Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 123 trang )



1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




ĐINH QUỐC TRÍ






NGUYÊN TẮC NGHĨA VỤ CUNG CẤP CHỨNG CỨ
VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2012




2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



ĐINH QUỐC TRÍ





NGUYÊN TẮC NGHĨA VỤ CUNG CẤP CHỨNG CỨ
VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Công Bình




HÀ NỘI - 2012



3




MỤC LỤC



Trang

TRANG PHỤ BÌA


Lời cam đoan


MỤC LỤC



Danh mục các từ viết tắt


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC NGHĨA
VỤ CUNG CẤP CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ
6
1.1.
Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự
6
1.1.1.
Khái niệm nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng
minh trong tố tụng dân sự
6
1.1.2.
ý nghĩa nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng
minh trong tố tụng dân sự
11
1.2.
Cơ sở của nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng
minh trong tố tụng dân sự
14
1.2.1.
Cơ sở lý luận của nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và
chứng minh trong tố tụng dân sự

14
1.2.2.
Cơ sở thực tiễn của nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ
15


4
và chứng minh trong tố tụng dân sự
1.3.
Mối liên hệ nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng
minh với các nguyên tắc khác của Bộ luật Tố tụng dân sự
18
1.3.1.
Mối liên hệ với nguyên tắc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp trong tố tụng dân sự
18
1.3.2.
Mối liên hệ với nguyên tắc đương sự bình đẳng về quyền và
nghĩa vụ trong tố tụng dân sự
18
1.3.3.
Mối liên hệ với nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự
trong tố tụng dân sự
19
1.3.4.
Mối liên hệ với nguyên tắc tranh luận trong tố tụng dân sự
20
1.4.
Sơ lược quá trình phát triển của pháp luật Việt Nam về
nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong

tố tụng dân sự từ năm 1945 đến nay
20
1.4.1.
Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989
20
1.4.2.
Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2004
23
1.4.3.
Giai đoạn từ năm 2004 đến nay
26
1.5.
Một số khác biệt giữa quy định của pháp luật Việt Nam với
quy định của pháp luật một số nước về nguyên tắc nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự
29

Chương 2: nội dung NGUYÊN tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng
minh THEO QUY Định Của Pháp Luật Việt nam hiện hành
37
2.1.
Quyền, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của
đương sự và của cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện, yêu cầu
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích
công cộng và lợi ích của nhà nước
38
2.1.1.
Quyền, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự
38
2.1.2.

Quyền, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của cá
nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và
51


5
lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích
của Nhà nước
2.2.
Xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án
55
2.2.1.
Các trường hợp Tòa án có quyền chủ động xác minh, thu thập
chứng cứ
56
2.2.2.
Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ theo yêu cầu của đương sự
65

Chương 3: Thực tiễn thực hiện NGUYÊN tắc nghĩa vụ cung cấp chứng
cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự và kiến nghị
72
3.1.
Thực tiễn thực hiện nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ
và chứng minh trong tố tụng dân sự
72
3.1.1.
Những kết quả trong việc thực hiện nguyên tắc nghĩa vụ cung
cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự
72

3.1.2.
Những hạn chế trong việc thực hiện nguyên tắc nghĩa vụ cung
cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự và nguyên
nhân của những hạn chế
73
3.2.
Các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của nguyên
tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng
dân sự
91
3.2.1.
Các kiến nghị hoàn thiện các qui định của pháp luật về
nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong
tố tụng dân sự
91
3.2.2.
Các kiến nghị thực hiện các qui định của pháp luật về nguyên
tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng
dân sự
104

Kết Luận
107

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
109



6




DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


BLTTDS
: Bộ luật Tố tụng dân sự
TAND
: Tòa án nhân dân
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao
TTDS
: Tố tụng dân sự
UBND
: ủy ban nhân dân



7
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn hai mươi năm đổi mới, nền kinh tế nước ta ngày càng hội
nhập sâu vào nền kinh tế quốc tế, chất lượng cuộc sống của người dân ngày
càng được nâng cao. Cùng với sự phát triển đó, các quan hệ kinh tế - xã hội
ngày càng trở nên đa dạng, phong phú nhưng cũng hết sức phức tạp. Điều đó,
một mặt là yếu tố tích cực thúc đẩy giao lưu dân sự nhưng mặt khác cũng dẫn
đến nhiều tranh chấp dân sự nảy sinh. Theo thống kê của ngành Tòa án nhân
dân (TAND) trong những năm gần đây, số lượng các vụ tranh chấp dân sự ngày

càng có chiều hướng gia tăng về số lượng và phức tạp về nội dung tranh chấp.
Khi tranh chấp xảy ra thì việc giải quyết tranh chấp dân sự có ý nghĩa
hết sức to lớn, không chỉ nhằm khôi phục lại các quyền và lợi ích hợp pháp
của các bên trong quan hệ dân sự mà còn nhằm góp phần bình ổn các quan hệ
trong xã hội. Yêu cầu đặt ra đối với việc giải quyết tranh chấp là vừa bảo vệ
được quyền và lợi ích chính đáng của công dân, vừa đảm bảo tính đúng đắn
nghiêm minh của pháp luật. Để thực hiện yêu cầu đó cần có nhiều yếu tố khác
nhau, song một trong những vấn đề quan trọng là đòi hỏi các chủ thể tiến
hành tố tụng và chủ thể tham gia tố tụng phải tuân thủ đúng các nguyên tắc
của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) trong đó có nguyên tắc nghĩa vụ cung
cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự (TTDS).
BLTTDS và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS được
Quốc hội khóa XII thông qua ngày 29 tháng 3 năm 2011 là một công cụ để
đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi có tranh chấp xảy ra.
BLTTDS và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS đã quy định khá
đầy đủ các vấn đề về TTDS như các nguyên tắc của luật TTDS, chứng cứ và
chứng minh, thẩm quyền xét xử theo cấp và theo lãnh thổ giữa các Tòa án,
thủ tục giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm v.v Tuy nhiên,


8
sau một thời gian thực hiện các điều luật này cho thấy còn nhiều vướng mắc,
bất cập. Một trong những vấn đề còn nhiều tồn tại, bất cập đó là các quy định
về nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS và việc
thực hiện nguyên tắc này trên thực tế Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu làm rõ
các quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện nguyên tắc nghĩa vụ cung
cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS để từ đó đề xuất phương hướng
hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của
nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS.
Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài "Nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng

cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự" làm luận văn thạc sĩ của mình với
mong muốn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh, trên cơ sở đó góp phần hoàn
thiện hệ thống pháp luật TTDS Việt Nam nói chung và pháp luật về nguyên
tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh là một trong
những nguyên tắc cơ bản của luật TTDS. Chính vì vậy, trong thời gian qua đã
có một số công trình nghiên cứu khoa học pháp lý đề cập đến nguyên tắc
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS. Trước khi BLTTDS
được ban hành, có bài "Đánh giá chứng cứ trong một vụ kiện đòi nợ" của Tạ
Ngọc Hải, Tạp chí TAND, số 1 năm 1990; bài "Nghĩa vụ cung cấp chứng cứ
và nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự" của Phan Hữu Thư, Tạp chí
Dân chủ và pháp luật, số 9/1998; luận văn thạc sĩ "Chứng cứ và hoạt động
chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam" của Vũ Trọng Hiếu, năm 1998;
bài "Đánh giá toàn bộ chứng cứ mới tìm ra bản chất sự việc" của Duy Kiên,
Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 1/2000; bài "Xác định địa vị tố tụng của
đương sự và đánh giá chứng cứ trong vụ án dân sự" của Nguyễn Thế Giai,
Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 9/2000; luận văn thạc sĩ "Về việc cung cấp


9
và thu thập chứng cứ trong giai đoạn giải quyết vụ kiện dân sự theo thủ tục sơ
thẩm" của Nguyễn Minh Hằng, năm 2003; bài "Chứng cứ và chứng minh
trong tố tụng dân sự" của Hoàng Ngọc Thỉnh, Tạp chí Luật học, số đặc san
góp ý dự thảo BLTTDS, tháng 4/2004 v.v Sau khi BLTTDS được ban hành
có bài "Một vài suy nghĩ về vấn đề chứng cứ và chứng minh được quy định
trong Bộ luật tố tụng dân sự" của Tưởng Duy Lượng, đăng trên Tạp chí
TAND, tháng 10 năm 2004; bài "Những nguyên tắc tố tụng dân sự đặc trưng
trong Bộ luật Tố tụng dân sự", của Nguyễn Ngọc Khánh, đăng trên Tạp chí

Kiểm sát, số tháng 2 năm 2005; luận văn "Chứng cứ và chứng minh trong tố
tụng dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam" của Lê Thị Giang Yên,
năm 2005; luận án "Chế định chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam",
của Nguyễn Minh Hằng, năm 2007; Sách chuyên khảo "Hoạt động chứng
minh trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam" của Tiến sĩ Nguyễn Minh
Hằng do Nhà xuất bản Chính trị - Hành chính, năm 2009; bài "Thu thập
chứng cứ và chứng minh theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Bộ luật Tố tụng dân sự", của Tưởng Duy Lượng, đăng trên Tạp chí Kiểm
sát, số 12/2011 v.v Ở mức độ khác nhau, các công trình nghiên cứu này đều
đề cập đến chứng cứ và chứng minh trong TTDS nhưng không có công trình
nào đề cập đầy đủ, toàn diện về nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và
chứng minh trong TTDS. Tuy nhiên, đây vẫn là những tài liệu quý giá để tác
giả tham khảo trong quá trình nghiên cứu, hoàn thành luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài "Nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự" là làm sáng tỏ những vấn đề
lý luận và thực tiễn áp dụng nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng
minh trong TTDS, đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành về vấn đề này, từ
đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật


10
TTDS về nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong
TTDS.
Với mục đích đó, nhiệm vụ chủ yếu của luận văn là:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ và chứng minh trong TTDS: Khái niệm, ý nghĩa và cơ sở của
nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS, mối liên
hệ giữa nguyên tắc này với nguyên tắc khác của BLTTDS; nội dung nguyên
tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS theo pháp luật

của một số nước và sự phát triển của nguyên tắc này trong pháp luật TTDS
Việt Nam
- Phân tích đánh giá các quy định của pháp luật TTDS hiện hành về
nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS và khảo
sát thực tiễn thực hiện áp dụng các quy định đó tại các Tòa án Việt Nam.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về nguyên tắc
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS cũng như nâng cao
hiệu quả điều chỉnh của nguyên tắc này trong thực tế.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu còn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khoa học chuyên ngành như: Phương pháp lịch sử, phân tích, so sánh,
chứng minh, tổng hợp và phương pháp xã hội học.
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS là
một đề tài có nhiều nội dung khác nhau. Tuy nhiên trong luận văn này, tác giả
chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản của nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp


11
chứng cứ và chứng minh trong TTDS như những vấn đề lý luận của nguyên tắc,
nội dung của nguyên tắc theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành và
thực tiễn thực hiện chúng tại các Tòa án Việt Nam trong những năm gần đây mà
chủ yếu là ở TAND thành phố Hà Nội.
6. Những điểm mới của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống, đầy đủ về những vấn
đề liên quan đến nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong
TTDS theo quy định của BLTTDS và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của

BLTTDS và có những điểm mới khoa học sau:
- Góp phần hoàn thiện khái niệm, xác định rõ ý nghĩa và cơ sở của
nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS, mối liên
hệ của nguyên tắc này với các nguyên tắc khác trong BLTTDS
- Bước đầu làm rõ nội dung nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ
và chứng minh trong pháp luật một số nước trên thế giới
- Đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam
hiện hành về nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong
TTDS và thực tiễn thực hiện chúng tại các Tòa án
- Đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật TTDS về nguyên
tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS và nâng cao hiệu
quả điều chỉnh của nguyên tắc trong bối cảnh thực hiện chiến lược cải cách tư
pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền của nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự.


12
Chương 2: Nội dung nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và
chứng minh theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng
cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự và kiến nghị.


13
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

VỀ NGUYÊN TẮC NGHĨA VỤ CUNG CẤP CHỨNG CỨ
VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC NGHĨA VỤ CUNG
CẤP CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng
minh trong tố tụng dân sự
Thuật ngữ nguyên tắc (principium) được sử dụng lần đầu dưới thời La
Mã cổ đại có ý nghĩa là cơ sở, cốt lõi nền tảng. Ngoài ra, theo Từ điển tiếng
Việt thì nguyên tắc được hiểu theo nghĩa chung nhất là: "Điều cơ bản định ra,
nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm" [40, tr 562]. Còn theo
Tudientiengviet.net thì nguyên tắc được hiểu là điều cơ bản đã được quy định
để dùng làm cơ sở cho các mối quan hệ xã hội hoặc là điều cơ bản rút ra từ
thực tế khách quan để chỉ đạo hành động.
Như vậy, theo nghĩa chung nhất, nguyên tắc được hiểu là điều cơ bản,
cốt lõi đã được định ra hoặc được quy định mang tính chỉ đạo bắt buộc phải
tuân theo trong những lĩnh vực hoạt động nhất định của con người. Do vậy,
bất kỳ hoạt động có mục đích nào muốn đạt được kết quả đòi hỏi những
người tham gia hoạt động phải xác định được các nguyên tắc hoạt động và
tuân thủ triệt để nó. Hoạt động TTDS là một dạng hoạt động thực tiễn, có tính
khoa học, do vậy cũng phải tuân theo những nguyên tắc nhất định.
Đối với một ngành luật thì nguyên tắc là những tư tưởng pháp lý chỉ
đạo, định hướng cho hoạt động xây dựng và thực hiện quy định của nó. Tuy
nhiên các tư tưởng pháp lý này chỉ có giá trị bắt buộc nếu được thể hiện dưới
hình thức quy phạm pháp luật. Do vậy, các nguyên tắc của một ngành luật


14
thường được thể hiện trong các văn bản pháp luật về ngành luật đó làm cơ sở
cho việc thực hiện và được quy định dưới dạng quy phạm chung. Luật TTDS

là một ngành luật của hệ thống pháp luật Việt Nam nên cũng mang những đặc
điểm chung đó. Nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh là
một trong những nguyên tắc cơ bản của luật TTDS. Vì vậy mà nó cũng được
hiểu là "những tư tưởng pháp lý chỉ đạo, định hướng cho việc xây dựng và
thực hiện pháp luật tố tụng dân sự và được ghi nhận trong các văn bản pháp
luật tố tụng dân sự " [35, tr. 36].
Trong một vụ án dân sự thường chứa đựng những mâu thuẫn nhất
định giữa các bên đương sự nên rất phức tạp. Để giải quyết được vụ việc dân
sự thì mọi vấn đề của vụ việc dân sự dù ai nêu ra cũng đều phải được làm rõ
trước khi Tòa án quyết định giải quyết vụ việc dân sự. Nhưng để giải quyết
được vụ việc dân sự đúng pháp luật, khách quan thì Tòa án và những chủ thể
tham gia tố tụng khác cần phải chứng minh được những tình tiết trong vụ án
là "có thật, là đúng bằng sự việc hoặc bằng lý lẽ" [11, tr. 192]. Do chứng minh
là hoạt động có tính chất chi phối kết quả giải quyết vụ việc dân sự của Tòa
án nên có nội hàm rất rộng. Bản chất của hoạt động chứng minh của các chủ
thể tố tụng không chỉ thể hiện ở chỗ xác định các tình tiết, sự kiện của vụ việc
dân sự mà còn thể hiện ở chỗ phải làm cho mọi người "thấy rõ là có thật, là
đúng". Do vậy, các phương thức được các chủ thể chứng minh sử dụng để
chứng minh trong TTDS cũng rất đa dạng. Nhưng để thực hiện được mục
đích, nhiệm vụ của chứng minh, các chủ thể chứng minh bao giờ cũng phải
chỉ ra được tất cả các căn cứ pháp luật và thực tiễn liên quan đến vụ việc dân
sự
Quá trình chứng minh được diễn ra xuyên suốt trong quá trình giải
quyết vụ việc dân sự. Hoạt động chứng minh trong quá trình Tòa án giải
quyết việc dân sự bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của các chủ thể tố


15
tụng. Trong đó, hoạt động nghiên cứu và đánh giá chứng cứ tại phiên tòa của
các chủ thể mang tính quyết định.

Do đó:
Trên thực tế, hoạt động chứng minh diễn ra dưới dạng cung
cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ là cơ bản và do các
đương sự thực hiện là chủ yếu. Vì vậy, chứng minh thường được
hiểu theo nghĩa là hoạt động cung cấp chứng cứ, thu thập, nghiên
cứu và đánh giá chứng cứ và chủ thể có nghĩa vụ chứng minh chỉ là
đương sự [35, tr. 135].
Nhưng hoạt động chứng minh không chỉ dừng lại ở đó mà nó còn là
việc chỉ ra cơ sở pháp lý đối với yêu cầu của đương sự. Như vậy, chứng minh
trong TTDS là hoạt động tố tụng của các chủ thể tố tụng theo quy định của
pháp luật trong việc làm rõ các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự.
Tuy nhiên, như chúng ta đã biết, trong các vụ việc dân sự được Tòa án
giải quyết có rất nhiều tình tiết, sự kiện mà quan hệ pháp luật giữa các bên
đương sự phụ thuộc vào nó. Những tình tiết, sự kiện này thường xảy ra trước
khi có đơn kiện đến Tòa án nhưng để giải quyết được vụ việc dân sự vẫn phải
làm rõ chúng. Trong mối liên quan chung và qua lại giữa các tình tiết, sự kiện,
không tình tiết sự kiện nào xảy ra trên thực tế lại không có mối liên hệ với các
tình tiết, sự kiện khác; không tình tiết, sự kiện nào xảy ra lại không để lại tin
tức, dấu vết. Tin tức, dấu vết của một tình tiết, sự kiện có thể được ghi lại
trong trí nhớ của những người trực tiếp chứng kiến tình tiết, sự kiện hoặc để
lại dấu vết trên các tài liệu, đồ vật. Do vậy, mặc dù chúng đã xảy ra trước khi
có đơn kiện đến Tòa án người ta vẫn có thể biết về chúng. Để xác định được
các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự Tòa án phải nghe lời trình bầy của
đương sự, người làm chứng là những người trực tiếp tham gia hoặc chứng
kiến và xem xét các tài liệu, đồ vật có chứa đựng các tin tức, dấu vết, sự kiện.


16
Trong TTDS, những tin tức, dấu vết về các tình tiết, sự kiện của vụ
việc dân sự được thể hiện dưới những hình thức nhất định do Tòa án sử dụng

làm cơ sở để giải quyết vụ việc dân sự được gọi là chứng cứ. Do vậy, nếu
hiểu theo nghĩa chung, chứng cứ là cái có thật mà căn cứ vào đó để Tòa án
giải quyết vụ việc dân sự. Tuy vậy, hoạt động tố tụng cung cấp, giao nộp, xem
xét, đánh giá và sử dụng chứng cứ thường bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố
khác nhau. Để đảm bảo việc giải quyết các vụ việc dân sự được đúng đắn thì
các hoạt động tố tụng này phải được pháp luật quy định đầy đủ và chặt chẽ.
Từ đó, chứng cứ được định nghĩa như sau:
Chứng cứ là cái có thật, theo một trình tự do luật định Tòa án dùng
làm căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự.
Chứng cứ có thể là những tin tức, dấu vết liên quan đến các tình tiết,
sự kiện của vụ việc dân sự, được Tòa án sử dụng làm căn cứ để giải quyết vụ
việc dân sự. Song để mọi người có thể nhận thức được thì chúng phải được
ghi lại, phản ánh lại dưới những hình thức cụ thể như bản hợp đồng, bản di
chúc, băng ghi âm, đĩa ghi hình Từ điều này, trên thực tế thường có cách
hiểu chứng cứ trong vụ việc dân sự là những phương tiện phản ánh lại chúng
như bản hợp đồng, bản di chúc đó, băng ghi âm, ghi hình đó Như vậy, ở đây
đã coi là chứng cứ cả những sự kiện dựa vào đó Tòa án xác định các tình tiết
của vụ việc dân sự và những phương tiện phục vụ cho việc xác định những
tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự. Nghĩa là chứng cứ bao gồm cả sự kiện có
thật và phương tiện chứng minh. Nhưng nếu suy cho cùng những phương tiện
đó chẳng qua là chỉ hình thức biểu hiện bên ngoài của chứng cứ. Để giải
quyết được vụ việc dân sự, Tòa án phải căn cứ vào những tin tức, dấu vết về
các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự được phản ánh trong các phương tiện
đó nên nó mới là chứng cứ.
Nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh được quy
định trong BLTTDS được kế thừa từ các quy định trong Pháp lệnh thủ tục


17
giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án kinh

tế năm 1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết tranh chấp lao động năm 1996. Tuy
nhiên, các pháp lệnh này đã đồng nhất nghĩa vụ chứng minh với nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ. Việc đồng nhất hai nghĩa vụ này với nhau là không có cơ
sở bởi việc cung cấp chứng cứ chỉ là một phần trong hoạt động chứng minh.
Quy định như vậy sẽ không nhận thức được đầy đủ về vai trò chứng minh của
đương sự cũng như không thể tạo ra những cơ chế hữu hiệu để đương sự có
thể hoàn thành được nghĩa vụ của mình, ảnh hưởng đến các quyền và lợi ích
hợp pháp của họ. Nguyên nhân là các pháp lệnh này còn quy định vai trò của
Tòa án trong việc điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ của vụ án. Chính vì
vậy mà trong một thời gian dài vai trò thu thập, cung cấp chứng cứ và chứng
minh của đương sự trong việc giải quyết vụ án không được đề cao.
Khắc phục những hạn chế trước đây, BLTTDS và Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của BLTTDS đã bỏ trách nhiệm điều tra, xác minh, thu thập
chứng cứ trong vụ việc dân sự của Tòa án mà quy định nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ và chứng minh của đương sự thành một nguyên tắc và cụ thể hóa tại
Điều 6 BLTTDS. Như vậy, với quy định của Điều 6 BLTTDS thì đương sự
đưa ra yêu cầu sẽ phải chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp
pháp. Yêu cầu ở đây được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả yêu cầu về sự
công nhận là đúng, là có lý và cả yêu cầu công nhận là không đúng, không có
lý hay nói cách khác yêu cầu ở đây chính là đề ra đối tượng chứng minh. Khi
nguyên đơn đưa ra yêu cầu bằng cách khởi kiện thì họ có nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, bị
đơn đưa ra yêu cầu bác bỏ ý kiến của nguyên đơn thì họ có cũng có nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ và chứng minh cho việc bác bỏ đó là có căn cứ, người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập cũng phải đưa ra chứng cứ
chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Tuy nhiên đối
với những vụ án mà cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của người


18

khác thì quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh thuộc về các cơ
quan tổ chức khởi kiện mà không thuộc về người được khởi kiện.
Đồng thời với nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh thì đương
sự sẽ phải chịu hậu quả pháp lý. Hậu quả pháp lý này là việc được Tòa án
công nhận quyền và lợi ích hợp pháp khi đương sự thực hiện một cách đầy đủ
và chính xác nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh. Ngược lại sẽ phải
chịu hậu quả bất lợi khi không đưa ra được chứng cứ chứng minh cho yêu cầu
của mình hoặc yêu cầu của người khác đối với mình.
Thấy được vai trò quan trọng, quyết định của chứng cứ trong việc
chứng minh cho yêu cầu của đương sự là có căn cứ và hợp pháp nên bên cạnh
quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh thuộc trách nhiệm của
đương sự đưa ra yêu cầu thì BLTTDS còn quy định các trường hợp Tòa án tự
xác minh, thu thập chứng cứ và trường hợp Tòa án xác minh, thu thập chứng
cứ theo yêu cầu của đương sự.
Ngoài ra, Tòa án, Viện kiểm sát có thể trực tiếp hoặc bằng văn bản
yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ cung cấp chứng cứ
cho mình và trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu thì cá nhân, cơ
quan, tổ chức đang lưu giữ chứng cứ có nghĩa vụ cung cấp cho Tòa án, Viện
kiểm sát chứng cứ mà mình đang lưu giữ. Nếu không cung cấp được đầy đủ,
kịp thời chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án, Viện kiểm sát mà không có lý do
chính đáng thì tùy theo mức độ vi phạm có thể xử lý theo pháp luật.
Như vậy, nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh
trong TTDS là nguyên tắc cơ bản của TTDS, theo đó đương sự, cơ quan, tổ
chức khởi kiện vì lợi ích của người khác phải có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ
chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và đúng pháp luật; Tòa án chỉ
tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp pháp luật quy
định.


19

1.1.2. Ý nghĩa nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng
minh trong tố tụng dân sự
Nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh là một trong
những nguyên tắc cơ bản, quan trọng của BLTTDS. Ngoài ý nghĩa chung là
cơ sở để xây dựng và thực hiện các quy phạm pháp luật TTDS thì nguyên tắc
này còn có các ý nghĩa riêng sau đây:
Thứ nhất, nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh
TTDS đã ghi nhận cả quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh
của đương sự khi Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, là công cụ quan trọng để
đương sự dựa vào đó để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như
chống lại những yêu cầu, đòi hỏi vô lý của người khác đối với mình. Ngoài ra,
nguyên tắc này còn quy định trách nhiệm về nghĩa vụ của các cá nhân, cơ
quan, tổ chức phải giao nộp chứng cứ mà mình đang nắm giữ cho đương sự,
Tòa án, Viện kiểm sát khi có yêu cầu và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật
nếu cung cấp không đúng, không đầy đủ, không kịp thời. Tại Điều 7
BLTTDS quy định "Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ quyền
hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự,
Tòa án, Viện kiểm sát các tài liệu, chứng cứ và phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật về việc cung cấp chứng cứ, tài liệu đó " [21]. Điều này có ý nghĩa
vô cùng to lớn, góp phần làm cho việc giải quyết vụ việc dân sự được nhanh
chóng, khách quan toàn diện, đảm bảo được quyền và lợi ích chính đáng của
các bên.
Thứ hai, bên cạnh việc bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của đương
sự, nguyên tắc này còn có ý nghĩa xác định trách nhiệm của Tòa án, trong
việc xác minh, thu thập chứng cứ. Điều 94 BLTTDS quy định "Trong trường
hợp đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà
vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể yêu cầu Tòa án tiến hành thu
thập chứng cứ để bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn " [21].



20
Theo quy định này, thì Tòa án có trách nhiệm thu thập chứng cứ khi đương sự
đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà việc thu thập chứng cứ không có kết
quả và họ có đơn yêu cầu Tòa án thu thập. Tuy nhiên để Tòa án thu thập
chứng cứ thì đương sự phải làm đơn trong đó nêu rõ thu thập chứng cứ gì, ai
đang nắm giữ. Ngoài ra, đương sự còn phải chứng minh mình đã áp dụng
những biện pháp gì để thu thập chứng cứ nhưng không đạt kết quả. Nguyên
tắc còn xác định, khi thu thập chứng cứ, Tòa án chỉ thu thập chứng cứ trong
phạm vi yêu cầu của đương sự, không vượt quá yêu cầu này. Ngoài việc
đương sự có yêu cầu thì khi thấy cần thiết, Tòa án, Viện kiểm sát có thể trực
tiếp hoặc bằng văn bản yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu
giữ cung cấp chứng cứ cho mình.
Thứ ba, nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong
TTDS là cơ sở để quy định chế tài đối với các cá nhân, cơ quan, tổ chức đang
quản lý, lưu giữ chứng cứ khi cung cấp không đầy đủ, kịp thời chứng cứ theo
yêu cầu của Tòa án, Viện kiểm sát. Chính quy định này đã góp phần làm cho
việc thu thập chứng cứ được tiến hành thuận lợi, góp phần giải quyết nhanh
chóng vụ việc dân sự. Tại khoản 2 Điều 94 BLTTDS quy định
Cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ
có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ theo yêu cầu của
Tòa án, Viện kiểm sát trong hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận
được yêu cầu; trường hợp không cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ
theo yêu cầu của Tòa án, Viện kiểm sát thì tùy theo mức độ vi phạm
có thể bị xử lý theo quy định của pháp luật [21].
Thứ tư, nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong
TTDS góp phần bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự được khách quan,
đúng đắn. Hoạt động xét xử có vai trò rất lớn trong việc ổn định trật tự pháp
luật, giữ vững kỷ cương phép nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân Tuy nhiên, hoạt động này chỉ phát huy được tác dụng khi ra bản



21
án công bằng, hợp tình hợp lý, muốn vậy phải có đầy đủ chứng cứ và chứng
minh làm rõ các tình tiết của vụ việc dân sự. Do vậy, việc nghiên cứu, tìm
hiểu nội dung nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong
TTDS không chỉ có ý nghĩa quan trọng, thiết thực đối với các cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng mà còn rất cần thiết đối với các đương
sự và Luật sư. Bởi đây chính là điều cốt lõi để đương sự bảo vệ được quyền
lợi của mình, phản bác yêu cầu vô lý, trái pháp luật của người khác. Đối với
Tòa án, việc tìm hiểu, nghiên cứu nguyên tắc này sẽ góp phần giảm thiểu
những sai sót trong quá trình thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ và như
vậy sẽ góp phần tuyên bản án thấu tình, đạt lý, đảm bảo ổn định các quan hệ
xã hội.
1.2. CƠ SỞ CỦA NGUYÊN TẮC NGHĨA VỤ CUNG CẤP CHỨNG CỨ VÀ
CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.2.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và
chứng minh trong tố tụng dân sự
Trong cuộc sống, con người có rất nhiều nhu cầu phục vụ cho bản
thân, để thỏa mãn các nhu cầu đó chỉ có thể thông qua các giao dịch dân sự.
Nói như C. Mác thì "Con người trước hết phải ăn uống ở và mặc rồi mới có
thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật" [8, tr. 475]. Tuy nhiên, khi thỏa mãn
các nhu cầu của mình thông qua các giao dịch dân sự thì không phải giao dịch
nào cũng diễn ra tốt đẹp, đạt kết quả như mong muốn mà sẽ có những giao
dịch xảy ra tranh chấp. Khi có tranh chấp xảy ra giữa các bên thì một hoặc cả
hai bên cùng yêu cầu Tòa án giải quyết. Đồng nghĩa với yêu cầu đó là việc
một bên cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm bởi hành
vi vi phạm pháp luật của bên kia. Cùng với việc khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm thì nguyên đơn phải xuất
trình chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và đúng pháp
luật. Ngược lại bên bị đơn cũng có quyền phản đối yêu cầu của nguyên đơn



22
và cũng có quyền xuất trình chứng cứ chứng minh rằng yêu cầu của nguyên
đơn là không có căn cứ pháp luật, thậm chí họ còn có quyền phản tố đối với
yêu cầu của nguyên đơn. Như vậy để bảo vệ quyền lợi của mình, các bên đã
chủ động, tích cực tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc dân sự bằng việc
chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Do đó, pháp luật
phải ghi nhận quyền cũng như nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh
của đương sự để làm cơ sở cho đương sự chủ động, tích cực trong việc phát
hiện, thu thập, cung cấp chứng cứ. Đây là tiền đề lý luận quan trọng trong
việc quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh thành một nguyên
tắc cơ bản, đặc trưng trong BLTTDS.
Mặt khác, việc giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn đặt ra yêu cầu phải
bảo đảm quyền bình đẳng trong tham gia tố tụng giữa các đương sự. Trước
hết, các đương sự phải được bình đẳng với nhau trong việc thu thập, xuất
trình chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình hoặc phản đối yêu cầu của
bên kia, thậm chí đương sự có quyền biết và được sao chụp chứng cứ, tài liệu
do bên kia cung cấp. Nhưng để đương sự có thể thực hiện được quyền này thì
pháp luật phải có quy định nhằm giúp đương sự thực hiện tốt các quyền này.
Đương sự sẽ xuất trình chứng cứ cho Tòa án những chứng cứ mà họ đang lưu
giữ, còn đối với chứng cứ do cá nhân, cơ quan, tổ chức nắm giữ thì họ có quyền
yêu cầu những người này cung cấp cho họ. Nếu đương sự đã áp dụng các biện
pháp cần thiết mà vẫn không thu thập được chứng cứ thì có quyền yêu cầu
Tòa án thu thập chứng cứ cho họ. Nhưng để đương sự thực hiện được các quyền
này thì pháp luật phải ghi nhận. Chính vì vậy mà pháp luật TTDS cần phải đặt ra
nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh.
Chứng cứ và chứng minh có vai trò quyết định trong việc xác định sự
thật khách quan của vụ án. Có thể nói, nếu không có chứng cứ thì không thể
có được bản án với phán quyết đúng đúng sự thật, đúng pháp luật và khách

quan. Với vai trò quan trọng của chứng cứ như vậy cho nên về thực chất mọi
hoạt động TTDS đều hướng đến việc cung cấp, thu thập, sử dụng, đánh giá


23
chứng cứ. Nhưng để các hoạt động này diễn ra đúng pháp luật, khách quan,
công bằng thì phải được quy định bằng một nguyên tắc riêng trong BLTTDS,
từ đó được cụ thể hóa ra thành các điều luật. Nhờ đó các chủ thể trong TTDS
biết quyền và nghĩa vụ của mình đến đâu trong việc cung cấp, thu thập, sử
dụng, đánh giá chứng cứ. Giúp việc giải quyết vụ việc dân sự được nhanh
chóng, công bằng, đúng pháp luật.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn của nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ
và chứng minh trong tố tụng dân sự
Trong điều kiện thực tiễn hiện nay, trình độ hiểu biết pháp luật của
người dân còn nhiều hạn chế; các cơ quan, tổ chức còn nhiều thủ tục hành
chính rườm rà; chưa có luật thông tin cho người dân nên việc người dân tự đi
thu thập chứng cứ là rất khó khăn. Mặt khác, việc thu thập chứng cứ ảnh
hưởng quyết định đến việc chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự nên bên cạnh việc quy định trách nhiệm cung cấp chứng cứ và
chứng minh thuộc về đương sự thì pháp luật cũng cần có quy định các cá
nhân, cơ quan, tổ chức nắm giữ chứng cứ phải cung cấp cho đương sự các
chứng cứ, tài liệu theo yêu cầu của họ. Nếu cung cấp không đầy đủ, kịp thời
thì tùy từng mức độ sẽ bị xử lý theo quy định tại Điều 94 BLTTDS. Như vậy,
với quy định này sẽ giúp người dân thuận lợi hơn trong quá trình đi thu thập
chứng cứ cũng như xác định rõ trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức
đang lưu giữ chứng cứ. Điều này là hoàn toàn phù hợp với thực tế hiện nay
của nước ta.
Nghĩa vụ chứng minh trong TTDS khác cơ bản với việc chứng minh
trong tố tụng hình sự ở chỗ: trong tố tụng hình sự khi có tội phạm xảy ra thì
việc chứng minh tội phạm là trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng.

Còn trong TTDS thì việc chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và
đúng pháp luật thuộc nghĩa vụ của bên đề ra yêu cầu. Việc quy định nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự xuất phát từ nguyên tắc


24
quyền tự định đoạt của đương sự đối với việc khởi kiện của mình. Cung cấp
chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của mình vừa là quyền vừa là nghĩa vụ
của đương sự. Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích của mình
thì phải chứng minh yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. Ngược lại, nếu
đương sự phản đối yêu cầu của người khác thì cũng phải xuất trình chứng cứ
chứng minh cho phản đối của mình là có căn cứ. Như vậy người đưa ra yêu
cầu thì phải có nghĩa vụ chứng minh trước, họ phải xuất trình các chứng cứ,
lý lẽ để chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và phải chỉ ra được quy
định của pháp luật chấp nhận yêu cầu của họ là hợp pháp. Khi bên đưa ra yêu
cầu đã chứng minh được tính có căn cứ và hợp pháp cho yêu cầu của mình thì
bên phản đối phải đưa ra chứng cứ để chứng minh phản đối của mình là có
căn cứ. Điều này có nghĩa rằng, theo quy định của BLTTDS thì nghĩa vụ
chứng minh không chỉ đặt ra với bên khởi kiện mà đặt ra với cả bên bị kiện và
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Quy định này
thể hiện sự bình đẳng, ngang bằng về nghĩa vụ chứng minh, không đương sự
nào được miễn trừ nghĩa vụ chứng minh. Và nó thể hiện rõ ràng nguyên tắc
của TTDS là tự quyết, bình đẳng, các đương sự có yêu cầu thì phải chứng
minh yêu cầu của mình là có căn cứ, không ai có thể làm thay họ.
Ngoài ra, trong vụ việc dân sự, đương sự là người hơn ai hết hiểu rõ
nội dung vụ việc như thế nào, cần có chứng cứ gì để chứng minh cho yêu cầu
của mình là có căn cứ và hợp pháp. Bởi họ chính là chủ thể tham gia trực tiếp
vào các giao dịch dân sự đang tranh chấp. Tòa án chỉ có thể nhận thức được
nội dung vụ án thông qua những chứng cứ, trình bầy của đương sự. Hơn nữa,
họ là người hiểu vụ án nên có thể tiếp cận một cách dễ dàng các chứng cứ

đang có trong tay hoặc phải lấy chứng cứ ở đâu khi có yêu cầu nên quy định
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh cho đương sự là hợp lý.
Trước khi có BLTTDS thì Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân
sự quy định việc điều tra, thu thập chứng cứ thuộc trách nhiệm của Tòa án,


25
điều này dẫn đến việc các đương sự không những không chủ động tích cực
cung cấp chứng cứ cho Tòa án để giải quyết vụ án được nhanh chóng, kịp thời
mà còn có biểu hiện chống đối, giấu giếm chứng cứ khi Tòa án yêu cầu cung
cấp. Hơn nữa việc quy định như vậy dẫn đến việc Tòa án phải làm thay việc
của đương sự nên dẫn đến sự quá tải trong công việc, làm cho thời gian giải
quyết vụ việc dân sự bị quá hạn, án tồn đọng nhiều. Ngoài ra, việc quy định
Tòa án có trách nhiệm điều tra xác minh vụ việc dân sự có thể dẫn đến việc
Tòa án lạm quyền, điều tra theo ý chủ quan của mình dễ dẫn đến tiêu cực.
Do đó, việc quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh là của
đương sự đã giải quyết được phần nào những bất cập này và phù hợp với thực
tiễn cuộc sống.
1.3. MỐI LIÊN HỆ NGUYÊN TẮC NGHĨA VỤ CUNG CẤP CHỨNG CỨ
VÀ CHỨNG MINH VỚI CÁC NGUYÊN TẮC KHÁC CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG
DÂN SỰ
1.3.1. Mối liên hệ với nguyên tắc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp trong tố tụng dân sự
Nhà nước đại diện cho lợi ích của các giai cấp trong xã hội nên các
quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể được Nhà nước bảo vệ. Việc bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể này ngoài việc được quy định
trong pháp luật thì Nhà nước còn thực hiện các biện pháp cần thiết khác để
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể được thực hiện trên thực
tế. Việc Tòa án xét xử buộc một người phải chấm dứt hành vi vi phạm và phải
bồi thường cho người bị xâm hại là một trong nhiều biện pháp mà Nhà nước

dùng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Quyền yêu cầu
Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp có nội dung chủ yếu là các chủ thể có
lợi ích bị xâm phạm có quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích hợp pháp cho
mình. Điều này có mối liên hệ mật thiết với nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp

×