Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tieu luan cao học mon kinh te bao chi truyen thong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.55 KB, 19 trang )

BÁO CHÍ VÀ KINH TẾ
1. Khái niệm kinh tế báo chí
Xét trong khía cạnh kinh tế, có thể nói những chuyển động trong khu vực
báo chí diễn ra chậm hơn nhiều so với các khu vực kinh doanh, sản xuất của xã
hội. Vào đầu những năm 90 của thế kỷ trước, khi quan hệ thị trường đã được
khẳng định rõ ràng và trở thành đòi hỏi trong quản lý, phát triển của các doanh
nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế, thì hầu như các cơ quan báo chí cịn quá lạ
lẫm với vấn đề tự chủ tài chính. Tuy nhiên, vào thời điểm hiện nay đã có hàng
trăm cơ quan báo chí đã hồn tồn tự chủ về tài chính, tự đảm bảo được nguồn lực
kinh tế - kỹ thuật cho các hoạt động nghiệp vụ cũng như khả năng mở rộng quy
mô sản phẩm và khả năng ảnh hưởng.
Nhìn một cách tổng thể, có thể thấy trong xã hội đang hình thành một nền
kinh tế báo chí. Hai chỗ dựa quyết định cho nền kinh tế báo chi là sản phẩm hàng
hóa báo chí truyền thơng và dịch vụ quảng cáo trên các phương tiện truyền thông.
Xã hội càng phát triển thì u cầu thơng tin báo chí càng tăng lên, do đó nhu cầu
về sản phẩm hàng hóa báo chí cũng tăng lên. Nền kinh tế tăng trưởng nhanh dẫn
đến nhu cầu ngày càng lớn về quảng cáo nhằm đưa hàng hóa, dịch vụ đến người
tiêu dùng.
Như vậy, kinh tế hiện nay trong ngành báo chí là tổng hòa các quan hệ xã
hội trong lĩnh vực sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng những kết quả hoạt
động báo chí trên cơ sở cơ chế kinh doanh thị trường.
Cơ chế kinh doanh thị trường đòi hỏi trước hết phải có các cơ quan thơng
tin cơng chúng trên thị trường thơng tin. Mục đích là để thị trường này (tổng hịa
các khách hàng hiện có và tiềm tang muốn mua thơng tin) tiếp nhận tích cực sản
phẩm lao động sáng tạo của mình, điều mà có thể dẫn đến sự trao đổi “hàng – tiền)
năng động hơn và làm tăng tỷ phần năng động của thị trường nhờ thu hút thêm
được công chúng.
1.1 Tiếp thị của báo chí

1



Thị trường thơng tin đang hình thành của các phương tiện thông tin đại
chúng ở mỗi nước đang hướng các nhà báo vào việc phát huy tính chủ động kinh
doanh, biết hịa nhập vào điều kiện hoạt động khơng quen thuộc của báo chí. Tham
gia vào cuộc cạnh tranh gay gắt giành thị trường tiêu thụ, các tòa soạn phải lo
khơng những về chất lượng sản phẩm báo chí của mình mà cả việc giảm chi phí
sản xuất và đảm bảo giải quyết tối ưu những vấn đề liên quan đến việc bán báo với
số lượng lớn nhất có thể được. Phải chú trọng việc tiếp thị báo chí: phân tích mọi
mặt và tính đến các điều kiện kinh doanh của tịa soạn trên thị trường, tìm các cách
tiêu thụ báo và tăng khối lượng tiêu thụ báo trên thị trường.
Tiếp thị là một dạng hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu
thông qua trao đổi tiền – hàng, là hẹ thống phân tích, tổ chức, quy hoạch và kiểm
sốt nguồn lực, chính sách và hoạt động của một hãng nhằm thỏa mãn một nhóm
người tiêu dùng nhất định.
Khái niệm tiếp thị được thể hiện bằng khẩu hiệu: “Hãy tìm và thỏa mãn nhu
cầu!”, “Yêu quý khách hàng, chứ khơng phải hàng hóa”.
Cịn đối với báo chí có lẽ nên đưa ra định nghĩa sau đây: Tiếp thị của báo
chí là nghệ thuật phổ biến thơng tin báo chí đến đơng đảo khách hàng với mục
đích thỏa mãn nhu cầu của họ và báo chí có thu nhập cao.
6 nguyên tắc quan trọng đối với tiếp thị của báo chí:
Thứ nhất, trước khi đưa ấn phẩm ra thị trường cần phải nghiên cứu thị
trường độc giả (xác định dụng lượng tiềm tang của thị trường, tính chất và lượng
nhu cầu về báo) và cân nhắc khả năng của mình về sản xuất và tiêu thụ (các nguồn
lực của tịa soạn về tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật, sức sáng tạo và vốn bàn đầu)
Thứ hai, sau khi nghiên cứu thị trường, tịa soạn phải tìm ra trong đó một
khe hở để bán báo dễ dàng hơn.
Thứ ba, trong khe hở đó nhất thiết phải “đóng cọc” mặt hàng tờ báo của
mình, củng cố vị trí của ấn phẩm vì các tịa soạn khác cũng có thể bán cái gì đó
tương tự trong khe hở đó.


2


Thứ tư, tòa soạn phải phản ứng linh hoạt đối với yêu cầu của độc giả có nhu
cầu thay đổi.
Thứ năm là không được quên thường xuyên đổi mới và hồn thiện nội dung
và cách trình bày báo, cơng nghệ và tổ chức sản xuất báo nếu không sẽ bị thất bại
trong việc đóng chốt tờ báo trên thị trường.
Sáu là, nên vạch ra chiến lược rủi ro để giảm bớt căng thẳng cạnh tranh trên
thị trường.
1.2. Quảng cáo trên báo chí
Trên thế giới, quảng cáo hiện nay đã phát triển tới những trình độ cao, tuy
nhiên ở Việt Nam - do còn nhiều hạn chế - nên đa số các sản phẩm quảng cáo vẫn
cịn ở trình độ thấp. Các sản phẩm quảng cáo để có thể đến với khách hàng tiềm
năng cần phải được truyền tải qua cac hương tiện truyền thơng, như: báo in, tạp
chí, đài phát thanh, truyền hình, báo điện tử.
Quảng cáo xét từ góc độ truyền thơng, thương mại…sẽ có những định
nghĩa khác nhau. Nhưng dù từ góc độ nào, quảng cáo là một dạng thơng tin kinh tế
đặc thù, nói tốt cho hàng hóa, dịch vụ nhằm mở rộng những người mua hàng hoặc
sử dụng dịch vụ đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ hàng hóa. Quảng cáo là quan hệ kinh tếdịch vụ diễn ra giữa chủ thể quảng cáo và đơn vị dịch vụ quảng cáo nhằm mục
đích bán hàng, phát triển dịch vụ hoặc phục vụ nhu cầu khác của chủ thể quảng
cáo. Quảng cáo cũng thu lợi nhiều mặt cho đơn vị hoạt động trong lĩnh vực dịch
vụ quảng cáo-cơ quan báo chí-xã hội và người tiêu dùng.
Như vậy, quảng cáo là hình thức tuyên truyền được trả tiền để thực hiện
việc giới thiệu thông tin về sản phẩm, dịch vụ, công ty hay ý tưởng, quảng cáo là
hoạt động truyền thông phi trực tiếp giữa người với người mà trong đó người
muốn truyền thơng phải trả tiền cho các phương tiện truyền thông đại chúng để
đưa thông tin đến thuyết phục hay tác động đến người nhận thông tin.
1.3 Tập đồn báo chí


3


Tập đồn báo chí chính là tập đồn kinh tế mà báo chí, truyền thơng đại
chúng là lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính hoặc là một bộ phận tạo thành có ý
nghĩa quan trọng, có vai trị độc lập tương đối.
Trên thực tế, rất hiếm thấy tập đoàn truyền thơng báo chí nào khơng có hoạt
động sản xuất kinh doanh ngồi lĩnh vực báo chí, truyền thơng đại chúng. Vì là tập
đồn kinh tế nên nói chung, sự hình thành của các tập đồn báo chí cũng xuất phát
từ chính những ngun nhân đã hình thành các tập đồn kinh tế:
Thứ nhất, do sự phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là dưới tác
động của cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật và công nghệ, cho phép hình thành
việc tổ chức sản xuất mới trên cơ sở vừa chun mơn hố vừa tăng cường liên kết
giữa các nhà máy, doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế.
Thứ hai, sự cạnh tranh tất yếu dẫn đến việc liên kết dưới nhiều hình thức
khác nhau để tạo ra sức mạnh to lớn hơn, các nguồn lực mạnh mẽ hơn cho các
doanh nghiệp, tạo nên khả năng cạnh tranh lớn hơn và tránh rủi ro.
Thứ ba, do sự phát triển và tính chất của nền kinh tế thị trường địi hỏi phải
có sự đầu tư lớn vào nghiên cứu, dự báo, hoạch định chính sách phát triển để đảm
bảo sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Cơng việc này địi hỏi nguồn lực to lớn mà
chỉ có những đơn vị kinh tế có quy mơ lớn mới có khả năng thực hiện.
1.4. Thương mại hóa báo chí
Khái niệm thương mại hóa báo chí hiện nay vẫn cịn có nhiều tranh cãi. Có
nhiều người cho rằng khơng nên dùng từ thương mại hóa đối với báo chí, vì điều
đó có thể gây hiểu sai là các tờ báo đang “lá cải hóa”.
Tuy nhiên nhóm cũng xin tự đưa ra cách hiểu của mình về “thương mại hóa
báo chí”. Đó là một q trình mà các cơ quan báo chí tìm cách tăng thu nhập cho
mình bằng các hoạt động kinh tế khác bên cạnh việc kinh doanh các loại hình báo
chí thơng thường. Đó có thể là các hoạt động quảng cáo cho các sản phẩm, thâu
tóm các khâu trong quá trình làm báo: in ấn, phát hành… phát triển thêm các dịch

vụ giá trị gia tăng trên tờ báo hoặc cũng có thể tham gia và các lĩnh vực kinh tế
khác.

4


1.5. Tập trung và độc quyền hóa báo chí
Tập trung hóa báo chí là q trình sáp nhập giữa các cơ quan báo chí,
hoặc thơn tính, thâu tóm, bành trướng lẫn nhau giữa các cơ quan báo chí để hình
thành nên các tập đồn báo chí.
Độc quyền, trong kinh tế học, độc quyền là trạng thái thị trường chỉ có duy
nhất một người bán và sản xuất ra sản phẩm, khơng có sản phẩm thay thế gần
gũi. Tiếng Anh: monopoly có nguồn gốc từ tiếng Hy lạp monos (nghĩa là một) và
polein (nghĩa là bán). Đây là một trong những dạng của thất bại thị trường, là
trường hợp cực đoan của thị trường thiếu tính cạnh tranh. (vi.wikipedia.org)
Độc quyền hóa báo chí đó là tình trạng mà các các tập đồn báo chí đã
thâu tóm tồn bộ các cơ quan báo chí, biến mình trở thành duy nhất trên thị
trường nhằm phục vụ mục đích riêng của mình.
2. Quản lý nhà nước và quản trị kinh doanh đối với báo chí
2.1 Khái niệm quản lý nhà nước với báo chí
Khái niệm quản lý nhà nước thường liên quan đến thuật ngữ hành chính và
nội hàn của hành chính thay đổi cùng với sự phát triển của xã hội. Trước đây,
nghĩa của từ hành chính nhấn mạnh đến ý nghĩa cai trị, sau này đề cập đến cả ý
nghĩa làm dịch vụ, phục vụ cộng đồng.
Theo nghĩa tổng quát, quản lý nhà nước là quản lý mọi mặt của đời sống xã
hội bằng các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước không bao gồm hoạt động lập pháp và tư
pháp mà là hoạt động hành chính của cơ quan thực thi quyền lực nhà nước để quản
lý, điều hành các lĩnh vực của đời sống xã hội (nghĩa là thực hiện các nhiệm vụ
chính trị, kinh tế, văn hóa (trong đó có các mặt liên quan đến lĩnh vực thơng tin

báo chí, truyền thơng đại chúng), quốc phịng, giữ gìn an ninh quốc gia…) bằng
luật pháp.
2.1 Quản lý nhà nước về báo chí trong thời kỳ hội nhập

5


Báo chí tác động từng ngày, từng giờ đến đời sống xã hội. Vì vậy, mọi chế
độ chính trị đều có chủ trương và biện pháp quản lý báo chí theo hướng có lợi nhất
cho mình. Ở nước ta, mục tiêu cao nhất của báo chí cách mạng là phục vụ cho sự
phát triển của đất nước và lợi ích của nhân dân. Bởi vậy, quản lý nhà nước về báo
chí trong từng thời kỳ phát triển của đất nước cũng phải có sự điều chỉnh, thay đổi
cho phù hợp với sự thay đổi hàng ngày của thực tế đời sống.
2.1.2 Thực trạng quản lý nhà nước về báo chí
Theo quy định của Luật Báo chí năm 1999 (đã sửa đổi, bổ sung), cơ quan
quản lý nhà nước về báo chí gồm: cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở trung
ương (Bộ Thơng tin và truyền thơng); các bộ, cơ quan ngang bộ; cơ quan quản lý
nhà nước về báo chí ở địa phương (UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương)
2.1.3 Quản lý nhà nước về báo chí ở trung ương
Thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được Luật Báo chí quy định, Bộ
Thơng tin và truyền thông thực hiện chức năng quản lý nhà nước về báo chí trên
nhiều lĩnh vực, điển hình là các lĩnh vực sau:
Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và phát
triển sự nghiệp báo chí
Thời gian qua, hoạt động này được Bộ Thơng tin và truyền thông thực hiện
nghiêm túc, đúng định hướng và sự chỉ đạo của lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Thực
hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị và Thủ tướng Chính phủ, “Bộ đã và đang tiếp
tục tiến hành rà soát chức năng, nhiệm vụ các cơ quan báo chí, xác định những ấn
phẩm chồng chéo về tơn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm vụ, khơng phù hợp quy
hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 1999; trình Thủ tướng Chính

phủ ký ban hành “Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010”... xây dựng quy
hoạch hệ thống báo chí in tồn quốc” (1). Tuy nhiên, việc quy hoạch làm không
đều, liên tục. Thêm nữa, công tác quản lý nhà nước về báo chí cịn “thiếu chủ động
trong định hướng chiến lược; chạy theo vụ việc, lúng túng trong quy hoạch, sắp
xếp” (2). Thực tế hoạt động báo chí hiện nay vẫn tồn tại hiện tượng vừa thừa, vừa
thiếu, nhất là tình trạng có nhiều tờ báo trùng lắp về nội dung và thiếu ở chỗ nội

6


dung một số mảng đề tài không được đề cập đến, nhất là mảng đề tài về các ngành
khoa học. Thừa, thiếu còn thể hiện ở việc báo được xuất bản, phát hành phân bố
không đều, tập trung chủ yếu ở thành thị, cịn nơng thơn, nhất là vùng sâu, vùng
xa, vùng miền núi, nhân dân có rất ít báo hoặc khơng có báo để đọc. “Nhiều cơ
quan báo chí chỉ coi trọng địa bàn thành phố, thị xã vì ở đó có thể phát hành được
nhiều, cịn các địa bàn khác khơng được quan tâm đúng mức. Tình trạng đó dẫn
đến mức hưởng thụ sách báo quá chênh lệch giữa thành phố, thị xã và vùng nông
thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Hiện nay, 75% báo chí chủ yếu phát hành ở
thành phố, thị xã, vùng trung tâm, cịn 25% báo chí phát hành ở vùng nơng thơn”
(3).
Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật
về báo chí
Từ năm 1999 đến nay, Bộ Thơng tin và truyền thơng đã chủ trì, phối hợp
xây dựng và trình Chính phủ ký ban hành, tự ban hành hơn 30 văn bản quy phạm
pháp luật trong lĩnh vực báo chí. Cùng với Luật Báo chí, các văn bản pháp luật
này bước đầu phục vụ có hiệu quả cơng tác quản lý báo chí. Tuy nhiên, với sự phát
triển như vũ bão của công nghệ thông tin và sự thay đổi nhanh chóng của đời sống
thì nhìn chung, các văn bản quy phạm pháp luật này còn thiếu đồng bộ, việc sửa
đổi, bổ sung chậm được tiến hành. Với chức năng là cơ quan quản lý cấp trung
ương, Bộ Thông tin và truyền thông chưa kịp thời, chủ động trong việc tổ chức tập

huấn triển khai nội dung các văn bản pháp luật cho cán bộ quản lý của các sở; đề
xuất, kiến nghị, xây dựng văn bản liên quan đến báo chí cịn hạn chế (4).
Thanh tra, kiểm tra hoạt động báo chí
Hoạt động thanh tra, kiểm tra báo chí đang ngày càng đi vào nề nếp. “Từ
năm 1999 đến nay, Bộ đã tiếp nhận và giải quyết hơn 1.750 đơn thư khiếu nại, tố
cáo, phản ánh về những thơng tin khơng chính xác trên báo chí do các cá nhân, tổ
chức trong cả nước gửi tới liên quan đến gần 1.000 vụ việc” (5). Một số nhà báo
lợi dụng uy tín nghề nghiệp làm trái với đạo đức, trách nhiệm của người làm báo,
vi phạm Luật Báo chí đã bị xử lý nghiêm bằng các hình thức: cảnh cáo, tịch thu

7


thẻ nhà báo, phê bình, khiển trách. Những người đứng đầu cơ quan báo chí có
người vi phạm, do bng lỏng quản lý cũng phải chịu những hình thức kỷ luật
đúng mức.
Lưu chiểu là một khâu quan trọng của quản lý nhà nước về báo chí nhằm
thực hiện chức năng kiểm tra trước khi cho lưu hành nhưng hiện nay, vẫn có một
số tạp chí khơng thực hiện nộp lưu chiểu hoặc lưu chiểu không đúng thời hạn theo
quy định của pháp luật. Điều đó dẫn đến việc phát hiện chậm các vi phạm, gây
khơng ít khó khăn cho q trình xử lý và để lại hậu quả phức tạp. Hơn nữa, “khối
lượng công việc phải xử lý trong công tác quản lý nhà nước về báo chí ngày càng
nhiều và phức tạp, trong khi đó, đội ngũ cán bộ quản lý còn thiếu và yếu, một bộ
phận cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý trong tình hình mới” (6).
2.1.4Quản lý nhà nước về báo chí ở các bộ, cơ quan ngang bộ
Các bộ, cơ quan ngang bộ - với vai trò là cơ quan chủ quản báo chí - đã có
nhiều cố gắng trong cơng tác chỉ đạo, quản lý cơ quan báo chí thuộc quyền trong
việc thực hiện phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch hoạt động; đồng thời tổ chức bộ
máy, xây dựng đội ngũ cán bộ báo chí đảm bảo các tiêu chuẩn về chính trị, nghiệp
vụ. Nhiều cơ quan chủ quản báo chí đã chủ động xây dựng quy chế quản lý cơ

quan báo chí thuộc quyền, tạo điều kiện cho cơ quan báo chí hoạt động đúng quy
định, có sự rành mạch, thống nhất trong chỉ đạo, quản lý và trong cơng tác phối
hợp của cơ quan báo chí với các đơn vị liên quan thuộc Bộ Thông tin và truyền
thông.
Tuy nhiên trên thực tế, mối quan hệ giữa cơ quan chủ quản và cơ quan báo
chí theo luật định chưa được thực hiện một cách rõ ràng, rành mạch. Nhiều trường
hợp cơ quan chủ quản bng lỏng vai trị, trách nhiệm của mình. Một số cơ quan
chủ quản khơng kiên quyết sáp nhập những tờ báo có tơn chỉ, mục đích trùng lặp,
hoặc khơng đình chỉ những cơ quan báo chí thiếu các điều kiện đảm bảo cho tờ
báo hoạt động bình thường, gây khó khăn cho việc quy hoạch hệ thống báo chí cả
nước… Tình trạng bng lỏng chỉ đạo, quản lý của một số cơ quan chủ quản vẫn
diễn ra. Khơng ít tờ báo xa rời tơn chỉ mục đích, chạy theo mục đích thương mại,

8


không chấp hành nghiêm túc sự chỉ đạo, quản lý của cấp trên. Báo thuộc lĩnh vực
này lại đưa tin về lĩnh vực khác, nhiều khi những sự kiện lớn của ngành mình, lĩnh
vực mình lại phản ánh rất mờ nhạt, nhưng cơ quan chủ quản vẫn bỏ qua hoặc có
nhắc nhở nhưng cơ quan báo chí khơng thực hiện thì cũng khơng xử lý. Tiêu
chuẩn, quy trình bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo báo chí của nhiều cơ quan chủ quản
thực hiện khơng chặt chẽ. Khơng ít cơ quan chủ quản phó mặc cho cơ quan báo
chí tuyển chọn phóng viên, cộng tác viên, thu nhận cả những người không đủ tư
cách đạo đức, chuyên môn vào làm báo. Có cơ quan chủ quản sau khi xin ra số
phụ đã khốn trắng cả về nội dung lẫn kinh phí.
Vẫn còn hiện tượng cơ quan chủ quản bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo báo chí
khơng được đào tạo chun mơn, nghiệp vụ. Một số cơ quan chủ quản báo chí
khơng thực hiện đúng quy trình bổ nhiệm, miễn nhiện cán bộ, không gửi văn bản
thỏa thuận tới cơ quan quản lý nhà nước. Một số cơ quan xin thành lập cơ quan
báo chí khi chưa đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật như: điều kiện về

trụ sở, trang thiết bị, nguồn tài chính, tổ chức bộ máy, cán bộ...
Một số cơ quan báo chí chấp hành sự chỉ đạo khơng nghiêm túc, thường
xun vi phạm hoặc có những vi phạm nghiêm trọng, Bộ Thông tin và truyền
thông đã nhắc nhở, phê bình nhiều lần nhưng cơ quan chủ quản khơng tích cực
chấn chỉnh, xử lý kỷ luật; hoặc xử lý không nghiêm (7)
2.1.5. Quản lý nhà nước về báo chí ở địa phương
Trong thời gian qua, các Sở Thông tin và truyền thông đã chú trọng thực
hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về báo chí ở địa phương. Các Sở cũng chú trọng
công tác tham mưu cho Tỉnh ủy, Thành ủy, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương về quy hoạch báo chí; soạn thảo mới, cụ thể hóa, hướng dẫn việc thực hiện
các văn bản pháp quy về báo chí trên cơ sở nội dung của Luật Báo chí và Nghị
định 51/2002/NĐ-CP; thực hiện tốt chức năng quản lý hoạt động của các Văn
phòng đại diện và phóng viên thường trú của báo chí trung ương và địa phương
khác trên địa bàn…

9


Tuy nhiên, cơng tác quản lý báo chí ở địa phương cịn những mặt hạn chế.
Nhiều địa phương chưa có bộ phận, thậm chí chưa có cán bộ chun trách quản lý
báo chí, xuất bản. Trong cơng tác quản lý hoạt động phát thanh, truyền hình,
Internet - lĩnh vực có tính đặc thù, địi hỏi phải có kiến thức về cơng nghệ, kỹ thuật
- trình độ, năng lực của cán bộ quản lý ở một số địa phương còn chưa đáp ứng
được yêu cầu; đa số địa phương chưa có kinh phí đầu tư trang thiết bị đáp ứng yêu
cầu ngày càng đa dạng và phức tạp của công tác quản lý. UBND và Sở Thông tin
và truyền thông một số tỉnh, thành phố chưa nhận thức hết vai trò, trách nhiệm
lãnh đạo, quản lý các đài phát thanh, truyền hình thuộc quyền quản lý của mình.
Một số địa phương, mặc dù có nhiều cơ quan báo chí, nhưng cho đến nay vẫn
khơng có tổ chức bộ máy hoặc cán bộ chuyên trách giúp UBND thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về báo chí. Một số địa phương thực hiện việc xử lý vi

phạm của cơ quan báo chí khơng nghiêm, có nơi khơng thực hiện đúng thẩm
quyền (8).
2.1.6 Yêu cầu quản lý nhà nước về báo chí
Hoạt động báo chí của nước ta trong điều kiện hiện nay chịu các tác động:
nhu cầu thông tin và được thông tin; sự phát triển nhanh về kỹ thuật và công nghệ
truyền thông; nền kinh tế theo cơ chế thị trường... Những tác động trên đặt ra một
số yêu cầu đối với quản lý nhà nước về báo chí như sau:
- Quản lý nhà nước về báo chí phải bảo đảm quyền tự do ngơn luận, tự do
báo chí, có quyền được thông tin của công dân theo quy định tại Điều 69 của Hiến
pháp năm 1992 và các văn bản luật có liên quan, nâng cao trách nhiệm xã hội của
báo chí, đáp ứng nhu cầu thơng tin của xã hội tốt hơn.
- Quản lý về báo chí phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, quản lý của nhà nước và trong khuôn khổ của pháp luật.
- Phát triển báo chí phải đi đơi với quản lý chặt chẽ, có hiệu quả tồn bộ hệ
thống báo chí cũng như từng cơ quan báo chí. Thời kỳ mới đặt ra những yêu cầu
mới của hoạt động báo chí. Tuy nhiên, trước tác động của cơ chế thị trường, mọi
hoạt động của báo chí ln đối mặt với nguy cơ tự phát. Do vậy, lãnh đạo, quản lý

10


báo chí phải đặc biệt quan tâm đến những đặc điểm của tình hình mới, phịng ngừa
và hạn chế tiêu cực. Bên cạnh đó, cũng cần đề phịng khuynh hướng nhân danh sự
lãnh đạo, quản lý để bóp nghẹt sức năng động, sáng tạo của các cơ quan cũng như
cá nhân nhà báo. Quản lý chặt chẽ chính là điều kiện bảo đảm cho báo chí phát
triển đúng quy hoạch, phù hợp quy mơ, số lượng, tránh lãng phí. Nhưng báo chí là
một bộ phận thuộc lĩnh vực sáng tạo văn hoá, tinh thần, rất cần những khoảng
trống riêng như V.I.Lênin đã từng nhấn mạnh. Do vậy, quản lý báo chí địi hỏi phải
vừa mềm dẻo, vừa ngun tắc mới có thể đạt hiệu quả mong muốn.
- Quản lý nhà nước về báo chí phải bắt kịp trình độ phát triển cao của

phương tiện kỹ thuật, công nghệ truyền thông hiện đại. Bản thân sự quản lý phải
chứa đựng hàm lượng công nghệ cao và đội ngũ cán bộ quản lý phải hiểu và sử
dụng được. Điều này kéo theo việc các văn bản quy phạm pháp luật được ban
hành có khn khổ pháp lý phù hợp với nhiều u cầu, trong đó có u cầu về kỹ
thuật, cơng nghệ truyền thông.
- Quản lý nhà nước và pháp luật về báo chí phải phù hợp với cơ chế vận
hành trong điều kiện kinh tế thị trường. Pháp luật phải điều chỉnh kịp thời những
tác động của thị trường, quy luật cung cầu. Báo chí đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu
của quần chúng nhưng điều đó khơng được dẫn đến khuynh hướng thương mại
hóa một cách tràn lan và sự lũng đoạn của đồng tiền đối với báo chí. Nhu cầu
thơng tin và được thơng tin cần có sự giao lưu quốc tế. Sự giao lưu này ngày càng
mở rộng, nhất là khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên WTO. Pháp luật
về báo chí phải phù hợp với các chuẩn mực và cam kết mà Việt Nam ký kết hoặc
tham gia.
2.1.7Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về báo chí
Để góp phần khắc phục sự yếu kém về mặt quản lý nhà nước trong lĩnh vực
báo chí, chúng tơi xin nêu lên một số giải pháp sau:
Xây dựng quy hoạch phát triển báo chí phù hợp
Phương châm chỉ đạo quan trọng của Đảng và Nhà nước ta đối với hoạt
động báo chí là “phát triển đi đôi với quản lý tốt”. Sự phát triển này không chỉ đơn

11


thuần là tăng về mặt số lượng mà còn bao gồm cả mở rộng quy mô, phạm vi tác
động và nâng cao chất lượng thông tin. Việc tiếp tục mở rộng quy mơ của báo chí
trong phạm vi tồn xã hội là một yêu cầu tất yếu. Xã hội luôn phát triển, dân trí
ngày càng cao, nhu cầu thơng tin, giao tiếp tăng lên. Chính thực tiễn xã hội địi hỏi
mở rộng quy mô thông tin của từng cơ quan báo chí cũng như sự ra đời của những
tờ báo, bản tin, tạp chí, chương trình phát thanh, truyền hình mới. Tuy nhiên, việc

mở rộng quy mô này phải phù hợp với quy hoạch, chiến lược phát triển báo chí,
tránh tình trạng chồng chéo, vay mượn nội dung bài vở...
Hiện nay, chúng ta đã có Chiến lược phát triển thơng tin đến năm 2010. Tuy
nhiên, hoạt động báo chí trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố, trong q
trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và nhất là sự bùng nổ của thơng tin tồn
cầu... đang đặt ra những yêu cầu mới về quy hoạch báo chí; đòi hỏi chúng ta phải
xây dựng chiến lược phát triển thông tin lâu dài cho đất nước. Chiến lược này phải
là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc
gia. Chiến lược thông tin phải đánh giá được thực trạng thông tin ở nước ta, đưa ra
được các quan điểm chỉ đạo phát triển thông tin và mục tiêu phát triển thông tin
đến năm 2020 và những năm tiếp theo, các giải pháp chủ yếu để thực hiện mục
tiêu đó.
Hồn thiện hệ thống pháp luật về báo chí
Chất lượng, hiệu quả quản lý xã hội của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa phụ thuộc rất nhiều vào mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Vì vậy,
yêu cầu về một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đồng bộ trong lĩnh vực báo
chí là hết sức cần thiết.
Chúng ta cần thấu suốt quan điểm: điều chỉnh hoạt động báo chí thơng qua
định hướng của Đảng và hệ thống pháp luật của Nhà nước, vừa bảo đảm sự chặt
chẽ trong quy định, chế tài, vừa bảo đảm sự thơng thống cho nhà báo và các cơ
quan báo chí phát huy tính năng động, sáng tạo.
Qua 19 năm thi hành Luật Báo chí, một số điều quy định của Luật như quy
định về các loại hình báo chí, quảng cáo trên báo chí, lưu chiểu, cải chính trên báo

12


chí, tài chính báo chí... đến nay đã khơng cịn phù hợp. Vì vậy, pháp luật báo chí
cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Việc xây dựng và hồn thiện
hệ thống pháp luật báo chí cần hướng vào các nội dung sau: Thứ nhất, cụ thể hoá,

chi tiết hoá các điều khoản quy định. Thứ hai, xác định rõ trách nhiệm của các chủ
thể tham gia hoạt động báo chí. Thứ ba, rà sốt, bổ sung những vấn đề mới do thực
tiễn và sự phát triển của báo chí đặt ra. Thứ tư, bảo đảm quyền tự do báo chí của
cơng dân.
Hồn thiện chế độ chính sách và đầu tư thích hợp đối với lĩnh vực báo chí
Chế độ, chính sách đối với lĩnh vực báo chí trong điều kiện phát triển kinh
tế thị trường là một vấn đề lớn cần được xem xét, giải quyết cả về lý luận và thực
tiễn. Thời gian qua, chúng ta đã có những bước chuyển biến nhất định trong việc
thực hiện chế độ chính sách mềm dẻo đối với báo chí. Tổng biên tập được tự chịu
trách nhiệm xây dựng giá báo phù hợp với giá thị trường, sức tiêu thụ và yêu cầu
phục vụ nhiệm vụ chính trị; các cơ quan báo chí chủ động trả nhuận bút phù hợp
với yêu cầu nâng cao chất lượng, động viên tác giả trong khuôn khổ quỹ nhuận bút
quy định; khuyến khích mọi năng lực phát hành báo chí, kể cả phát hành ra nước
ngồi; cơ quan báo chí chủ động kêu gọi các hình thức quảng cáo và tài trợ báo
theo luật định... Tuy nhiên, các chế độ, chính sách đối với báo chí vẫn cịn lạc hậu,
chưa theo kịp sự phát triển hoạt động báo chí. Do vậy, cần khẩn trương rà soát để
bổ sung, sửa đổi một số chính sách, chế độ báo chí như: lương báo chí, thuế,
nhuận bút, chính sách tài trợ, giá, quảng cáo. Nhà nước cũng cần có kế hoạch khảo
sát, nghiên cứu các hình thức hoạt động kinh doanh của các cơ quan báo chí lớn để
có chính sách khuyến khích các hình thức kinh doanh phù hợp, tạo nguồn thu, tăng
cường cơ sở vật chất đồng thời thực hiện đúng nghĩa vụ với Nhà nước.
Hiện nay, Nhà nước vẫn đầu tư khá lớn cho báo chí với cơ cấu ngân sách
gồm: ngân sách nhà nước cho phát thanh, truyền hình, báo in, báo điện tử. Trong
đó, phần đầu tư cho phát thanh, truyền hình là lớn nhất do các phương tiện trang
thiết bị ban đầu rất đắt tiền. Trong tương lai, phần đầu tư cho báo điện tử cũng đòi
hỏi lượng ngân sách khá lớn. Thực tế, đa số các báo, đài đều hoạt động dựa vào

13



ngân sách. Nhà nước vẫn nên cấp ngân sách nhưng cần tính tốn rõ các tiêu chí:
mức trợ cấp, đối tượng, thời gian, trợ cấp khơng hồn lại hoặc cho vay ban đầu với
lãi suất thấp... để báo chí hoạt động đúng pháp luật, đúng định hướng, có hiệu quả.
Tăng cường đầu tư cho các báo địa phương vùng sâu, khó khăn; có chính sách để
tăng cường xuất bản và phát sóng thêm các đài bằng thứ tiếng của các dân tộc
thiểu số để chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến được với đồng bào
các dân tộc. Tựu chung lại, Nhà nước cần có chính sách tài chính quốc gia, huy
động được các nguồn lực tài chính phục vụ cho hoạt động phát triển thơng tin; có
chính sách và đầu tư thích hợp đối với hoạt động báo chí, đầu tư đủ, đúng trọng
điểm đối với những cơ quan báo chí xứng tầm, cần thiết.
Hoạt động báo chí là một nghề vất vả và nguy hiểm. Quyết định chất lượng
nội dung của một tờ báo là tổng biên tập và các nhà báo, vì vậy, Nhà nước cũng
phải tính đến chính sách, chế độ hợp lý đối với nhà báo. Chính sách ưu đãi phải
bảo đảm các điều kiện và phương tiện để các nhà báo hiểu biết về chủ trương,
chính sách, tiếp cận với thực tiễn; tạo điều kiện cho các nhà báo hoạt động hiệu
quả, phát huy tư duy độc lập, sáng tạo trong quá trình viết báo; đề cao trách nhiệm
chính trị - xã hội; có chế độ đãi ngộ đặc biệt đối với những nhà báo tài năng, có
cống hiến xuất sắc cho đất nước.
Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quản lý nhà nước về báo chí
Mỗi quốc gia có điều kiện kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội khác nhau nên
có sự khác nhau trong hoạt động và tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về báo chí.
Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập tồn cầu, hoạt động báo chí cần phải đáp ứng yêu
cầu thu hẹp sự khác biệt về cơng nghệ, trình độ nghiệp vụ.... với các nước trong
khu vực và thế giới. Sự hợp tác quốc tế về quản lý báo chí phải bảo đảm vừa phát
triển quan hệ, nhanh chóng hội nhập vừa bảo đảm chủ quyền, độc lập dân tộc, bình
đẳng, các bên cùng có lợi. Trước hết, cần tổ chức thực hiện tốt các văn bản quốc tế
quan trọng có liên quan như: Cơng ước tồn cầu về Luật bản quyền, Cơng ước
Brussels về phân phối các tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ tinh, Cơng
ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật... Chủ động xây dựng


14


các kế hoạch khảo sát kinh nghiệm quản lý báo chí ở một số nước trên thế giới;
tham dự các hội nghị quốc tế liên quan đến báo chí như: Diễn đàn xã hội thông tin,
Diễn đàn Liên hiệp quốc về quản lý Internet, các hội nghị Bộ trưởng Thông tin các
nước ASEAN; tham gia các hoạt động chống khủng bố, chống tệ nạn xã hội, xố
đói giảm nghèo, vì mơi trường sống, vì hồ bình và trực tiếp tham gia vào các tổ
chức báo chí khu vực và quốc tế vì các mục đích trên.
Nâng cao chất lượng và hiệu quả bộ máy quản lý
Thứ nhất, cần xây dựng các quy định cụ thể, rõ ràng nhằm điều chỉnh tốt
hơn chức năng, nhiệm vụ, cơ chế phối hợp giữa Bộ Thơng tin và truyền thơng với
các bộ, ngành có liên quan.
Thứ hai, ở địa phương, cần xây dựng các quy định mới và cụ thể hơn để tổ
chức lại bộ máy quản lý nhà nước cũng như để nâng cao vai trị của các Sở Thơng
tin và truyền thơng.
Thứ ba, triển khai áp dụng phương tiện kỹ thuật và công nghệ quản lý hiện
đại vào hệ thống quản lý nhà nước về báo chí. Với một đội ngũ cán bộ, nhân viên
thiếu, trình độ có hạn, đầu việc nhiều thì đẩy nhanh việc áp dụng cơng nghệ thơng
tin, phương pháp quản lý hiện đại vào hệ thống quản lý báo chí là việc làm cấp
thiết. Điều đó vừa tinh giản được biên chế theo chủ trương chung của Đảng, Nhà
nước, vừa qn xuyến cơng việc một cách có hiệu quả.
Ngồi ra, về cán bộ quản lý báo chí, pháp luật cần quy định hệ thống tiêu
chuẩn chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ phù hợp với thực tiễn, bảo đảm công tác
chuyên môn của từng đối tượng. Cán bộ quản lý báo chí phải có tri thức báo chí,
tri thức về khoa học công nghệ thông tin và quản lý, tri thức pháp luật. Cần có
những quy định cụ thể về tuyển dụng cán bộ, sắp xếp và bố trí cán bộ. Có một tình
trạng tuy khơng phổ biến nhưng cũng cần lưu ý là các cơ quan cấp ủy và tổ chức
cấp tỉnh coi ngành nào cũng giống ngành nào, “đã là tỉnh ủy viên thì làm gì cũng
được”. Do vậy, nhiều người làm trái nghề vẫn phải nhận vì “tổ chức phân cơng”.

Cuối cùng, Nhà nước cần có chính sách đào tạo và đào tạo lại những người quản

15


lý báo chí để theo kịp tốc độ phát triển chung của xã hội và không tụt hậu quá xa
so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Hoàn thiện cơ chế quản lý
Hiện nay, việc tổ chức thực thi pháp luật báo chí của các cơ quan nhà nước
vẫn cịn chồng chéo, chưa có sự thống nhất. Vì vậy, cần bổ sung các quy định
nhằm cải tiến phương thức, lề lối làm việc, cơ chế phối hợp thống nhất giữa các cơ
quan quản lý nhà nước về báo chí. Cụ thể: xác định rõ các nguyên tắc làm việc và
quy chế phối hợp trong sự vận hành của bộ máy quản lý nhà nước về báo chí; định
rõ thẩm quyền và trách nhiệm giữa cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan chỉ đạo, cơ
quan chủ quản, người đứng đầu cơ quan báo chí. Trước mắt là quy chế làm việc rõ
ràng, cụ thể giữa Bộ Thông tin và truyền thông với các ban ngành hữu quan liên
quan đến quản lý nhà nước về báo chí, giữa cơ quan quản lý nhà nước ở trung
ương và địa phương, cơ quan quản lý và cơ quan chủ quản. Cơ chế này phải bảo
đảm sự điều hành thống nhất, có khả năng giải quyết nhanh và dứt điểm các vụ
việc, đồng thời kiểm soát được liên tục hoạt động báo chí, tránh hiện tượng đánh
trống bỏ dùi, dễ làm khó bỏ, đùn đẩy công việc cho nhau, trách nhiệm không rõ
ràng.
Đẩy mạnh việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật báo chí
Việc tuyên truyền phổ biến pháp luật báo chí để các chủ thể tuân thủ, thực
hiện là một vấn đề quan trọng. “Trong giới phóng viên, biên tập viên, thậm chí cả
lãnh đạo một số cơ quan báo chí vẫn còn hiện tượng chưa nắm vững nội dung
hoặc nhận thức chưa đầy đủ về Luật Báo chí” (9). Vì vậy, Bộ Thông tin và truyền
thông, Hội Nhà báo và đặc biệt là các cơ quan báo chí cần có kế hoạch tập huấn
thường xuyên Luật Báo chí và các văn bản quy phạm pháp luật mới về báo chí;
cần tuyên truyền, phổ biến pháp luật từ khi soạn thảo văn bản để lấy ý kiến rộng

rãi các đối tượng liên quan.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra
Đây là nhiệm vụ quan trọng của quản lý nhà nước về báo chí vì báo chí có
quan hệ trực tiếp tới chính trị. Báo chí khơng những phản ánh dư luận mà cịn tạo

16


ra và hướng dẫn dư luận. Vì vậy, hoạt động này cần diễn ra thường xuyên, nhanh
nhạy để kịp thời ngăn chặn, xử lý những vi phạm pháp luật về báo chí.
3. Quản trị kinh doanh báo chí
3.1 Khái niệm Quản trị kinh doanh
Quản trị kinh doanh là quá trình tác động liên tục, có tổ chức, có mục đích
của chủ thể doanh nghiệp, sử dụng một cách tốt nhất mọi tiềm năng, cơ hội nhằm
đạt được mục tiêu đề ra của doanh nghiệp theo đúng luật định và thông lệ xã hội.
3.2 Quản trị kinh doanh báo chí
Quản trị truyền thơng là ngành học thuộc chương trình Quản trị kinh doanh
ứng dụng trong ngành kinh tế truyền thông, một lĩnh vực vẫn cịn khá mới mẻ ở
Việt Nam.
Truyền thơng tạo ra những làn sóng thơng tin về thương hiệu, sản phẩm hay
dịch vụ, rồi từ đó tác động lên lượng cầu của người tiêu dùng.Với sự chuyển đổi
nhanh chóng của nền kinh tế, kéo theo nhu cầu gia tăng đột biến về dịch vụ truyền
thông và các dịch vụ liên quan đến truyền thông. Công nghệ mới, đặc biệt là
truyền hình cáp và internet cũng đang tạo ra những dịch vụ hay ngành nghề truyền
thông mới. Trong xu hướng Marketing hiện đại, các hình thức marketing kết nối
(Buzz Marketing, Viral Marketing, word- oF-mouth…) lại càng kết hợp chặt chẽ
với với Công nghệ thông tin, nhằm xây dựng sự liên kết giữa người tiêu dùng và
các doanh nghiệp với cỗ máy truyền thông – marketing. (Doanh nghiệp tạo ra
những làn sóng thơng tin về thương hiệu, sản phẩm hay dịch vụ, rồi từ đó tác động
lên lượng cầu của người tiêu dùng).


Bên cạnh đó, nhu cầu về các hoạt động kinh tế dựa trên truyền thông như quảng
cáo, PR, xây dựng nhãn hiệu, tiếp thị, truyền thơng tập đồn trong xã hội đang
tăng mạnh. Theo một cuộc khảo sát thị trường gần đây, Việt Nam hiện có hàng
trăm doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực PR và quảng cáo, với mức tăng

17


trưởng hằng năm đạt khoảng 30%.

Các cuộc khảo sát cho thấy, gần 2/3 Cty quốc doanh và hơn 3/4 Cty tư nhân sử
dụng các dịch vụ PR. Nhu cầu về nhân lực ngành truyền thơng vì thế ngày càng
tăng lên, nhất là nhân lực được đào tạo chuyên nghiệp. Bởi yêu cầu về tư duy và
phương cách truyền thông hiện đại (Quản trị kinh doanh – Quản trị truyền thông)
đang trở nên cần kíp khơng những cho cạnh tranh địa phương mà còn là doanh
thương quốc tế. Sự thiếu chuyên nghiệp của truyền thông không chỉ ảnh hưởng
đến hoạt động của các doanh nghiệp mà ảnh hưởng cả quá trình phát triển kinh tế
xã hội quốc gia về lâu dài.
“Trong những năm tới, các cơ quan thông tin truyền thông và giới cung cấp các
dịch vụ truyền thông trong nước sẽ phải đầu tư một cách đáng kể vào việc đào tạo
chính quy cho đội ngũ bởi họ cần phải trở nên chuyên nghiệp hơn để có thể cạnh
tranh với nhau và cạnh tranh với các dịch vụ thông tin-truyền thơng nước ngồi.” TS Nguyễn Đức An Giám đốc chương trình Thạc sĩ Quản trị truyền thơng - ĐH
Kinh tế Đà Nẵng)
Quản trị truyền thơng thực chất chính là quản trị kinh doanh nhưng được đào tạo
chuyên sâu vào quản trị lĩnh vực truyền thơng. Quản trị truyền thơng có một sự
liên kết rõ ràng từ quản trị tới công nghệ thơng tin và truyền thơng. Theo đó nó
thích hợp không chỉ cho những người đang làm việc trong các cơ quan thơng tin
truyền thơng mà cịn cho tất cả các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ quảng bá trên
các phương tiện truyền thông, cũng như các nhân viên chuyên trách tiếp thị, quảng

cáo, giao tế cộng đồng, tổ chức sự kiện, xây dựng nhãn hiệu... tại các doanh
nghiệp và tổ chức bên ngồi khu vực truyền thơng.

18


Ngồi những bộ mơn quản trị tài chính, quản trị nhân lực, quản trị hoạt động…
sinh viên sẽ được bổ sung thêm các kiến thức về truyền thông, đặc biệt là truyền
thông hiện đại, gắn với công nghệ thông tin và các phương tiện truyền thông số.
Việc đào tạo sâu vào lĩnh vực chuyên ngành nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực của
chính doanh nghiệp chủ quản là hướng đi của các trường đào tạo. Bên cạnh đó là
viêÌ£c kết hợp chặt chẽ giữa lý thuyết và thực hành, để sinh viên khi ra trường có
thể bắt tay vào ngay vào việc.
Để có thể tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt
như hiện nay, điều quan trọng là các doanh nghiệp kinh doanh phải xây dựng được
thương hiệu, sản phẩm và dịch vụ của mình trong nhận thức của khách hàng. Với
việc sử dụng một số công cụ quảng cáo, marketing truyền thống trước đây để
quảng bá xây dựng hình ảnh của các doanh nghiệp thực sự khơng cịn hiệu quả.
Một trong những hướng đi mới giúp doanh nghiệp hiện nay là một chiến lược
truyền thông với nhiều thay đổi và sáng tạo hơn. Đó là áp dụng nhiều phương tiện
truyền thơng khác nhau để tăng cường nhận thức về sản phẩm hay dịch vụ của
doanh nghiệp, truyền thông đến khách hàng các đặc điểm và lợi ích sự khác biệt
của mình so với đối thủ cạnh tranh, thúc đẩy hành vi tiêu dùng của khách hàng.

19



×