Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

tài liệu tham khảo các vấn đề ôn THI tốt NGHIỆP học phần triết học trung cấp chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.48 KB, 28 trang )

CÁC VẤN ĐỀ ÔN THI TỐT NGHIỆP
HỌC PHẦN TRIẾT HỌC

1. Vai trò của ý thức đối với vật chất?
*Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Ý thức là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ 1 hình thức phản ánh thế giới khách quan của
dạng vật chất đặc biệt có tổ chức cao nhất là não người, là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan. Ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội. Ý thức của con người là
sản phẩm của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử xã hội.


- Nguồn gốc tự nhiên: Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định ý thức là một thuộc
tính của vật chất nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính của một
dạng sống có tổ chức cao là bộ óc người.
Con người là sản phẩm của q trình tiến hóa lâu dài của thế giới vật chất, từ vô cơ đến
hữu cơ, từ đơn bào đến đa bào, từ động vật bậc thấp đến bậc cao. Nên chỉ có bộ óc người
là sản phẩm phát triển cao nhất của vật chất có cấu tạo rất tinh vi, là cơ quan vật chấtvật
chất của ý thức. Hoạt động của ý thức chỉ diễn ra trong bộ não người, trên cơ sở hoạt động
sinh lý thần kinh của bộ não người.
Ý thức là chức năng của bộ óc người, là thuộc tính của bộ não, là sự phản ánh thế giới
khách quan vào bộ não người. Phản ánh là thuộc tính kháchquan vốn có của mọi dạng vật
chất vật chất. Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của 1 hệ thống vật chất này ở hệ thống
vật chất khác trong quá trình tác động qua lại của chúng. Thuộc tính phản ánh của vật chất
có q trình phát triển lâu dài từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
Là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, ý thức chỉ nảy sinh ở giai
đoạn phát triển cao của thế giới vật chất, cùng với sự xuất hiện của con người.. ý thức là ý
thức của con người, nằm trong con người, không thể tách rời con người
Ý thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính phản ánh của vật chất, nội
dung của nó là thơng tin về thế giới bên ngoài, về vật được phản ánh. ý thức là sự phản ánh
thế giới bên ngoài vào trong bộ óc người. Bộ óc người là cơ quan phản ánh, song chỉ riêng
bộ óc người thơi thì chưa thể có ý thức. Khơng có sự tác động của thế giới bên ngoài lên


các giác quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt động ý thức khơng thể xảy ra.
Như vậy, bộ óc người cùng với thế giới bên ngồi tác động lên bộ óc - đó là nguồn gốc
tự nhiên của ý thức.
- Nguồn gốc xã hội: Để ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là rất quan
trọng, không thể thiếu được, song chưa đủ. Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức
là những tiền đề, nguồn gốc xã hội.
+ Sự ra đời của bộ não người cũng như sự hình thành con người và xã hội lồi người
nhờ hoạt động lao động và giao tiếp xã hội bằng ngôn ngũ. Lao động và ngôn ngữ là
nguồn gốc xã hội của ý thức.


Lao động:là hoạt động đặc thù của con người, nhờ lao động mà năng lực phản ánh của
bộ óc người ngày càng phát triển.
. Loài vật tồn tại nhờ vào những vật phẩm có sẵn trong tự nhiên dưới dạng trực tiếp.
Cịn lồi người thì khác hẳn. Những vật phẩm cần thiết cho sự sống thường khơng có sẵn
trong tự nhiên. Con người phải tạo ra những vật phẩm ấy. Chính trong q trình lao động
đã từng bước hồn thiện con người, làm biến đổi con người và làm cho con người ngày
càng nhận thức sâu sắc hơn về thế giới.
. Thông qua lao động làm cho thế giới khách quan bộc lộ bản chất quy luật để con
người nhận thức ngày càng phát triển và hoàn thiện, khả năng tư duy trừu tượng ngày càng
cao. Hoạt động lao động đã đưa lại cho bộ não người năng lực phản ánh sáng tạo về thế
giới.
. Quá trình lao động sản xuất, con người hình thành nhu cầu quan hệ, trao đổi kinh
nghiệm, giao tiếp. Do đó, lao động cịn là cơ sở hình thành và phát triển ngơn ngữ.
Ngơn ngữ:(tiếng nói và chữ viết) là cái “vỏ vật chất” của tư duy, là phương tiện để
con người giao tiếp trong xã hội, là phương tiện để giao lưu tri thức từ thế hệ này sang thế
hệ khác, giúp loài người và mỗi người nhanh chóng hình thành phát triển ý thức.
+ Lao động và ngơn ngữ là hai sức kích thích chủ yếu để biến bộ não của vượn thành
bộ não con người, biến phản ánh tâm lý động vật thành phản ánh ý thức.
Mối quan hệ vật chất – Ý thức: Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định:

Vật chất và ý thức là hai phạm trù chung nhất, khái quát nhất có mối quan hệ biện
chứng tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất
quyết định ý thức, song ý thức có vai trị tác động trở lại to lớn đối với vật chất.
* Vai trò của ý thức đối với vật chất:
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua
hoạt động thực tiễn của con người.
Một là, do có tính độc lập tương đối so với vật chất nên ý thức có thể phản ánh,
thay đổi nhanh hơn hoặc chậm hơn so với sự thay đổi của vật chất.


Hai là, ý thức tự nó khơng có vai trị gì với vật chất, nhưng thơng qua hoạt động
thực tiễn của con người, ý thức có thể góp phần làm biến đổi điều kiện, hoàn cảnh vật
chất, “sáng tạo ra thiên nhiên thứ hai”. Một trong những nguyên nhân là do bản chất
của ý thức là năng động, sáng tạo. Chính bản chất năng động, sáng tạo làm cho ý thức
có thể giúp con người phản ánh đúng bản chất hiện thực, khám phá, cải tạo được hiện
thực phục vụ cho mình.
Ba là, ý thức chỉ đạo hoạt động, hành động của con người bằng cách hình thành
nên mục tiêu, kế hoạch, biện pháp, phương thức hoạt động thực tiễn đúng, sai, thành
công, thất bại.
Bốn là, xã hội càng phát triển, vai trò sáng tạo của ý thức ngày càng lớn. Đặc
biệt, trong nền kinh tế tri thức. Tuy nhiên, mọi ý thức đều bị giới hạn bởi điều kiện
vật chất, hồn cảnh vật chất, nguồn lực vật chất… Nói khác đi, xét đến cùng ý thức
vẫn do vật chất quyết định.
Năm là, ý thức tác động trở lại vật chất theo hai chiều hướng cơ bản: tích cực
hoặc tiêu cực. Xu hướng tác động, phạm vi, mức độ tác động của ý thức đối với vật
chất phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, chẳng hạn như tính khoa học hay khơng khoa
học của bản thân ý thức; trình độ nhận thức của con người; khả năng vận dụng ý
thức của các chủ thể vào hoạt động thực tiễn,v.v..
Tóm lại:, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thể
quyết định hành động của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng hay sai,

thành công hay thất bại, hiệu quả hay không hiệu quả.
Ý nghĩa phương pháp luận.
* Tôn trọng khách quan, đồng thời phát huy tính năng động chủ quan của
con người trong nhận thức và cải tạo thế giới.
- Tôn trọng khách quan là căn cứ vào điều kiện khách quan, quy luật khách
quan lấy khách quan làm cơ sở phương tiện cho hoạt động của mình.
+ Nguyên tắc khách quan trong xem xét: nghĩa là trong nhận thức và hành


động phải bảo đảm tính khách quan xem xét sự vật như nó có, khơng thêm bớt, gán
ghép chủ quan; trong hoạt động thực tiễn phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và
hoạt động theo qui luật khách quan.
+ Đối với sự phát triển kinh tế xã hội tại địa phương thành phố Hải phòng
hiện nay, Nguyên tắc này yêu cầu: chống thái độ chủ quan, duy ý chí, đi từ nguyện
vọng chủ quan, lấy ý chí làm cơ sở cho chủ trương chính sách, áp đặt cho thực tế. Phát
huy tính năng động chủ quan là phải biết nhận thức và vận dụng quy luật khách quan
1 cách đúng đắn, sáng tạo không rập khuôn, giáo điều, cứng nhắc.
+ Phát huy tính tích cực của ý thức là làm cho ý thức phản ánh đúng hiện thực
khách quan từ đó làm con người hình thành mục đích phương hướng, biện pháp và ý
chí cần thiết cho hoạt động thực tiễn của mình.
+ Trong hoạt động thực tiễn phải nâng cao trình độ tri thức khoa học cho nhân
dân cán bộ cần tri thức hóa, đồng thời củng cố, bồi dưỡng nhiệt tình cách mạng, ý chí
cách mạng cho nhân dân, cán bộ, chiến sỹ… bảo đảm sự thống nhất giữa nhiệt tình
cách mạng, ý chí cách mạng và tri thức khoa học.
- Chống chủ quan duy ý chí lấy mong muốn chủ quan ý chí con người làm cơ
sở bất chấp điều kiện khách quan, quy luật khách quan.
+ Nguồn gốc bệnh chủ quan duy ý chí từ nhận thức, từ sự yếu kém về tri thức
khoa học, lý luận không đáp đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, về mặt đời sống xã hội
giai cấp tâm lý của người sản xuất nhỏ chi phối, cơ chế quan liêu bao cấp cũng tạo
điều kiện cho ra đời bệnh chủ quan duy ý chí.

+ Tác hại vai trị tuyệt đối hóa vai trị nhân tố chủ quan, duy ý chí, xa rời hiện
thực khách quan bất chấp quy luật khách quan, lấy nhiệt tình cách mạng thay cho sự
yếu kém tri thức khoa học, lối suy nghĩ và hành động giản đơn nóng vội =.> Tác hại
nghiêm trọng đối với CNXH cũng như phát triển kinh tế xã hội của địa phương
+ Để khắc phục chủ quan duy ý chí, phải tiến hành động bộ các biện pháp: đổi
mới tư duy lý luận, nâng cao năng lực trí tuệ trình độ lý luận của Đảng. Trong hoạt
động thực tiễn phải tôn trọng khách quan, phải đổi mới cơ chế quản kinh tế đổi mới


phương thức lãnh đạo và tổ chức của hệ thống chính trị chống bảo thủ, trì trệ, quan
liêu.
Chống tư tưởng thụ động và chủ nghĩa giáo điều xa rời thực tiễn thụ động bất
chấp quy luật KQ xa rời thực tiễn sách vở kinh viện duy tâm duy ý chí.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng?
Khái niệm cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng là tổng hợp những quan hệ sản xuất
hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định. Kết cấu của cơ sở hạ tầng của một
xã hội thong thường được cấu thành bởi quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ, quan
hệ sản xuất thống trị trong xã hội ấy và quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương
lai. Cơ sở hạ tầng là tổng hợp những quan hệ sản xuất đó, trong đó quan hệ sản xuất
thống trị là quan hệ sản xuất chi phối các quan hệ sản xuất khác.
Khái niệm kiến trúc thượng tầng: Kiến trúc thượng tầng là tồn bộ những quan
điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,... cùng với những
thiết chê xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đồn thể xã hội,..
hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
Kiến trúc thượng tầng là những hiện tượng xã hội, biểu hiện tập trung đời sống
tinh thần của xã hội, là bộ mặt tinh thần tư tưởng của hình thái kinh tế -xã hội. Nó
đóng vai trị quan trọng cùng các bộ phận khác trong xã hội hợp thành cơ cấu hồn
chỉnh của hình thái kinh tế-xã hội.
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt thống nhất biện chứng trong

một hình thái kinh tế - xã hội. Trong sự tác động biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng thì cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng:
Mỗi hình thái kinh tế xã hội có cơ sở hạ tầng, và kiến trúc thượng tầng của nó.
Do đó, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mang tính lịch sử cụ thể, giữa chúng có


mối quan hệ biện chứng với nhau, và cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định đối với kiến
trúc thượng tầng. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng thể hiện trước hết là ở chỗ:
- Cơ sở hạ tầng là những quan hệ vật chất khách quan của xã hội quy định mọi
quan hệ khác, kiến trúc thượng tầng là yếu tố chính trị, tinh thần, tư tưởng của xã hội.
Cơ sở hạ tầng nào sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy, nói cách khác cơ sở hạ tầng đã
sinh ra kiến trúc thượng tầng, và kiến trúc thượng tầng bao giờ cũng phản ánh một cơ
sở hạ tầng nhất định, khơng có kiến trúc thượng tầng chung cho mọi xã hội.
- Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng về tính chất, nội dung và kết
cấu: Tính chất của kiến trúc thượng tầng đối kháng hay không đối kháng, nội dung
của kiến trúc thượng tầng nghèo nàn hay đa dạng, phong phú và hình thức của kiến
trúc thượng tầng gọn nhẹ hay phức tạp do cơ sở hạ tầng quyết định.
Thực tiễn đã chứng minh, dưới chế độ Cộng sản nguyên thủy, quan hệ sản xuất
dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chưa có đối kháng về lợi ích kinh tế,
mọi người làm chung ăn chung nên kiến trúc thượng tầng của xã hội đó khơng có nhà
nước, khơng có pháp luật. Các chế độ xã hội khác khi cơ sở hạ tầng có đối kháng về
lợi ích kinh tế thì tất yếu kiến trúc thượng tầng phải có nhà nước, pháp luật để bảo vệ
lợi ích của giai cấp thống trị.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn thể hiện
ở chỗ những biến đổi căn bản trong cơ sở hạ tầng dẫn đến sự biến đổi căn bản trong
kiến trúc thượng tầng. Vì vậy, khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì kiến trúc thượng tầng
sớm muộn cũng thay đổi theo cho phù hợp. Ví dụ: Trong xã hội phong kiến. Những
mầm mống kinh tế tư bản xuất hiện đã dần vỡ thế thống trị của giai cấp vua chúa.
Dần dần, nền kinh tế tư bản chiếm vai trò chủ đạo, tất yếu dẫn đến các cuộc các mạng

tư sản, hình thành nên một chế độ xã hội mới. Chế độ tư bản chủ nghĩa.
Mác khẳng định: “Cơ sở kinh tế thay đổi thì tồn bộ kiến trúc thượng tầng đồ
sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều, nhanh chóng”


Nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng là do sự vận động
và phát triển của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất thay đổi làm cho quan hệ
sản xuất thay đổi, quan hệ sản xuất thay đổi thì cơ sở hạ tầng thay đổi, cơ sở hạ tầng
thay đổi thì kiến trúc thượng tầng cũng căn bản biến đổi theo.
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng:
Trong mối quan hệ với cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng phản ánh cơ sở hạ
tầng biểu hiện tập trung đời sống tinh thần xã hội, do đó có vai trị tác động to lớn trở
lại với cơ sở hạ tầng.
- Là một bộ phận cấu thành hình thành kinh tế xã hội, được sinh ra và phát
triển trên một cơ sở hạ tầng nhất định, cho nên sự tác động tích cực của kiến trúc
thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng được thể hiện ở chức năng xã hội của kiến trúc
thượng tầng là luôn ln bảo vệ duy trì, củng cố và hồn thiện cơ sở hạ tầng sinh ra
nó, đấu tranh xố bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng đã lỗi thời lạc hậu.
- Trong các yếu tố cấu thành nên kiến trúc thượng tầng, Nhà nước giữ vai trò
đặc biệt quan trọng và có tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng vì, nó là một lượng vật
chất tập trung sức mạnh kinh tế và chính trị của giai cấp thống trị . Nhà nước không
chỉ dựa trên hệ tưởng, mà cịn dựa trên những hình thức nhất định của việc kiểm soát
xã hội, sử dụng bạo lực, bao gồm các yếu tố vật chất: quân đội, cảnh sát, toà án, nhà
tù… để tăng cường sức mạnh kinh tế của Nhà nước, củng cố địa vị của quan hệ sản
xuất thống trị.
- Trong một số điều kiện nhất định kiến trúc thượng có thể thay đổi cả trật tự
kinh tế cũ để thiết lập trật tự kinh tế mới, thay đổi cơ sở hạ tầng cũ thiết lập cơ sở hạ
tầng mới. Kiến trúc thượng tầng tìm mọi biện pháp để xoá bỏ những tàn dư của cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ, ngăn chặn những mầm mống tự phát của cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mới nảy sinh trong xã hội ấy. Vì vậy, kiến trúc

thượng tầng thực sự trở thành cơng cụ, phương tiện để duy trì, bảo vệ địa vị thống trị
về kinh tế của giai cấp thống trị của xã hội.


- Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng theo 2 hướng: Nếu kiến
trúc thượng tầng tác động cùng chiều với cơ sở hạ tầng sẽ thúc đẩy cơ sở hạ tầng phát
triển. Nếu kiến trúc thượng tầng tác động ngược chiều với cơ sở hạ tầng sẽ kìm hãm
sự phát triển của cơ sở hạ tầng.
Nên đưa thêm ví dụ vào
3. Vận dụng mới quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng vào thực tiễn Việt Nam hiện nay?
*Ý nghĩa phương pháp luận
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng đến đâu phụ thuộc vào
năng lực chủ quan vận dung quy luật khách quan, vì vậy:
- Trong hoạt động thực tiễn cải tạo và xây dựng kiến trúc thượng tầng phải xuất phát từ
thực trạng và yêu cầu củng cố phát triển cơ sở hạ tầng; chống chủ quan duy ý chí trong việc
thiết lập kiến trúc thượng tầng.
- Mặc dù cơ sở hạ tầng có vai trị quyết định kiến trúc thượng tầng, nhưng cần thấy rõ
vai trò tác động to lớn của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng, do vậy cần chống
quan điểm tuyệt đối hóa cơ sở hạ tầng.
- Đây là cơ sở khoa học cho việc nhận thức đúng đắn đường lối quan điểm của Đảng ta
về đổi mới kinh tế kết hợp với đổi mới chính trị.
*Sự vận dụng của Đảng ta
Sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình đổi mới kinh tế và chính trị hiện nay
Quan hệ giữa kinh tế và chính trị là một nội dung có ý nghĩa quan trọng của
chủ nghĩa duy vật lịch sử, thể hiện sâu sắc thế giới quan duy vật và phương pháp luận
biện chứng trong nhận thức và cải tạo xã hội.
* Kinh tế được hiểu là quan hệ, lợi ích, tình hình, thực trạng, điều kiện, quy
luật… của kinh tế
* Chính trị là hệ thống các quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, các tổ

chức, thiết chế, các quan hệ chính trị… phản ánh quan hệ giữa các giai cấp, dân tộc.


Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Trong xã hội có giai cấp và đối kháng giai
cấp chính trị và kinh tế khơng tách rời nhau.
* Kinh tế và chính trị là hai mặt đối lập, tác động biện chứng lẫn nhau. Trong
đó kinh tế quyết định chính trị, chính trị tác động to lớn trở lại kinh tế.
- Quan hệ giữa kinh tế và chính trị là quan hệ thực chất, cốt lõi của mối quan
hệ giữa CSHT và KTTT trong xã hội có giai cấp. Chính quan hệ này qui định tồn bộ
các quan hệ khác trong xã hội cũng như qui định sự phát triển bên vững của mỗi chế
độ xã hội. Việc giải quyết tốt quan hệ này sẽ góp phần củng cố, bảo vệ và tạo ra động
lực để phát triển xã hội, ngược lại sẽ kìm hãm sự phát triển, thậm chí làm suy yếu,
sụp đổ cả một chế độ.
- Kinh tế quyết định chính trị.
Bản chất chế độ kinh tế nào thì sản sinh ra chế độ chính trị ấy, khi chế độ kinh
tế thay đổi thì chế độ chính trị cũng thay đổi.
Vai trò quyết định của kinh tế cịn diễn ra ngay trong một hình thái kinh tế - xã
hội nhất định, mỗi sự biến đổi của kinh tế sẽ làm thay đổi nhất định về chính trị.
- Chính trị tác động trở lại kinh tế.
+ Chính trị xác định mục tiêu, phương hướng, cơ chế, mơ hình… phát triển
kinh tế của một chế độ kinh tế xã hội nhất định
+ Khi chính trị phản ánh đúng nhu cầu, thực trạng nền kinh tế thì thúc đẩy kinh
tế phát triển, ngược lại thì kìm hãm sự phát triển của kinh tế.
a. Trước đổi mới
- Nhận thức và vận dụng của Đảng ta về con đường đi lên CNXH, đường lối
phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ còn những hạn chế nhất định cả về mặt thế giới
quan và phương pháp luận, đó là sự chủ quan, nóng vội, duy ý chí.
- Có thể nói mơ hình kinh tế tập trung bao cấp đã phát huy được vai trị to lớn
của nó trong những năm chiến tranh, góp phần củng cố, phát triển kinh tế miền Bắc,
chi viện có hiệu quả cho chiến trường miền Nam. Nhưng khi cả nước đi lên CNXH,

mơ hình đó đã bộc lộ những khuyết tật của nó.


b. Trong đổi mới
Nhận thức và vận dụng qui luật về mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và
KTTT vào đổi mới kinh tế và chính trị của Đảng ta ngày càng khoa học hơn. Đại hội
VII chỉ rõ: phải đổi mới tồn diện cả kinh tế và chính trị, trong đó đổi mới kinh tế là
trọng tâm, đồng thời đổi mới từng bước chính trị thận trọng vững chắc bằng những
hình thức bước đi thích hợp.
Đảng ta xác định đổi mới kinh tế và chính trị khơng ngang bằng nhau, nhưng
cũng khơng đề cao tuyệt đối hố một mặt nào
Trước hết và trọng tâm là đổi mới kinh tế thể hiện vai trò quyết định của kinh tế
đối với chính trị, và cùng với đổi mới kinh tế từng bước đổi mới chính trị, đổi mới
chính trị phải làm từng bước, thận trọng. Đổi mới chính trị phải trên cơ sở, nhu cầu đòi
hỏi trực tiếp của đổi mới kinh tế, khơng đổi mới chính trị một cách chủ quan.
Văn kiện Đại hội X chỉ rõ : « Đổi mới trên tất cả các mặt của đời sống xã hội
nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích hợp ; đảm bảo sự gắn
kết chặt chẽ và đồng bộ 3 nhiệm vụ ; phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là
then chốt và phát triển văn hóa- nền tảng tinh thần của xã hội’
Vai trị của kiến trúc thượng tầng trong cơng cuộc đổi mới ; « nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây
dựng và từng bước hồn thiện nền dân chủ XHCN »
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện
tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt đ ộng hi ệu l ực,
hiệu quả, đồng bộ với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội, con ng ười..., đáp ứng yêu
cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, hoàn thi ện Nhà n ước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định h ướng xã h ội ch ủ
nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục hoàn thiện mơ hình t ổ ch ức
của hệ thống chính trị. Tổng kết các mơ hình thí điểm về tổ ch ức bộ máy c ủa
Đảng và hệ thống chính trị, khắc phục sự chồng chéo và nh ững bất h ợp lý trong

tổ chức của Đảng và tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị”


4 Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất?
a. Vị trí quy luật: Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, là quy luật nền tảng, quy luật gốc cho mọi quy luật lịch sử là động
lực phát triển của xã hội. Nó tác động ở mọi quốc gia dân tộc và trong toàn bộ lịch sử nhân
loại.
b. Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
*Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, là năng lực
thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người nhằm đáp ứng nhu cầu của mình. Nghĩa là,
trong quá trình thực hiện sự sản xuất xã hội con người chinh phục tự nhiên bằng sức mạnh
tổng hợp của mình. Lực lượng sản xuất nói lên năng lực thực tế của con người. Lực lượng
sản xuất: Là sự kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất.
- Người lao động: Là người có tri thức lao động, thói quen, kinh nghiệm lao động, kỹ
năng, kỹ xảo lao động. Đây là yếu tố sống của lực lượng sản xuất, yếu tố quan trọng hàng
đầu, quy định tính năng động, cách mạng của lực lượng sản xuất.
Theo Lênin: “Lực lượng SX hàng đầu của tồn thể nhân loại là cơng nhân, là người lao động”.
- Tư liệu sản xuất: Là tất cả những điều kiện cần thiết cho lao động, là mặt tự nhiên, cái
đối lặp với con người, là cầu nối giữa con người với tự nhiên. Là sự thống nhất giữa đối
tượng lao động và tư liệu lao động.
+ Đối tượng lao động: Là bộ phận của giới tự nhiên mà lao động của con người tác
động vào nhằm biến đổi nó theo mục đích của mình để tạo ra sản phẩm. Đối tượng lao động
gồm có hai loại: Loại có sẵn trong tự nhiên (như các loại khống sản trong lịng đất, tơm, cá
ngồi biển, đá ở núi, gỗ trong rừng nguyên thuỷ...); loại đã qua chế biến nghĩa là đã có sự
tác động của lao động trước đó (gọi là nguyên liệu).
+ Tư liệu lao động: Là những phương tiện vật chất mà con người sử dụng trực tiếp
hoạc gián tiến trong quá trình lao động, nhằm biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm
đáp ứng yêu cầu của con người.

Tư liệu lao động gồm có: Cơng cụ lao động là bộ phận trực tiếp tác động vào đối tượng
lao động; Phương tiện lao động là bộ phận phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp cho quá trình


sản xuất như kết cấu hạ tầng (nhà xưởng, kho, băng truyền, đường sá, bến cảng, sân bay,
phương tiện giao thông vận tải, điện nước, bưu điện, TTLL… và các yêu tố phục vụ khác.
Ngày nay, khoa học công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp như Mác đã
từng tiên đốn, nó là một thành tố khơng thể thiếu được trong các yếu tố của lực lượng sản
xuất, nó thâm nhập vào tất cả các yếu tố của lực lượng sản xuất.
*Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế vật chất giữa con người với con người trong quá
trình sản xuất, được biểu hiện trên ba mối quan hệ chủ yếu sau:
- Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất: Là quan hệ giữa người trong việc chiếm hữu, sử
dụng các tư liệu sản xuất xã hội. Đây là một trong những quan hệ quy định địa vị kinh tế xã hội của các tập đoàn người trong sản xuất. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ
xuất phát, cơ bản, trung tâm của quan hệ sản xuất, ln có vai trị quyết định các quan hệ
khác, từ đó quy định quan hệ quản lý và phân phối. Bởi vì lực lượng xã hội nào nắm
phương tiện vật chất chủ yếu của quá trình sản xuất thì sẽ quyết định việc quản lý quá trình
sản xuất và phân phối sản phẩm.
- Quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất: Là quan hệ giữa người trong việc tổ chức sản
xuất và phân cơng lao động. Quan hệ này có vai trị quyết định trực tiếp đến quy mô, tốc độ,
hiệu quả của nền sản xuất; có khả năng đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự phát triển của nền sản
xuất xã hội.Ngày nay, khoa học tổ chức quản lý sản xuất hiện đại có tầm quan trọng đặc biệt
trong nâng cao hiệu quả quá trình sản xuất.
- Quan hệ về phân phối sản phẩm lao động: Là quan hệ giữa người trong việc phân
phối sản phẩm lao động XH, nói lên cách thức và quy mô của cải vật chất mà các tập đồn
người được hưởng. Quan hệ này có vai trị đặc biệt quan trọng, kích thích trực tiếp lợi ích
con người, là “chất xúc tác” kinh tế thúc đẩy tốc độ, nhịp điệu SX, làm năng động hóa tồn
bộ sời sống KT-XH. Hoặc ngược lại nó có thể làm trì trệ, kìm hãm quá trình sản xuất.
Ba mối quan hệ trên có quan hệ biện chứng với nhau. Trong đó quan hệ sở hữu về tư
liệu sản xuất giữ vai trò quyết định đến bản chất của quan hệ sản xuất. Hai quan hệ cịn lại
có thể làm suy yếu hoặc củng cố quan hệ sản xuất.

=> Sự tác động lẫn nhau giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất biểu hiện mối
quan hệ mang tính chất biện chứng. Quan hệ này biểu hiện thành quy luật cơ bản nhất của


sự vận động của đời sống xã hội - quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.
c. Nội dung quy luật
Nội dung quy luật: Lực lượng SX và quan hệ SX là hai mặt của một phương thức sản
xuất có tác động biện chứng với nhau, trong đó lực lượng SX quyết định quan hệ sản xuất,
quan hệ sản xuất có tác động trở lại mạnh mẽ đối với lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển; ngược lại, nếu khơng phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
*Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất:
- Vì sao lực lượng sản xuất có vai trị quyết định đối với quan hệ sản xuất
+ Lực lượng sản xuất là nội dung của quá trình sản xuất vật chất, cịn quan hệ sản xuất
là hình thức xã hội của q trình đó.
+ Lực lượng sản xuất là yếu tố năng động cách mạng hơn so với quan hệ sản xuất; lực
lượng sản xuất phát triển bắt nguồn từ nhu cầu ngày càng cao của đời sống con người và
nhu cầu trực tiếp của người lao động trong quá trình sản xuất vật chất. Mặt khác lực lượng
sản xuất luôn có tính kế thừa qua các thế hệ thời đại, cịn quan hệ sản xuất nó ổn định hơn vì
nó gắn với chế độ xã hội và lợi ích giai cấp thống trị.
+ Lực lượng sản xuất có tính năng động cách mạng dẫn tới mâu thuẫn giữa cái thường
xuyên biến đổi với cái tương đối ổn định, làm phá vỡ quan hệ sản xuất cũ, hình thành quan
hệ sản xuất mới phù hợp, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Trong xã hội có giai
cấp, nó biểu hiện thành thành mâu thuẫn đối kháng giai cấp.
- Biểu hiện sự quyết định của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất
+ Tính chất của lực lượng sản xuất như thế nào thì địi hỏi quan hệ sản xuất tương ứng
như thế đấy. Tính chất của lực lượng sản xuất: là nói đến tính chất và lao động, nó mang
tính chất cá nhân hay tính chất xã hội hóa của tư liệu sản xuất và lao động.
Ví dụ: Công cụ lao động do một người chế tạo hay sử dụng, sản phẩm làm ra do một

người thì đó là tính cá nhân và ngược lại.
+ Lực lượng sản xuất quyết định sự ra đời, sự vận động biến đổi của quan hệ sản xuất.
Bởi vì, lực lượng sản xuất là yếu tố năng động và cách mạng nhất nó ln vận động và biến


đổi không ngừng, sự vận động biến đổi của lực lượng sản xuất đi từ sự vận động biến đổi
của cơng cụ lao động. Q trình sản xuất, người lao động bao giờ cũng có nhu cầu khách
quan là nâng cao năng suất lao động và giảm công cụ lao động. Để đạt được mong muốn
đó, người lao động ln cải tiến công cụ lao động. Khi công cụ lao động ngày càng được
cải tiến hiện đại thì cũng có nghĩa là lực lượng sản xuất luôn vận động và phát triển.
Khi trình độ của lực lượng SX phát triển đến một mức độ nhất định sẽ mâu thuẫn với
quan hệ SX cũ, lỗi thời, lạc hậu, đòi hỏi phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ lỗi thời lạc hậu,
thiết lập quan hệ sản xuất mới cho phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất từ
đó mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển đồng thời thúc đẩy sản xuất phát triển.
+ Trong thời kỳ quá độ giữa các phương thức kế tiếp nhau, sự đa dạng của nhiều tính
chất, trình độ lực lượng sản xuất khác nhau sẽ có nhiều hình thức sở hữu tương ứng.
Ví dụ: Trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam cịn tồn tại nhiều hình thức sở hữu: sở hữu nhà
nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân.
*Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
Quan hệ SX do lực lượng SX quyết định nhưng nó khơng phải là yếu tố thụ động mà
trong quá trình vận động và phát triển nó có tác động trở lại to lớn đối với lực lượng SX
- Vì sao quan hệ sản xuất trở tác động trở lại lực lượng sản xuất
+ Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của lực lượng sản xuất, nên bao giờ nó cũng tác
động trở lại đối với lực lượng sản xuất; sự tác động đó thơng qua ý thức chủ quan của con
người và các quy luật kinh tế.
+ Quan hệ SX quy định mục đích nền sản xuất và thể hiện lợi ích kinh tế của người lao
động, thơng qua đó mà tác động trở lại lực lượng sản xuất theo hai chiều hướng khác nhau:
khi phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển, ngược lại nếu không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
. Sự phù hợp có nghĩa là lực lượng sản xuất như thế nào thì quan hệ sản xuất phải như

thế ấy, quan hệ sản xuất không thể vượt trước sự phát triển của lực lượng sản xuất và ngược
lại quan hệ sản xuất không thể lạc hậu hơn so với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự
phù hợp cịn có nghĩa là sự thích ứng hay sự kết hợp đồng bộ giữa các yếu tố của lực lượng
sản xuất với các yếu tố của quan hệ sản xuất.


. Không phù hợp là quan hệ sản xuất vượt trước sự phát triển của lực lượng sản xuất
hoặc lạc hậu hơn so với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất nó quy định
mục đích của quá trình sản xuất và phương thức giải quyết lợi ích của người lao động.
+ Trong xã hội có giai cấp, sự tác động của quan hệ sản xuất vào lực lượng sản xuất bao
giờ cũng thông qua lăng kính của giai cấp thống trị và kiến trúc thượng tầng.
- Biểu hiện của sự tác động của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất khi quan hệ
sản xuất phù hợp trình độ lực lượng sản xuất
+ Sự phù hợp là sự kết hợp đúng đắn giữa các mặt, các yếu tố cấu thành quan hệ sản
xuất với các mặt, các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất.
+ Lực lượng SX như thế nào thì quan hệ sản xuất phải như thế ấy; quan hệ SX bao giờ
cũng là của một lực lượng SX nhất định, vượt trước, hay tụt sau đều không phù hợp.
+ Sự phù hợp quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất là sự phù hợp biện chứng giữa
hai mặt đối lập trong một mâu thuẫn, nó là q trình biện chứng trong lịch sử phát triển của
phương thức sản xuất. Vì vậy mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất luôn
luôn được tái tạo trong sự lặp lại có tính quy luật của q trình sản xuất vật chất. Quy luật
này là quy luật xã hội, việc phát hiện, giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với
quan hệ sản xuất phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con người.
+ Biểu hiện sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất là sản xuất phát
triển, năng suất lao động không ngừng tăng lên, đời sống vật chất, tinh thần của người lao
động phong phú, người lao động hăng hái nhiệt tình, xã hội ổn định phát triển.
+ Tiêu chuẩn đánh giá sự phù hợp là hệ thống các tiêu chuẩn về KT-XH, trong đó tốc độ
phát triển năng suất, chất lượng, hiệu quả là những tiêu chuẩn cơ bản, quan trọng nhất.
- Biểu hiện của sự tác động của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất khi quan hệ
sản xuất khơng phù hợp trình độ lực lượng sản xuất

+ Khi lực lượng sản xuất phát triển sang 1 trình độ mới với tính chất xã hội hóa ở mức
cao hơn. Lúc đó tình trạng phù hợp sẽ bị phát vỡ. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất sẽ ngày càng gay gắt và đến một mức độ nào đó, quan hệ sản xuất sẽ “trở
thành xiềng xích của lực lượng sản xuất”. Điều này địi hỏi phải xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ


và thay thế quan hệ sản xuất mới, phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất đã thay đổi,
mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
+ Việc xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế nó bằng quan hệ sản xuất mới cũng có
nghĩa là sự diệt vong của cả 1 phương thức sản xuất lỗi thời và sự ra đời của 1 phương thức
sản xuất mới.
5. Vận dụng quy luật trên vào thực tiễn Việt Nam
*Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật.
- Trong xem xét và cải tạo xã hội phải nghiên cứu nắm vững quy luật này, đi từ giải
quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất gắn với thực tiễn hoạt động
của con người.
- Coi trọng cải tạo và xây dựng cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, xây dựng
đồng bộ các yếu tố của lực lượng sản xuất và các mặt của quan hệ sản xuất; Khơng được
tuyệt đối hóa một mặt, một yếu tố nào.
- Việc cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất phải xuất phát từ thực trạng và yêu cầu phát
triển của lực lượng sản xuất. Khi vận dụng quy luật này phải gắn với hệ thống các quy luật
đang vận hành trong xã hội. Chống chủ quan, duy ý chí trong tạo dựng quan hệ sản xuất.
*Vận dụng quy luật vào trong quá trình đổi mới của nước ta
- Thưc tiễn ở nước ta trong những năm trước đây do không nhận thức đầy đủ quy luật
này cho rằng phát triển mạnh mẽ quan hệ sản xuất sẽ làm cho lực lượng sản xuất phát triển,
đã nóng vội xóa bỏ các thành phần kinh tế cá thể, tư nhân khi nó cịn có lý do tồn tại; đề cao
mở rộng quan hệ sản xuất tập thể khi nó chưa có đầy đủ những tất yếu kinh tế… đã dẫn đến
kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986 chủ trương đổi mới toàn
diện, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội phải đi từ đổi mới kinh tế

đến từng bước đổi mới chính trị, nhưng phải có bước đi thích hợp, trước hết là phải đổi mới
tư duy, đặc biệt là tư duy kinh tế. Với mốc lịch sử quan trọng này, ở nước ta đã khơng cịn
thực hiện mơ hình kinh tế kế hoạch hoa tập trung mà chuyển sang nền kinh tế thị trường có
sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực chất của công cuộc đổi


mới trong lĩnh vực xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất ở nước ta tự năm 1986 là nhận
thức đúng, đầy đủ hơn quy luật khách quan và vận dụng phù hợp vào hoàn cảnh Việt Nam.
Nước ta đang trong quá trình tiến lên từ một nền sản xuất nhỏ tới một lần sản xuất lớn xã
hội chủ nghĩa. Đó là q trình chuyển từ nền kinh tế tự cung, tự cấp sang nền kinh tế hàng
hóa. Nền kinh tế hàng hóa khơng đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà tồn tại khách quan, cần
thiết trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều kiện tiền đề của sản xuất hàng hóa là
sự phân cơng lao động và sự khác biệt cả chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất. Vì vậy phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần đa dạng các hình thức sở hữu, cơng hữu phải giữ vai trị
chi phối là xu hướng tất yếu ở nước ta hiện nay. Điều này cho phép phát triển mạnh mẽ lực
lượng sản xuất, đồng thời giữ được bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Đại hội lần thứ VII của Đảng đòi hỏi phải phát huy cho được “ Thế mạnh của các thành
phần kinh tế” trong thời kỳ quá độ ở nước ta là: kinh tế quốc doanh kinh tế tập thể, kinh tế
cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, các thành phần kinh tế này “ vừa
cạnh tranh vừa hợp tác bổ xung cho nhau trong nền kinh tế quốc dân thống nhất”. Nhằm tạo
ra sự đa dạng hóa trong sản xuất kinh doanh mở ra hướng đi mới cho nền kinh tế phát triển.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã vạch ra mục tiêu phát triển của lực lượng sản xuất nói
chunglà: “ Từ nay đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước
cong nhiệp.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: Ưu tiên phát triển lực lượng
sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Đại hội XI (2011), xác định: Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa
học, cơng nghệ ngày càng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Tại đại hội XIII, Trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 2030, mục tiêu, đường hướng để thực hiện như mọi nhiệm vụ được đ ặt trong

việc giải quyết hài hịa 10 mối quan hệ lớn. Ở đó, mối quan h ệ lớn và bao trùm
phải giải quyết là “giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã h ội ch ủ
nghĩa”. “Trong nhận thức và giải quyết các mối quan hệ hệ lớn, ph ản ánh quy
luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi trong đ ường lối đ ổi


mới của Đảng, cần chú đến: bảo đảm định hướng xã hội ch ủ nghĩa; xây d ựng,
hoàn thiện quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; phát triển văn hóa, th ực hi ện
tiến bộ và cơng bằng xã hội; bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; gi ữ v ững đ ộc
lập, tự chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân”.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có ý
nghĩa phương pháp luận rất quan trọng trong hoạt động quân sự và xây dựng quân đội.
Quân đội nhân dân Việt Nam là một bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng xã hội, là công cụ
bạo lực vũ trang để bảo vệ chế độ kinh tế. Bởi vậy, cần thực hiện tốt chức năng là đội quân
lao động sản xuất, tham gia phát triển kinh tế để góp phần tích cực vào sự nghiệp đổi mới
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
6. Nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến?
Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những nguyên
lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh đúng đắn hiện thực.
Trong hệ thống đó nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là
hai nguyên lý khái quát nhất.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là một trong hai nguyên lý cơ bản của phép biện
chứng duy vật, nguyên lý này cho ta một bức tranh toàn cảnh về thế giới vật chất, thế giới
vật chất mn hình mn vẻ, rất đa dạng và phong phú nhưng chúng luôn liên hệ ràng
buộc tác động qua lại lẫn nhau. Nắm vững nguyên lý này là cơ sở trực tiếp xác định quan
điểm toàn diện, lịch sử, cụ thể trong nhận thức và hành động thực tiễn, cải tạo hiện thực
khách quan.Theo Ănghen: “phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những
quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài
người và của tư duy”.
Thế giới các sự vật hiện tượng mn hình, mn vẻ, rất đa dạng và phong phú, giữa

chúng luôn liên hệ với nhau hay cô lập tách rời. Trả lời cho câu hỏi trên có nhiều quan
điểm khác nhau.
a. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm:Thừa nhận sự liên hệ tác động qua lại giữa các


sự vật hiện tượng và sự chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng song hiểu cơ sở của sự liên hệ, tác
động qua lại và sự vận động, chuyển hoá của các mối liên hệ là do các lực lượng siêu nhiên
hay ở ý thức, cảm giác của con người.
- Hêghen: cho ý niệm tuyệt đối là cơ sở của mối liên hệ giữa các.
- Béccơli: cảm giác của con người là cơ sở của mọi sự vật hiện tượng.
b. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình:
Nhìn chung, quan điểm siêu hình phủ nhận sự liên hệ giữa các sự vật hiện tượng, có
chăng thì cũng chỉ là những mối liên hệ bề ngồi, ngẫu nhiên. Tuy cũng có người thừa
nhận sự liên hệ và tính đa dạng của nó, nhưng lại phủ nhận khả năng chuyển hố lẫn nhau
giữa các hình thức liên hệ khác nhau.
Tức là các sự vật, hiện tượng tồn tại tách rời nhau hết cái này đến cái kia, cái này bên
cạnh cái kia, giữa chúng khơng có sự liên hệ hoặc có chăng cũng chỉ là liên hệ bề ngồi,
ngẫu nhiên và khơng có sự chuyển hố lẫn nhau của các hình thức liên hệ.
Ví dụ: giới vơ cơ và giới hữu cơ khơng có liên hệ gì với nhau, tồn tại độc lập, không
liên hệ với nhau. Xã hội chỉ là sự cộng lại của những con người đơn lẻ,... Quan điểm này
đã không thể đứng vững trước sự phát triển của khoa học tự nhiên.(Thuyết tế bào)
c. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng:
Xem xét sự vật hiện tượng trong sự liên hệ ràng buộc tác động qua lại lẫn nhau, quy
định, chuyển hoá lẫn nhau.
*Nội dung của nguyên lý:Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều tồn tại trong 1 chỉnh
thể thống nhất, thông qua các mối liên hệ và quan hệ chằng chịt giữa chúng với nhau, rằng
buộc và tác động lẫn nhau. Khơng có sự vật hiện tượng nào tồn tại 1 cách cô lập, tách rời
với các sự vật hiện tượng khác.
- Phép biện chứng duy vật chỉ nghiên cứu những mối liên hệ phổ biến nhất của hiện
thực khách quan, quy định sự tồn tại và phát triển của các sự vật hiện tượng; không đi vào

nghiên cứu các liên hệ phổ, quan hệ cụ thể như các khoa học khác. Đó là liên hệ phổ giữa
các mặt đối lập, lượng-chất, chung-riêng…mà các quy luật, các cặp phạm trù của phép
biện chứng đã phản ánh.


*Liên hệ là gì? Liên hệ là 1 phạm trù triết học chỉ nương tựa, phụ thuộc, rằng buộc, tác
động qua lại lẫn nhau, là điều kiện tiền đề cho nhau và quy định lẫn nhau của các sự vật hiện
tượng.
- Sự tồn tại của bất kỳ sự vật hiện tượng nào, những đặc điểm và đặc trưng cùng sự phát
triển của nó tùy thuộc vào tồn bộ sự liên hệ, quan hệ của nó đối với các sự vật hiện tượng
khác.
- Sự vật hiện tượng thay đổi thì sự liên hệ, quan hệ của chúng cũng thay đổi và việc
thay đổi hoàn toàn những mối liên hệ, quan hệ mà trong đó sự vật hiện tượng đang tồn tại
có thể dẫn đến sự thay đổi hoàn toàn sự vật hiện tượng ấy.
- Liên hệ, nó là vốn có của sự vật hiện tượng nó khơng phụ thuộc vào ý muốn chủ
quan của con người, khơng có sự vật hiện tượng nào đứng cơ lập tách rời khơng có mối
liên hệ, mối liên hệ đó xuất phát từ cấu trúc bên trong của sự vật hiện tượng, từ tính thống
nhất của thế giới vật chất. Sự vật chỉ tồn tại khi nó có mối liên hệ.
Ví dụ: Động thực vật phải liên hệ với mơi trường sống…
*Tính chất của sự liên hệ:
Một mối liên hệ cụ thể có thể mất đi, nhưng sự liên hệ nói chung của thế giới thì khơng
thể mất đi. Do đó, liên hệ vừa mang tính khách quan, vừa mang tính phổ biến, tồn tại cả
trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
-Mối liên hệ mang tính khách quan:nghĩa là các mối lien hệ là vốn có của mọi sự vật
hiện tượng nó khơng phụ thuộc vào vào ý thức của con người, cơ sở của nó là tính thống
nhất vật chất của thế giới.
Tức là, các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới dù có đa dạng, phong phú, có khác
nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất,
thống nhất là thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng khơng thể tồn tại biệt lập
tách rời nhau mà tồn tại trong sự tác động qua lại chuyển hoá lẫn nhau theo những quan hệ

xác định.
Vì vậy các sự vật, hiện tượng khơng tồn tại ở ngồi liên hệ. Liên hệ bao giờ cũng là
liên hệ của sự vật, hiện tượng, quá trình. Sự vật, hiện tượng thay đổi thì sự liên hệ của
chúng cũng thay đổi và việc thay đổi hoàn tồn những mối liên hệ, mà trong đó sự vật,


hiện tượng đang tồn tại có thể dẫn đến sự thay đổi hồn tồn sự vật, hiện tượng ấy.
Ví dụ: Mối liên hệ giữa Quân đội ta với Đảng là hồn tồn khách quan.
-Mối liên hệ mang tính phổ biến:Mối liên hệ tồn tại trong tất cả mọi sự vật hiện tượng,
mọi quá trình, ở tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội, tư duy; ngay trong các mặt, các yếu tố,
các bộ phận của một sự vật hiện tượng hay giữa các giai đoạn của nó cũng có liên hệ lẫn
nhau.
Ví dụ: Trong tự nhiên, thể hiện ở sự tác động lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượngtrong
q trình tiến hóa từ vơ cơ đến hữu cơ và trong quá trình xuất hiện sự sống. Khoa học hiện
đại đã chứng minh mối liên hệ, quan hệ “máu thịt” chặt chẽ giữa động vật và thực vật, giữa
cơ thể sống và mơi trường, giữa các giống, lồi thực, động vật…
Trong xã hội, mối liên hệ thể hiện ở sự tác động qua lại giữa tất cả các mặt của đời
sống xã hội với tính cách là 1 cơ thể thống nhất hữu cơ như: giữa kinh tế với chính trị; giữa
kinh tế với dân số và sinh thái; giữa các ngành kinh tế; giữa đời sống văn hóa tinh thần và
đời sống vật chất…
-Tính đa dạng phong phú của mối liên hệ
+ Sự vật khác nhau có mối liên hệ khác nhau
Ví dụ: con người mối liên hệ với thế giới khác loài động vật và thực vật. Mỗi con
người cụ thể, bên cạnh những mối liên hệ chung ra thì cịn có nhiều mối liên khác nhau bởi
do địa vị xã hội của họ quy định
+ Sự vật có nhiều mối liên hệ nhưng vai trị và vị trí khơng ngang bằng nhau, có mối
liên hệ bên trong và bên ngoài, mối liên hệ bản chất và khơng bản chất; có mối liên hệ bao
qt tồn bộ thế giới, có mối liên hệ bao quát một lĩnh vực hoặc một số lĩnh vực của thế
giới; có mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu; có mối liên hệ tất nhiên và mối liên hệ
ngẫu nhiên; có mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp…

+ Có quyết định sự tồn tại phát triển của sự vật, có mối liên hệ chỉ ảnh hưởng đến sự
phát triển của sự vật.
Ví dụ: Quân đội nhân dân Việt Nam có mối liên hệ với Đảng, với nhân dân, với quốc
tế đây là quyết định sự tồn tại của Quân đội, vì nếu mối liên hệ này thay đổi thì Qn đội
khơng cịn là Qn đội cách mạng nữa. Còn các mối liên hệ với vũ khí, biên chế chỉ ảnh


hưởng đến sự phát triển.
+ Sự vật chỉ thay đổi khi mối liên hệ bản chất thay đổi.
Ví dụ: Mối liên hệ bản chất của Quân đội với Đảng Cộng sản thay đổi thì qn đội đó
khơng cịn là một quân đội kiểu mới mang bản chất của giai cấp công nhân nữa.
+ Sự vật phát triển qua các giai đoạn khác nhau thì có các mối liên hệ khác nhau.
Ví dụ: Nước ta từ giai đoạn phát triển từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách
mạng xã hội chủ nghĩa thì mối liên hệ với quốc tế và khu vực cũng có những thay đổi phù
hợp vơí xu thế phát triển của thời đại.
*Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong xem xét và cải tạo sự vật phải quán triệt quan điểm khách quan, toàn diện, lịch
sử, cụ thể.
+ Khách quan là xem xét đúng như sự vật nó đang tồn tại khơng chen lẫn ý kiến chủ
quan; toàn diện là phải xem xét tất cả các mối liên hệ, các thuộc tính, các yếu tố. Tuy nhiên,
xem xét tồn diện khơng có nghĩa là cào bằng, dàn trải mà phải thấy được những mối liên
hệ bên trong, chủ yếu nhất quyết định đến sự tồn tại và phát triển của sự vật.
+ Xem xét sự vật phải đặt trong những điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Phê phán
quan điểm xem xét chủ quan, phiến diện, triết chung, ngụy biện, chỉ dừng lại ở một mối
liên hệ. (Chủ nghĩa triết chung là sự kết hợp 1 cách vơ ngun tác những mặt, những đặc
tính khác nhau của sự vật hiện tượng. Nó thay sự phân tích biện chứng các mối liên hệ
bằng cách kết hợp chúng một cách máy móc, hình thức. Cịn thuật ngụy biện là lối lập luận
1 cách chủ quan, đem những mặt, những mối liên hệ thứ yếu làm chủ yếu, không cơ bản
làm cơ bản…)
- Nguyên lý mối liên hệ là cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện trong nhận thức và

hoạt động thực tiễn.
+ Trong nhận thức sự vật phải nhận thức nó trong mối liên hệ tác động qua lại với các
sự vật hiện tượng khác, trong mối liên hệ giữa các yếu tố, thuộc tính, các bộ phận cấu thành
sự vật.
+ Trong hoạt động thực tiễn cải tạo sự vật phải có các giải pháp đồng bộ, toàn diện. Phải
xem xét toàn bộ các mối liên hệ của sự vật hiện tượng, cả mối liên hệ hiện tại, quá khứ; phải


tìm ra mối liên hệ chủ yếu quyết định sự tồn tại, phát triển của sự vật hiện tượng để cải tạo
thúc đẩy sự vật tiến lên.
- Cần phân loại đúng các mối liên hệ của sự vật trên cơ sở nhận thức đúng chúng để
thúc đẩy hoặc kìm hãm sự vật phát triển theo hướng phục vụ con người.
*Vận dụng
- Vận dụng quan điểm toàn diện trong đổi mới của Đảng ta đó là đổi mới tồn diện
trong đó ưu tiên đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị từ từ, từng bước thận trọng. Trong xây
dựng và phát triển kinh tế xã hội thành phố Hải Phòng hiện nay cung cần ưu tiên đổi mới
các thức, phương pháp tạo nên đột phá trong phát triển kinh tế xã hội. Cùng với đó ln
song hành với xây dựng và củng cố hệ thống chính trị tại địa phương vững mạnh.
7. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức?
Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc và khái quát những thành tựu của khoa
học tự nhiên. Đồng thời kế thừa những tư tưởng của C.Mác và Ph. Ăngghen, trong
tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, V.I Lênin đã đưa ra
một định nghĩa toàn diện và khoa học về phạm trù vật chất và ý thức:
Vật chất và ý thức là 2 phạm trù rộng lớn nhất, có quan hệ biện chứng với nhau. Tuy
nhiên mỗi phạm trù có vị trí vai trị khơng ngang bằng nhau. Xung quanh vấn đề này, trong
lịch sử triết học luôn luôn diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa chủ nghĩa duy vật vàchủ
nghĩa duy tâm. Việc nắm vững 2 phạm trù này không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà cịn
có ý nghĩa chỉ đạo hoạt động thực tiễn, nhất là trong giải quyết vấn đề thực tiễn khách quan
- chủ quan trong lĩnh vực quân sự.
a. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm: Cho rằng ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính

thứ hai; ý thức (linh hồn, ý niệm) nảy sinh và quyết định vật chất.Họ tuyệt đối hóa vai trị ý
thức; cho rằng ý thức là sáng tạo ra tất cả.
- Platơn: có hai thế giới, thế giới các sự vật cảm biết (vật chất) và thế giới ý niệm. Thế
giới ý niệm có trước và sinh ra thế giới các sự vật cảm biết.


- Hêghen: khởi nguyên của thế giới là “ý niệm tuyệt đối” hay “tinh thần thế giới”, mọi
sự vật hiện tượng trong thế giới vật chất đều là sự “tha hoá” của “ý niệm tuyệt đối”, do “ý
niệm tuyệt đối” sinh ra.
- Béccơli nhà triết học duy tâm chủ quan cho rằng “cảm giác” là tính thứ nhất, có trước
và quyết định vật chất; vật chất là tính thứ hai, là “phức hợp của cảm giác”.
b. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình:
Khẳng định vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ 2. Tuy nhiên họ lại không thấy
được sự tác động trở lại của đối với vật chất (tuyệt đối hóa vai trị của vật chất, hạ thấp vai
trị tích cực của ý thức đối với vật chất).
- Đêmơcrít: Ý thức ( linh hồn) cũng do ngun tử tạo nên
- Phogơtơ: Ĩc tiết ra ý thức như gan tiết ra mật.
- Phoiơbắc: Khẳng định tính khách quan của vật chất của giới tự nhiên, ý thức là thuộc
tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là óc người, là sự phản ánh của thế giới khách
quan. Song ơng chưa thấy vai trị của ý thức với vật chất, với giới tự nhiên.
=> Như vậy, cả chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước Mác đều chưa thấy được
mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Hoặc là tuyệt đối hóa vai trị của ý thức
(tinh thần), hoặc là tuyệt đối hóa vai trị của vật chất. Xét về mặt thế giới quan họ hoặc là
duy tâm hoặc là duy vật siêu hình. Xét về mặt phương pháp luận sẽ dẫn đến sai lầm rơi vào
chủ quan duy ý chí, bất chấp quy luật khách quan, hoặc là thụ động ngồi chờ, ỷ lại.
c. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vật chất và ý thức
Xuất phát từ thế giới quan, phương pháp luận biện chứng, triết học Mác - Lênin đã khắc
phục triệt để những sai lầm, hạn chế của chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa duy vật siêu hình,
đưa ra quan điểm hết sức đúng đắn về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng: Vật chất và ý thức là hai hiện tượng

khác nhau về bản chất, nhưng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong đó vật chất có
trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức; ý thức có tính độc lập tương đối có tác động
to lớn trở lại vật chất.
*Khái niệm vật chất và ý thức


×