Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tiểu luận nghiệp vụ công KT GS KL đảng Những vấn đề cơ bản về kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.04 KB, 17 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng nói chung và kiểm tra đảng viên
khi có dấu hiệu vi phạm nói riêng là một mặt công tác cơ bản của Đảng, trực tiếp
góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng ta ngày càng trọng sạch, vững
mạnh, đủ sức lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc trong từng giai đoạn.
Những năm qua, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về tầm quan trọng của
công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật trong Đảng nói chung, cơng tác kiểm tra đảng
viên khi có dấu hiệu vi phạm đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần đáng kể
vào việc ngăn chặn tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thối về tư tưởng, đạo
đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, củng cố lòng tin của nhân dân và sự lãnh đạo
của Đảng. Tuy nhiên, công tác kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu sai phạm ở
khơng ít tổ chức đảng cũng như ở ủy ban kiểm tra Đảng thực hiện cịn bị động,
thậm chí cịn sai sót do khơng nắm vững nghiệp vụ chuyên môn của công tác kiểm
tra, giám sát và kỷ luật Đảng.
Để góp phần tìm hiểu và nâng cao nhận thức, hiệu quả công tác kiểm tra
Đảng nói chung, tơi chọn chủ đề: “Những vấn đề cơ bản về kiểm tra đảng viên
khi có dấu hiệu vi phạm” làm bài tiểu luận (điều kiện) của mình cho môn học:
“Nghiệp vụ công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng”.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích của tiểu luận: Trên cơ sở khái quát mục đích, ý nghĩa, tác
dụng của việc kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, tiểu luận trình bày
những nội dung chủ yếu về nghiệp vụ công tác kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu
sai phạm.
2.2. Nhiệm vụ của tiểu luận: Làm rõ những nội dung chủ yếu về nghiệp vụ
công tác kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu sai phạm.


2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Tiểu luận nghiên cứu quan điểm, chủ trương,


hướng dẫn của Đảng về nghiệp vụ kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu sai phạm.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Tiểu luận nghiên cứu quan điểm, chủ trương,
hướng dẫn của Đảng về nghiệp vụ kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu sai phạm.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận: Tiểu luận dựa trên những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, các quan điểm của Đảng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói chung, về kiểm
tra, giám sát, kỷ luật đảng nói riêng để thực hiện nhiệm vụ của tiểu luận.
4.2. Phương pháp nghiên cứu: Tiểu luận sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đặc biệt là
phương pháp lịch sử, phân tích để triển khai nhiệm vụ nghiên cứu.
5. Ý nghĩa thực tiễn và lý luận của tiểu luận
5.1. Ý nghĩa lý luận: Tiểu luận góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ,
đảng viên, nhất là cán bộ, đảng viên làm công tác kiểm tra Đảng các cấp về vai trị,
tầm quan trọng và nghiệp vụ của cơng tác kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi
phạm, từ đó có ý thức thực hiện tốt hơn trách nhiệm của mình đối với cơng này,
góp phần quan trọng vào xây dựng, làm trong sạch tổ chức đảng, nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong giai đoạn hiện nay.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn: Việc nhận thức đúng và đầy đủ mục đích, ý nghĩa, tác
dụng và nghiệp vụ của cơng tác kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm trong
giai đoạn hiện nay sẽ giúp các cấp ủy đảng, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng
viên trong ngành kiểm tra đảng làm tốt hơn chức năng, nhiệm vụ của mình, góp
phần quan trọng hồn thành nhiệm vụ ngành kiểm tra, qua đó góp phần thực hiện
thắng lợi công tác xây dựng, chỉnh đốn tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên, thực
hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
6. Kết cấu của tiểu luận


3
Ngồi phần mở đầu, kết luận, chú thích, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung tiểu luận gồm 2 chương, 5 tiết

NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KIỂM TRA ĐẢNG VIÊN VIÊN KHI CÓ
DẤU HIỆU SAI PHẠM
1.1. Một số nhận thức chung về kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu sai
phạm
1.1.1. Khái niệm vi phạm, dấu hiệu vi phạm và khi có dấu hiệu vi phạm:
Theo Từ điển Tiếng Việt: "Vi phạm" là "Không tuân theo hoặc làm trái
những điều đã quy định"

(1)

. "Dấu hiệu" là "Hiện tượng tỏ rõ điều gì" đó

(2)

. Dấu

hiệu vi phạm là những hiện tượng cho thấy có sự khơng tn theo, không làm hoặc
làm trái một hoặc một số điều quy định của Đảng, Nhà nước.
Vi phạm và dấu hiệu vi phạm thuộc cặp phạm trù bản chất và hiện tượng.
Trong đó, vi phạm là bản chất; dấu hiệu vi phạm là hiện tượng bên ngoài để nhận
biết. Hiện tượng phản ảnh bản chất, nên có thể phản ánh đúng bản chất cuả sự vật.
Song, trong quá trình phản ánh, dưới tác động của nhiều yếu tố, việc phản ánh có
thể bị xuyên tạc, nên không phản ánh đúng bản chất của sự vật. Vì vậy, dấu hiệu vi
phạm có thể có vi phạm mà cũng có thể khơng có vi phạm.
Dấu hiệu vi phạm của đảng viên là những hiện tượng, biểu hiện qua những
thông tin, tài liệu, hiện vật cho thấy đảng viên không tuân theo, không làm hoặc
làm trái các quy định của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính
trị - xã hội. Nhưng, khi chưa được cấp có thẩm quyền kiểm tra, kết luận thì các

hành vi có biểu hiện sai trái của đảng viên chỉ được xem là "có dấu hiệu vi phạm".
Ngược lại, khi những dấu hiệu vi phạm của đảng viên được các tổ chức, cấp thẩm
quyền đối chiếu với các quy định của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các
đồn thể chính trị - xã hội mà đảng viên tham gia, có căn cứ cho thấy đảng viên đó


4
không tuân theo, không làm hoặc làm trái một hoặc một số điều quy định của
Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội thì đảng viên
đó vi phạm kỷ luật Đảng.
1.1.2. Phát hiện, xác định dấu hiệu vi phạm và quyết định kiểm tra khi có dấu
hiệu vi phạm
Phát hiện dấu hiệu vi phạm là việc tổ chức, cá nhân bằng nhận thức, trách
nhiệm của mình tiến hành nhận diện, phân tích, tìm ra những thơng tin, tài liệu,
hiện vật cho thấy đảng viên không tuân theo, không làm hoặc làm trái một hoặc
một số điều quy định của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính
trị - xã hội. Xác định dấu hiệu vi phạm là việc tổ chức đảng có thẩm quyền căn cứ
chức năng, nhiệm vụ, quy định của Đảng về phân cấp quản lý cán bộ, các thông
tin, tài liệu, hiện vật phản ảnh về dấu hiệu vi phạm đã thu thập, phát hiện được,
thông qua các phương pháp nghiệp vụ kiểm tra để phân tích, sàng lọc, đánh giá,
lựa chọn cụ thể, chính xác về đối tượng, nội dung có dấu hiệu vi phạm, xem xét,
quyết định việc kiểm tra.
Việc xác định đảng viên có dấu hiệu vi phạm phải dựa vào các căn cứ: (i)
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cấp ủy, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra, chi bộ;
chương trình, kế hoạch cơng tác năm của cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra;
(ii) Quy định của Bộ Chính trị, cấp ủy các cấp về phân cấp quản lý cán bộ; (iii)
Các thông tin, tài liệu, báo cáo, phản ánh về dấu hiệu vi phạm của tổ chức đảng cấp
dưới và đảng viên được thu thập, phát hiện từ các nguồn: Báo cáo kết quả công tác
kiểm tra, giám sát, thanh tra, điều tra, kiểm toán ... của cấp uỷ, tổ chức mà đảng
viên sinh hoạt; Báo cáo tự phê bình và phê bình của đảng viên và kết quả phân loại

chất lượng đảng viên; Tố cáo, khiếu nại, kiến nghị, phản ảnh, góp ý của đảng viên,
quần chúng và các phương tiện thông tin đại chúng cũng như qua khảo sát, nắm
tình hình bước đầu của tổ chức đảng ...
Khi có cơ sở khẳng định có dấu hiệu vi phạm thì tổ chức đảng có thẩm
quyền căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, các quy định của Đảng, đề nghị


5
của cán bộ kiểm tra hoặc đơn vị thuộc cơ quan ủy ban kiểm tra để ban hành
quyết định kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm.
1.1.3. Kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm
Đây là nhiệm vụ của tổ chức đảng có thẩm quyền, trước hết là của chi bộ,
cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra các cấp nhằm xem xét, kết luận đảng viên có hoặc khơng
có vi phạm trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết,
chỉ thị của Đảng; các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng; việc thực hiện nhiệm
vụ đảng viên, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức
đảng và tồn Đảng.
Kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm chỉ được tiến hành khi đã phát
hiện, có cơ sở xác định có dấu hiệu vi phạm. Nội dung kiểm tra đảng viên có dấu
hiệu vi phạm, gồm: (1) Việc chấp hành các quy định của Điều lệ Đảng, chủ trương,
nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng; pháp luật của Nhà nước; đặc biệt là việc
tuân thủ các văn bản pháp quy trong từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể; (2) Việc
thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; thực hiện nhiệm vụ cấp ủy viên, nhiệm
vụ đảng viên; (3) Việc chấp hành quy chế làm việc, chế độ công tác, các nguyên
tắc tổ chức, sinh hoạt đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ; (4) Việc giữ
gìn phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, lối sống; đoàn kết thống nhất nội bộ;
(5) Việc thực hiện quy định về những điều đảng viên không được làm.
Qua kiểm tra, tổ chức đảng sẽ kết luận đảng viên có vi phạm hay khơng có
vi phạm, vi phạm đến mức phải xử lý hay không đến mức phải xử lý.
1.2. Mục đích, ý nghĩa, tác dụng của việc kiểm tra nói chung và kiểm tra

đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm nói riêng
Mục đích của kiểm tra nói chung là để làm rõ đúng, sai. Do đó, sau khi kiểm
tra phải kết luận và xử lý (nếu có vi phạm đến mức phải xử lý kỷ luật). Chủ tịch
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Có kiểm tra mới huy động tinh thần tích cực và lực lượng to
tát của nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và


6
giúp đỡ kịp thời”

(3)

. Theo Người, mục đích của cơng tác kiểm tra chính là phát

hiện những hạn chế, bất cập, thiếu sót trên mọi phương diện trong q trình tổ
chức thực hiện để hồn thành tốt nhất cơng việc đề ra; biết rõ cán bộ và nhân viên
tốt hay xấu; biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của các cơ quan, của các mệnh lệnh và
nghị quyết. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi kiểm tra là một trong ba nhân tố quyết định
đến sự thành công của mọi công việc, bên cạnh cách thức tổ chức thực hiện và
công tác cán bộ. Người chỉ rõ: “Lãnh đạo đúng nghĩa là: 1- Phải quyết định mọi
vấn đề cho đúng… 2- Phải tổ chức sự thi hành cho đúng… 3- Phải tổ chức sự kiểm
soát” (4). Theo Người, nếu thiếu một trong ba điều trên thì chính sách đúng đến mấy
cũng không thể mang lại hiệu quả trong thực tiễn.
Tại Hội nghị tổng kết công tác kiểm tra của Đảng (ngày 29-7-1964), Chủ
tịch Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định: “Kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục
đảng viên và cán bộ làm trọn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm
gương mẫu tốt cho nhân dân. Do đó mà góp phần vào việc củng cố Đảng về tư
tưởng, về tổ chức” (5). Quan điểm này của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành mệnh
lệnh hành động xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của
Đảng. Đảng ta đã khẳng định: kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo

quan trọng của Đảng, “có vị trí cực kỳ quan trọng trong tồn bộ hoạt động lãnh đạo
của Đảng”

(6)

. Vì lãnh đạo khơng chỉ là việc định ra đường lối, chính sách, nghị

quyết, chỉ thị, tổ chức thực hiện và bố trí cán bộ, mà còn là kiểm tra, giám sát
nhằm bảo đảm đường lối, chính sách được xác định đúng, được quán triệt và thực
hiện thắng lợi trên thực tiễn. Đây là vấn đề có tính ngun tắc, vừa là chức năng
lãnh đạo, vừa là trách nhiệm, nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng.
Ở mỗi giai đoạn cách mạng, công tác kiểm tra đảng nói chung đều được
Đảng ta quan tâm chỉ đạo; việc kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm nói
riêng là một nhiệm vụ quan trọng, trực tiếp và thường xuyên của cấp uỷ các cấp và
luôn được xác định là nhiệm vụ trọng tâm của uỷ ban kiểm tra các cấp, góp phần


7
quan trọng và có hiệu quả để phịng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các
hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động quản lý nhà nước, cũng như trong hoạt
động thi hành nhiệm vụ, quyền hạn được giao của cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức. Qua kiểm tra sẽ giúp cho bản thân đảng viên, tổ chức đang ng quản lý
đảng viên đó thấy được khuyết điểm, vi phạm (nếu có); khơng để khuyết điểm trở
thành vi phạm, hoặc vi phạm ít nghiêm trọng trở thành nghiêm trọng; không để vi
phạm của một người trở thành vi phạm của nhiều người, của một tổ chức đảng...
Qua đó, góp phần chủ động phịng ngừa, giáo dục, "răn đe", ngăn chặn vi phạm
của đảng viên được kiểm tra và cả những đảng viên chưa được kiểm tra; góp phần
nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng,
xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của tổ chức đảng và toàn Đảng.

Kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm giúp cho các tổ chức đảng quản
lý đảng viên thấy được ưu điểm để phát huy, khắc phục những khuyết điểm, hạn
chế, bất cập; rút ra những bài học kinh nghiệm, để từ đó giám sát, quản lý, giáo
dục, rèn luyện đảng viên tốt hơn. Đồng thời, giúp cho tổ chức đảng phát hiện
những quy định của Đảng khơng cịn phù hợp hoặc còn thiếu để sửa đổi, bổ sung
theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung nhằm quản lý
chặt chẽ đảng viên phù hợp với tình hình thực tế; chỉ đạo các tổ chức nhà nước,
đồn thể chính trị - xã hội sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến việc quản lý
cán bộ, đảng viên và chính sách, pháp luật.
Thực tiễn hơn 90 năm lãnh đạo của Đảng, nhất là những năm gần đây cho
thấy: Kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm đã từng bước kiềm chế, ngăn
chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, tình trạng tham nhũng, “lợi ích nhóm”, “tư
duy nhiệm kỳ”, tha hóa quyền lực trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; đồng thời,
góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, tăng cường sự đoàn


8
kết thống nhất trong Đảng, xây dựng hệ thống chính trị liêm chính, hành
động nhằm thực hiện thành cơng mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.

Chương 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ KIỂM TRA ĐẢNG VIÊN KHI
CÓ DẤU HIỆU VI PHẠM
Ngày 16-10-1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra quyết định thành lập
Ban kiểm tra Trung ương (hiện nay là Ủy ban Kiểm tra Trung ương), tuy chưa nêu
cụ thể về kiểm tra đảng viên, nhưng có nhiệm vụ điều tra và báo cáo cho Trung
ương những việc như: Đường lối chỉ đạo của Trung ương có đúng và sát khơng?
Việc thi hành nghị quyết, chỉ thị của Trung ương trong toàn Đảng như thế nào?

Những việc bất thường xảy ra ở các cấp, các ngành ... Từ Đại hội II của Đảng đến
nay, qua mỗi kỳ Đại hội, Đảng ta từng bước hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của
Ủy ban Kiểm tra Đảng các cấp, trong đó có nhiệm vụ kiểm tra đảng viên "khi có
dấu hiệu vi phạm".
2.1. Chủ thể, đối tượng, nội dung, cách tiến hành kiểm tra đảng viên khi
có dấu hiệu vi phạm
2.1.1. Về chủ thể và đối tượng kiểm tra:
Chủ thể kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm gồm: chi bộ (bao gồm
cả chi bộ trong đảng bộ cơ sở và chi bộ trong đảng bộ bộ phận), cấp uỷ, ban
thường vụ cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra các cấp.
Khi đảng viên có dấu hiệu vi phạm, cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra các cấp phải
nắm vững Điều lệ Đảng và các quy định, hướng dẫn của Đảng về công tác kiểm tra
và thi hành kỷ luật trong Đảng. Trong đó, cấp uỷ các cấp được quyền kiểm tra mọi
đảng viên trong đảng bộ, kể cả cấp uỷ viên cùng cấp; chi bộ được quyền kiểm tra
đảng viên trong chi bộ khi có dấu hiệu vi phạm; Uỷ ban kiểm tra các cấp có quyền


9
kiểm tra mọi đảng viên trong đảng bộ, kể cả cấp uỷ viên cùng cấp khi có dấu hiệu
vi phạm, nhưng không phải đảng viên là cán bộ do cấp uỷ cấp trên quản lý.
Đảng viên là cấp uỷ viên cùng cấp, nhưng là cán bộ do cấp uỷ cấp trên quản
lý và những trường hợp không phải cấp uỷ viên nhưng là cán bộ do cấp trên quản
lý, nếu phát hiện có dấu hiệu vi phạm thì phải báo cáo để Ủy ban kiểm tra của cấp
uỷ quản lý cán bộ đó kiểm tra.
2.1.2. Về nội dung kiểm tra:
Theo quy định tại Điều 1, Điều 2, Điều 12 Điều lệ Đảng, nội dung kiểm tra
đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm gồm có: có dấu hiệu vi phạm tiêu chuẩn đảng
viên, tiêu chuẩn cấp uỷ viên và việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên. Khi kiểm tra
đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, khơng nhất thiết phải kiểm tra tất cả nội dung,
mà phải căn cứ vào dấu hiệu vi phạm để xác định nội dung cụ thể cần kiểm tra.

1.2.3. Cách tiến hành:
Khi phát hiện đảng viên có dấu hiệu vi phạm, Ủy ban kiểm tra và cán bộ
kiểm tra phải nắm tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị và sinh hoạt của đảng
viên thơng qua các kênh: báo cáo theo định kỳ của các tổ chức đảng, cơ quan, đơn
vị; kết quả phân loại chất lượng đảng viên; qua các cuộc kiểm tra việc chấp hành
Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng; qua hoạt động
thanh tra, kiểm tra, kiểm sát, giám sát của các cơ quan nhà nước, đoàn thể; qua đơn
thư tố cáo, ý kiến phản ảnh của đảng viên, quần chúng và các phương tiện truyền
thông ...
Trên cơ sở đó, Ủy ban kiểm tra phân tích, lựa chọn để quyết định nội dung,
đối tượng kiểm tra; chỉ đạo lập kế hoạch, xác định rõ yêu cầu, phương pháp, thời
gian, lực lượng kiểm tra; ra quyết định hoặc thông báo kiểm tra bằng văn bản cho
đảng viên được kiểm tra và cho cấp ủy quản lý đảng viên biết để phục vụ kiểm tra.


10
Đảng viên được kiểm tra giải trình các nội dung kiểm tra bằng văn bản, gửi
Ủy ban kiểm tra qua tổ (hoặc đồn) kiểm tra; sau đó trình bày trước chi bộ để chi
bộ góp ý kiến, xem xét, kết luận. Các tổ chức đảng phải kết luận bằng văn bản về
những nội dung kiểm tra đối với đảng viên được kiểm tra; nếu thấy có vi phạm đến
mức phải xử lý kỷ luật thì biểu quyết đề nghị hình thức kỷ luật. Trường hợp đảng
viên vi phạm đến mức phải xử lý kỷ luật thì Ủy ban kiểm tra (cấp kiểm tra) xem
xét, quyết định hoặc đề nghị cấp ủy xem xét, quyết định thi hành kỷ luật theo thẩm
quyền. Nếu đảng viên vi phạm đến mức phải xử lý bằng pháp luật thì chuyển cơ
quan pháp luật xem xét, xử lý, nhưng Ủy ban kiểm tra vẫn phải xem xét, kết luận
về kỷ luật đảng đối với những nội dung vi phạm đã rõ.
2.2. Quy trình kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm
Theo Quyết định 354-QĐ/UBKTTW ngày 22/12/2021 của Ủy ban Kiểm tra
Trung ương, quy trình kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm gồm 03 bước:
Bước 1, chuẩn bị kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm

Đây là bước có vị trí hết sức quan trọng cho qúa trình kiểm tra và kết quả
kiểm tra. Để thực hiện bước chuẩn bị kiểm tra, phải thực hiện các nội dung theo
trình tự:
(i) Cán bộ được phân công theo dõi địa bàn, lĩnh vực chủ động theo dõi, nắm
tình hình, phát hiện các dấu hiệu vi phạm, thu thập chứng cứ để dự kiến nội dung,
đối tượng kiểm tra.
(ii) Ủy ban kiểm tra trao đổi với đại diện các tổ chức đảng có liên quan về
nội dung, đối tượng được kiểm tra; đồng thời, báo cáo thường trực Ủy ban kiểm tra
xem xét, cho ý kiến chỉ đạo về nội dung, đối tượng được kiểm tra.
(iii) Xây dựng các văn bản để tiến hành kiểm tra (quyết định hoặc thông báo
kiểm tra, kế hoạch kiểm tra, gợi ý nội dung giải trình, các văn bản cần thiết
khác...).


11
(iv) Phân công nhiệm vụ cụ thể cho các cán bộ tham gia kiểm tra, xây dựng
lịch trình kiểm tra.
Làm tốt các nội dung trên cũng chính làm tốt cơng tác tư tưởng với đối
tượng kiểm tra. Qua đó, giúp đối tượng kiểm tra và tổ chức đảng có liên quan khắc
phục tâm lý tiêu cực của mình, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm tra đạt kết
quả.
Bước 2, tiến hành kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm
Việc thực hiện bước này gồm các nội dung theo trình tự sau:
(i) Cơ quan kiểm tra thông báo quyết định kiểm tra, kế hoạch kiểm tra, nội
dung gợi ý báo cáo giải trình đến đối tượng được kiểm tra và đại diện các tổ chức
đảng liên quan để xác định nhiệm vụ và phối kết hợp kiểm tra.
(ii) Tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ; thẩm tra, xác minh những vấn đề
liên quan đến nội dung kiểm tra; trao đổi với đối tượng được kiểm tra để làm rõ
các vấn đề cần thiết. Đồng thời, xây dựng thông báo kết quả thẩm tra, xác minh.
(iii) Tổ chức hội nghị tổ chức đảng để làm rõ, nhận xét, đề nghị các vấn đề

về nội dung kiểm tra. Tiếp tục thẩm tra, xác minh những vấn đề chưa rõ, hoặc cịn
có ý kiến khác nhau. Đồng thời, chuẩn bị báo cáo kết quả kiểm tra, trao đổi với đối
tượng được kiểm tra và đại diện tổ chức đảng có liên quan.
(iv) Đại diện Ủy ban kiểm tra gặp đối tượng được kiểm tra để nghe đối
tượng kiểm tra trình bày ý kiến. Nếu thấy vi phạm đã rõ, đến mức phải thi hành kỷ
luật và đối tượng kiểm tra tự giác nhận khuyết điểm, tự nhận hình thức kỷ luật thì
trưởng đoàn kiểm tra báo cáo Ủy ban kiểm tra xem xét, quyết định.
Trước khi Ủy ban kiểm tra họp xem xét, xử lý kỷ luật, đảng viên vi phạm có
quyền trực tiếp trình bày ý kiến với Ủy ban kiểm tra tại hội nghị xem xét, xử lý kỷ
luật và phải chấp hành sau khi có quyết định.
Bước 3, kết thúc kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm
Nội dung của bước này thực hiện theo trình tự sau:


12
(i) Tập thể Ủy ban kiểm tra xem xét, kết luận nội dung kiểm tra; quyết định
xử lý kỷ luật hoặc đề nghị cấp uỷ xử lý kỷ luật theo thẩm quyền (nếu vi phạm đến
mức phải xử lý); trao đổi với đảng viên được kiểm tra về dự thảo kết luận kiểm tra.
(ii) Uỷ ban kiểm tra ra quyết định xử lý hoặc đề nghị cấp uỷ xử lý theo thẩm
quyền. Khi đề nghị cấp ủy xử lý, Uỷ ban kiểm tra phải báo cáo kết quả kiểm tra;
trình bày đầy đủ ý kiến của đối tượng được kiểm tra; các tổ chức đảng, đảng viên
có liên quan; đề xuất, kiến nghị (nếu có).
(iii) Hồn chỉnh các văn bản sau khi Ủy ban kiểm tra kết luận. Thông báo
kết luận, xử lý sau kiểm tra.
(iv) Tổ chức rút kinh nghiệm cuộc kiểm tra; lập và lưu trữ hồ sơ; đồng thời,
theo dõi, đôn đốc thực hiện kết luận kiểm tra.
2.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra đảng viên khi có dấu
hiệu vi phạm
Để triển hiện có hiệu quả cơng tác kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi
phạm trong thời gian tới, cần thực hiện tốt một số nội dung, giải pháp sau:

Thứ nhất, Cấp ủy, Ủy ban Kiểm tra các cấp cần nhận thức đầy đủ về nhiệm
vụ kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; phải xác định đây là một nhiệm vụ
trọng tâm, thường xuyên để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nhằm
phòng ngừa, ngặn chặn những sai phạm của đảng viên, góp phần xây dựng Đảng,
hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; tăng cường, củng cố niềm tin của cán
bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân về vai trò lãnh đạo của Đảng.
Thứ hai, Ủy ban Kiểm tra phải chủ động, tích cực bám địa bàn, nắm bắt tình
hình bằng nhiều kênh như: quan sát, giám sát chuyên đề, qua đơn thư phản ánh,
khiếu nại, tố cáo để kịp thời phát hiện dấu hiệu vi phạm; xác định đối tượng, nội
dung vi phạm để tiến hành kiểm tra; tranh thủ và chấp hành sự lãnh đạo, chỉ
đạo của cấp ủy và hướng dẫn của Ủy ban Kiểm tra cấp trên đối với công tác kiểm
tra.


13
Thứ ba, Cấp ủy thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện để
Ủy ban Kiểm tra thực hiện đúng quy chế làm việc; định kỳ nghe Ủy ban Kiểm tra
báo cáo tình hình hoạt động và kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện; quan tâm củng
cố, kiện tồn Ủy ban Kiểm tra và chú trọng cơng tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ làm công tác kiểm tra đảng để xây dựng tổ chức Ủy ban Kiểm tra các cấp
vững mạnh toàn diện, đảm bảo hoạt động chất lượng, hiệu quả.
Thứ tư, phát huy tinh thần tự giác, tự phê bình và phê bình của đảng viên;
phát huy trách nhiệm xây dựng đảng của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; thực
hiện đúng nguyên tắc: “Chứng cứ đến đâu, kết luận đến đấy, không suy diễn,
không áp đặt, không thành kiến”; vận dụng linh hoạt hình thức kiểm tra phù hợp
với từng đối tượng và thực hiện nghiêm túc quy trình kiểm tra theo quy định.
Thứ năm, cán bộ kiểm tra phải nắm chắc quy trình nghiệp vụ, tích cực
nghiên cứu, học tập để nắm vững Điều lệ Đảng, chỉ thị, nghị quyết, quy định của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trách nhiệm
cao, cơng tâm, khách quan, thận trọng trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Khi

xem xét phải đảm bảo thấu tình, đạt lý, đảm bảo tính thuyết phục, tính giáo dục và
tính chiến đấu.


14

KẾT LUẬN
Kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm là một trong những nhiệm vụ
quan trọng của cấp ủy, tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra các cấp được quy định
trong Điều lệ Đảng. Hiện nay, công tác này luôn được Đảng ta xác định là nhiệm
vụ trọng tâm cần thực hiện có chất lượng, hiệu quả, nhằm phát hiện kịp thời, chính
xác vi phạm của đảng viên để xem xét, kết luận, xử lý nghiêm minh theo quy định
của Đảng, giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật của Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong đảng viên, qua đó làm trong sạch Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, củng cố lòng tin của nhân và Đảng và sự lãnh đạo của
Đảng.
Trong những năm qua, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp của Đảng thường
xuyên quan tâm lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ này. Qua các cuộc kiểm tra khi có
dấu hiệu vi phạm đã góp phần chủ động phịng ngừa, ngăn chặn khuyết điểm, vi
phạm từ khi còn manh nha đối với đảng viên, giữ gìn nghiêm minh kỷ cương, kỷ
luật của Đảng.
Hiện nay, do tác động tiêu cực từ mặt trái của kinh tế thị trường, của hội
nhập quốc tế, của lối sống thực dụng, sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện của một bộ phận


15
cán bộ, đảng viên ... tiềm ẩn nguy cơ đảng viên vi phạm pháp luật và kỷ luật của
Đảng. Trong bối cảnh đó, đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp của Đảng phải nắm chắc
quy trình nghiệp vụ kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, nắm vững Điều lệ

Đảng, chỉ thị, nghị quyết, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đồng thời,
có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trách nhiệm cao, cơng tâm, khách quan, thận
trọng trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Có được như vậy sẽ góp phần quan
trọng cùng ngành kiểm tyra Đảng và toàn Đảng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây
dựng, chỉnh đốn Đảng và làm làm trng sạch Đảng, để Đảng ta “là đạo đức, là văn
minh” như Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn./.
Chú thích:
(1), (2) Từ điển Tiếng Việt. Nxb Đà Nẵng. 2004, tr 112; 250;
(3), (4) Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,
2011, t. 5, tr. 636; 325-326;
(5) Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.
14, tr. 362;
(6) Văn kiện Đảng tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2015,
t. 55, tr. 424.


16

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011,
tập 5, tập 14;
2. Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2015,
tập 55;
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội khóa XII, khóa XIII;
4. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG, H, 2011;
5. Quyết định 354-QĐ/UBKTTW ngày 22/12/2021 của Ủy ban Kiểm tra
Trung ương về “Ban hành các quy trình thực hiện kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ
luật Đảng”;



17
6. TS. Trần Cẩm Tú: “Công tác kiểm tra, giám sát góp phần xây dựng đội
ngũ cán bộ cấp ủy các cấp, hướng tới Đại hội XIII của Đảng”;
7. Trần Đức Thắng: “Nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm
tra, giám sát, kỷ luật đảng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII của Đảng”;
8. Tài liệu học phần “Nghiệp vụ công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật
Đảng” của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh;
9. Bài giảng của giảng viên học phần “Nghiệp vụ công tác kiểm tra, giám sát
và kỷ luật Đảng”, lớp Cao học không chuyên K27, ngành Xây dựng Đảng và
Chính quyền nhà nước tỉnh Sóc Trăng.



×