà 
nước ngày càng mở rộng dẫn đến tình trạng cơng việc nhiều, nặng nề, đa dạng 
và phức tạp. Một cá nhân hay một cơ quan khơng thể thực hiện được cho nên 
phải phân chia hay phân cơng cho nhiều cơ quan cùng thực hiện. Thêm vào đó, 
sự địi hỏi của xã hội đối với nhà nước ngày càng cao cho nên cách thức tổ chức 
phải khoa học hơn. Phân chia quyền lực chính là một cách tổ chức nhà nước 
khoa học vì nó làm cho hoạt động của các cơ quan nhà nước khơng trùng lặp, 
chồng chéo hoặc loại trừ nhau. 


Thứ hai, các cơng việc của nhà nước là cần thiết cho xã hội nhưng lại do 
con người đảm nhiệm mà con người thường có xu hướng lạm quyền, vụ lợi hoặc 
làm sai khi có điều kiện vì thế cần có cơ chế kiềm chế, kiểm sốt họ. 
Như vậy phân quyền là một kĩ thuật tất yếu của việc tổ chức một nhà nước 
dân chủ tư sản. 
b) Sự thể hiện và áp dụng tư tưởng phân quyền trong thực tế phụ thuộc vào 
nhiều yếu tố 
Sự thể hiện và áp dụng ngun tắc phân chia quyền lực trong thực tế có 
sự biến dạng rất lớn tuỳ theo từng nhà nước và phụ thuộc vào nhiều yếu tố. 
Thứ nhất là hình thức chính thể của nhà nước, sự áp dụng tư tưởng phân 
quyền ở nhà nước Cộng hồ Tổng thống khác với Cộng hồ đại nghị hay Cộng 
hồ hỗn hợp. Cho nên có thể coi các biểu hiện của sự phân quyền là một trong 
những tiêu chí phân biệt các hình thức chính thể nhà nước. 
Thứ hai là hình thức cấu trúc nhà nước, nhà nước Liên bang khác với nhà 
nước đơn nhất. Ta khơng chỉ chú ý sự phân quyền giữa các cơ quan trung ương 
của chính quyền Liên bang mà cả giữa chính quyền Liên bang với chính quyền 
bang. 
Thứ ba là chế độ chính trị, tư tưởng phân quyền chỉ được thể hiện và áp 

dụng trong chế độ dân chủ chứ khơng áp dụng trong chế độ độc tài, chun chế. 
Cuối cùng ngun tắc phân quyền có thể phụ thuộc vào truyền thống dân 
tộc, lịch sử tồn tại cũng như tình hình chính trị thực tế của mỗi nước. 
c) Mức độ áp dụng ngun tắc phân chia quyền lực 
Học thuyết phân chia quyền lực đang ngày có ảnh hưởng sâu rộng và 
hiện nay được áp dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia trên thế giới theo hai hướng là 
“rắn” và “mềm” hay nói cách khác là phân chia quyền lực một cách “rạch rịi” 
hay “mềm dẻo”. Tuỳ vào thực tế của mỗi quốc gia mà mức độ áp dụng ngun 
tắc này có sự khác biệt. Có thể là cứng rắn trong chính thể cộng hồ tổng thống 
(chính phủ phải chịu trách nhiệm trước nhân dân, như: Hoa Kỳ, Philipines,...) 
hay mềm dẻo trong chính thể đại nghị (chính phủ phải chịu trách nhiệm trước 
quốc hội, như: Anh, Nhật,...) hoặc trung gian giữa hai mức độ ấy trong chính thể 
cộng hồ hỗn hợp (chính phủ vừa phải chịu trách nhiệm trước nhân dân vừa phải 
chịu trách nhiệm trước quốc hội, như ở các nước Pháp, Nga,...) 
Nhà nước tiêu biểu cho việc áp dụng ngun tắc phân chia quyền lực rạch 
rịi đó là Hoa Kỳ. Ta sẽ phân tích sự áp dụng ngun tắc phân chia quyền lực 
cứng rắn trong chính thể cộng hồ tổng thống thơng qua Hoa Kỳ.Hiến pháp Hoa 
Kỳ quy định tất cả các quyền lập pháp đều thuộc về quốc hội bao gồm thượng 
viện và hạ viện. Việc thiết lập 2 viện với cơ chế kiềm chế nhau giữa chúng sẽ 
làm giảm bớt ưu thế của cơ quan lập pháp để nó cân bằng với bộ máy hành pháp. 
Một đạo luật chỉ được coi là thơng qua nếu có đủ số phiếu thuận của cả 2 viện, 
và sau khi được thơng qua, các dự luật ấy đều được trình được lên tổng thống. 
Nếu tổng thống ký phê chuẩn thì dự luật sẽ trở thành luật cịn nếu khơng phê 
chuẩn thì sẽ gửi trả lại viện đã khởi xướng để xem lại, nếu được thơng qua, dự 
luật sẽ được chuẩn sang viện kia xem xét. Tổng thống cũng đảm nhiệm một 
chức năng tuyệt đối là có quyền hành pháp, tổng thống vừa đứng đầu nhà nước 
vừa đứng đầu bộ máy hành pháp, vừa thực hiện chức năng của ngun thủ quốc 
gia, vừa thực hiện chức năng của thủ tướng chính phủ, lại gần như độc lập với 
Quốc hội. Tổng thống do nhân dân bầu ra và khơng phụ thuộc vào bầu cử Quốc 
hội. Tổng thống có quyền thành lập chính phủ và chính phủ chỉ chịu trách nhiệm 

trước Tổng thống chứ khơng chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Tổng thống 
khơng có quyền giải tán Quốc hội và Quốc hội cũng khơng có quyền bỏ phiếu 
bất tín nhiệm Tổng thống. Tổng thống Hoa Kỳ thực hiện mọi nhiệm vụ quyền 
hành một cách độc lập, Tổng thống cũng độc lập với các thành viên khác của 
chính phủ nhờ quyền hồn tồn quyết định các chính sách của chính phủ khơng 
cần qua nội các. Tóm lại, Tổng thống hồn tồn nắm quyền điều hành và quản lý 


mọi lĩnh vực của đất nước. Trong lĩnh vực tư pháp, Tồ án là chủ thể nắm 
quyền. Tồ án độc lập với chính quyền lập pháp và hành pháp, hơn thế nữa cịn 
độc lập với dân chúng. Vì nó khơng được nhân dân bầu và khơng phải chịu trách 
nhiệm gì trước nhân dân. Thẩm phán được hình thành bằng con đường bổ nhiệm 
và sau khi được bổ nhiệm, thẩm phán sẽ giữ chức vụ suốt đời nếu vẫn giữ đức 
hạnh xứng đáng. Các nhánh quyền lực ở nhà nước Hoa Kỳ ln kiềm chế và đối 
trọng lẫn nhau thể hiện ở những ràng buộc nhất định giữa Quốc hội với Tổng 
thống. Quốc hội nếu khơng đồng ý với một quyết sách nào đó của Tổng thống 
thì sẽ khơng thơng qua ngân sách dự tính cho quyết sách đó và như vậy Tổng 
thống sẽ khơng thực hiện được quyết sách của mình. Các nhân vật quan trọng 
trong bộ máy hành pháp và tư pháp do Tổng thống bổ nhiệm nhưng phải được 
Thượng viện phê chuẩn. Nếu lạm dụng quyền lực hoặc vi phạm pháp luật Tổng 
thống có thể bị xét xử theo thủ tục đàn hạch, theo đó Hạ viện sẽ buộc tội, 
Thượng viện sẽ xét xử và Tổng thống cũng có thể bị cách chức trước thời hạn. 
Ngược lại, Tổng thống cũng có thể kiềm chế Quốc hội bằng quyền phủ quyết 
(veto). Do cách thức tổ chức mà giữa ba cơ quan cao nhất của nhà nước Hoa Kỳ 
có sự độc lập với nhau. Bất cứ quyết định nào, nếu theo đúng tinh thần của Hiến 
pháp thì dù là quyết định của ngành hành pháp hay tư pháp cũng phải có hiệu 
lực y như quyết định của ngành lập pháp. Nói chung ở mức độ phân quyền cứng 
rắn của một số nước, sự độc lập với nhau trong hoạt động của các cơ quan được 
đảm bảo bởi sự khơng chung nhân viên giữa chúng. Tuy nhiên, chúng khơng 
hồn tồn tách biệt, cơ lập và khơng phụ thuộc lẫn nhau. 

Nhà nước Anh là nhà nước tiêu biểu cho chính thể đại nghị. Trong chính 
thể qn chủ đại nghị, nghị viện là cơ quan có vai trị tối cao. Chính vì sự tối cao 
này mà mơ hình tổ chức của nhà nước được gọi là chính thể đại nghị. Nghị viện 
có quyền giải quyết mọi vấn đề của nhà nước, hay chí ít thì những vấn đề của 
nhà nước phải được giải quyết dựa trên cơ sở của nghị viện. Nhà vua hay nữ 
hồng bị tước bỏ dần dần mọi quyền năng. Nhà vua hầu như khơng tham gia vào 
giải quyết các cơng việc của nhà nước và được tuyệt đối hố trở thành một nhân 
vật siêu phàm, tượng trưng cho sự độc lập vĩnh hằng của dân tộc. Ở Anh, Hệ 
thống nghị viện tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình thơng qua các dự luật, bởi 
vì nhánh hành pháp trực tiếp hoặc gián tiếp phụ thuộc vào sự ủng hộ của nhánh 
lập pháp, và thường cấu thành bởi các thành viên quốc hội. Hồng đế hay nữ 
hồng bổ nhiệm Thủ tướng nhưng việc bổ nhiệm này chỉ mang tính hình thức vì 
người được bổ nhiệm đã được quyết định là người đứng đầu đảng chiếm đa số 
trong nghị viện (hạ viện). Sau đó thủ tướng tuyển chọn bộ trưởng để lãnh đạo 
các bộ ngành của chính phủ. Nhánh hành pháp (được gọi là chính phủ) chịu 
trách nhiệm với Nghị viện – một nghị quyết bất tín nhiệm được thơng qua bởi 
Nghị viện sẽ có thể buộc chính phủ hoặc phải từ chức hoặc phải giải tán Nghị 
viện và tổ chức tổng tuyển cử. Về lập pháp, Nghị viện là trung tâm của hệ thống 
chính trị tại Liên hiệp Vương quốc Anh, cũng là định chế lập pháp tối cao. 
Chính phủ được Nghị viện thành lập và chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Ở 
Anh tư pháp chủ yếu thuộc về tồ án và một phần thuộc về Nghị viện. Tư pháp 
và hành pháp tương đối độc lập. Lập pháp và hành pháp thì khơng hồn tồn độc 
lập mà có sự cộng tác, đan xen, hồ nhập và chịu trách nhiệm lẫn nhau. Lập 
pháp có thể lật đổ hành pháp và ngược lại, hành pháp có thể giải tán lập pháp 
trước thời hạn và giữa hai cơ quan này có sự chung nhân viên với nhau. Song sự 
phân chia quyền lực, phạm vi quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan trên 
khơng cố định mà có sự thay đổi theo xu hướng chuyển dần quyền lực của cơ 
quan này sang cơ quan kia và ngược lại. Nhìn chung nhà nước chính thể đại nghị 
thể hiện sự phân quyền mềm dẻo ở chỗ hành pháp khơng hồn tồn độc lập mà 
có mối liên hệ mật thiết, thường xun với lập pháp do sự chịu trách nhiệm 

trước lập pháp và sự chung nhân viên giữa hai cơ quan này. Tư pháp cũng khơng 
hồn tồn độc lập trong tổ chức, hành động với lập pháp. Ở chế độ này khơng có 
sự tách biệt hồn tồn mà có sự liên hệ thường xun qua lại giữa lập pháp với 


hành pháp. 
Tiêu biểu cho chính thể cộng hồ hỗn hợp là nhà nước Pháp. Ở Pháp, lập 
pháp thuộc về nghị viện, hành pháp thuộc về tổng thống và chính phủ, cịn 
quyền tư pháp thuộc về hệ thống tịa án. Nghị viện có hai chức năng cơ bản là 
lập pháp và giám sát hoạt động của chính phủ. Quan hệ giữa lập pháp và hành 
pháp mật thiết hơn so với chính thể cộng hịa tổng thống. Cùng với tổng thống 
và chính phủ, hội đồng bảo hiến trở thành thế lực thứ 3 hạn chế quyền lực của 
nghị viện. Hội đồng bảo hiến có chức năng đảm bảo tính hợp pháp của việc bầu 
cử nghị sĩ hai viện khi có sự khiếu nại, vai trị kiềm chế lập pháp của Hội đồng 
bảo hiến phần nào giống với vai trị của tịa án tối cao ở Mỹ và tịa án Hiến pháp 
ở Đức. Quyền hành pháp do chính phủ mà thực chất là tổng thống nắm. Vị trí 
của Tổng thống hiện tại là mơ hình kết hợp giữa vị trí của Tổng thống Mỹ và 
Tổng thống Đức. Tổng thống có quyền hoạch định chính sách quốc gia, chủ tọa 
đồng bộ trưởng để thơng qua chính sách này, có quyền ân xá, bổ nhiệm thủ 
tướng, các đại sứ, các chức vụ dân sự. Quyền tư pháp do hệ thống tịa án nắm, ở 
pháp có hai hệ thống tịa án, tịa án thường và tịa án hành chính, cùng với đó cịn 
có các tịa án đặc biệt như tịa án thương mại, lao động, bảo hiểm xã hội. Kiểm 
sốt hoạt động cơ quan tư pháp là hội đồng thẩm phán tối cao do tổng thống là 
chủ tọa. Nhìn chung ở chính thể Cộng hồ hỗn hợp, sự độc lập của hành pháp 
với lập pháp cao hơn trong chính thể Cộng hồ đại nghị nhờ khơng có sự chung 
nhân viên giữa chúng nhưng lại thấp hơn trong chính thể Cộng hồ Tổng thống 
vì Chính phủ và Quốc hội có mối quan hệ khá chặt chẽ với nhau trong q trình 
làm luật. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và Quốc hội có thể lật đổ 
Chính phủ. Ngược lại, Quốc hội cũng có thể bị giải tán trước thời hạn. 
III. Kết luận 

Ngun tắc phân quyền đặt nền móng cho sự hình thành các thể chế tự do, 
dân chủ, tiến bộ đánh dấu sự chấm dứt chế độ độc tài, chun chế. Điều 16 
“Tun ngơn về các quyền của con người và của cơng dân” năm 1789 của Pháp 
đã viết: “Một xã hội trong đó khơng đảm bảo việc sử dụng các quyền và khơng 
thực hiện sự phân quyền thì khơng có Hiến pháp”. Hay điều 34 Hiến pháp 
Ruanda đã ghi: “Sự phân chia và hợp tác giữa các quyền lập, hành, tư pháp là 
thiêng liêng và được điều chỉnh trong Hiến pháp”. Việc trao quyền lực của nhân 
dân cho các nhánh quyền lực nhà nước khác nhau đã hình thành nên q trình 
phân cơng lao động quyền lực nhằm tạo sự chun mơn hố chức năng, nhiệm 
vụ của mỗi nhánh quyền lực, tăng hiệu quả và tác dụng của chính quyền, khẳng 
định vị trí, vai trị của mỗi ngành trong cơ chế thực thi quyền lực nhà nước. 
Ngồi ra cịn tránh được sự lạm quyền, loại trừ nguy cơ quyền lực tập trung vào 
tay cá nhân hay một cơ quan quyền lực nào đó. 



×