Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tiểu luận cao học tổ CHỨC bộ máy QUẢN lý của đài TRUYỀN HÌNH VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.09 KB, 24 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ CƠ QUAN BÁO CHÍ
VÀ CƠ SỞ TRUYỀN THƠNG

Đề tài:
TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ CỦA ĐÀI
TRUYỀN HÌNH VIỆT NAM


LỜI MỞ ĐẦU

Truyền hình là loại hình thông tin đại chúng mới xuất hiện từ khoảng
giữa thế kỉ XX, nhưng đã phát triển rất nhanh chóng, mạnh mẽ và được phô
biến hết sức rộng rãi trong vài ba thập niên trở lại đây. Có thể nói, hiện nay
truyền hình là phương tiện truyền thông phô biến nhất thế giới. Không chỉ là
một phương tiện truyền thông, phương tiện giải trí thuần túy, ngày nay truyền
hình còn được ứng dụng trong rất nhiều lĩnh vực của cuộc sống hiện đại.
Nghị định 02 quy định rõ, VTV có các nhiệm vụ, quyền hạn: Xây dựng,
trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chiến lược, quy hoạch, kế hoạch dài
hạn, trung hạn, hàng năm và các dự án quan trọng khác của VTV và tô chức
thực hiện sau khi được phê duyệt; Nghiên cứu, đề xuất xây dựng, trình cấp có
thẩm quyền công bố tiêu chuẩn quốc gia, ban hành tiêu chuẩn cơ sở theo quy
định của pháp luật; Tô chức sản xuất, truyền dẫn, phát sóng, phát hành, lưu
trữ các chương trình truyền hình, báo điện tử, báo in theo quy định của pháp
luật; Tham gia xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển của hệ thống truyền
hình Việt Nam; Quyết định và chịu trách nhiệm về nội dung, chương trình và
thời lượng phát sóng hàng ngày trên các kênh chương trình của VTV theo quy
định của pháp luật; Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về nhiệm vụ,
tô chức bộ máy, số lượng người làm việc; được vận dụng cơ chế tài chính,
tiền lương như doanh nghiệp theo quy định của pháp luật…
Với đề tài nghiên cứu, tìm hiểu về chủ đề Tô chức bộ máy quản lý của


Đài Truyền hình Việt Nam, bài tiểu luận dưới đây của tôi sẽ giới thiệu tông
quan truyền hình, sơ đồ bộ máy quản lý của Đài Truyền Hình Việt Nam. Từ
đó đưa ra ý kiến đánh giá, điểm mạnh điểm khuyết trong cách quản lý bộ máy
của cơ quan.
2


3


NỘI DUNG

I- Tổng quan về truyền hình:
1. Khái niệm:
Hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng (Mass
Communication/ Mass Media) gồm: báo in, báo phát thanh, báo truyền hình,
báo điện tử... Nội dung và tính chất thông tin đều mang tính phô cập và có
phạm vi tác động rộng lớn trên toàn xã hội.
Truyền hình là một loại hình truyền thông đại chúng chuyển tải thông
tin bằng hình ảnh và âm thanh về một vật thể hoặc một cảnh đi xa bằng sóng
vô tuyến điện.
Xuất hiện vào đầu thế kỉ thứ XX, truyền hình phát triển với tôc độ như
vũ bão nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, tạo ra một kênh
thông tin quan trọng trong đời sống xã hội. Ngày nay, truyền hình là phương
tiện thiết yếu cho mỗi gia đình, mỗi quốc gia, dân tộc và trở thành công cụ sắc
bén trên mặt trận tư tưởng văn hóa cũng như các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an
ninh, quốc phòng.
Sự ra đời của truyền hình đã góp phần làm cho hệ thống truyền thông
đại chúng càng thêm hùng mạnh, tăng cả về số lượng và chất lượng. Công
chúng của truyền hình ngày càng đông đảo trên khắp hành tinh.

Xét theo góc độ kỹ thuật truyền tải có truyền hình sóng (wireless TV)
và truyền hình cáp (CATV). Xét dưới góc độ thương mại có truyền hình công
cộng (public TV) và truyền hình thương mại (commercial TV). Xét theo tiêu
chí mục đích nội dung có truyền hình giáo dục, truyền hình giải trí,.. Xét theo
4


góc độ kỹ thuật có truyền hình tương tự (Analog TV) và truyền hình số
(Digital TV)
2. Đặc trưng của truyền hình:
2.1. Tính thời sự:
Truyền hình là một phương tiện truyền thông đại chúng hiện đại có khả
năng thông tin nhanh chóng, kịp thời hơn so với các loại phương tiện khác. Sự
kiện được phản ánh khi nó vừa mới diễn ra thậm chí đang diễn ra và người
xem có
thể quan sát một cách chi tiết, tường tận qua truyền hình trực tiếp.
Truyền hình có khả năng phát sóng liên tục 24h trong ngày, luôn mang đến
cho người xem những thông tin cập nhật về các sự kiện diễn ra.
2.2. Ngôn ngữ truyền hình là ngôn ngữ hình ảnh và âm thanh:
Một ưu thế của truyền hình là truyền tải được cả hình ảnh và âm thanh
cùng một lúc. Đối với báo in, người đọc tiếp nhận bằng con đường thị giác,
đối với phát thanh bằng con đường thính giác, còn người xem truyền hình tiếp
cận sự kiện bằng cả thị giác và thính giác. Do vậy truyền hình trở thành một
phương tiện cung cấp thông tin rất lớn, có độ tin cậy cao, có khả năng làm
thay đôi nhận thức của con người trước sự kiện.
2.3. Tính phổ cập và quảng bá:
Do những ưu thế về hình ảnh và âm thanh, truyền hình có khả năng thu
hút hàng triệu người xem cùng một lúc. Truyền hình ngày càng mở rộng
phạm vi phủ sóng phục vụ được nhiều đối tượng người xem ở vùng sâu, vùng
xa. Tính quảng bá của truyền hình còn thể hiện ở chỗ một sự kiện xảy ra ở bất


5


kì đâu khi được đưa lên vệ tinh sẽ truyền đi khắp châu lục. Ngày nay ngồi một
chỗ nhưng con người vẫn có thể nắm bắt được sự kiện diễn ra trên thế giới.
2.4. Khả năng thuyết phục công chúng:
Truyền hình đem đến cho khán giả cùng lúc hai tín hiệu cơ bản là hình
ảnh và âm thanh mang lại thông tin có độ chính xác cao có khả năng tác động
mạnh mẽ vào nhận thức của con người. Truyền hình có thể truyền tải một
cách chân thực hình ảnh của sự kiện đi xa nên đáp ứng yêu cầu chứng kiến
tận mắt của công chúng. “Trăm nghe không bằng mắt thấy”. Đây là lợi thế lớn
của truyền hình so với các loại hình báo in và phát thanh.

2.5. Khả năng tác động dư luận xã hội mạnh mẽ và trở thành diễn đàn
của nhân dân:
Các chương trình truyền hình mang tính thời sự, cập nhật, hấp dẫn
người xem bằng cả hình ảnh, âm thanh và lời bình, vừa cho người xem thấy
được thực tế của vấn đề, vừa tác động vào nhận thức của công chúng. Vì vậy,
truyền hình có
khả năng tác động vào dư luận mạnh mẽ. Các chương trình “Sự kiện và
bình luận”, “Đối thoại trực tiếp” không chỉ tác động dư luận mà còn định
hướng dư luận, hướng dẫn dư luận để phù hợp với sự phát triển của xã hội
cũng như đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Ngày nay, công chúng của truyền hình ngày càng đông đảo nên sự tác
động dư luận ngày càng rộng rãi. Chính vì thế, truyền hình có khả năng trở
thành diễn đàn của nhân dân. Các chuyên mục “ý kiến bạn xem truyền hình”,
“với khán giả VTV3”… đã trở thành cầu nối giữa người xem và những người
làm truyền hình. Qua đó người dân có thể nêu lên những ý kiến ủng hộ, phản
6



đối, góp ý phê bình về các chương trình truyền hình hoặc gửi đi những thắc
mắc, bất cập, sai trái ở địa phương.
3. Đặc điểm của báo chí truyền hình và sản phẩm của truyền hình.
3.1. Về nội dung kỹ thuật:
Tuy ra đời muộn hơn các loại hình truyền thông khác nhưng truyền
hình là sản phẩm của nền văn minh khoa học công nghệ phát triển. Được thừa
hưởng kinh nghiệm và phương pháp tạo hình, tiếng của điện ảnh và phát
thanh, truyền hình có sự khái quát triết lý của báo in; tính chuẩn xác cụ thể
bằng hình ảnh, âm thanh của điện ảnh và phát thanh; tính hình tượng của hội
họa; cảm xúc tư duy của âm nhạc. Truyền hình là loại hình truyền thông có
các yếu tố kỹ thuật hiện đại, là sự kết hợp giữa: nghệ thuật (kỹ thuật+mỹ
thuật), kinh tế và báo chí.
3.2. Về tư duy và sáng tạo tác phẩm:
Mỗi loại hình truyền thông đại chúng đều có những đặc thù riêng. Nếu
dựa vào quá trình làm ra một sản phẩm, ở báo in một bài báo có thể là sản
phẩm riêng của một nhà báo. Nhưng sáng tạo một tác phẩm truyền hình còn
công phu hơn nhiều bởi đó là đứa con tinh thần của cả một tập thể bao gồm
đạo diễn, biên kịch và những người làm kỹ thuật. Sản phẩm đó thể hiện ý kiến
thống nhất của tất cả thành viên trong đoàn làm phim. Vì vậy đối với báo in,
nhà báo có thể viết đề cương rồi viết luôn thành bài; còn truyền hình do tính
chất đặc thù quy định, đề cương đó được thể hiện ở kịch bản. Kịch bản là
xương sống cho một tác phẩm
truyền hình, đồng thời tạo ra sự thống nhất giữa đạo diễn và quay phim
cũng như sự ăn ý giữa hình ảnh và lời bình.
4. Chức năng của Truyền hình

7



Xét vai trò của truyền hình như một tiểu hệ thống trong hệ thống báo
chí nói riêng và hệ thống xã hội liên tục vận động và phát triển nói chung,
truyền hình có những chức năng cơ bản như sau: chức năng thông tin, chức
năng tư tưởng, chức tô chức quản lý xã hội, chức năng phát triển khai sáng và
giải trí, chức năng chỉ đạo giám sát xã hội.
4.1. Chức năng thông tin:
Nhiệm vụ hàng đầu và cũng là lý do ra đời của báo chí là thông tin. Có
thể nói, thông tin là chức năng khởi nguồn, chức năng cơ bản nhất của báo chí
nói chung và của truyền hình nói riêng. Truyền hình có những lợi thế nhất
định so với các loại hình báo chí khác trong việc phản ánh thông tin.
Trước hết, truyền hình cũng như báo chí nói chung đều phải thông tin
một cách nhanh chóng, kịp thời, đúng lúc nhất, đảm bảo tính cập nhật, tính
thời sự của thông tin.
Không những thông tin nhanh nhạy, phong phú đa dạng mà thông tin
trên truyền hình phải đảm bảo tính trung thực, độ chính xác cao. Một trong
những nguyên tắc của hoạt động báo chí và truyền thông đại chúng là bảo
đảm tính khách quan và chân thật. Không những thế thông tin đưa ra phải
nhằm những mục đích nhất định.
Một yêu cầu khác mà thông tin trên báo chí phải hết sức lưu ý đó là
thông tin phải phù hợp với hệ thống giá trị văn hoá và đạo lý của dân tộc,
thông tin phù hợp với sự phát triển và phục vụ sự phát triển. Thông tin trên
truyền hình cũng phải nhằm vào việc định hướng dư luận xã hội, định hướng
thái độ, nhận thức và hành vi cho công chúng.
4.2. Chức năng tư tưởng:

8


Với khả năng tác động một cách rộng lớn, nhanh chóng và mạnh mẽ

vào xã hội, hoạt động báo chí nói chung cũng như của truyền hình nói riêng
có vai trò và ý nghĩa rất lớn trong công tác tư tưởng. Truyền hình với những
lợi thế đặc biệt về
âm thanh và hình ảnh có khả năng thể hiện một lượng thông tin lớn
sinh động và cụ thể nên có tác động rất lớn đến nhận thức của người xem, từ
đó quyết định hành vi của họ.Truyền hình luôn bám sát đời sống thực tiễn, tập
trung phản ánh những điển hình trong xã hội, đồng thời phê phán những cái
tiêu cực trong xã hội.
Truyền hình nói riêng có vai trò rất lớn trong việc tạo ra dư luận xã hội.
Dư luận xã hội là phản ứng, thái độ của xã hội đối với một sự kiện, hiện tượng
vấn đề hoặc một nhân vật nào đó.Điều đó chứng tỏ nếu thông tin bị bóp méo
hay xuyên tạc thì hậu quả sẽ rất lớn vì nó tạo ra dư luận xã hội không tốt mà
không dễ gì dập tắt được.
4.3. Chức năng tổ chức – quản lý xã hội:
Báo chí nói chung và truyền hình nói riêng đang hàng ngày hàng giờ
tham gia vào công tác tô chức, quản lý xã hội. Truyền hình góp phần tuyên
truyền những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đến cho nhân
dân, đòng thời cũng là diễn đàn để phản ánh những tâm tư nguyện vọng của
người dân. Truyền hình là kênh thông tin hai chiều để mọi chính sách mà
Đảng và Nhà nước đề ra đều phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Ở góc độ khác, vai trò tô chức của báo chí truyền hình còn được thể
hiện ở các khía cạnh khác như biểu dương nhân tố, hình mẫu tích cực tiên tiến
và nhân rộng ra thành phong trào.

9


Trong vai trò quản lý xã hội, báo chí truyền hình đảm nhận vai trò vừa
là yếu tố liên kết thông tin, cầu nối, vừa là động lực khơi dậy tiềm năng của
chủ thể và khách thể.

4.4. Chức năng chỉ đạo, giám sát xã hội:
Chức năng chỉ đạo của báo chí, chủ yếu xuất phát từ nhu cầu của chủ
thể quản lý, lãnh đạo nhằm thúc đẩy công việc theo mục tiêu đã đề ra, uốn
nắn những lệnh lạc hay cô vũ mọi người tập trung thực hiện các chỉ tiêu kế
hoạch trọng tâm trong từng thời gian.
Nhiệm vụ của báo chí là giải thích và giải đáp những vấn đề của cuộc
sống, góp phần tháo gỡ và thúc đẩy tình hình phát triển.
Báo chí chỉ đạo thông qua việc đăng tải chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước, qua việc thông tin, thông qua thuyết phục là chủ yếu. Vai
trò tư vấn
thuyết phục, định hướng nhận thức thay đôi thái độ và hành vi, do đó
hướng dẫn hoạt động thực tiễn được coi là vai trò chỉ đạo của báo chí.
Trong Nghị quyết Trung ương 6 (khoá VIII) lần 2, Đảng ta xác định
báo chí là một trong 4 hệ thống giám sát xã hội quan trọng. Đặc thù giám sát
của báo chí là giám sát bằng dư luận xã hội, bằng tai mắt của nhân dân. đó là
sự giám sát mọi nơi, mọi lúc.
4.5. Chức năng phát triển văn hoá và giải trí của truyền hình:
Cuộc sống càng hiện đại, con người phải làm việc căng thằng thì nhu
cầu giải trí càng cao. Truyền hình đã và đang là sự lựa chọn hàng đầu hiện
nay. Nhờ vào khoa học kĩ thuật – công nghệ ngày càng hiện đại, người dân có
thể ngồi tại nhà và chọn lựa tất cả những kênh truyền hình mà họ yêu thích.

10


Nếu như phát thanh mới chỉ dáp ứng được yêu cầu về mặt âm thanh thì truyền
hình là cả âm thanh và hình ảnh. Ca nhạc, phim ảnh... tất cả những loại hình
nghệ thuật đáp ứng nhu cầu giải trí và nâng cao kiến thức của con người đều
có thể đáp ứng trên truyền hình. Đây là một ưu điểm đặc biệt mà không phải
loại hình báo chí nào cũng có được.

Có thể nói, chức năng phát triển văn hoá, giải trí là một trong những
chức năng quan trọng của truyền hình, là yếu tố có tính quyết định đến sự
phát triển của truyền hình. Thông qua các chương trình truyền hình, khán giả
vừa có điều kiện giải trí, vừa có điều kiện nâng cao kiến thức của mình về
mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội.
Bên cạnh đó còn rất nhiều những chương trình ca nhạc, phim truyện
đặc sắc đáp ứng tối đa nhu cầu giải trí của công chúng. Truyền hình cũng là
một trường học từ xa với rất nhiều những chương trình khoa học thường thức
cung cấp kiến thức cho người xem trong mọi lĩnh vực. Hiện nay, Đài Truyền
hình Việt Nam đã có những kênh chuyên biệt để tạo sự thuận lợi cho người
xem. Kênh VTV 1 là chương trình thời sự, VTV 2 là kênh khoa học, giáo dục
và kênh VTV 3 là kênh thể thao giải trí, thông tin kinh tế. Khán giả đang ngày
càng có nhiều sự lựa chọn hơn đối với truyền hình.
Các chức năng xã hội của báo chí truyền hình quan hệ chặt chẽ, biện
chứng với nhau, khó có thể tách bóc từng chức năng trong hoạt động thực
tiễn.
Nhận thức về chức năng xã hội của báo chí truyền hình cũng có nghĩa
là đồng thời nhận thức về vai trò xã hội của nhà báo truyền hình để không
ngừng phấn đấu học tập và rèn luyện nhằm góp phần nâng cao năng lực và
hiệu quả tác động của báo chí.
II- Truyền hình Việt Nam
11


1. Quá trình hình thành và phát triển:
1.1. Sự ra đời của Truyền hình Việt Nam:
Ngày 7/9/1970, chương trình truyền hình thử nghiệm đầu tiên của nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà được phát sóng. Chương trình này do Đài tiếng
nói Việt Nam thực hiện.
Trước đó, ngày 4/1/1968, phó thủ tướng Lê Thanh Nghi ký quyết định

số 01/TTG-VP cho phép tông cục thông tin (trực thuộc Chính Phủ) thành lập
"Xưởng phim vô tuyến truyền hình Việt Nam ".
Năm 1971, Chính Phủ đã quyết định chuyển xưởng phim vô tuyến
truyền hình từ tông cục thông tin sang Đài tiếng nói Việt Nam, tăng cường
cho truyền
hình một đội ngũ làm phim thời sự tài liệu có kinh nghiệm thực tế và có
một số vốn tư liệu quý.
Sau một thời gian làm thử, tối 30 tết Tân Hợi (27/1/1971), nhân dân
Thủ đô Hà Nội được xem chương trình truyền hình đầu tiên.
Như vậy, ngay từ những chương trình truyền hình thử nghiệm cũng như
chương trình phát sóng phục vụ nhân dân đầu tiên, truyền hình Việt Nam đã
dùng hình thức phát trực tiếp là do những hạn chế về mặt thiết bị kỹ thuật.
Lúc đó chúng ta chưa có máy ghi hình dùng băng từ và cũng chưa có telecine
(máy chiếu phim truyền hình).
Sau khi thử nghiệm phát sóng thành công, các chương trình thử nghiệm
tiếp tục được phát và kéo dài đến tháng 4 năm 1972 khi Mỹ mở rộng chiến
tranh bằng không gian đánh phá ác liệt vào Hà Nội . Trong thời gian này các
phóng viên, biên tập viên của Đài truyền hình vẫn tiếp tục làm việc nhằm ghi

12


lại những hình ảnh chiến đấu dũng cảm của quân và dân Thủ đô. Những bộ
phim tài liệu được thực hiện trong thời gian này như: Hà Nội - Điện Biên
Phủ, Hà Nội 5 ngày đọ sức, Tiếng Trống Trường đã giành được nhiều giải
thưởng Bông Sen Bạc quốc tế và trong nước.
Sau khi hiệp định Pari được ký kết, các chương trình của đài THVN lại
được tiếp tục phát sóng. Các chương trình của đài lần lượt được ra mắt công
chúng như: Vì an ninh Tô quốc (27.1.1973) (Buôi phát sóng đầu tiên của
chương trình này là tối 16-8-1972), Câu lạc bộ nghệ thuật (21.2.1976) văn

hoá xã hội (21.3.1976) Quân đội nhân dân (24-4-1976), thể dục thể thao
(26.5.1976), Kinh tế (9.5.1976).
1.2. Thời kỳ phát sóng chính thức hàng ngày:
Ngày 16/6/1976 việc khai thác sóng chuyển từ 58 Quán Sứ về trung
tâm Giảng Võ. Năm 1976, Đài truyền hình thành phố Hồ Chí Minh đã thử
nghiệm phát hình màu. Một năm sau, 1977, Đài truyền hình Trung ương cũng
bắt đầu phát thử nghiệm truyền hình màu. Từ giữa năm 1980, khi Đài Hoa sen
đi vào hoạt động, chương trình phát sóng của Đài truyền hình Trung ương xen
kẽ lúc có màu, lúc không do sử dụng nhiều chương trình màu thu từ Đài Hoa
sen.
Ngày 1/8/1986, Đài truyền hình Trung ương chuyển hẳn sang phát màu
hệ SECAM 3b bằng các thiết bị chuyên dùng, từ bỏ hoàn toàn truyền hình đen
trắng.
Bắt đầu từ ngày 1/1/1991, hệ truyền hình màu của Đài truyền hình Việt
Nam chuyển từ hệ SECAM 3b sang phát bằng hệ PAL/D/K. Từ đầu nhưng
năm 1990, nhiều địa phương như Đà Nẵng, Hải Phòng, Quảng Ninh, Nghệ
An... lần lượt dùng ngân sách địa phương mua máy phát truyền hình. Đặc biệt
là từ khi Đài truyền hình Việt Nam sử dụng vệ tinh để phủ sóng toàn quốc thì
13


các đài truyền hình các tỉnh, thành phố đã có một bước tăng trưởng về số
lượng.
Ngày 30/1/1991, Chính phủ ra quyết định số 26/CP giao cho Tông cục
bưu điện thuê vệ tinh Intesputnik truyền dẫn tín hiệu phát thanh truyền hình
cho các đài địa phương. Từ đầu nhưng năm 1990, nhiều địa phương như Đà
Nẵng, Hải Phòng, Quảng Ninh, Nghệ An... lần lượt dùng ngân sách địa
phương mua máy phát truyền hình. Đặc biệt là từ khi Đài truyền hình Việt
Nam sử dụng vệ tinh để phủ sóng toàn quốc thì các đài truyền hình các tỉnh,
thành phố đã có một bước tăng trưởng về số lượng.

Ngày 31/3/1998, Đài truyền hình Việt Nam chính thức tách kênh
VTV1, VTV2, VTV3. Đây là một bước nhảy vọt của Đài truyền hình Việt
Nam về cả nội dung chương trình lẫn thời lượng phát sóng.
Đến nay, hệ thống truyền hình Việt Nam đã có 1 Đài truyền hình quốc
gia, 5 đài truyền hình khu vực (Huế, Đà Nẵng, Cần thơ, Phú Yên, Sơn La) và
64 đài phát thanh - truyền hình đại phương; 4 kênh truyền hình cáp hữu tuyến
CATV; tông thời lượng 200 giờ/ngày được phủ sóng 80% toàn quốc. Ngoài
việc nâng cao cơ sở vật chất, kỹ thuật, trang thiết bị hiện đại về máy móc....
Truyền hình Việt Nam chú trọng việc đẩy mạnh đào tạo đội ngũ cán bộ, công
nhân viên, cán bộ kỹ thuật, đặc biệt là đội ngũ phóng viên, biên tập, tiêu
chuẩn hoá đội ngũ cán bộ phục vụ cho ngành truyền hình hiện đại phù hợp
với xu thế toàn cầu hoá trong truyền thông đại chúng thế giới.
2. Triển vọng phát triển truyền hình Việt Nam:
Chúng ta đang sống trong một thế giới có đặc điểm nôi bật là sự bùng
nô thông tin trên phạm vi toàn cầu. Thông tin đã xen vào mọi lĩnh vực, chi
phối và làm thay đôi phương thức vận hành, quản lý một số hoạt động xã hội.

14


Các phương tiện thông tin đại chúng trong đó có truyền hình đều đã và đang
phát triển nhanh chóng, vượt xa sự hình dung của nhiều người.
Ở Việt Nam, báo chí đã và đang có những bước phát triển mạnh mẽ, và
những năm tới chắc chắn còn có sự tăng trưởng nữa. Bởi vì, tính bình quân sự
tiêu dùng báo chí của nhân dân ta vẫn còn ở mức thấp so với các nước trong
khu vực và trên thế giới. Báo chí mà đặc biệt là truyền hình Việt Nam vẫn còn
nhiều thuận lợi để phát triển.
Tuy nhiên, sự tăng trưởng quá nhanh của Internet, và báo mạng điện tử,
hệ quả tất yếu của cuộc cách mạng tin học đang diễn ra trên quy mô toàn cầu
đang đặt ra nhiều thách thức to lớn cho truyền hình - một phương tiện thông

tin hùng mạnh. Tuy hiện tại, chiếc ti vi vẫn gần như chiếm giữ độc quyền
cung cấp thông tin nhanh nhậy và rẻ tiền. Nhưng ưu thế này trong thời gian
tới có lẽ sẽ không còn nguyên vẹn khi mà ở mỗi gia đình đều có không chỉ
một, mà là hai, ba hoặc nhiều hơn nữa những chiếc máy vi tính nối mạng, và
khi mà báo in được hệ thống bán lẻ phát hành miễn phí đến tận nhà theo yêu
cầu của người đọc. Trong tương lai, ranh giới giữa truyền hình và các loại báo
điện tử chắc chắn sẽ không còn. Cuộc cách mạng của công nghệ thông tin đã
cho phép các tờ báo mạng cũng có thể tham gia vào quá trình thông tin bằng
hình ảnh. Hiện nay, tuy chưa thực sự phô biến nhưng công chúng cũng có thể
xem phim truyện, theo dõi các cuộc phỏng vấn, hay bình luận, phân tích, các
phóng sự bằng hình ảnh trên mạng Internet. Vị trí của truyền hình đang bị đe
doạ và chắc chắn sẽ không còn ở thế độc tôn như trước. Thực tế này buộc
truyền hình phải tham gia vào tiến trình hội nhập, phải ứng dụng mạnh mẽ
công nghệ hiện đại và thực hiện khẩn trương xã hội hóa các hình thức quảng
bá sản phẩm và sức ảnh hưởng của mình.
Nếu như các nhà làm báo mạng tìm kiếm lợi thế của thông tin hình ảnh
đưa truyền hình lên Internet để làm phong phú hơn cho tờ báo của mình, thì

15


truyền hình cũng cần phải nhanh chóng tận dụng ưu thế của công nghệ thông
tin đưa các sản phẩm của mình lên mạng để thực sự bình đẳng trong cuộc
cạnh tranh về mặt công nghệ, tiếp tục chiếm lợi thế về chất lượng sản phẩm.
Mới đây hợp tác giữa ngành bưu chính viễn thông, đưa dịch vụ truyền hình
trên mạng điện thoại di động thế hệ 3G có thể xem như một động thái tích cực
của truyền hình trong quá trình xã hội hóa chính mình.
Trong cuộc bùng nô về thông tin, giữa lòng cuộc cạnh tranh gay gắt để
tranh giành công chúng, điều cần thiết với những người làm truyền hình
không chỉ là sự cố gắng nhiều hơn, sáng tạo nhiều hơn. Mà điều quan trọng

hơn hết là phải
nhận thức rõ những thách thức và thời cơ, thấy được xu thế vận động
để lấy đó làm cơ sở xây dựng chiến lược hành động phù hợp nhất cho sự phát
triển của ngành truyền hình trong tương lai.
III- Tổ chức bộ máy quản lý của Đài Truyền hình Việt Nam.
Đài Truyền hình Việt Nam là cơ quan thuộc Chính phủ, là đài truyền
hình quốc gia thực hiện chức năng thông tin, tuyên truyền chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; góp phần giáo dục, nâng
cao dân trí, phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân bằng các chương trình
truyền hình và các loại hình báo chí, truyền thông đa phương tiện khác.
Đài Truyền hình Việt Nam có nhiệm vụ xây dựng, trình Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ chiến lược, quy hoạch, kế hoạch dài hạn, trung hạn, hàng
năm, các dự án quan trọng khác của Đài Truyền hình Việt Nam và tô chức
thực hiện sau khi được phê duyệt; tô chức sản xuất, truyền dẫn, phát sóng,
phát hành, lưu trữ các chương trình truyền hình, báo điện tử, báo in theo quy
định của pháp luật; quyết định, chịu trách nhiệm về nội dung, chương trình,

16


thời lượng phát sóng hàng ngày trên các kênh chương trình của Đài Truyền
hình Việt Nam theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, Đài Truyền hình Việt Nam chủ trì, phối hợp với các đài
truyền hình, đài phát thanh - truyền hình địa phương về kế hoạch sản xuất các
chương trình phát trên kênh chương trình của Đài Truyền hình Việt Nam;
quản lý, quyết định các dự án đầu tư và xây dựng thuộc thẩm quyền theo quy
định của pháp luật; tham gia thẩm định các đề án, dự án quan trọng thuộc
chuyên môn, nghiệp vụ được Thủ tướng Chính phủ giao; thực hiện cơ chế tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về nhiệm vụ, tô chức bộ máy, số lượng người làm
việc; được vận dụng cơ chế tài chính, tiền lương như doanh nghiệp theo quy

định của pháp luật; thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu Nhà nước đối với
các doanh nghiệp do Đài Truyền hình Việt Nam quyết định thành lập và đối
với phần vốn góp tại các doanh nghiệp theo quy định của pháp luật...
Đài Truyền hình Việt Nam có các đơn vị gồm:
1- Ban Thư ký biên tập
2- Ban Tô chức cán bộ
3- Ban Kế hoạch - Tài chính
4- Ban Hợp tác quốc tế
5- Ban Kiểm tra
6- Văn phòng
7- Ban Thời sự
8- Ban Khoa giáo

17


9- Ban Truyền hình tiếng dân tộc

10- Ban Truyền hình đối ngoại
11- Ban Văn nghệ
12- Ban Sản xuất các chương trình Giải trí
13- Ban Sản xuất các chương trình Thể thao
14- Ban Biên tập truyền hình cáp
15- Ban Thanh thiếu niên
16- Trung tâm Phim tài liệu và Phóng sự
17- Trung tâm Sản xuất phim truyền hình
18- Trung tâm Tư liệu
19- Trung tâm Truyền hình Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh
20- Trung tâm Truyền hình Việt Nam tại thành phố Huế
21- Trung tâm Truyền hình Việt Nam tại thành phố Đà Nẵng

22- Trung tâm Truyền hình Việt Nam tại thành phố Nha Trang
23- Trung tâm Truyền hình Việt Nam tại thành phố Cần Thơ
24- Các cơ quan thường trú Đài Truyền hình Việt Nam tại nước ngoài
được thành lập theo quy định của pháp luật
25- Trung tâm Kỹ thuật sản xuất chương trình
26- Trung tâm Kỹ thuật truyền dẫn phát song
18


27- Trung tâm Mỹ thuật
28- Trung tâm Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ truyền hình
29- Trung tâm Quảng cáo và Dịch vụ truyền hình
30- Trung tâm Tin học và Công nghệ truyền hình
31- Tạp chí Truyền hình.
Đài Truyền hình Việt Nam có Tông Giám đốc và không quá 4 Phó
Tông Giám đốc. Tông Giám đốc và các Phó Tông Giám đốc do Thủ tướng
Chính phủ bô nhiệm, miễn nhiệm theo quy định của pháp luật. Tông giám đốc
chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và trước pháp luật về
toàn bộ hoạt động của Đài Truyền hình Việt Nam; các Phó Tông giám đốc
giúp việc Tông giám đốc và chịu trách nhiệm trước Tông giám đốc và trước
pháp luật về lĩnh vực được phân công. Tông giám đốc quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tô chức của các đơn vị trực thuộc. Tông giám
đốc bô nhiệm, miễn nhiệm, bãi miễn người đứng đầu và cấp phó của người
đứng đầu các đơn vị trực thuộc

19


Việc thực hiện chính sách, pháp luật về cải cách tô chức bộ máy hành
chính nhà nước tại Đài Truyền hình Việt Nam, Đoàn giám sát của Quốc hội

nhận định về cơ bản, cơ quan này đã bám sát các chỉ đạo của Đảng, của Chính
phủ, kiện toàn tô chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, tinh
giản biên chế, nâng cao chất lượng hoạt động.
Báo cáo do Tông Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam - Trần Bình
Minh trình bày cho thấy, đến nay, Đài Truyền hình Việt Nam có 45 đơn vị
trực thuộc, trong đó 32 đơn vị được quy định trong Nghị định của Chính phủ
(bao gồm 10 cơ quan thường trú Đài Truyền hình Việt Nam ở nước ngoài), 8
đơn vị trực thuộc khác do Tông Giám đốc Đài thành lập theo quy định tại
Nghị định, 1 đơn vị trực thuộc được thành lập theo Quyết định của Bộ Giáo
dục và Đào tạo và 4 doanh nghiệp.

20


Số lượng các đơn vị trực thuộc Đài Truyền hình Việt Nam giảm những
năm đầu giai đoạn 2011-2016. Những năm tiếp theo, do yêu cầu thực hiện
nhiệm vụ chính trị trong tình hình khoa học công nghệ mới, Đài Truyền hình
Việt Nam đã xây dựng Đề án kiện toàn về tô chức, sắp xếp lại các đơn vị trực
thuộc trình Chính phủ, các cơ quan hữu quan xem xét quyết định.
Theo Nghị định số 72/2014/NĐ-CP quy định về cơ cấu tô chức bộ máy
của Đài Truyền hình Việt Nam , số lượng đơn vị của Đài Truyền hình Việt
Nam được nâng lên 32 (tăng 2 đơn vị).
Đối với đơn vị thành lập theo thẩm quyền của Tông Giám đốc, Đài
Truyền hình Việt Nam thực hiện sáp nhập 3 Văn phòng: Văn phòng Đảng ủy,
Văn phòng Công đoàn và Đoàn thanh niên thành Văn phòng Đảng Đoàn thể.
Như vậy, tuy yêu cầu về số lượng, chất lượng nhiệm vụ chuyên môn ngày
càng cao nhưng Đài Truyền hình Việt Nam đã giữ được sự ôn định về số
lượng đầu mối các đơn vị trong cơ cấu tô chức của Đài.
Bên cạnh việc xây dựng cơ cấu tô chức tinh gọn, hiệu quả, phân định
chức năng nhiệm vụ khoa học, không chồng chéo, không bỏ sót nhiệm vụ,

Đài Truyền hình Việt Nam còn thực hiện giao quyền tự chủ cho các đơn vị,
tăng cường phân cấp, phân quyền gắn liền quyền hạn với trách nhiệm, chú
trọng công tác giám sát, kiểm tra và công tác hậu kiểm; tăng cường công tác
cải cách hành chính.
Cơ cấu tô chức của Đài hiện nay là phù hợp, đáp ứng tốt yêu cầu của
truyền hình hiện đại. Đài Truyền hình Việt Nam hoạt động theo cơ chế tự chủ,
tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tô chức bộ máy, biên chế và tài
chính theo Nghị định số 18/2008/NĐ-CP và Nghị định số 72/2014/NĐ-CP.
Hiện nay, Đài sử dụng lao động theo các hình thức: công chức, viên
chức, lao động hợp đồng. Trước tháng 4/2012, Đài Truyền hình Việt Nam sử
21


dụng lao động dưới các hình thức: công chức, viên chức, hợp đồng lao động
theo Nghị định 68/2000/NĐ-CP và hợp đồng thuê khoán, cộng tác viên dài
hạn.
Tông số lao động tính đến hết năm 2011 là 4.530 người. Nhằm bảo đảm
quyền lợi cho người lao động, hai năm 2012 và 2013, Đài Truyền hình Việt
Nam đã ban hành các quy chế tuyển dụng, sử dụng lao động hợp đồng, chấm
dứt sử dụng lao động dưới hình thức hợp đồng thuê khoán và chuyển một bộ
phận sang ký hợp đồng lao động theo quy định của Luật Lao động.
Với việc tăng cường công tác quản lý, tiết kiệm sử dụng lao động, trừ
những đơn vị mới thành lập, số lượng công chức, viên chức và lao động hợp
đồng của Đài đã có xu hướng giảm xuống. Tính đến giữa năm 2018, tông số
công chức, viên chức và lao động hợp đồng của Đài là 4.105 người.
Điều khiến các thành viên Đoàn giám sát băn khoăn đặt câu hỏi là Đài
Truyền hình Việt Nam vừa là cơ quan thuộc Chính phủ, lại vừa là một doanh
nghiệp, là tô chức cơ quan đặc biệt, có cả doanh nghiệp trong đơn vị sự
nghiệp, cần phải làm rõ cơ chế của Đài mới xác định được việc cải cách bộ
máy.

Đài có 3 nhóm người là nhóm gồm các đơn vị giúp việc Tông giám
đốc, nhóm ở các đơn vị sản xuất và phát sóng chương trình, nhóm tô chức các
sự nghiệp khác, do vậy Đài Truyền hình Việt Nam cần phải xác định mô hình
chính danh, tính toán cơ cấu công chức, viên chức, bộ máy quản lý sao cho
phù hợp. Đi đôi với cải cách bộ máy, điều quan trọng hàng đầu là kiểm soát
được chất lượng, thực hiện theo đúng quan điểm, đường lối của Đảng.
Đài Truyền hình Việt Nam thực hiện khoán thu, khoán chi. Công chức,
viên chức ngoài lương cơ bản, hệ số chức vụ, còn được hưởng từ nguồn thu
của đài. Do ứng dụng công nghệ thông tin, tăng cường công tác quản lý, tiết
22


kiệm sử dụng lao động nên Đài mới sử dụng 4.100/4.500 biên chế được phê
duyệt năm 2015. Đến năm 2021, Đài tiếp tục giảm 10% biên chế, chỉ còn
3.600 – 3.700 người, trong đó có gần 300 người về hưu mà không bô sung,
thay thế.
Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu ghi nhận kết quả thực hiện tinh
giản biên chế của Đài Truyền hình Việt Nam . Là đơn vị tự chủ tài chính, Đài
Truyền hình Việt Nam có thể tự chủ về tô chức bộ máy và biên chế nhưng chế
độ chính sách cho người lao động vẫn phải đảm bảo theo quy định của pháp
luật.
Để đảm bảo chất lượng hiệu quả hoạt động của Đài, cần ban hành các
tiêu chí về ISO mới, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt
động của Đài và thắt chặt quản lý bộ máy tô chức của Đài.

23


MỤC LỤC


24



×