Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Tiểu luận tư tưởng hồ chí minh về nhà nước và sự vận dụng trong xây dựng nhà nước pháp quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.6 KB, 10 trang )

MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người anh hùng dân tộc vĩ đại, lãnh tụ thiên tài
của Đảng và dân tộc Việt Nam, Nhà văn hóa kiệt xuất, người chiến sĩ Cộng sản
quốc tế lỗi lạc. Công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh với dân tộc ta như non cao,
biển rộng. Người đã gắn bó và hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp cách
mạng của Đảng ta và dân tộc ta, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ
Nhân dân cho đến hơi thở cuối cùng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng chỉ đấu
tranh, mưu cầu cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho Nhân dân, mà còn để lại cho
các thế hệ mai sau một di sản tinh thần vơ cùng q báu, đó là tư tưởng của
Người về tất cả cac mặt của đời sống xã hội, trong đó có tư tưởng về nhà nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước là một tài sản quý giá trong di sản cách
mạng của Người, chứa đựng những giá trị to lớn cả về phương diện lý luận và
thực tiễn đối với xây dựng nhà nước kiểu mới.
Ngày nay, yêu cầu về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo
là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta. Để thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ này, cần nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo những
giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nhà nước trong bối cảnh hiện nay.
Xuất phát từ lý do trên, người viết chọn chủ đề “Tư tưởng Hồ Chí Minh
về nhà nước và sự vận dụng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay” để làm bài thu hoạch.

1


NỘI DUNG
*
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, có thể thấy, Người chưa sử
dụng thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền”. Song, ngay từ trong hành trình tìm
đường cứu nước cũng như trong suốt thời gian giữ vị trí đứng đầu Nhà nước,


Chủ tịch Hồ Chí Minh ln chú trọng xây dựng Nhà nước Việt Nam trên cơ sở
xây dựng và thực hiện pháp luật, coi trọng việc quản lý, điều hành xã hội bằng
pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Những giá trị của tư tưởng
Hồ Chí Minh trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
hiện nay được thể hiện trên những nét cơ bản nhất về nhà nước.
Ngay từ những năm đầu đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã sớm tiếp
nhận tư tưởng về xây dựng một nhà nước pháp quyền. Năm 1919, Nguyễn Tất
Thành cùng với những người Việt Nam yêu nước đã gửi bản “Yêu sách của
nhân dân An Nam” tới Hội nghị Véc xây. Bản yêu sách gồm 8 điều, trong đó có
2 điều liên quan trực tiếp tới vấn đề pháp quyền. Đó là:
“Điều 2: Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản
xứ hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người châu Âu.
Điều 7: Thay thế chế độ ra sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật”.
Và từ những năm 20 (thế kỷ XX), Nguyễn Ái Quốc đã phê phán một cách
quyết liệt bản chất của bộ máy nhà nước thực dân. Người vạch trần bản chất xấu
xa của chế độ thực dân đế quốc bên trong cái vỏ hào nhống khai hóa văn minh
trước cơng luận; và qua đó, Người chuẩn bị cho mình những cơ sở lý luận và
thực tiễn để hình thành nên tư tưởng về một nhà nước kiểu mới, thật sự dân chủ.
Điều này thể hiện rõ trong tác phẩm Đường Cách mệnh. Người viết: "Chúng ta
đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh
rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người.
Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới hạnh phúc". Quan điểm
quyền lực chính trị thuộc về nhân dân và phục vụ cho lợi ích của nhân dân là cốt
lõi và xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước.
2


Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, tư tưởng về dân chủ - với ý
nghĩa là bản chất của quyền lực nhà nước và phương thức tổ chức, triển khai
quyền lực nhà nước là một nét đặc sắc. Theo Người, dân chủ hiểu một cách

chung nhất là quyền lực chính trị thuộc về nhân dân. Ở nước ta, chính quyền là
của nhân dân, do nhân dân làm chủ; và, "Nhân dân là ơng chủ nắm chính quyền.
Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân
chủ".
Địa vị làm chủ của người dân, tức là quan hệ của người dân với quyền lực
nhà nước, được Hồ Chí Minh làm rõ trong quan hệ với đội ngũ cán bộ nhà nước
- những người trực tiếp thi hành quyền lực nhà nước. Người viết: Nước ta là
nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ
người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch nước đều là phân công làm đày tớ cho
dân. Người căn dặn: Phải nhớ rằng dân là chủ. Dân như nước, mình như cá. Lực
lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết. … Nếu dân là chủ thì nhà nước, cán bộ nhà
nước là công bộc của dân. Đây là một sáng tạo độc đáo của Hồ Chí Minh. Chính
tư tưởng này đã chỉ rõ sự đối lập về chất của nhà nước nhân dân với nhà nước
phong kiến, nhà nước thực dân. Ở đây, Hồ Chí Minh đã chỉ ra nội hàm của khái
niệm "cơng bộc của dân", và có thể hiểu đây là một định nghĩa của Người về
chức năng của Nhà nước mà ý nghĩa sâu sắc của nó vẫn cịn giữ ngun tính
thời sự và cần được quán triệt trong công cuộc xây dựng Nhà nước ta hiện nay.
Khái niệm dân chủ cịn được Hồ Chí Minh làm rõ trong quan hệ với khái
niệm chuyên chính. Người viết: "Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân,
chun chính là cái khóa, cái cửa để đề phịng kẻ phá hoại, nếu hịm khơng có
khóa, nhà khơng có cửa thì sẽ mất cắp hết. Cho nên có cửa phải có khóa, có nhà
phải có cửa. Thế thì dân chủ cũng cần phải có chun chính để giữ gìn lấy dân
chủ"; và "Nhà nước ta cũng là nhà nước của đại đa số nhân dân, để thống trị
thiểu số phản động, để giữ gìn lợi ích của nhân dân, bằng cách dân chủ chuyên
chính của nhân dân”.
Khi bàn về vai trị của Nhà nước, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm về
nhân dân quản lý nhà nước. Điều đáng lưu ý là việc nhà nước tiến hành các hoạt
3



động nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân, thì đồng thời, đó cũng chính
là nhằm tạo điều kiện để nhân dân có thể tham gia quản lý nhà nước. Người viết:
"... chỉ có chế độ của chúng ta mới thật sự phục vụ lợi ích của nhân dân, trước
hết là nhân dân lao động, bảo đảm mọi quyền lợi của nhân dân, mở rộng dân
chủ để nhân dân thật sự tham gia quản lý Nhà nước. Vì vậy cho nên nhân dân ta
đưa hết khả năng làm tròn nhiệm vụ người chủ nước nhà để xây dựng chủ nghĩa
xã hội, làm cho nước ta mạnh, dân ta giàu".
Ln có ý thức và quan điểm rõ ràng về việc thiết lập quyền lực của nhân
dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, chỉ có nhà nước do nhân dân bầu ra mới là
một nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Bởi vậy, đối với Người, việc sớm xây dựng
Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là đặc biệt cần thiết và quan
trọng. Coi nhân dân là những người chủ thực sự của đất nước, Người khẳng định
rằng, mọi người dân, không phân biệt đảng phái, tôn giáo, giàu nghèo, gái trai...
đều có quyền bầu những người đại diện cho mình tham gia Quốc hội và có
quyền ứng cử. Trong tư tưởng về xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân, Hồ Chí Minh ln nhấn mạnh đến quan hệ về trách
nhiệm giữa đại biểu Quốc hội với cử tri. Người cho rằng, nhân dân có quyền
kiểm sốt, giám sát và bãi miễn đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân
khi những đại biểu ấy khơng cịn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân; với
tư cách người đại diện cho nhân dân, những đại biểu của cơ quan dân cử các cấp
phải liên hệ mật thiết với quần chúng, lắng nghe ý kiến, nắm được yêu cầu và
phản ánh đúng nguyện vọng của nhân dân.
Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, phải là nhà nước thực hiện chức năng quản lý, điều hành xã
hội bằng pháp luật; các quyền làm chủ của nhân dân phải được thể chế hoá. Một
vấn đề quan trọng khác của nhà nước pháp quyền mà Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm là tính hiệu quả, tính nghiêm minh trong thực thi pháp luật. Sự hiện
diện của pháp luật mới chỉ là điều kiện cần, nhưng chưa đủ để bảo đảm ổn định
xã hội. Một xã hội muốn ổn định và phát triển khơng những phải có hệ thống
pháp luật của mình, mà cịn phải có cơ chế thực hiện pháp luật bảo đảm tính

4


nghiêm minh và công bằng. Nhận thức sâu sắc điều đó, Hồ Chí Minh địi hỏi
pháp luật xã hội chủ nghĩa phải đủ mạnh, được thực hiện nghiêm minh, việc xét
xử phải khách quan, công bằng, không thiên vị. Chúng ta đang phấn đấu đến
một xã hội trong đó khơng có người bóc lột người, khơng có sự xâm phạm và
làm hại đến lợi ích chính đáng của người khác, mọi người sống và làm việc theo
Hiến pháp, pháp luật...; do vậy, đối với những kẻ bất liêm, theo quan điểm của
Người, dù kẻ đó ở địa vị nào và làm nghề gì, pháp luật cũng phải thẳng tay trừng
trị.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền, Người ln đề cao
vai trị và tầm quan trọng của pháp luật, song khơng vì thế mà tuyệt đối hố
pháp luật hoặc coi đó là biện pháp duy nhất để tổ chức và quản lý xã hội. Ý
nghĩa nhân văn trong triết lý pháp luật của Hồ Chí Minh là ở chỗ, đối với Người,
tất cả mọi quyền lực nhà nước đều phải thuộc về nhân dân; nhân dân vừa là mục
đích mà nhà nước hướng tới phục vụ, vừa là chủ thể của nhà nước. Do đó, thấm
nhuần và vận dụng sáng tạo quan điểm về sự kết hợp đạo đức cách mạng với
pháp luật theo tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở bảo đảm cho việc xây dựng, củng
cố và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân hiện nay.
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Với những giá trị khoa học to lớn, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc,
tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân chính là cơ sở, định hướng cho việc xây dựng, củng cố và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta xác định là một nhiệm vụ
trọng tâm của q trình đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay.
Ngay từ Hội nghị Trung ương 2 khóa VII năm 1994, lần đầu tiên Đảng đã
đề cập đến thuật ngữ “xây dựng Nhà nước pháp quyền”. Đến Hội nghị đại biểu

tồn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII năm 1994 và các Đại hội VIII, IX, X, X, XI
và gần đây nhất là Đại hội XIII, Đảng tiếp tục xác định nhiệm vụ trọng tâm là
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và xác định rõ
5


những đặc trưng chủ yếu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chúng
ta đang xây dựng. Đó là:
Một là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân. Đây là đặc trưng cơ bản, được ghi nhận trong Hiến pháp nước ta và được
thể hiện trong các quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước từ Trung ương đến địa phương.
Tư tưởng nhà nước của dân, do dân, vì dân đã có từ sớm trong lịch sử tư
tưởng chính trị nhân loại. Tuy nhiên, nét đặc trưng của tư tưởng này ở Việt Nam
được thể hiện ở chỗ nó là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài và bền bỉ chống
lại ách thống trị của phong kiến, thực dân, đế quốc để giải phóng dân tộc Việt
Nam, kết thúc bằng một trong những sự kiện vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc, đó
là cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với sự ra đời của nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa - mà ngay từ khi thành lập, chính quyền mới đã thể hiện tính nhân
dân và cách mạng sâu sắc.
Khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân không chỉ là khẳng định
một nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong Hiến pháp mà còn khẳng định sự
cần thiết phải lập ra cơ chế đảm bảo thực hiện quyền lực thực sự của nhân dân.
Nhân dân là người chủ của quyền lực, không chỉ tạo lập nên nhà nước, trực tiếp
và thông qua các cơ quan đại diện để thực thi quyền lực, mà cịn thơng qua các
hình thức khác để tham gia vào hoạt động quản lý của nhà nước, tác động mạnh
mẽ đến quá trình hoạch định đường lối, chính sách, cũng như tham gia vào các
hoạt động khác. Từ đó, có thể đánh giá hiệu quả hoạt động của Nhà nước là khả
năng phục vụ nhân dân, là công cụ để nhân dân làm chủ về kinh tế, chính trị, xã

hội, sử dụng tốt và có hiệu quả các quyền và nghĩa vụ của mình.
Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp. Đây là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta.
Quan điểm về tính thống nhất của quyền lực, về sự phân công, phối hợp
giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là một quan điểm chính trị - pháp
6


lý có tính khái qt cao. Nói quyền lực nhà nước thống nhất khơng có nghĩa là
sự tập trung quyền lực cao độ vào một nhánh quyền lực nào mà là sự thống nhất
ở mục tiêu chung là sự phục vụ lợi ích của dân tộc, của đất nước, của nhân dân.
Ba là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thừa nhận Hiến
pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; tổ chức và hoạt động của Nhà nước thực
hiện trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật.
Trong Nhà nước pháp quyền, ý chí của nhân dân và sự lựa chọn chính trị
được xác lập một cách tập trung nhất, đầy đủ nhất và được thể hiện trong Hiến
pháp. Chính vì lẽ đó mà Hiến pháp được coi là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có
hiệu lực pháp lý cao nhất, quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
quốc phịng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước. Hiến pháp, pháp luật của
Nhà nước là điều kiện quan trọng nhất bảo đảm sự ổn định xã hội và sự an toàn
của người dân. Hệ thống pháp luật thể hiện đầy đủ, đúng đắn ý chí của nhân dân,
phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Nghĩa vụ tuân theo
Hiến pháp, pháp luật là của tất cả công dân, không loại trừ đối với bất cứ ai.
Bốn là, Nhà nước ta tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công
dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân
chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật.
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và

vì dân, do vậy, tư tưởng “trọng dân” phải được quán triệt toàn bộ tổ chức và hoạt
động của Nhà nước. Tư tưởng “trọng dân” hồn tồn khơng mâu thuẫn với tư
tưởng “trọng pháp”, mà nó thống nhất, quan hệ chặt chẽ với nhau bởi “trọng dân
thì phải trọng pháp và trọng pháp là để trọng dân”.
Thông qua pháp luật mà các cơ quan nhà nước thực hiện trách nhiệm bảo
đảm dân chủ và công bằng xã hội, chịu trách nhiệm pháp lý về những vi phạm
của mình trong quan hệ với cơng dân; chịu sự giám sát của nhân dân. Về phần
mình, cơng dân phải thực hiện trách nhiệm của mình trong việc chấp hành pháp
7


luật, thể hiện tính tích cực trong đời sống chính trị đất nước, chịu trách nhiệm
pháp lý về những hành vi của mình.
Năm là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do một đảng duy
nhất lãnh đạo, có sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu khách quan. Đảng
với tư cách là đảng cầm quyền được tổ chức và hoạt động với tính chất là một
nhân tố quan trọng của cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước.
Sáu là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức vừa có đức, vừa có tài, là
“cơng bộc” của nhân dân.
Bộ máy nhà nước có trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả hay
khơng, phụ thuộc trước hết vào những con người trong tổ chức bộ máy đó. Do
vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng nhà nước mới phải bắt đầu từ công
việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ vừa có đức, vừa có tài, vừa hồng, vừa
chuyên, “là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Người khẳng định:
“Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho
dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo
cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”, đáp ứng yêu cầu
và lợi ích chính đáng của nhân dân. Cán bộ là gốc của mọi cơng việc, “Có cán

bộ tốt, việc gì cũng xong. Mn việc thành cơng hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt
hoặc kém”. Vì vậy, “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Từ đây,
Người đã nghiêm khắc phê bình một bộ phận cán bộ, đảng viên thối hóa, biến
chất, bị chi phối bởi chủ nghĩa cá nhân nên “có thái độ xa quần chúng”, không
muốn học hỏi quần chúng mà chỉ muốn làm thày quần chúng, “quên rằng dân
bầu mình ra là để làm việc cho dân”, “quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan,
tham ơ, lãng phí...”. Do vậy, Người u cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải không
ngừng học tập, tu dưỡng, tự sửa chữa để tiến bộ mãi. Công tác cán bộ phải dựa
vào dân, phát hiện, tuyển chọn cán bộ từ phong trào cách mạng của nhân dân;
đưa cán bộ thâm nhập vào hoạt động thực tiễn và thơng qua sự giúp đỡ, kiểm
sốt của nhân dân để đào tạo, rèn luyện cán bộ.
8


Để tiếp tục kiện toàn tổ chức, bộ máy nhà nước, chuyển đổi mạnh mẽ mơ
hình và cơ chế quản lý theo hướng phục vụ, kiến tạo phát triển, phải xây dựng
đội ngũ cán bộ, cơng chức vừa có đức, vừa có tài, ngang tầm nhiệm vụ, đặc biệt
là chú trọng bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất đạo đức, lý tưởng cách mạng, trình
độ chun mơn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, để họ trở thành
những nhà lãnh đạo tài giỏi, yêu nước, liêm, chính, chí cơng. Từ đó, tạo ra
những chuyển động mang tính bước ngoặt trong tiến trình phát triển đất nước và
trong xây dựng Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Đại hội XIII của Đảng về “xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý, điều hành và năng lực kiến
tạo phát triển”.

9


KẾT LUẬN

*
Ngày nay, với các yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, đặc biệt là
nhiệm vụ xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy
mạnh q trình dân chủ hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cần được thực hiện một các đồng
bộ, có bước đi phù hợp. Đặc biệt ln khẳng định vai trị của nhân dân, nhân dân
chính là động lực, là cội nguồn của sức mạnh xây dựng và phát triển đất nước.
Chỉ khi nào phát huy được sức sáng tạo, tinh thần đoàn kết tồn dân, được nhân
dân ủng hộ thì khi ấy sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam mới thực sự thành công như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng
căn dặn.
Do đó, trên cơ sở kế thừa và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, những năm
qua, Đảng ta đã lãnh đạo cả hệ thống chính trị và tồn xã hội kiên quyết, kiên trì
đấu tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí một cách triệt để và có hiệu quả
ngày càng cao hơn. Qua đó, xử lý nghiêm và kịp thời những hành vi tham
nhũng, lãng phí theo tinh thần “khơng có vùng cấm, khơng có ngoại lệ”, “tăng
cường cơng tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án, phát hiện sớm, xử lý nghiêm minh các vụ việc, vụ án tham nhũng,
lãng phí;... xử lý nghiêm những cán bộ nhũng nhiễu, vòi vĩnh, gây phiền hà cho
người dân, doanh nghiệp”. Từng bước xây dựng được một hệ thống pháp luật
hoàn thiện, hiện đại, nhân văn, lấy lợi ích của nhân dân và của đất nước là mục
đích tối thượng./.

10



×