Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

TIỂU LUẬN tôn GIÁO ĐƯỜNG lối, CHÍNH SÁCH của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM về vấn đề tôn GIÁO (GIAI đoạn từ năm 1986 đến NAY) LIÊN hệ với TÌNH HÌNH THỰC tế HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.11 KB, 27 trang )

TRƯỜNG…
KHOA …


TIỂU LUẬN
MƠN: CHỦ NGHĨA MÁC, LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VÀ QUAN ĐIỂM ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM VỀ VẤN ĐỀ TƠN GIÁO

CHỦ ĐỀ: ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM VỀ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO (GIAI ĐOẠN TỪ
NĂM 1986 ĐẾN NAY) - LIÊN HỆ VỚI TÌNH HÌNH THỰC TẾ
HIỆN NAY
Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,

Năm 2021

0


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

NỘI DUNG

2


1

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN, TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TƠN GIÁO VÀ GIẢI
QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO

2

1.1

Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo và giải
quyết vấn đề tôn giáo

2

1.2

Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng tơn giáo và giải
quyết vấn đề tôn giáo

8

2

2.1.
2.2.

SỰ PHÁT TRIỂN TRONG QUAN ĐIỂM, CHÍNH
SÁCH TÍN NGƯỠNG, TƠN GIÁO CỦA ĐẢNG, NHÀ
NƯỚC VIỆT NAM (TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY)

Quan điểm, chủ trương về tín ngưỡng, tơn giáo của Đảng,
Nhà nước Việt Nam
Nhận thức mới trong quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà
nước ta về tôn giáo trong thời kỳ đổi mới (1986 đến nay)
TÌNH HÌNH TƠN GIÁO VÀ VIỆC THỰC HIỆN

12

12
15

CHÍNH SÁCH TƠN GIÁO Ở VIỆT NAM VÀ CÁC
3

GIẢI PHÁP TRONG XEM XÉT GIẢI QUYẾT VẤN

19

ĐỀ TƠN GIÁO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
3.1

Tình hình thực hiện chính sách tơn giáo ở Việt Nam hiện
nay

19

3.2

Một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát triển Phật giáo Nam
tông ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay


22

KẾT LUẬN

25

TÀI LIỆU THAM KHẢO

26

MỞ ĐẦU
1


Tôn giáo là hệ thống các tư tưởng, quan điểm giải thích về thế giới mang màu
sắc huyền bí, thần thoại. Xét trên phương diện khoa học và nhận thức, nó kìm hãm
sự phát triển của nhân loại, kìm hãm sự phát triển của tư duy con người trong
những bức tường chật hẹp của những sách kinh, giáo điều. Nhưng cũng không thể
không nhắc đến ý nghĩa của tôn giáo như là một phương thuốc giảm đau cho
những con người đang bất lực trước tự nhiên kinh khủng và bí ẩn, đang rên siết
trong gông cùm của nô dịch và đàn áp, bất công.
Tôn giáo là một vấn đề hết sức nhạy cảm trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Nếu khơng giải quyết được vấn đề này thì sẽ không thể tạo dựng được nền
tảng tư tưởng cho xã hội mới. Nhưng nếu giải quyết một cách vội vã bằng phương
cách cưỡng bức, bạo lực thì chắc chắn sẽ gây ra những bất ổn cho xã hội, và càng
kéo dài hơn sự tồn tại của tôn giáo trong lịng nhân dân. Do đó, khi nghiên cứu về
tơn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta hiện nay phải nắm vững quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mác - Lênin,
khơng thể chỉ xem xét nó một cách phiến diện trong những mặt tiêu cực và hạn

chế. Chính vì vậy, nghiên cứu, làm rõ vấn đề : “Đường lối, chính sách của Đảng
Cộng sản Việt Nam về vấn đề tôn giáo (giai đoạn từ năm 1986 đến nay) - Liên hệ
với tình hình thực tế hiện nay” có ý nghĩa rất quan trọng nhằm xác định con đường
đúng đắn duy nhất để tiến tới xố bỏ tơn giáo ra khỏi đời sống xã hội, tiến tới xây
dựng một nền tảng tư tưởng tiến bộ, khoa học.
NỘI DUNG
1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN, TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ TƠN GIÁO VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO
1.1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo và giải quyết vấn
đề tôn giáo
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo
Tất cả các nhà triết học trước chủ nghĩa Mác, kể cả những nhà duy vật, đều là
những người theo chủ nghĩa duy tâm trong quan niệm về đời sống xã hội, vì họ
mới dừng lại ở chỗ xác nhận một sự thật là: khác với tự nhiên - nơi mà những lực
2


lượng vơ tri vơ giác đang hoạt động, thì trong xã hội, con người lại là một trong
những thực thể có ý thức, có khả năng tự kiểm sốt các hoạt động của riêng mình.
Từ đó mà họ đều cho rằng: xã hội vận hành theo một cách riêng của nó, hoặc theo
ý chí của một thế lực siêu tự nhiên có nhân tính (như Đức Chúa) hay khơng có
nhân tính (như Ý niệm tuyệt đối), hoặc theo ý chí chủ quan của chính lồi người.
Xuất phát từ cái nhìn duy tâm đó, tơn giáo - một hình thái ý thức xã hội, đã ra đời
và vẫn có cơ sở để phát triển trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại, từ cuối thời kỳ
công xã nguyên thuỷ cho đến tận bây giờ bởi họ khơng giải thích được một cách
khoa học nguồn gốc, bản chất và đưa ra cách khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của
tôn giáo. Chỉ đến khi chủ nghĩa Mác – Lênin ra đời mới đem lại cho con người
những quan niệm đúng đắn nhất, khoa học nhất về vấn đề này.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã đứng vững trên lập trường duy
vật lịch sử để lý giải vấn đề bản chất của tơn giáo. Theo đó, ý thức xã hội là sự

phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định. Mặc dù có tính độc lập tương
đối nhưng mọi hiện tượng trong đời sống tinh thần, xét đến cùng, đều có nguồn
gốc từ đời sống vật chất. Tôn giáo là một hiện tượng tinh thần của xã hội và vì vậy,
nó là một trong những hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội trong những
giai đoạn lịch sử nhất định. Nhưng khác với những hình thái ý thức xã hội khác, sự
phản ánh của tôn giáo đối với hiện thực là sự phản ánh đặc thù, đó là sự phản ánh
“lộn ngược”, “hoang đường” thế giới khách quan. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen,
“tôn giáo là những sự rút hết toàn bộ nội dung của con người và giới tự nhiên, là
việc chuyển nội dung đó sang cho bóng ma. Thượng đế ở bên kia thế giới, Thượng
đế này, sau đó, do lịng nhân từ, lại trả về cho con người và giới tự nhiên một chút
ân huệ của mình” [1, tr.815].
Với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác, tôn giáo là sự phản ánh một cách
biến dạng, sai lệch, hư ảo về giới tự nhiên và con người, về các quan hệ xã hội.
Hay nói cách khác, tơn giáo là sự nhân cách hoá giới tự nhiên, là sự “đánh mất bản
chất người”. Chính con người đã khốc cho thần thánh những sức mạnh siêu nhiên

3


khác với bản chất của mình để rồi từ đó con người có chỗ dựa, được chở che, an ủi
- dù đó chỉ là chỗ dựa “hư ảo”.
Đứng vững trên lập trường duy vật lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận giải
rằng sự xuất hiện và tồn tại của tôn giáo xuất phát từ hiện thực khách quan và
nguồn gốc quan trọng nhất của tơn giáo chính là điều kiện kinh tế – xã hội. Trong
lịch sử tiến hoá của mình, trước hết con người có nhu cầu cải tạo tự nhiên để tạo ra
của cải vật chất đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của mình. Nhưng do trình độ và
khả năng cải tạo tự nhiên còn thấp kém, con người luôn cảm thấy yếu đuối, bất lực
trước các hiện tượng tự nhiên và đã gắn cho tự nhiên những sức mạnh siêu nhiên.
Đó chính là cơ sở cho sự nảy sinh các hiện tượng thờ cúng. Đặc biệt, khi xã hội có
sự phân chia và áp bức giai cấp thì các mối quan hệ xã hội càng phức tạp, một bộ

phận người dân rơi vào tình thế cùng quẫn, bất lực trước các thế lực thống trị.
Thêm vào đó, những yếu tố tự phát, ngẫu nhiên, rủi ro bất ngờ nằm ngoài ý muốn
của con người gây ra cho họ sự sợ hãi, lo lắng, mất cảm giác an tồn. Đó cũng là
ngun nhân khiến người ta tìm đến và dựa vào sự che chở của tôn giáo.
Với luận điểm “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”, C.Mác khơng chỉ
muốn khẳng định tính chất “ru ngủ” hay độc hại của tơn giáo, mà cịn nhấn mạnh
đến sự tồn tại tất yếu của tôn giáo với tư cách một thứ thuốc giảm đau được dùng
để xoa dịu những nỗi đau trần thế. Thực vậy, người ta dùng thuốc giảm đau khi
người ta bị đau đớn và chừng nào cịn đau đớn, thì chừng đó cịn có nhu cầu dùng
nó. Đó chính là lý do để lý giải tại sao người ta hướng tới, hy vọng và coi tôn giáo
như chiếc “phao cứu sinh” cho cuộc sống của mình, cho dù đó chỉ là những hạnh
phúc ảo tưởng, chỉ là “sự đền bù hư ảo”.
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, tôn giáo mặc dù là sự phản ánh
hoang đường, hư ảo hiện thực, là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội nhưng nó
khơng phải khơng có những yếu tố tích cực. Tơn giáo chỉ là những “bông hoa giả”
tô điểm cho một cuộc sống hiện thực đầy xiềng xích. Nhưng nếu khơng có những
“bơng hoa giả” ấy thì cuộc sống của con người chỉ cịn lại “xiềng xích” mà thơi.

4


Và nếu khơng có thứ “thuốc giảm đau” ấy thì con người sẽ phải vật vã đau đớn
trong cuộc sống hiện thực với đầy rẫy những áp bức, bất công và bạo lực.
Điều vĩ đại của C.Mác, quan điểm duy vật lịch sử và tính cách mạng trong học
thuyết Mác về tơn giáo chính là ở chỗ đó. Trong khi các nhà duy vật vô thần chỉ
biết phê phán bản thân tơn giáo thì C.Mác lại khơng phê phán tơn giáo mà phê
phán chính cái hiện thực đã làm nảy sinh tôn giáo, tức là phê phán sự áp bức, bất
công, bạo lực… trong xã hội đã đẩy con người phải tìm đến với tơn giáo và ru ngủ
mình trong tôn giáo. C.Mác đã nhận thấy rất rõ quan hệ nhân – quả trong vấn đề
này. Vì tơn giáo là một hiện tượng tinh thần có nguyên nhân từ trong đời sống hiện

thực nên muốn xố bỏ tơn giáo, khơng có cách nào khác là phải xố bỏ cái hiện
thực đã làm nó nảy sinh. Theo C.Mác, vấn đề khơng phải là “vứt những bơng hoa
giả” đi mà là xố bỏ bản thân cái “xiềng xích” được trang điểm bởi những bơng
hoa giả đó để con người có thể “giơ tay hái những bơng hoa thật” cho mình, tức là
tìm kiếm được hạnh phúc thật sự ngay trong thế giới hiện thực. Từ đó, C.Mác đã
khẳng định rằng, muốn xố bỏ tơn giáo và giải phóng con người khỏi sự nơ dịch
của tơn giáo thì trước hết phải đấu tranh giải phóng con người khỏi những thế lực
của trần thế, xố bỏ chế độ áp bức bất cơng, nâng cao trình độ nhận thức cho người
dân và xây dựng một xã hội mới khơng cịn tình trạng người bóc lột người, đó là xã
hội cộng sản chủ nghĩa.
1.1. 2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về việc giải quyết vấn đề tôn
giáo trong chủ nghĩa xã hội
Tôn giáo là một hiện tượng chỉ tồn tại trong một giai đoạn nhất định của lịch
sử xã hội, từ đầu thời cơng xã ngun thuỷ trở về trước là chưa có, và đến thời kỳ
cộng sản chủ nghĩa cũng sẽ không tồn tại tơn giáo. Nhưng trong lịng xã hội xã hội
chủ nghĩa vẫn sẽ tồn tại tôn giáo. Xuất phát từ bản chất mang cả hai phương diện
xã hội và giai cấp, tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng như
trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa xã hội vẫn sẽ tồn tại, bởi nó vẫn chưa mất hết
những giá trị tích cực cũng như vẫn cịn có những nền tảng để tiếp tục tồn tại.

5


Tôn giáo trong thời kỳ xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại vì nền tảng của nó là
những câu hỏi về thế giới vẫn chưa thể có được đầy đủ tất cả các câu trả lời xác
đáng. Khoa học hiện nay đang tiến nhanh như vũ bão, nhưng khoa học càng phát
triển thì nhân loại càng nhận ra rằng những kiến thức của mình về thế giới là quá
nhỏ, và còn quá nhiều vấn đề cần phải giải quyết và tìm hiểu. Do đó, những bí ẩn
của thế giới khơng thể được giái quyết một cách nhanh chóng trong một thời gian
ngắn; tức là những cơ sở về nhận thức và tâm lý của tơn giáo vẫn cịn có thể tồn tại

trong lòng xã hội xã hội chủ nghĩa.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng như giai đoạn đầu của chủ
nghĩa xã hội, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa vẫn chưa thể phủ định hoàn toàn nền
kinh tế thị trường nhiều thành phần; nên trong xã hội vẫn tồn tại những giai cấp,
tầng lớp khác nhau, vẫn tồn tại sự phân biệt về địa vị và quyền lợi kinh tế, chính
trị, văn hố, xã hội... Do đó áp bức, bất cơng, sự ngẫu nghiên, may rủi... vẫn tồn
tại, và vẫn kéo theo niềm tin vào một đấng siêu nhiên nào đó đang định đoạt số
phận con người.
Tôn giáo đã tồn tại trong xã hội suốt hàng ngàn năm, và đã ăn sâu bám chặt
vào nếp sống, nếp nghĩ của con người. Bởi vậy không dễ dàng gì có thể ngay trong
một thời gian ngắn mà loại bỏ tôn giáo ra khỏi đời sống xã hội.
Các ngun tắc của tơn giáo có thể vẫn có những giá trị nhất định trong xã hội
chủ nghĩa, như nguyên tắc yêu thương, nhân đạo, nhân ái của đạo Phật hay đạo
Kitơ. Và trên cơ sở đó, “nhà nước xã hội chủ nghĩa làm cho người có đạo hiểu
rằng, niềm tin tơn giáo chân chính khơng đối lập với chủ nghĩa nhân đạo xã hội
chủ nghĩa, và chủ nghĩa xã hội đang hiện thực hoá lý tưởng của chủ nghĩa nhân
đạo trong cuộc sống của mỗi người dân”.
Nói tóm lại, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng như giai đoạn đầu
của chủ nghĩa xã hội, tôn giáo vẫn sẽ tồn tại, bởi cả những nguyên nhân khách
quan lẫn những nguyên nhân chủ quan. Sự tồn tại này khơng có gì là vơ lý bởi tơn
giáo là một hình thái ý thức xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng, tuy phải chịu sự
chi phối và quyết định của cơ sở hạ tầng, nhưng bản thân nó vẫn có sự độc lập
6


tương đối; do đó, dù đứng trước những biến đổi to lớn của đời sống kinh tế, chính
trị, xã hội... trong bước nhảy vọt từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, tôn giáo
vẫn không bị triệt tiêu ngay lập tức, mà chỉ “dần mất đi ảnh hưởng của nó đối với ý
thức xã hội”, và “chỉ trong xã hội cộng sản chủ nghĩa phát triển thì tơn giáo mới có
thể hồn tồn biến mất và hồn tồn bị xoá bỏ khỏi đời sống con người”.

Trên lập trường duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin đã kịch liệt phản đối
những hành vi cực đoan, tấn công trực diện vào tôn giáo một cách thô bạo. Bản
thân tơn giáo khơng có tội và vì vậy, khơng nên phê phán tôn giáo mà cần phê phán
cái hiện thực đã làm nảy sinh tôn giáo. Việc phê phán tôn giáo không thể được tiến
hành trực diện mà cần “làm cho con người thoát khỏi ảo tưởng, để con người tư
duy, hành động, xây dựng tính hiện thực của mình với tư cách một con người vừa
thoát khỏi ảo tưởng và đạt đến tuổi có lý trí; để con người vận động xung quanh
bản thân mình, nghĩa là vận động xung quanh cái mặt trời thật sự của mình. Tơn
giáo chỉ là cái mặt trời ảo tưởng, nó vận động xung quanh con người chừng nào
con người còn chưa bắt đầu vận động xung quanh bản thân mình”. Như vậy, theo
quan điểm của C.Mác, tôn giáo chỉ thật sự mất đi khi con người ta tự nhận thức
được về bản thân mình, từ bỏ những ảo tưởng thần thánh để quay trở về với cuộc
sống hiện thực.
Vì vậy, muốn khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo, trước hết cần
phải tạo lập được một thế giới hiện thực khơng có áp bức, bất cơng, nghèo đói, thất
học…, một thế giới hiện thực khơng cịn cần đến “sự đền bù hư ảo” của tơn giáo
mà người ta có thể tìm thấy những hạnh phúc thật sự ngay trong cuộc sống, một xã
hội cộng sản chủ nghĩa văn minh. Đó là một quá trình cách mạng lâu dài, gian khổ
gắn liền với cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Xuất phát từ nhận thức tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân và đó là nhu cầu hồn tồn chính đáng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa cần phải
tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo, khơng được chống tơn giáo
mà chỉ chống những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá cách
mạng, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc. Tuyệt đối khơng được nóng vội, chủ
7


quan trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo. Tôn giáo khơng chỉ là một hình thái ý
thức xã hội, mà cịn là một thiết chế xã hội, nó biến đổi cùng với sự biến đổi của
lịch sử. ở từng thời kỳ lịch sử, vai trị của tơn giáo đối với đời sống xã hội không

giống nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực
của đời sống xã hội ln có sự khác biệt. Do đó, cần căn cứ vào từng trường hợp
cụ thể, trong những điều kiện cụ thể mà Nhà nước xã hội chủ nghĩa xác định thái
độ, cách ứng xử phù hợp.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng tôn giáo và giải quyết vấn đề
tôn giáo.
1.2.1.Quan niệm, đánh giá của Hồ Chí Minh về tín ngưỡng tơn giáo
Trung thành với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin đối với
những vấn đề cơ bản về nguồn gốc, bản chất, tính chất, chức năng, lập trường,
phương pháp giải quyết vấn đề tơn giáo, Hồ Chí Minh cịn tiếp cận tín ngưỡng tơn
giáo dưới góc độ xã hội học, đạo đức, văn hố. Người lên án khía cạnh chính trị
của tơn giáo, nhưng lại rất trân trọng những những giá trị văn hố, yếu tố tích cực
về đạo đức và những khía cạnh nhân văn, niềm tin vào con người của tơn giáo.
Người quan niệm tín ngưỡng tơn giáo như là một di sản văn hố của lồi người.
Người nói: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng
tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hố” [ 11
, tr.245].
Chính từ quan niệm đó, Hồ Chí Minh đã có những nhận xét khá lý thú về
những tôn giáo Việt Nam: Những tơn giáo chính ở nước ta là đạo Phật và đạo thiên
chúa. Phật Thích Ca là người quý tộc, Người đã bỏ hết công danh phú quý để đi
cứu vớt chúng sinh. Tức là cứu vớt những người lao động nghèo khổ. Chúa Giêsu
là người lao động. Người vui lòng hy sinh tính mạng của mình để cứu vớt những
người lao động nghèo khổ chống lại bọn Pharidiêng tức là bọn bóc lột. Mục đích
cao cả của Phật Thích Ca và Chúa Giêsu đều giống nhau: Thích Ca và Giêsu đều
8


muốn mọi người đều có cơm ăn, áo mặc, bình đẳng, tự do và thế giới đại đồng. Từ

đó, Hồ Chí Minh đã tìm thấy trong tín ngưỡng tơn giáo có những giá trị văn hóa,
đạo đức nhất định phù hợp với xã hội mới mà chúng ta đang xây dựng. Như vậy,
Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở tơn giáo những yếu tố tích cực của nó, tơn giáo có
những nội dung mang tính nhân ái, nhân văn, phù hợp với chế độ ta. Theo Người,
bất kỳ tôn giáo nào cũng đều hướng cái thiện. Người còn chỉ ra các ưu điểm cụ thể
của các tôn giáo như: Đạo Khổng có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân; đạo
Thiên Chúa có lịng nhân ái cao cả; đạo Phật có lịng từ bi hỷ xả…đó chính là
những giá trị nhân văn của nhân loại cần được bảo vệ, giữ gìn và phát triển. Đó
cũng là ước muốn của các tín đồ tơn giáo, cũng như của tất cả mọi người người
trên trái đất này và cũng là của chính những người cộng sản. Làm cách mạng để
cứu nước, cũng là để cứu mình, để được tự do thờ phụng, cúng lễ, cầu nguyện,
xây dựng cuộc sống thanh bình, ấm no, hạnh phúc cũng là làm theo mong muốn
của Đức Chúa, Đức Phật… là thiện. Chính từ tư duy đó Hồ Chí Minh đã đưa ra
một giả thuyết táo bạo: nếu các bậc giáo chủ của các tôn giáo như Giêsu, Thích
Ca… sinh ra trong hồn cảnh hiện nay thì chắc các Ngài cũng sẽ đấu tranh vì
người nghèo như những người cộng sản. Hồ Chí Minh ln giải thích cho đồng
bào tơn giáo hiểu tơn giáo khơng đối lập với Tổ quốc, không đối lập với lý tưởng
cộng sản, từ đó người giải thích cho các tín đồ theo các tơn giáo khác nhau, có
cách lý giải khác nhau sao cho hợp với lòng dân. Đến với đồng bào theo Phật
giáo, Người nói: “Đức Phật là đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn, muốn cứu chúng
sinh ra khỏi khổ nạn, Người phải hy sinh tranh đấu, diệt lũ ác ma...
Hồ Chí Minh chủ trương khai thác những điểm tương đồng, phù hợp của tín
ngưỡng tơn giáo với sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng xã hội mới. Hồ Chí
Minh đưa ra những so sánh, nhận xét có tính bản chất về những tơn giáo, những
nhân vật trong lịch sử của nhân loại có cùng chung một mục đích là giải phóng con
người khỏi kiếp khổ hạnh. Người viết: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của
nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tơn giáo của Giêsu có ưu điểm của nó là lịng
nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện
chứng. Chủ nghĩa Tơn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều
9



kiện nước ta. Khổng tử, Giê-su, Các Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có ưu điểm chung
đó sao? Họ đều mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội.
Nếu nay họ còn sống trên đời này, nếu họ họp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định
sống chung với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tơi cố gắng làm
học trị nhỏ của các vị ấy” [ 12 , tr.65].
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách giải quyết vấn đề tín ngưỡng
tơn giáo
Ở Hồ Chí Minh xử lý mối quan hệ giữa các tơn giáo với cách mạng rất hài
hịa khơng gây mất đồn kết, hiểu nhầm nhau, giữa lý tưởng của cách mạng có nét
tương đồng với mục đích của các tơn giáo. Điều đó tránh được sự hiểu nhầm
không cần thiết, tránh mắc mưu xuyên tạc để chia rẽ khối đồn kết lương giáo và
giữa các tơn giáo của kẻ thù. Đặt tư tưởng tơn trọng, đồn kết, hịa hợp, khoan
dung, linh hoạt, khơng định kiến với các tơn giáo của Người vào bối cảnh lúc đó,
nhiều người cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa có tư tưởng đối lập thế giới
quan vô thần-hữu thần một cách cực đoan đang khá thịnh hành: chỉ thấy tôn giáo là
“duy tâm”, “ lạc hậu”, “phản khoa học”, từ đó có biểu hiện tả khuynh trong giải
quyết vấn đề tôn giáo, gây tổn thất nhất định cho phong trào cách mạng… từ quan
điểm trên chúng ta mới thấy tầm cao trí tuệ, tính độc lập sáng tạo của Hồ Chí Minh
Trong suốt cả cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh ln quan tâm, tơn
trọng đời sống tâm linh của nhân dân; Người coi tín ngưỡng tơn giáo như một bộ
phận hợp thành của đời sống văn hoá, tinh thần của con người, là nhu cầu của một bộ
phận quần chúng nhân dân. Trong cuộc sống, Người khuyên mỗi người có tín ngưỡng
cần phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa tín đồ và cơng dân, giữa việc đạo và việc đời.
“Kính Chúa và yêu nước”; “tốt đời, đẹp đạo” phải đi liền, kết hợp với nhau. Người
còn chỉ rõ: “Kinh thánh có câu: “ý dân là ý Chúa”. Con đường yêu nước mà đồng
bào đang đi là hồn tồn đúng. Người thường nhắc, nước độc lập thì tơn giáo mới
được tự do, vì vậy, mọi người phải làm cho nước nhà độc lập trước. Độc lập rồi
phải quan tâm đến đời sống nhân dân, vì “Nước độc lập mà dân khơng hưởng hạnh

phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì” [12, tr.34].
10


Chính Hồ Chí Minh tiếp cận tín ngưỡng tơn giáo dưới góc độ di sản văn hố của
lồi người làm điểm xuất phát về chính sách tơn giáo một cách sáng tạo và độc đáo.
Điều đó đã tạo cho Hồ Chí Minh có một thái độ khoang dung, độ lượng, đặc biệt với
đồng bào các tín đồ tơn giáo, thấy rõ lực lượng to lớn của nhân dân, không phân biệt
những người có đạo và khơng có đạo, hay tơn giáo này với tôn giáo khác. Đồng thời
quan tâm sâu sắc đến đồng bào có tín ngưỡng tơn giáo, động viên tập hợp, xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh đã
biết phát huy các giá trị văn hố đó của tín ngưỡng tơn giáo, đây là nét đặc sắc trong
tư tưởng của Người.
Để thực hiện chính sách đồn kết lương giáo, đồn kết tồn dân Hồ Chí Minh
đã đưa ra hàng loạt hình thức, kế hoạch cụ thể nhằm vừa giải quyết nguồn gốc
nhận thức, giải tỏa những thắc mắc của đồng bào các tôn giáo, vừa quan tâm nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào và vơ hiệu hóa sự lợi dụng của kẻ thù
lúc bấy giờ. Do am hiểu sâu sắc bản chất, niềm tin tơn giáo của các tín đồ; biết kết
hợp khéo léo niềm tin tôn giáo với niềm tin lý tưởng cách mạng, vào tương lai của
một dân tộc có truyền thống yêu nước, đồng cam chịu khổ, Hồ Chí Minh đã tập
hợp, hướng đồng bào các tôn giáo vào thực hiện nhiệm vụ chung giải phóng dân
tộc, xây dựng cuộc sống mới “tốt đời, đẹp đạo”. Người biết hướng niềm tin tơn
giáo vào niềm tin cách mạng, tập hợp đồn kết quần chúng trong khối đại đoàn kết
dân tộc để thực hiện ước nguyện chung của cộng đồng con người Việt Nam là
“Độc lập-Tự do-Hạnh phúc”.
Người quan tâm sâu sắc đến lợi ích thiết thực của giáo dân cả phần đời và
phần đạo. Theo Hồ Chí Minh: nước độc lập mà dân khơng được ấm no, hạnh
phức thì độc lập cũng khơng có nghĩa lý gì. Đồng bào các tơn giáo theo cách
mạng mà Đảng, Nhà nước không quan tâm đến lợi ích thiết thực của đồng bào
để “phần xác ấm no, phần hồn thong dong” thì khơng thể đồn kết được: “Nếu

giáo dục tốt thì giáo dân có thể đấu tranh… sống theo Đảng, chết theo Chúa…
Ta quan tâm đời sống quần chúng thì quần sẽ theo ta. Ta được lịng dân thì
khơng sợi gì cả” [12, tr.37]. Từ đó, Người đặc biệt quan tâm tỉ mỉ đến mọi mặt

11


đời sống sản xuất, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của giáo dân… Theo
tin thần đó, trong quá trình cách mạng, Đảng, Nhà nước ta đã quan tâm và từng
bước đem lại lợi ích thiết thực cho đồng bào tơn giáo. Đó là thực tế để các tín
đồ tơn giáo giác ngộ, đồn kết đi theo Đảng trong khách chiến cũng như trong
xây dựng đất nước trên con đường đổi mới.
Hồ Chí Minh ln quan tâm đến mọi người trên mọi mặt đời sống xã hội.
Khi có điều kiện, Người luôn gửi thư thăm hỏi, động viên, tặng quà cho các
chức sắc tôn giáo, từ các cụ già đến các bé nhỏ trong đồng bào tôn giáo. Với
những người lầm đường, lạc lối, Người kiên trì thuyết phục, cảm hóa họ, có
lịng khoan dung, độ lượng, bằng những lời lẽ chân tình, trên tình thương của
nhân loại. Các việc làm và lời nói sinh động đầy sức thuyết phục đối với đồng
bào tôn giáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm cho các tín đồ có niềm tin, tơn
trọng vào đường lối, chính sách cách mạng của Đảng và Nhà nước ta, họ đã
theo Đảng làm cách mạng và cũng khơng ít các tín đồ tơn giáo đã anh dũng hy
sinh trong hai cuộc kháng chiến để giành độc lập tự do cho dân tộc.
2. SỰ PHÁT TRIỂN TRONG QUAN ĐIỂM, CHÍNH SÁCH TÍN
NGƯỠNG, TƠN GIÁO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM (TỪ NĂM
1986 ĐẾN NAY)
2.1. Quan điểm, chủ trương về tín ngưỡng, tơn giáo của Đảng, Nhà nước
Việt Nam
Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng ta về tự do tín ngưỡng,
tơn giáo và đoàn kết dân tộc qua các thời kỳ cách mạng, trong công cuộc đổi mới đất
nước, Đảng ta đã có nhiều chủ trương về tín ngưỡng, tơn giáo và công tác tôn giáo.

Nghị quyết số 24/NQ-TW, ngày 16-10-1990, của Bộ Chính trị khóa VI “Về tăng
cường cơng tác tơn giáo trong tình hình mới” đã nêu hai luận điểm mang tính đột phá:
“Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân” và “Tơn giáo
có những giá trị văn hóa, đạo đức phù hợp với chế độ mới”. Đặc biệt, tại Hội nghị
Trung ương 7 khóa IX, Đảng ta đã thơng qua Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12-32003, “Về công tác tôn giáo”. Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định: “Tiếp tục

12


hồn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tơn giáo phù hợp với quan điểm của
Đảng. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các
tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực
cho cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ
chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà
nước công nhận, đúng quy định của pháp luật. Đồng thời, chủ động phòng ngừa, kiên
quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để mê hoặc, chia rẽ,
phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc” [8 , tr.245]
Tất cả các chỉ thị, nghị quyết, pháp lệnh nêu trên đều thể hiện nhất quán một
số quan điểm và chính sách sau đây:
* Về phương hướng: Hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo trong giai
đoạn mới phải nhằm tăng cường đồn kết đồng bào các tơn giáo trong khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện
thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
* Về quan điểm, chính sách
Một là, tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân
đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Thực hiện nhất qn chính sách tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng,
theo hoặc khơng theo một tơn giáo nào, quyền sinh hoạt tơn giáo bình thường theo

đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước
pháp luật.
Hai là, Nhà nước thực hiện nhất qn chính sách đại đồn kết dân tộc,
khơng phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng bào các tôn giáo là bộ
phận của khối đại đồn kết tồn dân tộc.
Các tơn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, hoạt động trong khn khổ pháp
luật. Đồn kết đồng bào theo các tơn giáo khác nhau; đồn kết đồng bào theo tơn giáo
và đồng bào khơng theo tơn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền
thống thờ cúng tổ tiên, tơn vinh những người có cơng với Tổ quốc và nhân dân.
13


Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tơn giáo. Đồng thời,
nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái
pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc,
gây rối, xâm phạm chủ quyền, an ninh quốc gia.
Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng.
Lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm
tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung. Mọi công dân
không phân biệt tín ngưỡng, tơn giáo đều có quyền, nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Công tác vận động quần chúng các tôn giáo nhằm động viên đồng bào nêu
cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất Tổ quốc thông qua
việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phịng, bảo đảm lợi
ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào các tôn
giáo.
Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
Nước ta hiện nay có hàng chục triệu tín đồ, chức sắc, nhà tu hành của các tơn
giáo, phân bổ ở mọi vùng, miền, địa phương trong cả nước. Vì vậy, cơng tác tơn giáo

có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và nhiều cấp, nhiều ngành.
Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của tồn bộ hệ thống chính trị do
Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ cán bộ chuyên trách làm cơng tác tơn giáo là lực
lượng tham mưu nịng cốt. Tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo cần được củng
cố, kiện toàn, nhất là ở những địa bàn trọng điểm có đơng đồng bào tơn giáo. Cơng
tác tơn giáo thực chất là công tác vận động quần chúng.
Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo.
Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp
pháp theo quy định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận,
hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ, được mở trường đào tạo chức
sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự
tơn giáo,.. của mình theo đúng quy định của pháp luật.
14


Việc truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ
Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt
động mê tín dị đoan, khơng được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ
chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm
các quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Như vậy, quan điểm, chính sách của Đảng ta về tơn giáo là rõ ràng, nhất quán,
đảm bảo quyền tự do, dân chủ. Trong khi đó, hiện nay, có những cá nhân, tổ chức trong
và ngoài nước vẫn cho rằng ở Việt Nam người dân khơng có quyền tự do tín ngưỡng,
tơn giáo. Từ đó, chúng dùng nhiều thủ đoạn để kích động đồng bào có đạo gây rối,
chống phá cách mạng, rơi vào âm mưu “diễn biến hồ bình” vơ cùng thâm độc của
chúng. Đó là những luận điệu sai lầm, xun tạc chính sách tơn giáo của Đảng, Nhà
nước ta cũng như xun tạc tình hình tơn giáo và các hoạt động tôn giáo ở nước ta hiện
nay mà chúng ta cần kiên quyết bác bỏ.
2.2. Nhận thức mới trong quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta
về tơn giáo trong thời kỳ đổi mới (1986 đến nay)

* Thừa nhận tính tất yếu và khả năng tồn tại lâu dài của tơn giáo trong q
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự phát triển nhận thức mang tính đột phá về tôn
giáo của Đảng, Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới
Năm 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đánh dấu bước khởi
đầu sự nghiệp đổi mối toàn diện đất nước, nhưng do nhiều nguyên nhân, trong đó có
nguyên nhân là: “So với đổi mới tư duy kinh tế, việc đổi mới tư duy về các vấn để văn
hoá và xã hội, về cơ chế quản lý văn hố, xã hội... cịn chậm” [7, tr.114], nên mãi tới
năm 1990 chúng ta mới có Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16-10-1990 của Bộ Ghính
trị về tăng cường cơng tác tơn giáo trong tình hình mới. Nghị quyết có nhiều nội dung,
một trong những nội dung đó là việc Đảng ta khẳng định: “Tơn giáo là vấn để cịn tồn
tại lâu dài. Tín ngưởng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, Sau
13 năm thực hiện, kế thừa tinh thần ấy, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương khố IX khẳng định: “Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta” [6, tr.48] . Quan điểm trên chỉ rõ trong quá trình xây dựng chủ
15


nghĩa xã hội ở nước ta việc tồn tại của tín ngưỡng, tơn giáo là một thực tế khách quan.
Nó là nhu cầu tinh thần phức tạp, tồn tại thật trong một bộ phận quần chúng nhân dân.
Tôn trọng và đáp ứng nhu cầu này là tôn trọng quyền con người là tạo nên động lực
của một bộ phận nhân dân, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
Khẳng định tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đang và sẽ
tồn tại cùng dân tộc trong quá trinh xây dựng chủ nghĩa xã hội là một đột phá lốn trong
nhận thức về tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới. Nó góp phần đấu
tranh khắc phục tư tưởng coi tôn giáo chỉ như một hiện tượng tàn dư, còn rơi rớt lại từ
các xã hội cũ, cần nhanh chóng loại bỏ càng sớm càng tốt, hoặc quan niệm coi tôn giáo
là sản phẩm chủ yếu từ các hoạt động chống phá của kẻ thù, dẫn đến nóng vội chủ quan
duy tâm, duy ý chí trong cơng tác tơn giáo của khơng ít cán bộ, đảng viên hiện nay. Đây

sẽ là cơ sở nền tảng để hình thành, phát triển các quan điểm, giải pháp mới về tôn giáo
vầ công tác tôn giáo.
* Trong thời kỳ mới, Đảng, Nhà nước ta xem xét, đánh giá tín ngưỡng, tơn
giáo tồn diện, lích sử, cụ thể hơn
Xem xét tơn giáo một cách tồn diện, trong mối quan hệ phong phú đa dạng
của nó với các lĩnh vực khác của đời sống chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội làm cơ
sở xác định quan điểm, chính sách đối với tôn giáo là một truyền thống của Đảng,
Nhà nước ta. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng, Nhà nước ta tiếp tục coi trọng xem xét,
đánh giá tôn giáo trong sự thống nhất biện chứng giữa ý thức tôn giáo, tổ chức tôn
giáo và các hoạt động tôn giáo. Bằng tổ chức, hoạt động tôn giáo và thông qua tổ
chức, hoạt động tơn giáo mà sức mạnh và vai trị của tôn giáo đối với xã hội và con
người được thực hiện. Vì thế, các “hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo phải bảo đảm an
toàn, tiết kiệm, phù hợp với truyền thơng, bản sắc văn hố dân tộc, giữ gìn, bảo vệ
mơi trường” [ 10, tr.14] và có mục tiêu, phương hướng, “...nhằm tăng cường đồn
kết đồng bào các tơn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh
tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh” [6, tr.48]. Đồng thời khẳng định Mọi
16


hoạt động tôn giáo xa rời hoặc trái với mục tiêu, phương hướng ấy cần được đấu
tranh, phê phán, thậm chí phải kiên quyết “đình chỉ”. Đây là một căn cứ cơ bản để
xây dựng các văn bản pháp luật quản lý, điều chỉnh các hoạt động tôn giáo và là tiêu
chí quan trọng đánh giá hiệu quả hoạt động của công tác tôn giáo trong thời kỳ mới.
Cho nên, có thể coi đây là một trong những nội dung quan trọng nhất, thể hiện sự
đổi mới tư duy của Đảng, Nhà nước ta về tôn giáo trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa.
* Đảng, Nhà nước ta từng bước khẳng định những “hạt” tích cực trong đạo
đức, văn hố, cộng đồng tơn giáo và tạo điều kiện giữ gìn, phát huy những giá trị

tích cực ấy vào xây dưng xã hội mới
Nhận thức sâu sắc vấn đề trên, trong Nghị quyết số 24/NQ- TW của Bộ
Chính trị Ban Chấp hành Trung ương khoá VI, Đảng ta đã nhận định: “Đạo đức tơn
giáo có nhiều điều phù hợp với cơng cuộc xây dựng xã hội mới” [6, tr. 45-46]. Và
tiếp theo các kỳ Đại hội, cho đến Đại hội X và Đại hội XI, Đảng ta chỉ rõ: “Tôn
trọng và phát huy vai trò gương mẫu, dẫn dắt của những người tiêu biểu, có uy tín
trong cộng đồng dân cư, các dân tộc, các tôn giáo”, “Phát huy những giá trị văn
hóa, đạo đức tốt đẹp của các tơn giáo” [ 8, tr.245], đến Đại hội XII Đảng ta tiếp tục
khẳng định : Xây dựng nếp sống văn hoá tiến bộ, văn minh, nhất là trong việc
cưới, việc tang, lễ hội. Nâng cao chất lượng, hiệu quả các cuộc vận động văn hố,
phong trào “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hoá”. Từng bước thu hẹp
khoảng cách về hưởng thụ văn hố giữa thành thị và nơng thơn, giữa các vùng,
miền và các giai tầng xã hội. Phát huy các giá trị, nhân tố tích cực trong văn hố
tơn giáo, tín ngưỡng.
Quan điểm trên đây của Đảng ta là nguồn động lực to lớn, tạo nên niềm
phấn khởi, cổ vũ đồng bào các tơn giáo, nhất là các tín đồ, chức sắc tiến bộ, tích
cực tham gia vào phong trào thi đua yêu nước, xây dựng các cộng đồng tôn giáo
ngày càng phồn vinh, hạnh phúc, “sống tốt đời, đẹp đạo”.
* Trong thời kỳ mới, Đảng, Nhà nước ta xác định: Nội dung cốt lõi của công
tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng

17


Cái mới trong nhận thức của Đảng, Nhà nước ta về cơng tác tơn giáo trong
thời kỳ mới, chính là việc nhấn mạnh vị trí, vai trị “cốt lõi” của công tác vận động
quần chúng trong công tác tôn giáo. Điều này là hoàn toàn đứng đắn cả về lý luận
và thực tiễn.
Công tác tôn giáo bao gồm nhiều hoạt động thuộc nhiều lĩnh vực tuỳ cách
tiếp cận, mục đích nghiên cứu có thể chia thành các dạng, loại khác nhau có thể

xem cơng tác tơn giáo gồm ba mặt hoạt động chính là: quản lý nhà nước về tơn
giáo, đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo và công tác vận động quần chúng,
trọng đó cơng tác vận động quần chúng phải là nội dung: cốt lõi là cơ sở nền tảng
chi phối định hướng cho các mặt công tác khác. “Công tác quản lý nhà nước đối
với các tôn giáo và đấu tranh chống việc lợi dụng tôn giáo để chống đối chế độ chỉ
thành công nếu làm tốt công tác vận động quần chúng”[ 6, tr.50]. Bởi vì, cơng tác
tơn giáo trước hết là cơng tác đối với con người, vì con người. Mục đích cao nhất
của nó là phải cùng các hoạt động khác góp phần thực hiện thắng lợi đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Nên muôn giành thắng lợi, nâng cao
chất lượng, hiệu quả nó phải: “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách
nhiệm với dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”[ 6, tr.22].
Một nhiệm vụ rất quan trọng của công tác tôn giáo là phải: “Tạo điều kiện
cho các tơn giáo hoạt động bình thường theo đúng chính sách và pháp luật của Nhà
nước” “[6, tr.51]. Trong khi khẳng định nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là
công tác vận động quần chúng, Đảng, Nhà nước ta không bao giờ coi công tác tôn
giáo chỉ duy nhất là công tác vận động quần chúng. Ngược lại, trong điều kiện
mới, nhất là khi các thế lực thù địch đang tăng cường lợi dụng tơn giáo để chống
phá cách mạng, thì cơng tác quản lý nhà nước về tôn giáo và công tác đấu tranh
chống địch lợi dụng tôn giáo chống chế độ cần được đặc biệt coi trọng, nhằm kiên
quyết làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề “dân
chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hịng can thiệp vào cơng việc nội bộ...
của Việt Nam.
Đây là một nội dung thể hiện ở tầm quan điểm, lập trường, chi phối cả mục
đích, đối tượng, phương thức, biện pháp hoạt động của tồn bộ cơng tác tơn giáo.
18


Nó vừa thể hiện một cách nhìn tồn diện, hệ thống nhưng vẫn phát hiện đúng nội
dung cơ bản chủ yếu, một cách làm đồng bộ nhưng có trọng tâm, trọng điểm; vừa
khắc phục được cách nhìn, cách lầm phiến diện, chung chung trừu tượng đối với

công tác tôn giáo, trong thời kỳ mới.
3. TÌNH HÌNH TƠN GIÁO VÀ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TƠN
GIÁO Ở VIỆT NAM VÀ CÁC GIẢI PHÁP TRONG XEM XÉT GIẢI
QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
3.1. Tình hình thực hiện chính sách tơn giáo ở Việt Nam hiện nay
Việt Nam có thể coi là bảo tàng về tơn giáo, tín ngưỡng của thế giới. Ở đây có
đủ từ các tín ngưỡng truyền thống như đồng, cốt, xem bài, xóc thẻ đến các tơn giáo
hiện đại. Có tơn giáo ngoại nhập như Cơng giáo, Hồi giáo, Tin lành, Phật giáo,
Baha’i. Có tơn giáo nội sinh như Cao đài, Hoà hảo, Tứ ân hiếu nghĩa, Bửu sơn kỳ
hương… Theo số liệu của Ban tơn giáo Chính phủ, đến nay, nước ta có hơn 26,5
triệu tín đồ (chiếm hơn1/4 dân số), trong đó Phật giáo khoảng 11 triệu người, Công
giáo 6,1 triệu, Cao đài 2,4 triệu, Hoà hảo 1,2 triệu, Tin lành 1,5 triệu và Hồi giáo
khoảng 100.000 tín đồ. Song nếu kể các hành vi thờ cúng tổ tiên, thành hồng, vua
Hùng… thì hầu hết người Việt có tâm linh tơn giáo.
Nhà nước đã công nhận tư cách pháp nhân của 16 tôn giáo với 43 tổ chức tôn
giáo và đang xem xét hồ sơ một số tôn giáo nữa. Sau khi Việt Nam mở cửa, hội
nhập với thế giới, nhiều tôn giáo mới đã du nhập vào. Nhiều nhất là các tổ chức
đạo Tin lành đến từ Hoa Kỳ, Hàn Quốc. Miền Nam trước giải phóng chỉ có 12 hệ
phái Tin lành, nay có tới 30 phái. Tơn giáo này có sức lơi cuốn học sinh, sinh viên
và giới trẻ.
Trước đây, tín đồ chỉ sinh hoạt tôn giáo với việc thực hiện các giáo lý, luật lệ,
lễ nghi tôn giáo trong cơ sở tơn giáo, chưa có sự mở rộng kết hợp với văn hóa
truyền thống; thì nay tín đồ có thể thể hiện niềm tin tơn giáo ở ngồi cơ sở thờ tự,
có sự kết hợp giữa tơn giáo với văn hóa truyền thống. Ví dụ như Phật giáo ở Việt
Nam, sau một quá trình truyền bá và đồng hành cùng đất nước, đã có sự hịa nhập
với văn hóa truyền thống của người Việt như tiền Phật hậu Mẫu, tiền Phật hậu
19


Thánh…; hình thức thờ cúng rất đa dạng, đan xen trong chùa - đền - phủ - tư gia.

Trong đạo Cơng giáo cũng có sự giao hịa giữa niềm tin với Thiên Chúa và thờ
cúng tổ tiên; Hồi giáo với văn hóa của người Chăm.
Việc mở rộng các hình thức sinh hoạt tôn giáo được Nhà nước bảo đảm thông
qua Luật Tín ngưỡng, tơn giáo. Đồng thời, sinh hoạt tơn giáo ngoài cơ sở thờ tự
đều phải bảo đảm quy định theo Điều 46 của Luật bao gồm: đăng ký địa điểm hợp
pháp, người chủ trì và thành phần tham dự, nội dung, thời gian tổ chức cũng như
giữ mối liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tại nơi tổ chức sinh hoạt tôn
giáo để bảo đảm an ninh trật tự…
Cùng với quá trình hội nhập quốc tế, số người nước ngoài sinh sống và làm
việc tại Việt Nam gia tăng, hiện nay khoảng gần 90.000 người, phần lớn đều có
nhu cầu tín ngưỡng, tơn giáo và thực hiện sinh hoạt tôn giáo. Việt Nam đã đáp ứng
nhu cầu tinh thần của người nước ngoài cư trú hợp pháp bằng việc hoàn thiện
những quy định phù hợp với hoàn cảnh mới, được thể hiện rõ trong Mục 2 của
Luật Tín ngưỡng, tơn giáo (từ Điều 47 đến Điều 53); trong đó nổi bật là tạo điều
kiện cho nhóm người nước ngồi cư trú hợp pháp tại Việt Nam có thể th, mượn
địa điểm để sinh hoạt tơn giáo, mời chức sắc, chức việc là người Việt Nam hay
nước ngoài đến giảng đạo, mang theo các sản phẩm tôn giáo… Đây là minh chứng
việc Nhà nước Việt Nam ln tơn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo
có yếu tố nước ngồi.
Các tơn giáo ở Việt Nam dù khác nhau về nguồn gốc, giáo lý nhưng lại không
thuần nhất mà đan xen, vay mượn nghi lễ của nhau. Đạo Tổ tiên vừa cúng khấn
như đạo Lão nhưng chọn ngày rằm, mùng một như đạo Phật. Trên bàn thờ của đạo
Cao đài có thờ đủ Khổng Tử, Lão Tử, Đức Phật, Chúa Giêsu và Khương Tử Nha.
Đạo Công giáo bây giờ cũng thắp hương trước ảnh người quá cố và ghi điều khấn
nguyện ra giấy rồi đốt đi trước bàn thờ Đức Mẹ. Tâm lý người Việt cũng chi phối
cả niềm tin tôn giáo. Trong đạo Công giáo, Chúa là trên hết và chỉ thờ một Chúa
nhưng ở Việt Nam, Đức Mẹ được sùng bái hơn. Nhiều nhà thờ, đền thánh dâng
kính Đức Mẹ. Nhiều nữ giáo dân lấy quan thày là Maria. Phật giáo cũng thế. Phật
20



Bà Quan âm được dựng tượng nhiều hơn và sùng bái hơn ở các chùa chiền. Tín đồ
tơn giáo này nhưng cũng tham gia nhiều sinh hoạt của tôn giáo khác. Ví dụ, người
Cơng giáo vẫn thắp hương ngày rằm, mùng 1 và đi xem bói. Một số tín đồ Phật tử
vẫn đến xin khấn ở các nhà thờ Công giáo.
Các tôn giáo ở Việt Nam xuất hiện sớm muộn khác nhau và đều trải qua lịch
sử thăng trầm, cũng đã từng ít nhiều bị thế lực bên ngồi chi phối nhưng có thể
khẳng định, đa số đồng bào các tơn giáo ở Việt Nam có tinh thần u nước bởi
trước khi là tín đồ các tơn giáo họ đã là người Việt mang trong mình dịng máu
Lạc- Hồng. Gắn bó với cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam,
những yếu tố tiêu cực của tôn giáo bị hạn chế hay triệt tiêu, những yếu tố tích cực
được phát huy, triển nở. Vì vậy có thể thấy xu hướng gắn bó với dân tộc, đi với dân
tộc là xu hướng chung của các tôn giáo ở Việt Nam. Những đường hướng tốt lành
của các tôn giáo như “Sống Phúc âm giữa lịng dân tộc” của Cơng giáo, “Đạo
pháp- Dân tộc- Chủ nghĩa xã hội” của Phật giáo, “Nước vinh, đạo sáng” của Cao
đài, “Sống Phúc âm phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ quốc và Dân tộc’ của Hội
thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc)…là kết quả nhận thức và hành động thực tiễn
lâu dài của các tơn giáo tại Việt Nam. Hơn nữa, chỉ có gắn bó với dân tộc, văn hố
Việt Nam, các tơn giáo mới có cơ hội tồn tại và phát triển.
Hiện nay, đang diễn ra nhiều xu thế phát triển tôn giáo trên thế giới, nhưng xu
thế chủ đạo của các tôn giáo trên thế giới cũng như ở Việt Nam là xu thế nhập thế
(tăng cường tham gia các hoạt động xã hội như y tế, giáo dục, từ thiện,…); chuyển
hướng từ siêu trần thế sang kết hợp với nhập thế. Thơng qua hoạt động nhập thế,
vai trị xã hội của các tổ chức tôn giáo được nâng cao, tạo sự gắn kết và đoàn kết
dân tộc và khẳng định vai trị của các tổ chức tơn giáo Việt Nam đối với sự phát
triển đất nước.Các tổ chức tôn giáo khác ở Việt Nam đã đóng góp hiệu quả trong
hoạt động xã hội như y tế, giáo dục, từ thiện nhân đạo. Thông qua tổng hợp của
Ban Từ thiện xã hội Trung ương cho thấy, kinh phí sử dụng trong công tác từ thiện
xã hội của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tăng dần theo từng năm.


21


Tổng số kinh phí mà Giáo hội Phật giáo Việt Nam huy động quyên góp sau 36
năm là gần 7.000 tỷ đồng, thể hiện sự quan tâm, đóng góp và là sự công nhận của
cộng đồng đối với Phật giáo trong các hoạt động xã hội như: chăm sóc Bà mẹ Việt
Nam Anh hùng, chăm sóc người già neo đơn, nồi cháo tình thương, bếp cơm chay
từ thiện, khám Đơng y,...Giáo hội Công giáo Việt Nam cũng thành lập Caritas Việt
Nam - tổ chức hoạt động bác ái xã hội, tích cực tham gia hoạt động y tế, cứu trợ
thiên tai, từ thiện nhân đạo như: hỗ trợ đào tạo cán bộ y tế sơ cấp, hỗ trợ giáo dục
mầm non, dạy nghề hướng nghiệp cho thanh niên, tư vấn người nhiễm HIV/AIDV,
trao quà từ thiện,… Giáo hội Công giáo Việt Nam có 13 cơ sở chữa bệnh phong,
chữa HIV và bệnh tâm thần, 189 cơ sở khám, chữa bệnh và điều dưỡng, 159 cơ sở
chăm sóc người khuyết tật, trẻ mồ côi, người già không nơi nương tựa, 748 nhà trẻ,
mẫu giáo, lớp học tình thương. Các hệ phái Tin lành đã và đang triển khai các hoạt
động từ thiện xã hội như khám, chữa bệnh miễn phí, giúp đỡ người nghèo, cấp học
bổng cho học sinh, xây dựng đường giao thông nông thôn, hỗ trợ mổ tim, mổ mắt,
tặng dụng cụ y tế, Chương trình mục vụ Tin lành cai nghiện với các hoạt động thiết
thực tại các trung tâm cai nghiện tại gia hay cơ sở cai nghiện của Hội thánh Tin
lành Việt Nam (miền Bắc),…
Thời gian qua, các tổ chức tôn giáo đã nhận được sự hỗ trợ từ Đảng và Nhà
nước thông qua hệ thống quan điểm, chính sách kết hợp với đường hướng hoạt
động đồng hành cùng dân tộc của các tổ chức tôn giáo. Tại Mục 3, Điểu 54 và 55
trong Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đã nhấn mạnh, các tổ chức tôn giáo được tham gia
các hoạt động xã hội như y tế, từ thiện nhân đạo,… Cùng nâng cao uy tín của các
tổ chức tơn giáo với vai trị là nguồn lực xã hội đã nhận được sự giúp đỡ của các
cấp chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội,…
3.2. Các giải pháp trong xem xét giải quyết vấn đề tơn giáo trong tình
hình hiện nay
Một là, Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm

của hệ thống chính trị.

22


Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các quan điểm, chủ trương, chính
sách về tơn giáo của Đảng và Nhà nước trong cán bộ, đảng viên,nhân dân,nhất là
trong chức sắc,chức việc,nhà tu hành và tín đồ các tơn giáo. Giáo dục truyền thống
yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất của Tổ quốc, làm cho các tơn giáo
gắn bó với dân tộc, với đất nước và chủ nghĩa xã hội,hăng hái thi đua xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Giữ gìn và phát huy truyền thống thờ cúng tổ tiên, tơn vinh và nhớ ơn những
người có công với Tổ quốc, dân tộc và nhân dân; tôn trọng tín ngưỡng truyền
thống của đồng bào các dân tộc và đồng bào có đạo, thơng qua đó tăng cường sự
đồng thuận giữa những người có tín ngưỡng,tơn giáo và những người khơng tín
ngưỡng, tơn giáo; giữa những người có các tín ngưỡng, tơn giáo khác nhau; đồng
thời, tạo cơ sở để đấu tranh chống những tà đạo, những hoạt động mê tín dị đoan,
lợi dụng tơn giáo làm hại đến lợi ích của Tổ quốc, dân tộc và nhân dân.
Hai là, Tăng cường công tác vận động quần chúng, xây dựng lực lượng chính
trị ở cơ sở.
Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; đổi mới nội dung, phương thức cơng
tác vận động đồng bào tín đồ các tôn giáo, phù hợp với đặc điểm của đồng bào có
nhu cầu ln gắn với sinh hoạt tơn giáo và tổ chức tôn giáo. Tăng cường hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong việc tuyên truyền
chủ trương, chính sách đối với các chức sắc,chức việc, nhà tu hành và tín đồ các
tôn giáo.
Ba là, tăng cường quản lý Nhà nước về tơn giáo.
Tăng cường đầu tư và thực hiện có hiệu quả các dự án, chương trình mục tiêu
quốc gia, đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao đời sống vật chất,
văn hoá cho nhân dân các vùng khó khăn, đặc biệt quan tâm đến các vùng đơng tín

đồ tơn giáo và vùng dân tộc miền núi cịn nhiều khó khăn. Tăng cường cảnh giác
cách mạng, xây dựng phương án cụ thể, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm

23


mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tơn giáo để kích động chia rẽ nhân
dân, chia rẽ các dân tộc,gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
Giải quyết việc tôn giáo tham gia thực hiện chủ trương xã hội hoá các hoạt
động y tế, văn hoá, xã hội,giáo dục…của Nhà nước, theo nguyên tắc: Khuyến
khích các tôn giáo đã được Nhà nước thừa nhận tham gia phù hợp với chức năng,
nguyên tắc tổ chức của mỗi tôn giáo,theo quy định của pháp luật; Các cá nhân tín
đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu hành tham gia với tư cách cơng dân thì được
khuyến khích và tạo điều kiện thực hiện theo quy định của pháp luật.
Đối với việc khiếu kiện liên quan đến nhà và cơ sở tơn giáo đã chuyển giao
cho chính quyền hoặc đồn thể sử dụng: về nguyên tắc, xử lý theo quy định của
pháp luật hiện hành, riêng đối với trường hợp nhà, đất do tơn giáo đã hiến tặng có
văn bản xác nhận thì khơng đặt vấn đề trả lại.
Đối với hội đồn tơn giáo, thực hiện theo ngun tắc mỗi tổ chức tôn giáo
phải được Nhà nước công nhận và hoạt động theo quy định của pháp luật.
Bốn là, tăng cường công tác tổ chức, cán bộ làm công tác tơn giáo.
Củng cố, kiện tồn bộ máy tổ chức làm cơng tác tơn giáo của Đảng, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, mơ hình tổ chức quản lý nhà nước về tôn giáo ở các cấp; xây dựng quy chế
phối hợp phát huy sức mạnh và hiệu quả công tác. Phát huy sức mạnh của đại đoàn
kết dân tộc, cần tạo sự chuyển biến đồng bộ của các cấp, các nghành, trước hết là
các cấp uỷ và tổ chức Đảng, bắt đầu từ nhận thức đến tổ chức thực hiện chính sách
đại đồn kết tồn dân tộc. Làm tốt công tác dân vận, công tác dân tộc, công tác tôn
giáo,từng bước ổn định cơ sở vùng xung yếu; xử lý kịp thời, linh hoạt các vấn đề
đặt ra trên quan điểm chính sách dân tộc, tơn giáo của Đảng. Ban hành pháp luật,

cơ chế, chính sách có liên quan đến lĩnh vực công tác dân tộc, tôn giáo.

24


×