Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tiểu luận... Chính sách công và đánh giá chính sách công ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.9 KB, 27 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong nền hành chính nhà nước, chính sách cơng là bộ phận nền tảng trọng
yếu của thể chế hành chính, là cơ sở và chi phối các yếu tố cấu thành khác của
nền hành chính như: bộ máy hành chính; đội ngũ cán bộ - cơng chức; tài chính
cơng. Ở Việt Nam, với hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) thì chính sách cơng là
cơng cụ tiền đề, khơng thể thay thế và chi phối các công cụ quản lý khác như
pháp luật, kế hoạch, phân cấp - phân quyền… Điều đó giải thích vì sao trong
những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm tới việc nâng
cao vai trị của chính sách cơng như là một công cụ hữu hiệu nhằm nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước nói riêng và đẩy mạnh chất lượng của sự nghiệp đổi
mới nói chung. Tuy nhiên, trước yêu cầu ngày càng cao và phức tạp của quản lý
nhà nước thì hoạt động hoạch định và thực thi chính sách cơng ở nước ta đang ở
trong bối cảnh nào và đặt ra những vấn đề gì cần giải quyết?
Trong thời gian qua, hoạt động hoạch định chính sách cơng đã đạt được
một số kết quả đáng khích lệ cả về số lượng và chất lượng trên các lĩnh vực
trọng yếu, cấp bách về kinh tế, chính trị (tổ chức bộ máy nhà nước, an sinh xã
hội, quân sự, ngoại giao…). Một số chính sách cơng quan trọng đã được luận
chứng khoa học hơn, bám sát thực tiễn đất nước, địa phương và ngành. Nhờ đó,
bước đầu đã tạo lập và hồn thiện được một hệ thống chính sách công khá phù
hợp, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của quản lý hành chính nhà nước,
phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong lĩnh vực kinh
tế, một số chính sách mới được ban hành đã đáp ứng được về cơ bản yêu cầu
phát triển và hoàn thiện thể chế của nền kinh tế thị trường, đặc biệt, có tính ứng
phó khá tốt với tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế tồn cầu như: chính sách
kích cầu, chính sách điều chỉnh tiền lương cơ bản, chính sách hạ thấp lãi suất
cho vay của ngân hàng, lãi suất tối đa cho tiền gửi bằng đồng Việt Nam, chính
sách mang ngoại tệ, tiền Việt Nam của cá nhân khi xuất nhập cảnh, chính sách



điều chỉnh thuế thu nhập cá nhân, chính sách miễn giảm thuế sử dụng đất nơng
nghiệp… Theo đó, nhiều chính sách đã phát huy được tác dụng trong kiềm chế
lạm phát, góp phần ổn định giá cả thị trường và mức độ tăng trưởng của nền
kinh tế trong điều kiện khủng hoảng kinh tế. Điều đó được đánh giá như những
phản ứng kịp thời của nhà nước trước những biến động lớn của kinh tế toàn cầu
và khu vực.
Bên cạnh đó, việc tổ chức thực thi chính sách cơng cũng đạt được những
yêu cầu cơ bản như: kịp thời, đồng bộ, hiệu quả trong phạm vi cả nước cũng như
từng địa phương, ngành. Một số địa phương đã chủ động, linh hoạt và sáng tạo
trong triển khai thực thi chính sách cho phù hợp với đặc điểm của mình, có tính
đến đặc điểm của đối tượng thụ hưởng chính sách. Cơng tác tổng kết thực tiễn
thi hành chính sách cũng đã bắt đầu được chú ý hơn; một số chính sách được sơ
kết, tổng kết khá cơng phu, có quy trình khoa học và có giá trị tham khảo lớn.
Nhìn tổng thể, việc thực thi chính sách đã đi vào nề nếp, nghiêm minh với khơng
ít kinh nghiệm bổ ích đã được đúc rút từ thực tiễn.
Tuy nhiên, thực tiễn ở nước ta, của từng địa phương, từng ngành vẫn chưa
thật sự được quan tâm như là một tiền đề, điều kiện tối quan trọng để xây dựng,
ban hành, tổ chức thực hiện chính sách cơng. Vì thế, vẫn cịn khơng ít những
chính sách xa với thực tế, gây khó khăn khi tổ chức thực hiện và không được dư
luận thật sự đồng tình. Đặc biệt, những căn bệnh chủ quan, duy ý chí, chạy theo
thành tích, thích "đánh bóng hình ảnh", lợi ích cục bộ của từng bộ, ngành hoặc
lợi ích của một số nhóm trong xã hội vẫn tồn tại dai dẳng đã gây những hậu quả
không nhỏ cho xã hội, cho từng ngành và địa phương từ hoạt động hoạch định
cho tới tổ chức thực thi chính sách cơng.
Xuất phát từ vai trị quan trọng như trên, đồng thời cũng là nhiệm vụ hồn
thành mơn học, vì vậy, qua việc học tập môn Hoạch định và thực thi chính sách
cơng, người viết lựa chọn đề tài “Chính sách cơng và đánh giá chính sách
cơng ở Việt Nam” để làm bài tiểu luận hết môn.



2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài trên cơ sở nghiên cứu nhiều nguồn tài liệu sẽ tiến hành làm rõ những
nội dung lý luận về chính sách cơng. Những vấn đề thực trạng về đánh giá chính
sách cơng của Việt Nam hiện nay, đồng thời đề xuất một số giải pháp trong đánh
giá chính sách trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là thực trạng đánh giá hành
chính sách cơng của Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài dưa trên cơ sở lý luận là phương pháp luận duy vật biện chứng của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, chủ trương của
Đảng Cộng sản Việt Nam về việc đánh giá chính sách cơng.
Bên cạnh đó đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như phân
tích, thống kê, tổng hợp….
5. Ý nghĩa của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài giúp người học nắm rõ lý luận về chính sách cơng
của nhà nước. Qua đó nắm được những vấn đề vướng mắc trong việc đánh giá
chính sách cơng Việt Nam.
6. Kết cấu tiểu luận
Tiểu luận được kết cấu thành 2 chương.


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH CƠNG
1.1. Khái niệm về chính sách cơng
1.1.1. Khái niệm chính sách
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về chính sách:
Theo James Anderson (2003): "Chính sách là một q trình hành động có
mục đích được theo đuổi một cách kiên định bởi một hoặc nhiều chủ thể trong
việc giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm"; Chính sách là hành động của các

chủ thể nhằm quyết định cái gì được thực hiện.
Các chính sách có thể được đề ra và thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau,
ở những phạm vi và tầng nấc khác nhau: Chính sách của Liên hiệp quốc, chính
sách của một đảng chính trị, chính sách của nhà nước, chính sách của chính
quyền địa phương, chính sách của một bộ, chính sách của một tổ chức, đồn thể,
hiệp hội, chính sách của một doanh nghiệp…
Căn cứ vào phạm vi, quy mơ ảnh hưởng và tính chất của các chủ thể hoạch
định chính sách mà người ta chia chính sách thành chính sách cơng và chính
sách tư. Theo đó, “chính sách tư” là chính sách do các tổ chức, các doanh
nghiệp, các hiệp hội, đoàn thể… ban hành để điều chỉnh các mối quan hệ cũng
như làm cơ sở cho việc triển khai hoạt động của tổ chức ấy. Các chính sách này
nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra cho mỗi tổ chức, chúng chỉ có hiệu lực thi
hành trong nội bộ tổ chức đó, vì vậy, chúng mang tính chất riêng biệt. Cịn
“chính sách cơng” là những chính sách do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng. Do được ban hành
và thực thi bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (cơ quan cơng quyền hay
cịn gọi là cơ quan thực thi quyền lực cơng) nên chính sách cơng được coi là một
trong những công cụ quản lý quan trọng của nhà nước.
1.1.2. Khái niệm chính sách cơng
Cho đến nay trên thế giới, cuộc tranh luận về định nghĩa chính sách cơng
vẫn là một chủ đề sơi động và khó đạt được sự nhất trí rộng rãi. Sau đây là một


số định nghĩa chính sách cơng khá tiêu biểu của các học giả nước ngoài và trong
nước.
William Jenkin cho rằng: "Chính sách cơng là một tập hợp các quyết định
có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm nhà chính trị gắn liền
với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt được các mục tiêu
đó"(William Jenkin, 1978).
Định nghĩa này nhấn mạnh các mặt sau:

- Chính sách cơng khơng phải là một quyết định đơn lẻ nào đó, mà là một
tập hợp các quyết định khác nhau có liên quan với nhau trong một khoảng thời
gian dài.
- Chính sách cơng do các nhà chính trị trong bộ máy nhà nước ban hành.
Nói cách khác, các cơ quan nhà nước là chủ thể ban hành chính sách cơng.
- Chính sách cơng nhằm vào những mục tiêu nhất định theo mong muốn
của Nhà nước và bao gồm các giải pháp để đạt được mục tiêu đă lựa chọn.
Thomas R. Dye lại đưa ra một định nghĩa ngắn gọn về chính sách cơng,
song định nghĩa này lại được nhiều học giả tán thành. Theo ơng, "Chính sách
công là cái mà nhà nước lựa chọn làm hay không làm"(Thomas R. Dye, 1984).
Bốn mặt quan trọng của định nghĩa này là:
Thứ nhất, không giống như các định nghĩa khác, nó khơng bàn luận về
"mục tiêu" hay "mục đích" của chính sách. Các chính sách là các chương trình
hành động riêng biệt; việc áp dụng các chính sách khơng có nghĩa là tất cả
những ai đồng tình với chính sách sẽ có cùng một mục đích như nhau. Trên thực
tế, một số chính sách ra đời khơng phải vì sự nhất trí về mục tiêu, mà bởi vì
nhiều nhóm người khác nhau đồng tình với chính sách đó với nhiều nguyên do
khác nhau (tuy nhiên, theo chúng tôi, dù các nhóm khác nhau có những mục tiêu
khác nhau, song bản thân mỗi chính sách vẫn phản ánh những mục tiêu nhất
định của nhà nước).
Thứ hai, định nghĩa của Dye thừa nhận rằng, các chính sách phản ánh sự
lựa chọn làm hay khơng làm. Việc quyết định khơng làm có thể cũng quan trọng


như việc quyết định làm. Điều này hoàn toàn hợp lý trong trường hợp nhà nước
ra quyết định không can thiệp vào hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước.
Thứ ba, theo cách tiếp cận này thì các hoạt động mà chính quyền làm hoặc
khơng làm phải có tác động, ảnh hưởng lâu dài và sâu sắc đến nhân dân thì mới
là chính sách cơng. Như vậy khơng phải tất cả những việc mà chính quyền làm
hoặc khơng làm đều là chính sách cơng.

Thứ tư, một điểm được nhấn mạnh ở đây là các chính sách khơng chỉ là
những đề xuất của nhà nước về một vấn đề nào đó, mà cịn là cái được thực hiện
trên thực tế. Nói cách khác, định nghĩa của Dye về những cái mà nhà nước làm
hoặc không làm, chứ không phải là cái mà họ muốn làm hoặc lập kế hoạch để
làm.
Theo Charles O. Jones (1984), chính sách cơng là một tập hợp các yếu tố,
bao gồm:
Dự định (intentions): Trình bày những mong muốn của chính quyền;
Mục tiêu (goals): Trình bày những dự định được tuyên bố một cách cụ thể
hoặc cụ thể hóa những dự định bằng các mục tiêu về số lượng;
Đề xuất (proposals): Trình bày các cách thức để đạt được mục tiêu;
Chương trình (program): Xác định các phương tiện hợp pháp để theo
đuổi mục tiêu ;
Các quyết định hay các lựa chọn (decisions or choices): Trình bày những
quyết định hoặc những phương hướng cần lựa chọn;
Hiệu lực (effects): Trình bày những hiệu lực của chính sách, các hiệu ứng
mà chính sách tác động vào xã hội, khơng kể là có chủ định hay khơng có chủ
định.
Ở đây cũng cần lưu ý sự phân biệt giữa đầu ra của chính sách (policy
outputs) và kết quả của chính sách (policy outcomes). Đầu ra của chính sách đó
là những hành động mà nhà nước tiến hành để thực hiện mục tiêu của nó, như
cung cấp các hàng hóa và dịch vụ cơng về giáo dục, y tế, an ninh quốc phòng,
v.v.. Còn kết quả của chính sách là những hiệu ứng mà chính sách tác động vào
xã hội khi nó được thực hiện. Hiệu ứng ở đây có thể là tích cực và cũng có thể là


tiêu cực, nó tùy thuộc vào kết quả cụ thể đạt được trên thực tế khi chính sách
được triển khai.
B. Guy Peter đưa ra định nghĩa: "Chính sách cơng là tồn bộ các hoạt động
của Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công

dân". Định nghĩa này khẳng định chủ thể ban hành và thực thi chính sách cơng
là nhà nước, đồng thời nhấn mạnh tác động của chính sách cơng đến đời sống
của người dân với tư cách là một cộng đồng (B. Guy Peters, 1999).
Chính sách cơng là một kết hợp phức tạp những sự lựa chọn liên quan lẫn
nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động, do các cơ quan nhà nước
hay các quan chức nhà nước đề ra (William N. Dunn, 1992).
Ở Việt Nam, có quan điểm cho rằng chính sách được hiểu là đường lối cụ
thể của chủ thể quyền lực công về một lĩnh vực nhất định trong một giai đoạn
xác định cùng các biện pháp, kế hoạch thực hiện đường lối ấy.
Theo định nghĩa này, một chính sách thường gồm ba bộ phận cấu thành: 1)
đường lối cụ thể về một lĩnh vực nhất định trong một thời gian xác định, 2) biện
pháp thực hiện, 3) kế hoạch thực hiện đường lối ấy.
Ví dụ: Nghị quyết 36 ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị BCH Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam là đường lối của Đảng về công tác đối với người Việt
Nam ở nước ngoài, được thực hiện từ sau ngày ban hành Nghị quyết. Đường lối
đó là một bộ phận của đường lối chung “đại đoàn kết, phát huy sức mạnh toàn
dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” mà Đại hội Đảng đã đề ra.
Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị gồm bốn phần: (I) Tình hình và cơng tác
đối với người Việt Nam ở nước ngoài thời gian qua; (II) Chủ trương và phương
hướng công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài thời gian tới; (III) Nhiệm
vụ chủ yếu; (IV) Tổ chức thực hiện. Có thể thấy phần II là phần trình bày nội
dung chính sách, phần (III) - biện pháp thực hiện, còn phần (IV) là kế hoạch
thực hiện.
Tuy có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về chính sách cơng như đă nêu
trên, song điều đó khơng có nghĩa là chính sách cơng mang những bản chất khác
nhau. Thực ra, tùy theo quan niệm của mỗi tác giả mà các định nghĩa đưa ra


nhấn mạnh vào đặc trưng này hay đặc trưng khác của chính sách cơng. Những
đặc trưng này phản ánh chính sách cơng từ các góc độ khác nhau, song chúng

đều hàm chứa những nét đặc thù thể hiện bản chất của chính sách cơng.
Từ những phân tích trên, thuật ngữ chính sách có thể hiểu như sau: "Chính
sách cơng là thuật ngữ dùng để chỉ một chuỗi các quyết định hoạt động của nhà
nước nhằm giải quyết một vấn đề chung đang đặt ra trong đời sống kinh tế – xă
hội theo mục tiêu xác định".
1.2. Các đặc trưng cơ bản của chính sách cơng
Thứ nhất, chính sách cơng tập trung giải quyết một vấn đề đang đặt ra
trong đời sống kinh tế – xã hội theo những mục tiêu xác định.
Chính sách cơng là một q trình hành động nhằm giải quyết một vấn đề
nhất định. Khác với các loại công cụ quản lý khác như chiến lược, kế hoạch của
Nhà nước là những chương trình hành động tổng quát bao quát một hoặc nhiều
lĩnh vực kinh tế – xã hội, đặc điểm của chính sách cơng là chúng được đề ra và
được thực hiện nhằm giải quyết một hoặc một số vấn đề liên quan lẫn nhau đang
đặt ra trong đời sống xă hội. Chính sách cơng chỉ xuất hiện trước khi đó đã tồn
tại hoặc có nguy cơ chắc chắn xuất hiện một vấn đề cần giải quyết. Vấn đề chính
sách được hiểu là một mâu thuẫn hoặc một nhu cầu thay đổi hiện trạng xuất hiện
trong đời sống kinh tế – xă hội đđ̣òi hỏi nhà nước sử dụng quyền lực cơng để giải
quyết. Có thể nói, vấn đề chính sách là hạt nhân xun suốt tồn bộ quy trình
chính sách (bao gồm các giai đoạn lựa chọn vấn dề chính sách, hoạch định, thực
thi và đánh giá chính sách). Việc giải quyết những vấn đề nói trên nhằm vào
những mục tiêu mà nhà nước mong muốn đạt được.
Thứ hai, chủ thể hoạch định chính sách cũng là chủ thể nắm quyền lực
cơng – đó là nhà nước, và vì vậy chính sách cơng được đảm bảo thực thi bởi khả
năng và công cụ cưỡng chế hợp pháp.
Chính sách cơng vừa mang tính chính trị lại vừa mang tính pháp lý. Tính
chính trị của chính sách liên quan đến việc lựa chọn phương án hành động hoặc
không hành động, đến việc phân bổ các giá trị xã hội của nhà nước, đến những
quyết định chính trị động chạm tới lợi ích của nhiều người; cịn tính pháp lý lại



thể hiện ở những văn bản pháp luật chứa đựng nội dung chính sách, ở tính bắt
buộc phải tuân thủ những quy định pháp luật nhằm đảm bảo hiệu lực thực thi
trên thực tế của chính sách.
Là cơng cụ của nhà nước để quản lý và định hướng cho sự phát triển của xã
hội, chính sách cơng khơng chỉ thể hiện ý định của chủ thể hoạch định chính
sách về một vấn đề nào đó, mà cịn bao gồm những ý chí và hành động thực hiện
các dự định qua giải pháp và cơng cụ chính sách. Để chính sách cơng được thực
thi trên thực tế thì nó địi hỏi phải cần đến bộ máy thực thi cũng như các cơng cụ
cưỡng chế hợp pháp mà chỉ có nhà nước mới được sử dụng để vượt qua sự
chống đối trong thực thi chính sách. Nói cách khác, chính sách cơng phải được
thực hiện dựa trên pháp luật và những thẩm quyền hợp pháp của cơ quan nhà
nước. Việc vi phạm chính sách cơng sẽ phải đối mặt với hình phạt cụ thể. Ví dụ,
chỉ có nhà nước mới được ban hành Luật về thuế và cũng chỉ có nhà nước mới
có quyền phạt những người khơng chịu nộp thuế. Nếu chính sách về thuế khơng
được đảm bảo bởi các biện pháp cưỡng chế hợp pháp thì nhiều người sẽ tìm mọi
cách để trốn thuế, từ đó gây thiệt hại cho lợi ích chung của nhà nước và xã hội.
Ở Việt Nam, trên sách báo, chúng ta thường gặp cụm từ "chính sách của
Đảng và Nhà nước", vì vậy có ý kiến cho rằng, Đảng cũng là chủ thể ban hành
chính sách cơng. Điều này có thể giải thích bằng thực tế đặc thù của nước ta. Ở
Việt Nam, Đảng Cộng sản là lực lượng chính trị duy nhất lănh đạo Nhà nước,
lănh đạo xă hội. Đảng lănh đạo Nhà nước thông qua việc vạch ra cương lĩnh,
chiến lược, các định hướng chính sách – đó chính là những căn cứ chỉ đạo để
Nhà nước ban hành các chính sách cơng. Như vậy, về thực chất, các chính sách
cơng là do Nhà nước Cộng hòa xă hội chủ nghĩa Việt Nam (chủ yếu là Nhà nước
đề ra). Các chính sách này là sự cụ thể hóa đường lối, chiến lược và các định
hướng chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm phục vụ lợi ích của nhân
dân ta. Do vậy, Đảng cộng sản Việt Nam cũng là chủ thể của chính sách cơng.
Thứ ba, chính sách cơng khơng phải các quyết định nhất thời (mang tính
tình thế) của nhà nước, mà là chương trình hoạt động được suy tính một cách



khoa học, liên quan với nhau một cách hữu cơ và nhằm những mục đích tương
đối cụ thể.
Chính sách cơng nhằm giải quyết các vấn đề xã hội phức tạp, bức thiết, liên
quan đến nhiều người, đến những định hướng phát triển quan trọng nên nó cần
phải có sự chuẩn bị, nghiên cứu một cách thận trọng trước khi ban hành. Sự
chuẩn bị này nhanh hay chậm phụ thuộc nhiều vào tính phức tạp của vấn đề
chính sách, vào những kết quả nghiên cứu, những hoạt động khảo sát nhằm làm
rõ bản chất của vấn đề, các phương án được lựa chọn và các giải pháp được đưa
ra cũng như trình độ của những người nghiên cứu, soạn thảo và ý chí, hành động
chính trị của chủ thể thơng qua chính sách.
Chính sách cơng phản ánh các hành vi được thực hiện trên cơ sở các mục
tiêu rõ ràng. Nó ngụ ý rằng, chính sách cơng khơng phản ánh hành vi xảy ra đột
ngột hoặc bất ngờ. Chẳng hạn, chính sách cơng tập trung /hướng đến mục tiêu
xóa đói giảm nghèo, nhưng không phản ánh hành vi cứu trợ của người dân bị
động đất xảy ra một cách đột ngột. Chính sách cơng thường được thiết kế để giải
quyết một vấn đề cụ thể.
Chính sách cơng bao gồm nhiều quyết định chính trị liên tục có liên quan
lẫn nhau để giải quyết những vấn đề xã hội đặt ra (không nên đồng nhất với các
quyết định hành chính đơn thuần), mà khái niệm quyết định chính trị ở đây là sự
lựa chọn của nhà nước, bao gồm việc sử dụng các công cụ, nguồn lực cần thiết
cho các giải pháp chính sách. Các quyết định chính trị bao gồm cả luật, các văn
bản dưới luật, thậm chí cả chương trình, dự án là các giải pháp cho vấn đề chính
sách.
Chính sách công không đồng nghĩa với một luật riêng biệt hay một văn bản
chỉ thị hay quyết định nào đó khơng có mục tiêu chính trị. Các văn bản quy
phạm pháp luật đều có mục tiêu giải quyết vấn đề, đó chính là mục tiêu chính
sách. Như vậy, chính sách cơng phải là một tập hợp các quyết định chính trị
cùng hướng vào việc giải quyết một vấn đề xã hội, do một hay nhiều cấp khác
nhau trong bộ máy nhà nước ban hành và thực thi trong một thời gian dài. Chính

sách cơng được thể hiện chính thức thành văn bản pháp luật (cịn gọi là chính


sách, pháp luật) mang tính pháp lý cho việc thực thi, cũng bao gồm những hành
động khơng mang tính pháp lý, mà có tính định hướng, kích thích phát triển.
Chính sách công bao gồm một chuỗi các hành động của cơ quan có thẩm
quyền.Một quyết định đơn lẻ của cơ quan có thẩm quyền khơng phải là chính
sách cơng. Chẳng hạn, chính sách khơng chỉ bao gồm quyết định ban hành đạo
luật về một chủ đề nào đó, mà cịn là những quyết định tiếp theo liên quan đến
việc thực hiện hay cưỡng chế thực hiện nó.
Trên thực tế, một chính sách thực sự của nhà nước được kết nối lại từ vô số
các quyết định và các hành động riêng biệt. Chẳng hạn, chính sách cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước ở nước ta bắt nguồn từ những nỗ lực cải cách các doanh
nghiệp nhà nước, nó được chính thức đề cập đến trong Quyết định 217/HĐBT
(14/11/1987) và được tiếp nối bằng một loạt các quyết định của Nhà nước và các
cấp, các ngành về vấn đề này. Nghị định 44/CP của Chính phủ ngày 29/6/1998
và việc thực thi Nghị định đó đă mở ra một chặng đường mới của chính sách cổ
phần hóa ở nước ta. Chúng ta có thể thấy, chính sách này sẽ cđ̣n tiếp diễn lâu dài
trong tương lai.
Thứ tư, chính sách cơng bao gồm những gì được thực sự thi hành chứ
khơng phải chỉ là những tun bố.
Chính sách cơng khơng phải là những ý tưởng của các nhà lãnh đạo thể
hiện trong lời nói và hành động của họ. Chính sách cơng trước hết thể hiện dự
định của các nhà hoạch định chính sách nhằm làm thay đổi hoặc duy trì một hiện
trạng nào đó. Song, nếu chính sách chỉ là những dự định, dù được ghi thành văn
bản thì nó vẫn chưa phải là một chính sách. Chính sách cơng cịn phải bao gồm
các hành vi thực hiện những dự định nói trên và đưa lại những kết quả thực tế.
Chẳng hạn, các dự định của nhà nước có thể khơng được chuyển đổi trong
thực tế. Ví dụ: Mặc dù có một luật tiền lương tối thiểu, nhưng khơng có sự thay
đổi xảy ra trong hành vi kinh tế, nó khơng thể là một chính sách nếu nó khơng

được thực hiện.
Nhiều người thường hiểu chính sách cơng một cách đơn giản là những chủ
trương do Nhà nước ban hành, điều đó đúng nhưng chưa đủ. Nếu khơng có việc


thực thi chính sách để đạt được những kết quả nhất định thì những chủ trương
đó chỉ là những khẩu hiệu mà thơi, và mục tiêu của chính sách cũng khơng bao
giờ đạt được. Hơn nữa, một chính sách nếu chỉ dừng lại ở những lời tuyên bố, ở
những cam kết không được thực hiện hoặc được thực hiện không kịp thời thì sẽ
gây hậu quả khơn lường, đó là vấn đề chính sách khơng được giải quyết hiệu
quả trên thực tế, lòng tin của người dân đối với nhà nước lung lay, tính hiệu quả
trong quản lý, điều hành xã hội của nhà nước bị suy giảm.
1.3. Phân loại chính sách cơng
Chính sách cơng là cơng cụ quản lý của nhà nước trên các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội nên chúng rất đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, căn
cứ vào các tiêu chí cụ thể có thể phân chính sách cơng thành các loại khác nhau.
1.3.1. Phân loại theo chức năng
- Chính sách điều tiết là những chính sách được hoạch định nhằm hạn chế
sự phát triển của bộ phận này hoặc tạo điều kiện cho sự phát triển của bộ phận
khác nhằm kiềm chế sự phát triển thái q hoặc duy trì sự cơng bằng cần thiết.
Ví dụ: chính sách điều tiết trong lĩnh vực kinh tế, luật chống độc quyền, luật
cạnh tranh, chính sách thu hút đầu tư vào các vùng khó khăn, chính sách bảo hộ
một số mặt hàng trong nước, chính sách bảo vệ mơi trường, v.v..
Chính sách điều tiết giống với chính sách phân phối lợi ích, song khác ở
chỗ mục tiêu của chính sách điều tiết là nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhóm
thiệt thịi có điều kiện vươn lên, tuân theo nguyên tắc bổ trợ.
- Chính sách tự điều tiết là những chính sách tạo ra một cơ chế tự bảo vệ
quyền lợi của nhóm người nhất định trong xã hội. Ví dụ: chính sách trợ giá nơng
phẩm (cơ chế tự bảo vệ lợi ích của những người nơng dân), chính sách tuyển
dụng chỉ giành cho những đối tượng có chứng chỉ nghề nghiệp và đăng ký hộ

khẩu tại địa phương (cơ chế bảo đảm tự giải quyết lao động giành riêng cho địa
phương), chính sách về hoạt động của Hội nhà báo, bác sỹ, v.v..
- Chính sách phân phối là những chính sách bao hàm phân phối hàng hóa
cơng cộng đến những bộ phận nhất định trong nhân dân. Đặc trưng của chính
sách phân phối là chỉ có những đối tượng trong quy định của chính sách mới


được hưởng lợi ích từ chính sách, cịn những đối tượng khơng thuộc phạm vi
điều chỉnh của chính sách thì khơng được hưởng lợi ích từ chính sách. Với cách
hiểu như vậy, chính sách phân phối có hai điểm cần lưu ý: thứ nhất, không nảy
sinh cạnh tranh trong quá trình áp dụng mà nảy sinh sức ép giành giật chính sách
giữa các nhóm lợi ích trước khi chính sách được thơng qua; thứ hai, vấn đề chủ
yếu của chính sách phân phối là sử dụng ngân sách nhà nước để hỗ trợ có trọng
điểm cho các nhóm lợi ích hay các bộ phận dân cư. Do vậy các nhóm lợi ích hay
các bộ phận dân cư thường tìm mọi cách tác động đến q trình chính sách để
tranh thủ sự hỗ trợ cho chương trình riêng/lợi ích riêng của họ.
Ví dụ: chính sách hỗ trợ giá nơng sản, chương trình hỗ trợ đánh bắt cá xa
bờ, chương trình 135, phân bổ ngân sách cho địa phương hàng năm, chính sách
người có cơng với cách mạng, v.v..
- Chính sách phân phối lại là chính sách hướng đến việc đảm bảo sự công
bằng ở mức độ nhất định trong việc thụ hưởng các giá trị/lợi ích xã hội giữa các
bộ phận dân cư khác nhau. Chính sách này thường mang nhiều tính xã hội. Mục
tiêu căn bản của chính sách này là tạo lập sự công bằng tương đối trong cộng
đồng về quyền được hưởng các vấn đề thiết yếu của đời sống như: nhà ở, thu
nhập, y tế, giáo dục, v.v..Ví dụ, chính sách thuế thu nhập của những người có thu
nhập cao nhằm chuyển một phận thu nhập của người giàu sang phúc lợi cho
người nghèo.
- Chính sách phát triển là nhóm chính sách có tác dụng tạo điều kiện thúc
đẩy sự phát triển của từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể trong đời sống xã hội.
Chẳng hạn: chính sách phát triển giáo dục - đào tạo, chính sách phát triển kinh

tế, chính sách phát triển khoa học - cơng nghệ, v.v..
1.3.2. Phân loại theo tính chất
- Chính sách chủ động là chính sách được Nhà nước chủ động đưa ra mặc
dù chưa có nhu cầu cụ thể, hoặc có nhưng chỉ mới được nhận biết ở một bộ phận
nào đó của xã hội, ở những người sở hữu thơng tin đầu tiên. Trong khi đó, đại bộ
phận cộng đồng cịn chưa ý thức hoặc chưa thể nhìn thấy được nhu cầu và tính
cấp thiết của vấn đề mà chính sách đưa ra.


Chính sách chủ động có những đặc trưng: (1) Thể hiện chiến lược và mục
tiêu dài hạn; (2) Chuẩn bị cho những cơ sở phát triển kế tiếp (Ví dụ: Việt Nam
phải sửa đổi hàng loạt văn bản luật và chính sách để trở thành thành viên của
WTO); (3) Bao gồm nhiều chính sách bộ phận.
Hiệu quả của chính sách thụ động phụ thuộc nhiều vào năng lực và tầm
nhìn của nhà lãnh đạo, năng lực và trình độ của đội ngũ chun gia, sự đầy đủ
thơng tin, có sự kế thừa và thực hiện liên tục cũng như tài chính để thực hiện nó.
Chính sách thụ động nếu được xây dựng tốt, bao quát được các khả năng
thay đổi thì hiệu quả đối với cộng đồng là rất lớn. Ngược lại, nếu khơng được
xây dựng tốt thì hậu quả của nó hết sức tai hại và lâu dài, thậm chí vài thế hệ sẽ
phải trả giá. Ví dụ: tài nguyên quốc gia, nguồn nhân lực, vốn, v.v..bị thất thoát,
lãng phí, kìm hãm sự phát triển kinh tế-xã hội.
- Chính sách bị động là chính sách được đưa ra để xử lý một tình huống đã
phát sinh hay sắp xảy ra trong xã hội. Mục tiêu của chính sách bị động là sửa sai
một chính sách cũ; Bổ sung, điều chỉnh hoạch giải thích rõ nghĩa một chính sách
hiện hành khác; chi tiết hóa một chính sách đã có; Xử lý một vấn đề xã hội đã
xảy ra hoặc đang được cảnh báo; Đáp ứng yêu cầu của một tập thể cử tri hoặc
một nhóm xã hội nào đó; hoặc giải quyết những nguy cơ hay khó khăn mà người
làm chính sách đang phải đối mặt.
Chính sách bị động có một số ưu điểm như: mục tiêu của chính sách là cụ
thể, khơng trừu tượng, dễ lượng hóa được chi phí-lợi ích; vì giai đoạn soạn thảo

chính sách thường theo sau những biến cố, sự kiện nên những dữ liệu đầu vào,
diễn biến có sẵn làm cho chính sách có khả năng thuyết phục cao, dễ được chấp
nhận; chính sách dễ được thi hành.
Tuy nhiên, chính sách bị động cũng có một số hạn chế như: chính sách chủ
yếu mang tính đối phó, điều chỉnh và sửa sai nên tính chủ động và sáng tạo thấp;
hơn nữa, vì nhằm xử lý các vấn đề đang hoặc sắp xảy ra nên chính sách thường
bị sức ép về mặt thời gian trong q trình xây dựng. Chủ thể hoạch định chính
sách thường bị sức ép về tâm lý và sức ép từ nhiều phía.


1.3.3. Phân loại theo thời gian
Căn cứ vào độ dài hay ngắn của thời gian hiệu lực chính sách người ta chia
thành chính sách ngắn hạn và chính sách dài hạn.
- Chính sách ngắn hạn: là chính sách gắn với đối tượng và mục tiêu dễ thay
đổi. Chính sách ngắn hạn thường có hiệu lực trong khoảng thời gian dưới 2 năm.
Ví dụ: Chính sách tiền tệ (lãi suất, tỷ giá hối đối), chính sách tài chính, chính
sách thương mại, chính sách ngoại giao, chính sách cơng nghiệp, v.v..
- Chính sách dài hạn: là chính sách gắn với những mục tiêu và đối tượng
khó thay đổi. Hiệu lực của chính sách dài hạn thường kéo dài trên 10 năm.
Chẳng hạn, các chính sách gắn với tài nguyên quốc gia: rừng, đất đai, biển,
khống sản, mơi trường; chính sách liên quan đến quyền cơ bản của con người
(luật dân sự, luật hơn nhân gia đình, luật bầu cử)
1.3.4. Phân loại theo cấp độ của chính sách
- Chính sách tồn thể là chính sách mà đối tượng chịu sự điều chỉnh của nó
là như nhau trên phạm vi tồn quốc và khơng có giới hạn về đối tượng. Mặt
khác dịch vụ mà chính sách mang lại cho mọi người là như nhau và khơng có sự
phân biệt. Ví dụ: chính sách an tồn giao thơng, chính sách an ninh quốc phịng,
chính sách bảo đảm quyền con người, quyền cơng dân, v.v..
- Chính sách bộ phận là những chính sách chỉ áp dụng cho những đối
tượng hoặc bộ phận đáp ứng được điều kiện của sự ưu tiên. Chính sách bộ phận

đi kèm với các giới hạn nhất định cho các đối tượng hưởng thụ chứ khơng mang
tính phổ qt như chính sách tồn thể. Ví dụ, chính sách đối với người có cơng
với cách mạng, chính sách ưu đã tín dụng cho người nghèo, chính sách đối với
cán bộ dân tộc thiểu số, v.v..
1.3.5. Phân loại theo khu vực áp dụng chính sách
- Chính sách thuộc khu vực cơng là những chính sách chỉ áp dụng đối với
các cơ quan công quyền, bộ máy nhà nước, về phối hợp công việc, về quyền lợi
và trách nhiệm của cơng chức. Ví dụ, chính sách cải cách hành chính, chính sách
cán bộ, cơng chức; chính sách đổi mới khu vực kinh tế nhà nước, v.v..


- Chính sách cho khu vực tư nhân cũng đồng nghĩa với chính sách cho nhân
dân như: chính sách anh sinh xã hội, chính sách giáo dục, chính sách y tế, v.v..
- Chính sách cho khu vực có yếu tố nước ngồi là chính sách mà đối tượng
áp dụng là cơng dân người nước ngồi hoặc các doanh nghiệp, tổ chức nước
ngồi hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Ví dụ, chính sách về xuất nhập cảnh, về
thời hạn cư trú, chính sách thu hút đầu tư nước ngồi, chính sách chuyển giao
công nghệ, v.v..
1.3.6. Phân loại theo định hướng chính sách
Định hướng chính sách ở đây được hiểu là quan điểm và nội dung chính
sách phản ánh sự so sánh với ý kiến hay nhận thức chung của thời đại.
- Chính sách cấp tiến là những chính sách có thiên hướng tạo ra sự thay đổi
trong xã hội, chú trọng đón bắt những nhu cầu mới, có tinh thần cải cách mạnh
mẽ.
- Chính sách bảo thủ là những chính sách thích tn theo những cái đã có
và khơng muốn thay đổi trật tự đang tồn tại. Chính sách này coi trọng những quy
luật xa xưa, không muốn vươn xa hơn, tạo ra những thay đổi mang tính bản
chất.
1.3.7. Phân loại theo hiệu quả chính sách (hay cịn gọi là phân loại theo
mức độ tác động của chính sách)

- Chính sách thực chất là những chính sách kèm theo những hoạt động cụ
thể của nhà nước ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống xã hội. Những hoạt động này
tạo ra những thay đổi nhất định về vật chất, thu nhập, công việc sinh hoạt
thường ngày của người dân. Đặc trưng của chính sách thực chất là: tính hiệu quả
của nó dễ nhìn, dễ thấy, dễ đo lường. Ví dụ: chính sách tăng lương, chính giảm
giờ làm từ 48h/tuần xuống 40h/tuần, v.v..
- Chính sách thủ tục là những chính sách đi kèm và hướng dẫn việc thực
hiện chính sách thực chất. Tuy mang tính hình thức, nhưng bằng việc quy định
các cách thức triển khai, thủ tục thực hiện, các chính sách thủ tục có thể chi phối
các chính sách khác. Trong q trình thực hiện, chính sách thủ tục thường được
tiến hành đồng thời hoặc song song với một hay nhiều chính sách thực chất


khác. Ví dụ: quy định về đăng ký kết hơn; thủ tục đăng ký khai sinh, khai tử,
đăng ký tạm trú, tạm vắng; quy định về đăng ký thành lập doanh nghiệp, cấp
phép kinh doanh, v.v..
1.3.8. Phân loại theo phương pháp triển khai
Trên thực tế có nhiều phương thức để triển khai chính sách, nhưng khái
qt lại có 2 loại: triển khai bằng quyền lực, bằng ép buộc gọi là chính sách có
tính cưỡng chế; triển khai bằng thuyết phục, động viên gọi là chính sách có tính
thuyết phục.
- Chính sách có tính cưỡng chế là những chính sách được triển khai trên cơ
sở cưỡng chế, bắt buộc các đối tượng được quy định trong chính sách phải thực
hiện. Chính sách có tính cưỡng chế thường được đảm bảo thực thi bởi công cụ
cưỡng chế hợp pháp của nhà nước, do vậy nó có khả năng thực hiện cao. Hầu
hết các chính sách cơng đều thuộc loại này bởi chúng được thể chế hóa thành
pháp luật của nhà nước.
- Chính sách có tính thuyết phục là những chính sách nhấn mạnh việc thực
hiện dựa trên cách thức thuyết phục, động viên đối tượng được điều chỉnh bởi
chính sách thực hiện, không dùng các biện pháp cưỡng chế, ép buộc. Loại chính

sách này thực hiện thường đạt hiệu quả thấp, do vậy trong q trình thực hiện,
nhiều chính sách thuyết phục có khuynh hướng chuyển thành chính sách có tính
cưỡng chế, bắt buộc. Ví dụ: chính sách kế hoạch hóa gia đình, chính sách xóa
mù chữ, chính sách phịng chống HIV/AIDS, v.v..


CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TRONG ĐÁNH GIÁ
CHÍNH SÁCH CÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Vấn đề đặt ra trong đánh giá chính sách cơng ở Việt Nam hiện nay
Cùng với hoạch định và triển khai thực hiện, thì đánh giá chính sách là một
khâu khơng thể thiếu của quy trình chính sách. Vì nhiều ngun nhân khách
quan và chủ quan khác nhau, mà khâu đánh giá chính sách chưa được thực sự
coi trọng trong thực tiễn Việt Nam. Vậy, những giải pháp nào cần triển khai thực
hiện để khắc phục khiếm khuyết trên đây trong quy trình chính sách?
2.1.1. Địi hỏi từ thực tiễn về đánh giá chính sách cơng
Chính sách cơng là một cơng cụ quan trọng của quản lý nhà nước. Thông
qua việc ban hành và thực thi các chính sách, những mục tiêu của Nhà nước
được hiện thực hóa.
Mỗi chính sách vận động theo một quy trình, bao gồm 3 giai đoạn cơ bản:
hoạch định chính sách, thực thi chính sách và đánh giá chính sách. Ở Việt Nam,
lâu nay Nhà nước đã chú trọng nhiều đến khâu hoạch định và thực thi chính
sách, song việc đánh giá chính sách thì dường như bị bỏ qua hoặc rất ít được
quan tâm.
Đánh giá chính sách là xem xét, nhận định về giá trị các kết quả đạt được
khi ban hành và thực thi một chính sách cơng. Để có thể đi vào cuộc sống, chính
sách cơng được thể chế hóa thành các quy định pháp luật. Việc nhìn nhận và
đánh giá chính sách do đó thường gắn với sự đánh giá những quy định pháp luật
này có phù hợp với những yêu cầu của cuộc sống hay không và chúng được vận
hành như thế nào trên thực tế. Tuy nhiên, chính sách cơng khơng chỉ thể hiện
trong các quy định pháp luật, chúng còn nằm trong các chương trình, kế hoạch,

chủ trương hoạt động của nhà nước. Do đó, đánh giá chính sách cơng sẽ bao
quát việc xem xét về tổng thể các quyết định của nhà nước (chính phủ trung
ương và chính quyền địa phương) trong việc giải quyết một vấn đề cấp thiết đặt
ra trong thực tiễn quản lý nhà nước. Đánh giá chính sách cho phép xem xét,
nhận định khơng chỉ về nội dung chính sách, mà cịn về q trình thực thi chính


sách, từ đó có biện pháp điều chỉnh phù hợp với đòi hỏi thực tế để đạt các mục
tiêu mong đợi.
Khi Việt Nam chuyển sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, địi hỏi ban hành các chính sách để tạo ra những
nhân tố, môi trường cho sự chuyển đổi trở thành cấp bách. Vì vậy, trong một
thời gian khá dài, Nhà nước tập trung cao vào việc xây dựng và ban hành các thể
chế, nhằm tạo các hành lang pháp lý cho mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội. Việc ban
hành hàng loạt văn bản pháp luật trong khơng ít trường hợp dẫn đến tình trạng
chồng chéo, trùng lắp, thậm chí mâu thuẫn nhau giữa các quy định pháp lý, mà
cuối cùng là sự chi phối của chúng đối với các hoạt động kinh tế - xã hội theo
các chiều khác nhau, khiến cho những hoạt động này không đạt được mục tiêu
mong muốn. Nói cách khác, hàng loạt chính sách được ban hành, có hiệu lực thi
hành, song việc chính sách đó có hiệu lực thực tế như thế nào và đáp ứng mục
tiêu đặt ra đến đâu thì dường như khơng được quan tâm. Đơi khi chính sách
được ban hành chẳng những không giải quyết được vấn đề đặt ra, mà còn gây ra
những hiệu ứng phụ làm phức tạp thêm vấn đề. Chẳng hạn, chính sách hạn chế
ùn tắc giao thông trong các thành phố lớn đã được triển khai với nhiều giải pháp
khác nhau, song thực tế vẫn chưa giải quyết được vấn đề ùn tắc, trong khi đó
một số giải pháp đưa ra, như chặn các ngã tư, thu phí chống ùn tắc lại gây ra các
hiệu ứng phụ làm rắc rối thêm hiện trạng. Hơn thế, việc hoạch định chính sách
(thơng qua việc soạn thảo và ban hành hàng loạt văn bản pháp luật) và việc tổ
chức triển khai các chính sách đó trên thực tế đã tiêu tốn tiền của của nhân dân
và sức lực của khơng ít người, song nhiều khi các chính sách này khơng đem lại

lợi ích tương xứng với chi phí đã bỏ ra. Do đó, đã đến lúc cần coi đánh giá chính
sách như một khâu khơng thể thiếu trong quy trình chính sách.
2.1.2. Các trở ngại trong đánh giá chính sách cơng hiện nay
Mặc dù là một khâu quan trọng trong quy trình chính sách, song ở nước ta,
nhiều chính sách khơng được quan tâm đánh giá. Tình trạng đó xuất phát từ các
lý do sau đây:


Thứ nhất, nhận thức về đánh giá chính sách cịn đơn giản. Điều đó được
biểu hiện:
- Đồng nhất chính sách với một văn bản đơn lẻ. Mặc dù chính sách được
thể chế hóa trong văn bản pháp luật, song khơng thể đồng nhất chính sách với
một văn bản đơn lẻ. Thậm chí có những chính sách lớn lại là tập hợp của những
chính sách bộ phận. Chẳng hạn, chính sách xóa đói, giảm nghèo bao gồm chính
sách hỗ trợ người nghèo thơng qua các chương trình mục tiêu quốc gia, chính
sách miễn giảm học phí cho người nghèo, chính sách khám, chữa bệnh miễn phí
cho người nghèo... Do đó, việc đánh giá chính sách thường khá phức tạp, địi hỏi
có cách nhìn tổng thể.
- Coi đánh giá chính sách là việc của cơ quan ban hành chính sách, nên chờ
đợi khi cơ quan này có chủ trương hoặc yêu cầu cụ thể mới tổ chức triển khai
đánh giá.
- Tách biệt giữa đánh giá nội dung chính sách (thể hiện qua văn bản) với
đánh giá việc thực thi chính sách. Đơi khi, chúng ta rơi vào các nhận xét phiến
diện: hoặc cho rằng các chính sách ban hành là đúng đắn, thường chỉ sai phạm
trong khâu thực thi; nhưng có lúc lại che lấp các hạn chế trong thực thi chính
sách bằng cách đổ lỗi cho sự không phù hợp của các quy định pháp luật.
Thứ hai, các cơ quan chức năng thường khơng quan tâm tổ chức đánh giá
chính sách. Trên thực tế, rất ít chính sách được tổ chức đánh giá một cách
nghiêm túc, bài bản. Nhiều cơ quan có thẩm quyền (cơ quan ban hành chính
sách hoặc chủ trì tổ chức thực hiện chính sách) khơng đưa việc đánh giá chính

sách vào chương trình hoạt động của mình. Có thể nêu ra nhiều ngun nhân của
tình trạng này: do khơng có đủ nhân lực, khơng có nguồn lực tài chính để đánh
giá, do chính sách được thực hiện rất “bình lặng” khơng gây ra vấn đề gì, do bản
thân các cơ quan này không muốn “tự phán xét” các chính sách do mình ban
hành và thực thi... Đương nhiên, việc đánh giá chính sách khơng chỉ do các cơ
quan nhà nước tiến hành. Các đánh giá chính sách có thể được phản ánh qua
cơng luận, qua ý kiến của nhân dân, của các tổ chức chính trị - xã hội. Song sự
đánh giá từ bên ngoài nhà nước sẽ chỉ có giá trị thực sự nếu được các cơ quan


nhà nước tiếp nhận, tổng hợp và rút kinh nghiệm. Trong khơng ít trường hợp, sự
đánh giá lẻ tẻ, tự phát của nhân dân bị bỏ qua. Nếu thiếu sự chủ trì của các cơ
quan chức năng, thì việc đánh giá cũng ít có tác động đến các nhà hoạch định và
thực thi chính sách.
Thứ ba, việc xem xét lại chính sách đơi khi chỉ được thực hiện khi xuất
hiện “vấn đề”. Trong một số trường hợp, các chính sách vẫn “bình yên” trong
một thời gian dài, chỉ đến khi “vấp váp” trong thực tiễn, người ta mới nhận ra
được những “lỗ hổng” của chính sách.
Thứ tư, thiếu các tiêu chí để đánh giá chính sách một cách khoa học. Khi
đánh giá chính sách, người ta thường so sánh các kết quả đạt được với mục tiêu
chính sách ban đầu. Việc đánh giá chính sách sẽ dễ dàng nếu các mục tiêu chính
sách được thể hiện dưới dạng định lượng, chẳng hạn như tốc độ gia tăng dân số,
tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đi học được đến trường... Song, trên thực tế đa số các
mục tiêu chính sách được thể hiện dưới dạng định tính, nhiều khi mục tiêu
khơng rõ ràng, trong trường hợp đó việc đánh giá chính sách theo mục tiêu đề ra
có thể khơng phản ánh hết các giá trị của chính sách. Để đánh giá chính sách, về
ngun tắc, phải có các bộ tiêu chí đánh giá được thiết kế đối với từng loại chính
sách. Việc thiếu các tiêu chí đánh giá khiến cho việc đánh giá khơng tồn diện,
đầy đủ, mang tính phiến diện. Chẳng hạn, đánh giá về chính sách xóa đói, giảm
nghèo ở Việt Nam, có thể thấy kết quả rất khả quan với việc giảm tỷ lệ nghèo từ

22% năm 2005 xuống còn 10,7% năm 2010 theo chuẩn nghèo giai đoạn 2006 2010. Song, nếu đi vào đánh giá tác động của các chính sách cụ thể tới người
nghèo thì thấy cịn rất nhiều hạn chế.
Thứ năm, đánh giá chính sách đơi khi mang tính một chiều, chỉ phản ánh
nhận xét của các cơ quan nhà nước mà không quan tâm đủ mức đến sự phản hồi
từ xã hội, từ những đối tượng mà chính sách hướng vào. Mặc dù đánh giá của
các cơ quan nhà nước về chính sách có thuận lợi do họ nắm rất rõ về chính sách
và q trình thực hiện chính sách, nhưng cách làm này có thể dẫn đến chỗ các
kết quả đánh giá chịu sự chi phối của chính những người làm ra và vận hành
chính sách đó, việc chỉ ra các sai sót của bản thân họ sẽ gặp phải rào cản tâm lý


mạnh mẽ và nhiều khi bị bóp méo theo ý muốn chủ quan. Vì vậy, khi đánh giá
chính sách, ít cơ quan tổ chức các cuộc khảo sát lấy ý kiến phản hồi từ nhân dân
hay các đối tượng hưởng lợi một cách rộng rãi, công khai. Trong một số trường
hợp các cơ quan chức năng đã tổ chức thu thập ý kiến phản hồi từ các phương
tiện truyền thông, hay tổ chức các buổi đóng góp ý kiến thơng qua các đồn thể
chính trị - xã hội. Tuy nhiên, không phải lúc nào các ý kiến này cũng phản ánh
đầy đủ và chính xác những vấn đề mà thực tiễn đang đặt ra liên quan đến chính
sách được đánh giá.
Thứ sáu, thiếu kinh phí dành cho việc đánh giá chính sách. Các cơ quan
thường dành nguồn kinh phí có hạn của mình để triển khai các cơng việc mới
(nhằm tạo ra những kết quả mới) hơn là dùng kinh phí đó để xem xét lại những
gì đã làm.
2.2. Các giải pháp tăng cường đánh giá chính sách cơng
Một là, đưa việc đánh giá chính sách thành một nội dung bắt buộc đối với
một số chính sách quan trọng của Nhà nước. Cần nhận thức rõ, những chính
sách quan trọng, liên quan đến những vấn đề cấp thiết nhất của đời sống, đến lợi
ích của nhiều người thì việc đánh giá chính sách là rất cần thiết để hồn thiện
chính sách, tránh các rủi ro hay lãng phí xảy ra, đặc biệt là tránh những phản
ứng ngược lại với mong muốn của Chính phủ. Cần có kế hoạch đánh giá chính

sách và xây dựng lịch trình đánh giá cụ thể. Trong kế hoạch đánh giá cần xác
định rõ mục tiêu, phạm vi, chủ thể tham gia, các đối tượng, nội dung, các
phương pháp và tiêu chí đánh giá. Cần tổng kết việc đánh giá, công bố công khai
kết quả đánh giá ở phạm vi cần thiết. Tổ chức rút kinh nghiệm nghiêm túc đối
với những sai sót về nội dung chính sách và những hạn chế, vướng mắc trong
thực thi chính sách.
Hai là, xây dựng các tiêu chí đánh giá chính sách một cách đầy đủ và đúng
đắn. Tùy theo từng lĩnh vực, sẽ có các tiêu chí đánh giá chính sách khác nhau.
Thơng thường, các tiêu chí đánh giá tập trung vào những phương diện sau đây:
- Tính hiệu lực của chính sách phản ánh mức độ tác động, ảnh hưởng của
chính sách đó trên thực tế, làm biến đổi hoặc duy trì thực tế theo mong muốn


của Nhà nước. Tính hiệu lực của chính sách thể hiện ở mức độ đạt được các mục
tiêu đề ra.
- Tính hiệu quả của chính sách phản ánh tương quan so sánh giữa kết quả
do chính sách đưa lại với chi phí đã bỏ ra. Phương pháp phân tích chi phí - lợi
ích thường được sử dụng để xác định hiệu quả của chính sách. Nếu khơng quan
tâm tính tốn hiệu quả sẽ dẫn đến lãng phí, thất thốt tiền của và kinh phí từ
ngân sách nhà nước.
- Tính cơng bằng của chính sách thể hiện ở chỗ thơng qua chính sách, Nhà
nước thực hiện phân phối lại thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, đồng thời trợ
giúp cho các đối tượng dễ bị tổn thương, như người nghèo, người già, trẻ em và
người tàn tật để khắc phục tình trạng bất bình đẳng về thu nhập giữa các nhóm
xã hội. Tính cơng bằng của chính sách cịn thể hiện ở sự phân bổ hợp lý các chi
phí và lợi ích, các quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia hoạch định, thực
thi chính sách và các nhóm đối tượng liên quan đến chính sách.
- Chú trọng đánh giá tác động của chính sách đến các đối tượng hưởng lợi
từ chính sách. Tác động của chính sách phản ánh kết quả đầu ra hay kết quả cuối
cùng của chính sách. Đây là một tiêu chí rất quan trọng trong đánh giá chính

sách cơng. Song việc đánh giá tác động của chính sách cũng là khâu khó khăn
nhất trong đánh giá chính sách, bởi lẽ các tác động này đơi khi rất khó đo lường.
Chẳng hạn, để đánh giá chính sách giảm nghèo đã tác động đến đối tượng người
nghèo như thế nào, cần xem xét việc người nghèo được hưởng những lợi ích gì
từ chính sách của Chính phủ và các lợi ích đó đã giúp họ thốt nghèo đến đâu.
Việc đánh giá tác động này khơng thể căn cứ vào những ý kiến chủ quan của các
cấp chính quyền, mà phải được đo lường bằng mức độ hài lịng của người dân
về các lợi ích được hưởng. Cần tổ chức các cuộc khảo sát lấy ý kiến đánh giá
của người dân, đối tượng hưởng lợi từ chính sách. Kinh nghiệm thành cơng của
các cuộc khảo sát lấy ý kiến khách hàng về việc cung cấp các dịch vụ cơng thiết
yếu tại Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng là những minh chứng có giá trị trong
việc đánh giá mức độ hưởng lợi của các đối tượng chính sách.


- Mức độ giải quyết vấn đề chính sách. Mỗi chính sách được xây dựng khởi
nguồn từ việc xác định vấn đề chính sách - đó là nhu cầu xã hội hay mâu thuẫn
trong xã hội đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng quyền lực công để giải quyết nhằm
đạt tới mục tiêu hiệu quả, ổn định và công bằng xã hội. Nhu cầu giải quyết vấn
đề của chính sách thường thể hiện ở các mục tiêu của chính sách. Tuy nhiên, đôi
khi mục tiêu được đề ra quá rộng, chung chung, khơng rõ ràng, khi đó dù các
chính sách có được thực thi trên thực tế theo mục tiêu đề ra, thì cũng rất khó xác
định vấn đề chính sách đã được giải quyết đến đâu. Hơn nữa, vấn đề chính sách
thường có ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh kinh tế, xã hội khác nhau. Do đó, mức
độ giải quyết vấn đề chính sách có thể đo lường được bằng một loạt tiêu chí liên
quan đến các khía cạnh kinh tế - xã hội này. Chẳng hạn, để đánh giá mức độ giải
quyết vấn đề đói, nghèo, sẽ khơng thể chỉ đưa ra chỉ tiêu nghèo đã giảm xuống
bao nhiêu phần trăm, mà cịn phải xem xét các khía cạnh khác, như người nghèo
được tiếp cận như thế nào đến các dịch vụ công thiết yếu, như y tế, giáo dục,
nước sạch; việc tạo điều kiện cho người nghèo trong thực hiện các quyền lợi của
công dân...

Ba là, quan tâm đến dư luận xã hội, ý kiến, nguyện vọng của nhân dân để
thấy được các bất cập trong hoạch định và q trình thực thi chính sách. Việc
đánh giá chính sách theo những tiêu chí nêu trên đã phản ánh được thực trạng
các thành công và yếu kém của chính sách. Song, khơng chỉ chờ đến khi các cơ
quan chức năng tổ chức đánh giá thì các hạn chế của chính sách mới bộc lộ ra.
Các phương tiện thơng tin đại chúng, dư luận xã hội và ý kiến đóng góp của các
tổ chức quần chúng là các kênh phản hồi quan trọng về chính sách. Việc quan
tâm theo dõi và tiếp nhận những thông tin này sẽ giúp cáccơ quan chức năng của
Nhà nước định hướng việc đánh giá chính sách. Những ý kiến nói trên cũng sẽ
tạo cơ sở đề hình thành các đề xuất nhằm tiếp tục hồn chỉnh, bổ sung chính
sách.
Bốn là, tổ chức nhóm đánh giá độc lập, gồm các thành viên hoạt động với
tư cách chuyên gia đánh giá, có thể từ cơ quan nhà nước hoặc ngoài nhà nước,


song tất cả các thành viên sẽ thực hiện việc đánh giá một cách độc lập, khách
quan theo mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể của nhóm.
Thứ năm, dành nguồn kinh phí thỏa đáng cho việc đánh giá chính sách.
Việc bỏ ra một khoản kinh phí cần thiết và sử dụng có hiệu quả kinh phí đó cho
đánh giá chính sách sẽ đem lại lợi ích đáng kể cho quá trình tiếp tục vận hành
chính sách trong giai đoạn tiếp theo, khắc phục những hạn chế, bất cập của
chính sách và bảo đảm cho chính sách đáp ứng các yêu cầu của cuộc sống.


×