Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG MARKETING TẠI ẤN ĐỘ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (30.55 KB, 4 trang )

People:
Ấn Độ là quốc gia đông dân thứ 2 trên thế giới với dân số là 1,251,695,584 người. Trong
đó lực lượng lao động là 502.1 triệu người, chiếm phần lớn là độ tuổi từ 25-54 (40.74% - Nam
262,700,370/nữ 247,237,448). Tốc độ tăng trưởng dân số của Ấn Độ năm 2015 là 1.22% đứng
thứ 98 thế giới.
Thuận lợi: Ấn Độ đang phát triển, tỷ lệ GDP trên đầu người đang có xu hướng tăng, sức mua
tăng,
tỷ lệ lạm phát đang giảm - đồng tiền Ấn Độ dần ổn định và lấy lại giá trị: người dân Ấn Độ
thoải mái hơn trong vấn đề chi tiêu, doanh nghiệp có cơ hội bán được nhiều hàng hóa hơn,
mức
giá đưa ra chấp nhận được không quá thấp.
Dân số Ấn Độ là dân số trẻ, đa phần có kiến thức và tiếng Anh thành thạo tạo điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp sử dụng nguồn nhân lực địa phương mà không phải lo lắng
nhiều về sự chuyển giao, huấn luyện, chi phí nhân cơng thấp. Đồng thời việc sử dụng nhân lực
địa phương cũng giúp cho doanh nghiệp dễ tiếp cận với người tiêu dùng ở Ấn Độ hơn.
Dân số đang có xu hướng di chuyển lên thành thị, sống tập trung: doanh ngiệp giảm
được hệ thống phân phối đến các vùng sâu, vùng xa mà số lượng người tiêu dùng tiếp cận được
lại cao hơn.
Khó khăn: Người dân cịn nghèo, hoạt động chủ yếu về nơng nghiệp: khó tiếp cận sản phẩm
mới,
cạnh tranh ước muốn cao.

Structures:
Ấn Độ đang trên đà phát triển nhưng cơ sở hạ tầng ở đất nước này vẫn chưa được đầu tư
tương xứng. Hệ thống giao thông hoạt động kém và lưới điện hoạt động không ổn định đã đe
dọa đến nền kinh tế và có xu hướng kéo sự tăng trưởng kinh tế chậm lại.
Sau độc lập, chính phủ dẫn đầu việc phát triển cơ sở hạ tầng cho ngành điện bằng cách
xây dựng, sở hữu và quản lý dự án. Hệ thống này tạo ra một loạt các sự thiếu hiệu quả; sau


nhiều năm nhu cầu chưa được đáp ứng và những khó khăn tài chính ngày càng gia tăng. Đến


những đầu năm 1990 chính phủ mở cửa ngành để đầu tư tư nhân như là một phần của tự do
hóa
kinh tế của mình. Ấn Độ đứng thứ 85 trong số 148 quốc gia về cơ sở hạ tầng trong Báo cáo
Năng lực cạnh tranh toàn cầu mới nhất của Diễn đàn Kinh tế Thế giới. Delhi và Mumbai, hai
thành phố lớn nhất của nó, đứng xa bên dưới thủ đơ khác trong khu vực như Bắc Kinh và
Bangkok cho cơ sở hạ tầng trong một báo cáo của Liên Hợp Quốc.
Tình trạng thiếu điện kinh niên được chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp quốc tế xem
là một trong những mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với tăng trưởng của Ấn Độ. Trong khi
GDP vào khoảng 7.4 phần trăm đến năm 2015, phát điện chỉ tăng ở mức 4,9 phần trăm một
năm, theo Ngân hàng Thế giới. Nhiệt điện bao gồm khí đốt, nhiên liệu lỏng và than chiếm
khoảng hai phần ba, với hầu hết đến từ than đá. Các nguồn khác bao gồm thủy điện, gió, mặt
trời, và hạt nhân.
Tiến bộ trong lĩnh vực hạt nhân đã đem lại những hy vọng mới. Năm 2008, Ấn Độ đã ký
một thỏa thuận hạt nhân dân sự lịch sử với Hoa Kỳ và Hoa Kỳ hứa hỗ trợ cho chương trình
năng lượng hạt nhân dân sự của Ấn Độ. Vào tháng Chín năm 2014, chính quyền mới ở Delhi,
do Thủ tướng Narendra Modi, ký một hợp đồng dân sự hạt nhân với Australia cho phép Sydney
bán uranium cho Ấn Độ, cũng như tăng nguồn cung cấp nhiên liệu thông thường để giúp khắc
phục tình trạng thiếu hụt kinh niên của đất nước.
Khoảng hai phần ba đường giao thông của Ấn độ vận chuyển hàng hóa và 85 phần trăm
lượng hành khách. Chỉ một nửa đường giao thông của đất nước được lát nhựa, và ít hơn một
phần tư của đường cao tốc quốc gia đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn. Chương trình quốc gia phát
triển đường cao tốc là các chương trình hoạt động cơ sở hạ tầng lớn nhất, nhằm nâng cấp
54.000 km đường cao tốc với sự tài trợ của ngân hàng thế giới, phát triển ngân hàng Châu á, và
ngân hàng Nhật bản hợp tác quốc tế. Dự án bao gồm một số thành tựu soái hạm như Tứ giác
vàng, mà đã được hoàn thành vào năm 2012 và kết nối bốn khu vực đô thị lớn nhất của Delhi,
Mumbai, Chennai và Kolkata.


Mạng lưới đường sắt quốc gia, lớn thứ tư thế giới cũng đã bị suy giảm. Chính phủ nhằm
mục đích xây dựng 25.000 km của đường mới đến năm 2020, Tuy nhiên chỉ 1.750 km đã được

thêm vào từ năm 2006 đến năm 2011.
Cảng và sân bay: Ấn Độ có mười ba cảng chính và sáu mươi cảng nhỏ có thể xử lý 95
phần trăm vần đề ngoại thương của đất nước theo yêu cầu và 70 phần trăm theo giá trị. Hệ
thống hải quan rườm rà và kém hiệu quả, và các dự án mới phải đối mặt với một danh sách dài
các thơng quan hành chính và mơi trường có thể mất đến năm năm trước khi bắt đầu xây
dựng. Các vấn đề thuế quan cũng gây cản trở việc đầu tư của tư nhân cho khu vực này. Ngành
hàng không của Ấn Độ cũng đã phát triển đáng kể. Hành khách và lưu thơng hàng hóa được dự
báo sẽ tăng trưởng hơn 15 và 20 phần trăm trong vài năm tới, tương ứng, theo Bộ Hàng không
dân dụng.
Với tốc độ đơ thị hóa nhanh và sự phát triển nhanh tầng lớp trung lưu tại Ấn Độ, nhu cầu
nâng cấp cơ sở hạ tầng cấp thiết hơn bao giờ hết. Theo dự đoán của báo cáo Mc Kinsey, vào
năm 2030 có khoảng 590 triệu người sẽ sống ở thành thị, chiếm 70%GDP của Ấn Độ. Tuy
nhiên, theo Rajiv Lall, chủ tịch một công ty lớn về cho thuê cơ sở hạ tầng ở Ấn Độ, cơ cấu quản
lý hạ tầng được xây dựng để phục vụ cho chính phủ và các đô thị lại mang những khả năng hạn
chế. Những hạn chế đó có thể ngăn cản sự tăng trưởng của phát triển kinh tế Ấn Độ. Chính
những hạn chế đó đã và đang tác động xấu đến những dự án lớn, tiêu tốn khoảng 2% GDP mỗi
năm, theo chuyên gia McKinsey. Thêm vào đó là vấn nạn tham nhũng, làm kiềm chế sự công
bằng, minh bạch trong đầu tư; theo một báo cáo của Tổ Chức Liên Hiệp Quốc, lĩnh vực giao
thông và năng lượng là lĩnh vực liên quan vấn nạn tham nhũng nhiều nhất. Theo ước tính, Ấn
Độ có thể phải chịu mất khoảng 200 tỷ Đô la, chiếm 10%GDP trong năm 2017 nếu tiếp tục xảy
ra tình trạng này.
Processes and systems:
Ấn Độ đang tiến vào một thời kỳ mà FDI hoạt động có hiệu quả hơn,
lành mạnh hơn, do hội nhập sâu hơn và có nhiều tiến bộ hơn về cơng nghệ. Tại Ấn Độ, các
cơng ty nước ngồi đang gia tăng các hoạt động đào tạo, tư vấn kỹ thuật, kiểm tra chất lượng,


có rất nhiều nhân viên được các doanh nghiệp nước ngoài đào tạo chuyển sang làm việc cho các
doanh nghiệp địa phương (khác với dòng lao động chảy ngược lại ở nhiều nước đang phát triển
khác). Chính vì điều này mà nhiều khu vực ở Ấn Độ đang có ưu thế lớn tiến tới đạt đẳng cấp

thế giới. Các thành phố Bangalore, Bombay của Ấn Độ là trụ cột của cơng nghệ phần mềm
đang được quốc tế hố.
Tuy nhiên, các nhà đầu tư tồn cầu vẫn có thiên hướng khơng coi Ấn Độ là công xưởng
của thế giới - là thị trường tiêu thụ đang gia tăng thuộc loại nhanh nhất. Ấn Độ được coi là nhà
cung cấp các hàng gia cơng và dịch vụ IT của thế giới. Chính vì vậy, các dự án đầu tư nước
ngồi vào Ấn Độ lại hướng vào hoạt động gia công và IT và Ấn Độ cũng thu được lợi nhiều từ
các nhà đầu tư nước ngồi trong lĩnh vực tài chính và dịch vụ.
Các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao lực lượng lao động được đào tạo tốt của Ấn Độ,
cũng như khả năng quản lý, tính minh bạch và môi trường luật pháp thuận lợi .
Sự gia tăng FDI có liên quan đến tiếp nhận cơng nghệ và làm tăng khả năng xuất khẩu
sản phẩm có hàm lượng cơng nghệ cao ở Ấn Độ. Từ năm 2010 đến nay, tổng mức xuất khẩu
sản phẩm dịch vụ thông tin và phầm mềm của Ấn Độ tăng từ mức 500 triệu USD lên 17,2 tỷ
USD. Bên cạnh mức tăng trưởng kinh tế cao, chuyển giao công nghệ theo chiều sâu được đẩy
nhanh cũng đã và đang giúp Ấn Độ đang trên đường trở thành những cường quốc thương mại.



×