A. MỞ ĐẦU
I.
Lý do chọn đề tài
Trong mỗi ngành luật khác nhau thì đều có những ngun tắc nhất định và
nó đóng vai trị như định huớng và chỉ đạo cho sự phát triển của bất cứ một
ngành luật nào. Ngành Luật tố tụng dân sự cũng vậy được xem là một ngành
luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam do vậy việc có những nguyên tắc
cơ bản là điều tất yếu đốivới ngành luật này. Về mặt nội dung và tính chất, các
nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng dân sự Việt Nam biểu hiện những quan điểm
pháp lý của Đảng và nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với
nhiệm vụ và phương pháp hoạt động của Toà án nhân dân trong việc giải quyết,
xét xử các vụ việc dân sự. Các nguyên tắc cơ bản xuyên suốt cả quá trình tố
tụng, được coi là nền tảng pháp lý định hướng cho toàn bộ hoạt động tố tụng dân
sự và là căn cứ pháp lý để xác định tính hợp pháp của các hành vi tố tụng do các
chủ thể thực hiện. Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố dụng
dân sự là trong những nguyên tắc quan trọng của Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015 nó được đặt ngay ở Điều 6 thể hiện sự quan trọng của nó được nhà làm
luật coi trọng. Và cũng khơng quá khi nói rằng đây là một trong những nguyên
tắc xương sống của các nguyên tắc của Bộ luật tố tụng dân sự.
Chính vì sự thiết yếu và quan trọng của nguyên tắc này cho nên em xin
chọn để tài: “Nguyên tắc “Cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng
dân sự” theo quy định của BLTTDS năm 2015 – một số vấn đề pháp lý và thực
tiễn” làm đề tài tiểu luận lần này. Do hạn chế về mặt kiến thức cũng như kinh
nghiệm nên bài làm còn nhiều thiếu sót em rất mong nhận được đóng góp của
các thầy cơ để bài tiểu luận được hồn chỉnh hơn.
II.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
1.
Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu bài tiểu luận lần này nhằm hiểu rõ được những quy
định về nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự. Qua
đó đối chiếu với thực tiễn của nguyên tắc để có cách nhìn tồn diện hơn về vấn
đề từ lý luận đến thực tiến, qua đó thấy được tầm quan trọng to lớn mang tính
định hướng của nguyên tắc.
2.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Với bài tiểu luận với đề tài: “Nguyên tắc “Cung cấp chứng cứ và chứng
minh trong tố tụng dân sự” theo quy định của BLTTDS năm 2015 – một số vấn
đề pháp lý và thực tiễn” cần thực hiện các nhiệm vụ sau:
-
Tìm hiểu những vấn đề chung về nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố
tụng dân sự Việt Nam Nam 2015.
Tìm hiểu nội dung của nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng
minh trong tố tụng dân sự.
Vấn đề thực trạng của vấn đề.
III. Lịch sử nghiên cứu
Với đề tài: “Nguyên tắc “Cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố
tụng dân sự” theo quy định của BLTTDS năm 2015 – một số vấn đề pháp lý và
thực tiễn” đã có rất nhiều bài nghiên cứu khoa học cũng như luận án thạc sỹ hay
là các bài viết chuyên về luật học như: Nguyễn Thị Thu Hà, bài viết: “Bình luận
nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong Bộ luật TTDS năm 2015”,
Đinh Quốc Trí, Luận án thạc sĩ: “Nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ
chứng minh trong luật TTDS” và còn nhiều bài viết khác.
IV.
Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài: “Nguyên tắc “Cung cấp chứng cứ và chứng minh
trong tố tụng dân sự” theo quy định của BLTTDS năm 2015 – một số vấn đề
pháp lý và thực tiễn” nghiên cứu ở Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi và
bổ sung năm 2011, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, các bài viết khoa học, các
luận văn thạc sỹ, tiến sỹ, bình luận khoa học…
V.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài tiểu luận: “Nguyên tắc “Cung cấp chứng cứ và chứng
minh trong tố tụng dân sự” theo quy định của BLTTDS năm 2015 – một số vấn
đề pháp lý và thực tiễn” với phương pháp phân tích tài liệu, thơng kê, tổng hợp,
trích dẫn…
B. NỘI DUNG
I.
Khái quát chung
Các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng dân sự Việt Nam được quy định
khá đầy đủ và toàn diện tại các điều, từ Điều 3 đến Điều 25 Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2015.
1. Khái niệm các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự Việt
Nam.
Nguyên tắc của một ngành luật hiểu chung nhất là những nguyên lý, tư
tưởng pháp lý chỉ đạo, định hướng cho hoạt động xây dựng và thực hiện các quy
định của ngành luật đó. Vì vậy, khi xây dựng và soạn thảo các văn bản quy
phạm pháp luật của một ngành luật thì vấn đề hết sức quan trọng phải được xác
định đó là những nguyên tắc cơ bản của ngành luật đó. Các nguyên tắc của một
ngành luật được ghi nhận thông qua các quy định tại một hoặc một số điều luật
cụ thể của ngành luật đó. Khi những nguyên lý, tư tưởng pháp lý đã được ghi
nhận bằng các quy phạm pháp luật thì sẽ có giá trị bắt buộc và được bảo đảm
thực thi trên thực tế.
Luật tố tụng dân sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Vì vậy, việc xây dựng và thực hiện các quy phạm pháp luật tố tụng dân sự phải
dựa trên những tư tưởng, nguyên lý nhất định xuất phát từ việc xác định nhiệm
vụ của Luật tố tụng dân sự là thể chế hoá được các quan điểm, đường lối của
Đảng về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, xây dựng một trình tự,
thủ tục tố tụng dân sự khoa học trên cơ sở đảm bảo cơ chế kiểm tra, giám sát
hoạt động tố tụng dân sự. Các tư tưởng, nguyên lý đó được quy định trong các
văn bản pháp luật tố tụng dân sự.
Nguyên tắc của Luật tố tụng dân sự Việt Nam là những nguyên lý, tư
tưởng pháp lý chỉ đạo, định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật tố
tụng dân sự và được ghi nhận trong các văn bản pháp luật tố tụng dân sự.
2. Ý nghĩa các nguyên tắc của luật tố tụng dân sự Việt Nam
Trong xây dựng pháp luật tố tụng dân sự, phải dựa vào các nguyên tắc của
Luật tố tụng dân sự để xây dựng các quy phạm pháp luật cụ thể phù hợp, tránh
được sự mâu thuẫn, chồng chéo giữa các quy phạm pháp luật hoặc thiếu sự nhất
quán giữa các văn bản pháp luật. Ngoài ra, dựa vào các nguyên tắc của Luật tố
tụng dân sự cũng có thể tìm ra những mâu thuẫn, khiếm khuyết của các quy
phạm pháp luật đã ban hành để sữa chữa, bổ sung và hoàn thiện các quy phạm
đó. Trong tố tụng dân sự, việc thực hiện đúng các nguyên tắc của Luật tố tụng
dân sự tạo điều kiện cho việc giải quyết vụ việc dân sự được thuận lợi, ngăn
chặn được những tiêu cực nảy sinh trong quá trình tố tụng, bảo đảm cho các
đương sự có thể bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của họ trước Toà án, Trong
trường hợp pháp Luật TTDS khơng có quy định cụ thể thì các chủ thể tố tụng có
thể căn cứ vào các nguyên tắc cuẩ Luật TTDS mà xác định phương hướng và
thực hiện các hành vi tố tụng của mình.
Việc vi phạm các nguyên tắc của Luật TTDS trong quá trình giải quyết vụ
việc dân sự sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động tố tụng. Các hành vi vi phạm
có thể làm việc giải quyết các vụ việc dân sự bị kéo dài hoặc việc giải quyết các
vụ việc sẽ không được đúng đắn, khách quan.
Các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng dân sự cũng đóng vai trị là kim
chỉ nam định hướng cho hoạt động của các cơ quan ngồi Tố án như Viện kiểm
sát trong q trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Dựa trên kim chỉ
nam này, Viện kiểm sát có thể phát hiện những hành vi vi phạm tố tụng, trái với
các nguyên tắc cơ bản do luật định, từ đó thực hiện quyền kiến nghị bản án,
quyết định của Toà án, giúp bảo vệ quyền và lợi của chủ thể tham gia, bảo vệ lợi
ích cơng cộng và lợi ích nhà nước. Ngồi ra, các nguyên tắc này cũng giúp cho
việc phân biệt, so sánh thủ tục tố tụng dân sự giữa các hệ thống pháp luật khác
nhau dễ dàng hơn nhằm phục vụ cho mục đích nghiên cứu hồn thiện luật.
3. Phân loại các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng dân sự.
Các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng dân sự được xây dựng trên cơ sở
các nguyên tắc chung của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Việc phân loại các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự có thể dựa
vào nhiều tiêu chí khác nhau, ví dụ:
Phân loại nguyên tắc dựa vào tính chất của các nguyên tắc phân chia làm
hai nhóm: Nhóm các nguyên tắc chung và nhóm các nguyên tắc đặc thù (riêng
biệt) của Luật tố tụng dân sự. Sự phân loại theo cách này sẽ thuận tiện hơn trong
áp dụng của thực hiện tố tụng. BLTTDS năm 2015 quy định hai mươi ba nguyên
tắc cơ bản, trong đó theo cách phân loại này sẽ có ba nguyên tắc đặc thù gồm:
Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của các đương sự (Điều 5);
Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự (Điều 6); và
Nguyên tắc hoà giải trong tố tụng dân sự (Điều 10). Tất cả những nguyên tắc
còn lại được sắp xếp vào nhóm nguyên tắc chung.
Phân loại nguyên tắc dựa vào phạm vi áp dụng trong thực tiễn gồm: Ccas
nguyên tắc áp dụng giải quyết vụ việc dân sự và các nguyên tắc chỉ áp dụng
riêng cho vụ án, không được áp dụng cho việc dân sự.
Tuy nhiên, dù phân loại theo cách nào đi chăng nữa thì tồn bộ các
nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự đều có mối liên hệ hữu cơ với nhau,
bổ sung cho nhau cùng tạo thành một hệ thống điều chỉnh hoạt động tố tụng.
Trong hệ thống đó, mỗi nguyên tắc có phạm vi, mức độ áp dụng khác nhau, có
vai trị độc lập tương đối, song ý nghĩa và mục đích đầy đủ của một ngun tắc
chỉ có thể thực hiện được khi đặt trong mối liên hệ hữu cơ với các nguyên tắc
khác và thông qua sự tác động của cả hệ thống nguyên tắc trong hoạt động tố
tụng1.
II.
Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng
dân sự.
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 dành cả chương II gồm 23 điều trong
phần thứ nhất về “Những quy định chung” để quy định về các nguyên tắc cơ bản
của Luật TTDS và nguyên tắc cung cấp và chứng minh trong tố tụng dấn sự
được quy định tại Điều 6 và theo thứ tự số 4 trong các nguyên tắc được quy
định.
1. Quyền và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức cá nhân có liên
quan trong nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân
sự.
a.
Quyền và nghĩa vụ của đương sự
1PGS. TS. Nguyễn Thị Hồi Phương (2017), Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam, Trường Đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, tr. 23 – 24.
Các quyền và nghĩa vụ của đương sự được quy định tại đoạn 1 khoản 1
Điều 6 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Tuy nhiên, trước khi đi vào nội dung
chính của vấn đề thì chúng ta cần hiểu được chứng cứ và chứng minh là gì? Căn
cứ vào Điều 93 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì Theo Điều 93 Bộ luật tố
tụng dân sự thì “chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương
sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tịa án trong q
trình tố tụng hoặc do Tịa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này
quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách
quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có
căn cứ và hợp pháp”. Dựa vào khái niệm nêu trên ta có thể thấy được các đặc
điểm cở rbarn của chứng cứ như là: phải có những dấu hiệu nhất định, có tính
khoa học, bao hàm những yếu tố thể hiện tính riêng biệt; tính khách quan; tính
liên quan của chứng cứ hay tính hợp pháp của chứng cứ.
Chứng minh là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền làm sáng tỏ sự
thật khách quan của vụ việc dân sự thông qua các hoạt động thu thập, cung cấp,
kiểm tra và đánh giá. Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự là một dạng
của hoạt động nhận thức thế giới khách quan là quá trình nhận thức đi từ thấp
đến cao, thống nhất biện chứng của nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự bao gồm hoạt động tư duy và hoạt
động tố tụng của những người tiến hành tố tụng, đương sự và người tham gia tố
tụng khác, đại diện hợp pháp của họ. Hoạt động chứng minh bao gồm các hoạt
động thu thập, cung cấp, kiểm tra và đáng giá chứng cứ.
Trên cơ sở thừa nhận quyền tự định đoạt của đương sự, trong hoạt động tố
tụng giải quyết các vụ việc dân sự, các đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động
cung cấp chứng cứ. Các đương sự đưa ra yêu cầu hoặc bác bỏ yêu cầu của
đương sự khác đều có quyền và nghĩa vụ đưa ra chứng cứ và chứng minh cho
u cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Đương sự đưa ra yêu cầu hay phản đối u cầu của người khác đối với
mình có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu, phản
đối yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. Trước tiên, nguyên đơn là người khởi
kiện nên nguyên đơn có quyền và nghĩa vụ chứng minh cho việc thực hiện
quyền yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Ngược lại, bị đơn nếu khơng
chấp nhận tồn bộ hay một phần u cầu của nguyên đơn thì bị đơn phải đưa ra
các chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó.
Ngồi ra, khi bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố hoặc người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan đưa ra u cầu độc lập thì cũng có trách nhiệm chứng minh
cho yêu cầu của mình là đúng và đương sự phải trả lời đối với yêu cầu phản tố
của bị đơn hoặc yêu cầu độc lập của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có
trách nhiệm chứng minh cho sự phản đối đó. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của những người yếu thế hoặc các trường hợp do pháp luật quy định thì Bộ
luật TTDS 2015 quy định đương sự khi khởi kiện, họ không có nghĩa vụ phải
chứng minh trong các trường hợp quy định tại các khoản 1 Điều 90 Bộ luật
TTDS 2015. Đó là, (i) Người tiêu dùng khởi kiện khơng có nghĩa vụ chứng
minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bị kiện có nghĩa vụ chứng minh mình khơng có lỗi
gây ra thiệt hại theo quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;
(ii) Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà khơng cung cấp, giao
nộp được cho Tịa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu, chứng cứ đó đang do
người sử dụng lao động quản lý, lưu giữ thì người sử dụng lao động có trách
nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho Tòa án. Người lao động khởi
kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thuộc trường hợp người sử
dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động hoặc trường hợp không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động
theo quy định của pháp luật về lao động thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người
sử dụng lao động; (iii) Các trường hợp pháp luật có quy định khác về nghĩa vụ
chứng minh như khoản 4 Điều 203 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi, bổ
sung năm 2009 quy định bị đơn phải chứng minh sản phẩm của mình được sản
xuất theo một quy trình khác với quy trình được bảo hộ trong một số trường hợp
nhất định, khoản 3 Điều 295 Luật Thương mại năm 2005 quy định, bên vi phạm
có nghĩa vụ chứng minh với bên bị vi phạm về trường hợp miễn trách nhiệm của
mình, khoản 3 Điều 351 BLDS năm 2015 quy định, bên có nghĩa vụ dân sự
khơng phải chịu trách nhiệm dân sự nếu chứng minh được nghĩa vụ không thực
hiện được là hồn tồn do lỗi của bên có quyền, Điều 584 BLDS năm 2015 quy
định, người khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng khơng có nghĩa
vụ chứng minh lỗi của người gây thiệt hại.
Bộ luật TTDS 2015 nhấn mạnh quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập
chứng cứ của đương sự, bởi để giao nộp được chứng cứ cho Tịa án thì các
đương sự phải thu thập được chứng cứ. Do đó, để đương sự thực hiện được
quyền và nghĩa vụ thu thập chứng cứ thì khoản 1 Điều 97 Bộ luật TTDS 2015
quy định các biện pháp thu thập chứng cứ mà đương sự được thực hiện nhằm
đảm bảo các chứng cứ có được mang tính hợp pháp. Đó là, thu thập tài liệu đọc
được, nghe được, nhìn được; thơng điệp dữ liệu điện tử; thu thập vật chứng; xác
định người làm chứng và lấy xác nhận của người làm chứng; yêu cầu cơ quan, tổ
chức, cá nhân cho sao chép hoặc cung cấp những tài liệu có liên quan đến việc
giải quyết vụ việc mà cơ quan, tổ chức, cá nhân đó đang lưu giữ, quản lý; yêu
cầu Ủy ban nhân dân cấp xã chứng thực chữ ký của người làm chứng; yêu cầu
Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ nếu đương sự khơng thể thu thập tài liệu,
chứng cứ; u cầu Tịa án ra quyết định trưng cầu giám định, định giá tài sản;
yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện cơng việc khác theo quy định của
pháp luật. Ngồi ra, các đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho
Tòa án nhằm buộc đương sự phải giao nộp tất cả các chứng cứ mà họ có cho
Tịa án, tránh tình trạng họ giữ lại các chứng cứ để tại phiên tòa sơ
thẩm hoặc phúc thẩm họ mới giao nộp nhằm gây khó khăn cho Tịa án và các
đương sự khác.
Nếu như Bộ luật TTDS 2011 quy định quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng
cứ và chứng minh có thể được thực hiện ở bất kỳ thời điểm nào của quá trình tố
tụng thì Bộ luật TTDS năm 2015 đã bổ sung quy định thời hạn giao nộp chứng
cứ nhằm hạn chế sự thiếu trung thực của một bên đương sự khi cung cấp chứng
cứ, “đề cao trách nhiệm chứng minh của đương sự trong việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình, bảo đảm việc giải quyết vụ án nhanh chóng, đồng
thời bảo đảm Tòa án căn cứ vào sự thật khách quan để giải quyết vụ án” 2. Tuy
nhiên, nếu vì lý do chính đáng quy định tại khoản 4 Điều 96, Điều 287 và Điều
330 Bộ luật TTDS năm 2015 thì chứng cứ được cung cấp khi đã hết thời hạn
cung cấp chứng cứ hoặc đáp ứng các điều kiện do pháp luật quy định vẫn có thể
được chấp nhận nhằm đảm bảo vụ việc có đầy đủ chứng cứ để giải quyết
vụ việc cũng như bảo vệ quyền lợi của các đương sự.
Ngoài ra, cùng với việc giao nộp chứng cứ, tài liệu cho Tịa án thì họ phải
sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp
của đương sự khác; đối với tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 Bộ
luật TTDS hoặc tài liệu, chứng cứ khơng thể sao gửi được thì phải thơng
báo bằng văn bản cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương
sự khác (khoản 5 Điều 96). Quy định này nhằm đảm bảo các đương sự được biết
đầy đủ chứng cứ của nhau để chuẩn bị cho việc tranh tụng cơng khai, bình đẳng
và cơng bằng.
Ví dụ: Nguyễn Văn A khởi khiện Nguyễn Văn B để đòi lại 1tỷ đồng mà
mình đã cho B vay từ ngày 01/06/2015 đến ngày 01/12/2015. Khi đưa ra yêu
cầu này A có nghĩa vụ chứng minh là mình đã cho B vay 1 tỷ đồng là có căn cứ
và hợp pháp. Để chứng minh việc có quan hệ vay tài sản giữa A và B thì A đã A
đưa có hợp đồng vay tài sản có chữ kí của cả A và B.
b.
Quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức, cá nhân
Các cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng
minh cho tính hợp pháp của các u cầu đó. Nếu đương sự đưa ra yêu cầu mà
không không cung cấp được chứng cứ thì họ phải chịu hậu quả bất lợi. Cơ quan,
tổ chức, cá nhân khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác, bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích cơng cộng có quyền và nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của họ là có căn cứ và hợp pháp.
Mặc dù các cơ quan, tổ chức, cá nhân khơng có quyền và lợi ích hợp pháp bị
xâm phạm hoặc tranh chấp nhưng các cơ quan, tổ chức, cá nhân đó là chủ
2 Nguyễn Thị Thu Hà (2011), Phúc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, Luận án TS Luật học, Hà Nội, tr. 178.
thể đưa ra yêu cầu nên họ cũng phải chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và
hợp pháp. Tuy nhiên, đối với trường hợp khi mà cơ quan, tổ chức, cá nhân này
khơng có khả năng để thực hiện nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu của mình thì
họ cũng được loại trừ nghĩa vụ chứng minh. Đó là, tổ chức xã hội tham gia bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng khơng có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá
nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng3.
2. Hậu quả của việc đương sự không cung cấp, khơng giao nộp
chứng minh chứng cứ cho Tồ án
Về nguyên tắc, khi quy định về nghĩa vụ cung cấp, giao nộp chứng cứ của
đương sự thì đồng thời phải quy định về hậu quả pháp lý khi đương sự khơng
thực hiện nghĩa vụ đó nhằm đảm bảo cho nghĩa vụ của đương sự được thực hiện
trên thực tế. Do đó, Bộ luật TTDS 2015 quy định rõ hậu quả pháp lý khi đương
sự không cung cấp, giao nộp chứng cứ cho Tịa án. Đó là, đương sự có nghĩa vụ
đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không
đưa ra đủ chứng cứ thì Tịa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã
thu thập được có trong hồ sơ vụ việc4. Nếu đương sự không giao nộp hoặc giao
nộp khơng đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tịa án u cầu mà khơng có lý do chính
đáng thì Tịa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao nộp và Tòa
án đã thu thập theo quy định tại Điều 97 Bộ luật TTDS để giải quyết vụ việc dân
sự theo khoản 1 Điều 96.
3. Trách nhiệm của của Toà án trong nguyên tắc cung cấp chứng
cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự.
Toà án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc trong việc thu thấp
chứng cứ và chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ trong trường hợp họ
không thể tự mình thực hiện được và trong những trường hợp quy định tại Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2015, như lấy lời khai của đương sự, lấy lời khai của
người làm chứng, đối chất, xem xét, thẩm định tại chỗ…5
3 Xem khoản 3 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
4 Xem khoản 4 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
5 TS Nguyễn Thị Hồng Nhung (2017), Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam, Đại học Quốc gia thành phố Hồ
Chí Minh – Trường Đại học Kinh tế - Luật, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, tr. 15.
Đây là nội dung thể hiện sự thay đổi đáng kể trong hoạt động lập pháp
liên quan đến vai trò của Toà án trong tố tụng dân sự. Chứng cứ đương sự cung
cấp được coi là cơ sở đầu tiên và có ý nghĩa quyết định trong việc xem xét, giải
quyết các yêu cầu của họ trong vụ việc dân sự. Tồ án hồn tồn khơng có nghĩa
vụ chủ động tìm kiếm chứng cứ làm cơ sở cho việc giải quyết vu việc dân sự.
Thậm chí pháp luật cũng cho phép Tồ án có thể chỉ dựa vào chứng cứ các bên
đương sự cung cấp để giải quyết và đưa ra phán quyết. Khoản 2 Điều 6 Bộ luật
TTDS 2015 quy định rõ về trách nhiệm của Tòa án trong việc hỗ trợ đương sự
thu thập chứng cứ nhằm đảm bảo đương sự có đủ chứng cứ để họ bảo vệ quyền
và lợi ích hợp của mình cũng như khắc phục tình trạng các cá nhân, cơ quan tổ
chức gây khó khăn cho đương sự trong việc thu thập chứng cứ. Ngoài ra, để đảm
bảo đủ cơ sở để giải quyết vụ việc dân sự thì Tịa án đã được bổ sung các biện
pháp thu thập chứng cứ mà không cần phải có yêu cầu đương sự. Đó là, biện
pháp trưng cầu giám định khi xét thấy cần thiết theo khoản 2 Điều 102; yêu cầu
cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ cung cấp tài liệu, chứng cứ cho
Tòa án khi xét thấy cần thiết (khoản 3 Điều 106). Như vậy, khi khơng có u cầu
của đương sự, Tòa án được tiến hành một hoặc một số biện pháp thu thập chứng
cứ sau: Lấy lời khai của đương sự (khoản 1 Điều 98), lấy lời khai người làm
chứng (khoản 1 Điều 99); Đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa đương sự
với người làm chứng (khoản 1 Điều 100); Xem xét, thẩm định tại chỗ (khoản 1
Điều 101); Trưng cầu giám định (khoản 2 Điều 102); Định giá tài sản (điểm b, c
khoản 3 Điều 104); Ủy thác thu thập, xác minh tài liệu, chứng cứ (Điều 105);
Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ (khoản 3 Điều
106).
4. So sánh và đối chiếu giữa quy định nguyên tắc cung cấp chứng
cứ, chứng minh trong tố tụng dân sự ở Bộ Luật TTDS năm 2004 sửa đổi và
bổ sung năm 2011 và Bộ luật TTDS năm 2015.
Điều 6 của Bộ luật TTDS 2015 so với Điều 6 của Bộ luật TTDS 2004 đã
có một số chỉnh sửa, bổ sung và ít nhiều cũng tạo nên sự khác biệt. Ở cả hai Bộ
luật thì tên gọi của Điều luật là giống nhau. Tuy nhiên, Điều 6 của Bộ luật TTDS
2015 có một số thuật ngữ, từ hoặc cụm từ được chỉnh sửa, thay đổi phù hợp hơn
so với Bộ luật TTDS 2004, sửa đổi và bổ sung năm 2011.
Khoản 1 Điều 6 Bộ luật TTDS 2004 ghi là “Các đương sự có quyền và
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Toà án và chứng minh cho yêu cầu của mình
làm là có căn cứ và hợp pháp”. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 6 Bộ luật TTDS 2015
đã được sửa đổi: “Các đương sự” được thay bằng “đương sự”, “Nghĩa vụ cung
cấp chứng cứ” được thay bằng “nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng
cứ”. Sự sửa đổi của Bộ luật TTDS 2015 là chính xác, đầy đủ và có ý nghĩa pháp
lý hơn nhiều so với quy định của Bộ luật TTDS 2004, sửa đổi và bổ sung năm
2011.
Tại khoản 2 Điều này của Bộ luật TTDS 2015 cũng có bổ sung quan
trọng. theo đó quy địn, Tồ án “có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu
thập chứng cứ trong việc thu thập chứng cứ và chỉ tiến hành thu thập, xác minh
chứng cứ trong những trường hợp do Bộ luật này quy định”. Như vậy, Bộ luật
TTDS năm 2015 đã chỉ rõ trách nhiệm của Toà án trong việc hỗ trợ đương sự
thu thập chứng cứ. Thực tế cho thấy trong thời gian qua theo Điều 6 Bộ luật
TTDS năm 2004 thì Tồ án khơng hỗ trợ đương sự, mà việc thu thập chứng cứ
là quyền và nghĩa vụ của đương sự, làm cho trong trường hợp, thiếu sự hỗ trợ
của Toà án, đương sự khơng thể tự mình thu thập được chứng cứ một cách đầy
đủ và kịp thời6.
III.
Thực tiễn áp dụng nguyên tắc cung cấp chứng cứ chứng minh
trong tố tụng dân sự.
Bộ luật TTDS năm 2015 bổ sung các quy định về thời hạn cung cấp
chứng cứ nhằm nâng cao trách nhiệm chứng minh của đương sự. Theo đó, các
đương sự phải cung cấp chứng cứ trong thời hạn do thẩm phán được phân công
giải quyết vụ việc dân sự ấn định, nhưng không được vượt quá thời hạn chuẩn
bị xét xử sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị giải quyết việc dân sự, trừ trường hợp quy
định tại khoản 4 Điều 96, Điều 287 và Điều 330 Bộ luật TTDS năm 2015.
6 Bình luận khoa học Bộ luật tố tung Dân sự năm 2015, Nxb Tư pháp.
Tuy nhiên, chứng cứ không được chấp nhận do đương sự cung cấp đã quá
thời hạn cung cấp mà thẩm phán ấn định có thể lại được thẩm phán thu thập theo
khoản 2 Điều 97 Bộ luật TTDS 2015 không? Vấn đề này cũng có những ý kiến
khác nhau. Có ý kiến cho rằng, do đã hết thời hạn cung cấp chứng cứ mà khơng
có lý do chính đáng nên chứng cứ này sẽ không được thẩm phán thu thập kể cả
trong trường hợp chứng cứ đó có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ việc. Ý kiến
khác lại cho rằng, với các biện pháp thu thập chứng của Tòa án được quy định
tại khoản 2 Điều 97 Bộ luật TTDS 2015 thì thẩm phán hồn tồn có quyền thu
thập chứng cứ này nhằm đảm bảo Tịa án có đầy đủ chứng cứ để giải quyết vụ
việc dân sự chính xác.
Về nguyên tắc, tất cả các chứng cứ mà đương sự cung cấp khi đã quá thời
hạn cung cấp do thẩm phán ấn định mà khơng có lý do chính đáng đều không
được chấp nhận nhằm nâng cao trách nhiệm chứng minh của đương sự, tránh
tình trạng các đương sự thiếu trung thực trong việc cung cấp chứng cứ. Tuy
nhiên, với trách nhiệm hỗ trợ thu thập chứng cứ của Tịa án quy định trong Bộ
luật TTDS 2015 thì Tịa án có thể thu thập các chứng cứ này để làm căn cứ cho
việc giải quyết vụ việc dân sự. Điều này đã tự nhiên làm cho các quy định về
thời hạn cung cấp chứng cứ trở thành khơng có ý nghĩa cũng như dẫn đến tình
trạng Tịa án có thể thiếu công bằng, khách quan trong việc thu thập chứng cứ
khi cố ý thiên vị cho một bên đương sự. Do đó, Tịa án nhân dân tối cao cần có
hướng dẫn cụ thể về vấn đề này theo hướng: Tịa án khơng được thu thập các
chứng cứ mà đương sự đã cung cấp quá thời hạn cung cấp chứng cứ nhằm nâng
cao trách nhiệm chứng minh của đương sự cũng như đảm bảo sự công bằng,
khách quan trong việc thu thập chứng cứ của Tòa án.
Quy định tại khoản 5 Điều 96 Bộ luật TTDS 2015 về nghĩa vụ chuyển
giao tài liệu, chứng cứ giữa các đương sự luôn là hình thức khi mà Bộ luật
TTDS 2015 khơng quy định về thời hạn các đương sự có nghĩa vụ chuyển giao
tài liệu, chứng cứ cho nhauvà hậu quả pháp lý khi các bên đương sự không thực
hiện nghĩa vụ chuyển giao. Thực tế hiện nay ở tại các Tòa án, do khơng có quy
định về hậu quả pháp lý nên gần như các đương sự không thực hiện nghĩa vụ
chuyển giao tài liệu, chứng cứ cho nhau. Tham khảo pháp luật TTDS nước ngoài
cho thấy, pháp luật TTDS của nhiều nước trên thế giới đều quy định thời hạn
thực hiện nghĩa vụ chuyển giao và hậu quả pháp lý khi các bên không thực hiện
nghĩa vụ. Chẳng hạn từ các Điều 132 đến Điều 137 Bộ luật TTDS Pháp quy
định các bên đương sự phải thực hiện ngay nghĩa vụ chuyển giao tài liệu, chứng
cứ. Các bên có thể yêu cầu thẩm phán buộc bên kia phải thực hiện nghĩa vụ
chuyển giao tài liệu, chứng cứ mà đương sự chưa thực hiện trong thời hạn nhất
định. Nếu không thực hiện thì có thể bị phạt tiền để cưỡng chế thực hiện, không
xem xét tài liệu, chứng cứ không được trao đổi trong thời hạn đã ấn định.
Do đó, để phát huy vai trò của đương sự trong hoạt động tố tụng, đảm bảo
quyền được biết thông tin của đương sự để có thể tổ chức việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình cũng như phù hợp pháp luật TTDS của các nước trên
thế giới, cần thiết bổ sung vào Bộ luật TTDS 2015 quy định về thời hạn thực
hiện nghĩa vụ trao đổi chứng cứ, tài liệu của các bên đương sự cho nhau trước
khi mở phiên toà và các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đó. Theo đó,
khoản 5 Điều 96 Bộ luật TTDS 2015 nên bổ sung theo hướng: “Khi đương sự
giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tịa án thì họ phải thực hiện ngay việc sao gửi
tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của
đương sự khác; đối với tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ
luật này hoặc tài liệu, chứng cứ không thể sao gửi được thì phải thơng
báo ngay bằng văn bản cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của
đương sự khác.
Trong trường hợp đương sự cố tình khơng cung cấp tài liệu, chứng cứ cho
bên kia thì theo yêu cầu của đương sự, Tòa án buộc bên đương sự đang lưu giữ
tài liệu, chứng cứ phải cung cấp tài liệu, chứng cứ đó trong thời hạn do thẩm
phán ấn định, nhưng không vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án dân sự, thời
hạn chuẩn bị giải quyết việc dân sự. Nếu hết thời hạn này, đương sự vẫn không
thực hiện nghĩa vụ chuyển giao tài liệu, chứng cứ thì bị phạt tiền và thẩm phán
sẽ không chấp nhận những tài liệu, chứng cứ không được các bên đương sự trao
đổi trong thời hạn đã được thẩm phán ấn định”.
Theo khoản 2 Điều 97 Bộ luật TTDS 2015, ngoài các biện pháp được quy
định trong Bộ luật TTDS 2011, Bộ luật TTDS 2015 còn bổ sung biện pháp thu
thập chứng cứ là xác minh sự có mặt hoặc vắng mặt của đương sự tại nơi cư trú.
Điều đáng tiếc là Bộ luật TTDS 2015 lại không quy định rõ biện pháp này Tịa
án tiến hành khi có u cầu của đương sự hay Tòa án được tự thực hiện khi xét
thấy cần thiết cũng như trình tự, thủ tục thực hiện biện pháp này. Thiết nghĩ, Tòa
án nhân dân tối cao cần có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này để các Tòa án thống
nhất trong việc thực hiện biện pháp thu thập chứng cứ này.
C. KẾT LUẬN
Trong tố tụng dân sự, quan hệ lợi ích cần được giải quyết trong các vụ
việc dân sự là quan hệ giữa các đương sự, do đó, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình trước Tịa án thì các đương sự có quyền và nghĩa vụ chứng minh
cho Tòa án và những người tham gia tố tụng khác thấy được sự đúng đắn trong
yêu cầu của mình, đồng thời chứng minh rằng bị đơn phải có nghĩa vụ đối với
yêu cầu của mình. Ngược lại, bị đơn cũng có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng
cứ và chứng minh sự phản đối yêu cầu của mình đối với đương sự phía bên kia
là có căn cứ và hợp pháp. Ngoài ra, với quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và
chứng minh của các đương sự thì Tịa án có đầy đủ chứng cứ để giải quyết vụ
việc dân sự khách quan, chính xác và đúng pháp luật. Vì vậy, cung cấp chứng cứ
và chứng minh được coi là một trong các nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân
sự được quy định tại Điều 6 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Thông qua bài
tiểu luận này thấy được vấn đề lý luận về nguyên tắc cung cấp chứng cứ và
chứng minh được thể hiện rõ nét và có vai trị quan trọng đồng thới thấy được
thực tiễn áp dụng nguyên tắc này từ đó thấy được mối liên hệ chặt chẽ giữa các
nguyên tắc của luật tố tụng dân sự Việt Nam với nhau. Tạo nên hệ thống pháp
luật tố tụng dân sự ngày càng đảm bảo và ổn định.
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi và bổ sung năm 2011; Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015.
2.
Bộ luật dân sự năm 2015.
3.
Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi và bổ sung năm 2009.
4.
5.
6.
Luật Thương mại năm 2005.
Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010.
PGS. TS. Nguyễn Thị Hoài Phương (2017), Giáo trình luật tố tụng
dân sự Việt Nam, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Hồng Đức
– Hội luật gia Việt Nam
7.
A.
MỞ ĐẦU......................................................................................................1
B.
NỘI DUNG...................................................................................................3
I.
Khái quát chung......................................................................................3
1.
Khái niệm các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự Việt Nam.3
2.
Ý nghĩa các nguyên tắc của luật tố tụng dân sự Việt Nam.................3
3.
Phân loại các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng dân sự.................4
II.
Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự.
5
1.
Quyền và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức cá nhân có liên quan
trong nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân
sự. 5
a. Quyền và nghĩa vụ của đương sự..........................................................5
b. Quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức, cá nhân................................9
2.
Hậu quả của việc đương sự không cung cấp, không giao nộp chứng
minh chứng cứ cho Toà án........................................................................10
3.
Trách nhiệm của của Toà án trong nguyên tắc cung cấp chứng cứ
và chứng minh trong tố tụng dân sự.........................................................10
4.
So sánh và đối chiếu giữa quy định nguyên tắc cung cấp chứng cứ,
chứng minh trong tố tụng dân sự ở Bộ Luật TTDS năm 2004 sửa đổi và
bổ sung năm 2011 và Bộ luật TTDS năm 2015.........................................11
III.
Thực tiễn áp dụng nguyên tắc cung cấp chứng cứ chứng minh
trong tố tụng dân sự......................................................................................12
C.
KẾT LUẬN................................................................................................15
D.
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................15