Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

ứng dụng cntt trong quản lý - dạy học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.56 KB, 23 trang )

ỨNG DỤNG CNTT
TRONG QUẢN LÝ - DẠY HỌC

PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ
I . Lí do chọn đề tài :
1.Cơ sở lí luận :
Công nghệ thông tin (viết tắt là CNTT), là ngành ứng dụng công nghệ quản
lý và xử lý thông tin. CNTT là sử dụng máy tính và phần mềm máy tính để sử
dụng, chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền, và thu thập thông tin. Ở Việt
Nam, khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa trong nghị quyết Chính phủ
49/CP kí ngày 04/08/1993 : Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp
khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại - chủ yếu là kĩ thuật máy
tính và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài
nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của
con người và xã hội.
Trong hệ thống giáo dục phương Tây, CNTT đã được chính thức tích hợp
vào chương trình học phổ thông. Người ta đã nhanh chóng nhận ra rằng nội dung
về CNTT đã có ích cho tất cả các môn học khác.
Với sự ra đời của Internet mà các kết nối băng thông rộng tới tất cả các
trường học, việc áp dụng CNTT trong công tác quản lý và dạy học đã trở thành
hiện thực.
Thật khó có thể hình dung được thế giới của chúng ta sẽ như thế nào nếu
như không có các ứng dụng của CNTT bởi CNTT đã thâm nhập vào tất cả các
lĩnh vực, tất cả các đối tượng với những hiệu quả mà CNTT đã mang lại, đặc biệt
là trong giáo dục. Cụ thể là tất cả các đối tượng có thể giao tiếp trao đổi với nhau
ở bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu. Việc thường xuyên sử dụng Công nghệ thông tin
1
sẽ trang bị cho người sử dụng kỹ năng tiếp cận, xử lý thông tin, giải quyết vấn đề
một cách sáng tạo.
Việc truy cập Internet cũng tạo cho CBQL, GV niềm say mê, hứng thú trong
công việc, học tập và giảng dạy, thực hành khả năng làm việc và nghiên cứu độc


lập. Giáo viên có thể chủ động, liên kết nhiều nguồn kiến thức, kỹ năng trong
việc giảng dạy và giáo dục học sinh.
Ngoài ra, CNTT giúp chúng ta có thể thực hiện nhiều công việc cùng lúc, có
khả năng chuyển sự chú ý một cách nhanh chóng, thời gian đáp ứng nhanh, luôn
thực hiện kết nối, thúc đẩy quá trình làm việc nhóm, nghe nhìn và tư duy. Hơn
nữa, công nghệ liên kết các nguồn tri thức lại với nhau, kết nối công dân toàn
cầu. Điều này làm cho không gian địa lý bị xoá nhoà và công nghệ trở thành một
phần trong cuộc sống. Trích “Chỉ thị Số: 55/2008/CT- BGDĐT : Về tăng cường
giảng dạy, đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành giáo dục giai
đoạn 2008-2012”
Công nghệ thông tin là công cụ đắc lực hỗ trợ đổi mới phương pháp giảng
dạy, học tập và hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục, góp phần nhằm nâng cao hiệu
quả và chất lượng giáo dục. Phát triển nguồn nhân lực CNTT và ứng dụng nó
trong giáo dục là một nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định sự phát triển
của đất nước.
2. Cơ sở thực tiễn:
Năm học 2008- 2009 Bộ GD&ĐT đã phát động năm học ứng dụng công
nghệ thông tin. Qua gần hai năm thực hiện, do nhiều nguyên nhân cả khách quan
và chủ quan, không ít cán bộ quản lý và giáo viên còn cảm thấy bỡ ngỡ, lúng
túng khi đưa CNTT vào quản lý vào giảng dạy.
Rất may là Phòng GD&ĐT Tiên Du đã có tư duy đổi mới, đi trước một
bước về vấn đề này. Từ hơn 5 năm trước đây, Phòng GD&ĐT đã tham mưu với
UBND Huyện và các cấp chính quyền địa phương tiến hành đầu tư trước một
2
bước về cơ sở vật chất như phòng học, hệ thống máy tính, máy chiếu, kết nối
Internet cho tất cả các nhà trường. Đồng thời, chỉ đạo nâng cao chất lượng bộ
môn tin học thông qua việc tổ chức các chuyên đề huyện hàng tháng, chỉ đạo các
trường tổ chức các đợt tập huấn cho CBGV trong hè theo các chuyên đề đã xây
dựng.
Phong trào ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và quản lý giáo dục

ở Tiên Du nhận được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền, của ngành
giáo dục, sự ủng hộ của giáo viên, học sinh và nhân dân đã có sự phát triển mạnh
mẽ, rộng lớn và đạt được những kết quả ban đầu đáng khích lệ.
Từ chỗ chỉ một vài trường có máy tính đến nay, 100% các trường đã có
phòng máy tính để dạy tin học cho học sinh. Hơn 80% các trường có máy chiếu
projecter. Trong các kì thi GVDG cấp Huyện có hơn 50% các tiết dậy bằng giáo
án điện tử có chất lượng tốt. Đội ngũ giáo viên ngày càng tỏ ra thành thạo hơn
trong việc thiết kế, chỉnh sửa và trình chiếu. Chất lượng giáo án điện tử ngày
càng được nâng cao.
Mới qua mấy năm, đến nay, tất cả các trường đã có hòm thư liên kết với Bộ
giáo dục, Sở giáo dục theo địa chỉ: để
trao đổi thông tin. Các trường cũng đã có địa chỉ Gmail để chuyển nhận thông tin
báo cáo với Phòng giáo dục đảm bảo nhanh chóng, thuận tiện, kịp thời. Các thầy
cô giáo đều có email để trao đổi thông tin…Tất cả đem đến một sự thay đổi căn
bản, làm cơ sở cho việc ứng dụng CNTT vào công việc quản lý và dạy học.
Thời gian gần đây, phong trào thi đua soạn bài giảng điện tử để đổi mới
cách dạy và học đã được nhiều CBGV hưởng ứng tích cực. Đây được coi là một
trong những biện pháp góp phần chất lượng quản lý và dạy học trong các nhà
trường. Tuy nhiên, để CBGV làm chủ được CNTT trong quản lý và dạy học còn
cần có sự tổng kết, rút kinh nghiệm một cách nghiêm túc…Trong các năm học tới
phong trào ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học chắc chắn sẽ phát triển
3
mạnh mẽ hơn nữa và đó cũng là yêu cầu cấp thiết của đổi mới trong ngành giáo
dục, trong công tác quản lý và dạy học ở trường phổ thông.
Là một giáo viên được bổ nhiệm làm công tác quản lý, bản thân luôn say mê
CNTT, tôi muốn qua đề tài này nêu lên một vài kinh nghiệm và những suy nghĩ
của bản thân về vấn đề này. Mong được sự ủng hộ của các cấp quản lý và các
đồng nghiệp.
II. Mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu:
1. Mục đích nghiên cứu:

Đề tài này nhằm mục đích trao đổi cùng đồng nghiệp vai trò của ứng dụng
công nghệ thông tin trong dạy học và quản lý giáo dục, đưa ra một số kinh
nghiệm ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, đề xuất một số biện pháp
nâng cao hiệu quả của ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và đẩy mạnh
phong trào ứng dụng CNTT trong nhà trường.
2. Phạm vi nghiên cứu:
Công tác quản lý, dạy học trong nhà trường trung học cơ sở liên quan đến
việc ứng dụng CNTT.
PHẦN II. NỘI DUNG
I. ỨNG DỤNG CNTT TRONG NHÀ TRƯỜNG:
1 . Vị trí chức năng công nghệ thông tin (CNTT) trong dạy học.
Công nghệ thông tin, (tiếng Anh: Information Technology hay là IT) là
ngành ứng dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin. Ở Việt Nam, khái niệm
CNTT được hiểu và định nghĩa trong nghị quyết Chính phủ 49/CP kí ngày
04/08/1993 : Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các
phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại - chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn
thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên
4
thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người
và xã hội.
Công nghệ thông tin (viết tắt là CNTT) là công cụ đắc lực hỗ trợ đổi mới
phương pháp giảng dạy, học tập và hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục, góp phần
nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục. Phát triển nguồn nhân lực CNTT
và ứng dụng CNTT trong giáo dục là một nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết
định sự phát triển CNTT của đất nước ( Trích Chỉ thị Số: 55/2008/CT- BGDĐT)
2. Ứng dụng CNTT trong soạn giáo án.
a) Soạn giáo án bằng máy vi tính (đánh máy giáo án):
* Hiện nay các trường đều khuyến khích giáo viên soạn giáo án bằng máy vi
tính, đặc biệt trong các đợt hội giảng cấp trường, cấp Huyện, cấp tỉnh.
 Những ưu điểm:

+ Giáo án đánh máy có hình thức đẹp, trình bày khoa học, dễ sử dụng khi
giảng dạy.
+ Rút ngắn thời gian soạn giáo án do có sử dụng những ưu điểm của phần
mềm soạn giáo án ( Microsoft Word hay Open office), các phần mềm này sẽ tự
động hóa một số thủ tục của giáo án theo một mẫu nhất định do người soạn đạt
ra : ví dụ như tuần, ngày soạn, ngày dạy, kẻ khung, các mục của giáo án…,
+ Soạn giáo án bằng máy vi tính làm cho chúng ta có thể chỉnh sửa rất dễ
dàng. Ngoài ra, phầm mềm còn cho phép chúng ta sưu tầm, lựa chọn sao chép
những ý tưởng, nội dung hay trong các giáo án cũ của mình, của đồng nghiệp.
+ Có thể lưu trữ đến các năm học sau để bản thân, đồng nghiệp sử dụng tham
khảo.
+ Có thể sử dụng để đưa các nội dung cần thiết vào bài giảng điện tử một
cách nhanh chóng mà không cần gõ lại.
5
+Qua việc soạn giáo án, giáo viên được tìm hiểu, học hỏi thêm về công nghệ
thông tin từ đó nâng cao trình độ tin học của giáo viên góp phần nâng cao phong
trào ứng dụng CNTT trong dạy học.
+Giáo viên có thể dễ dàng đưa vào giáo án những sơ đồ, biểu đồ, tranh, ảnh
minh họa…. điều mà giáo án viết tay khó có thể làm được.
 Thực trạng:
Qua việc chỉ đạo công tác chuyên môn cùng với một số năm được đi thanh tra
chuyên môn các trường và chấm thi GVDG Huyện Tiên Du, bản thân thấy có
một số bất cập của giáo án in như sau:
- Nhiều giáo viên chưa có đủ điều kiện có được bộ máy tính, máy in để
soạn giáo án.
- Nhiều giáo viên còn lúng túng khi sử dụng máy vi tính và các phần mềm
văn phòng để soạn giáo án, chưa biết khai thác mạng internet để sưu tầm giáo án,
tư liệu phục vụ cho giáo án.
- Một số giáo viên lợi dụng mạng internet để khai thác một cách tiêu cực
giáo án của đồng nghiệp như: sao chép y nguyên, không có sự nghiên cứu, không

có chỉnh sửa cho phù hợp với điều kiện dạy học của mình.
- Giáo án sao chép từ nhiều nguồn nên bộ font chữ rất lộn xộn, không thực
hiện theo đúng thể thức trình bày văn bản thông thường. Giáo viên không đủ
trình độ tin học để sửa lỗi theo ý mình.
- Việc đóng bìa, kẹp, đánh số trang còn rất tùy tiện.
- Giáo án in không đủ cơ sở pháp lý: Không ghi họ tên, trường, lớp hoặc
ghi bằng bút mực(ghi sau)
- Thậm chí có giáo viên còn nhờ hoặc thuê người download giáo án cốt để
có giáo án đối phó với kiểm tra, hầu như không xem lại giáo án.
6
Những việc làm đó không những không mang lại hiệu quả cho việc dạy
học bằng giáo án đánh máy mà còn làm cho người dạy lười không nghiên cứu bài
dạy và kết quả là làm cho tiết dạy đạt hiệu quả thấp.
Do vậy, rất cần có sự chỉ đạo cụ thể của cán bộ quản lý và các cơ quan
chuyên môn để điều chỉnh.
b) Xây dựng bài giảng với sự hỗ trợ của máy tính.
Khái niệm giáo án điện tử và bài giảng điện tử là khái niệm mà nhiều nhà
giáo, nhà nghiên cứu vẫn còn tiếp tục tranh luận, tôi chỉ muốn nói nên những
hiểu biết của mình về việc ứng dụng CNTT trong xây dựng bài giảng.
Bài giảng có ứng dụng CNTT nói chung được xây dựng bằng máy tính với
các phần mềm hỗ chợ chuyên dụng như: phần mềm trình chiếu Microsoft
PowerPoint, phần mềm Movie Maker, Violet, Geo Sketchpad, Carbi, Crocodile
Clips, Crocodile Physics, Macromedia Flash,… và sự hỗ trợ của máy chiếu,
camera, máy ảnh cùng các thiết bị khác.
Những năm gần đây, việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là một
quá trình đổi mới từ mục tiêu, nội dung, phương pháp đến đổi mới về phương
tiện, các thiết bị dạy học ngày càng phong phú về số lượng nhưng vẫn chưa đáp
ứng được nhu cầu ngày càng cao. Việc xây dựng và ứng dụng các phần mềm vào
dạy học hiện nay đang được nhiều trường, nhiều giáo viên thực hiện để thiết kế
bài giảng nhằm đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động

học tập của học sinh. Đây là một trong những hướng đổi mới PPDH đạt hiệu quả.
Do đó, Công nghệ thông tin (CNTT) có vai trò rất quan trọng trong dạy học,
nó mang lại hiệu quả cao, tiết học sinh động, học sinh hứng thú học tập và tích
cực tham gia xây dựng bài. Tuy nhiên, khi ứng dụng CNTT vào thiết kế bài
giảng, giáo viên cần đảm bảo các nguyên tắc chung, các quy trình thiết kế bài
giảng có ứng dụng CNTT sao cho có hiệu quả.
7
Dạy học với CNTT đòi hỏi người giáo viên phải biết định hướng, điều khiển
quá trình học tập, giúp học sinh tự mình lĩnh hội tối đa kiến thức. Vì vậy giáo
viên cần phải tích cực bồi dưỡng kiến thức tin học, sẵn sàng đổi mới phương
pháp giảng dạy và ứng dụng CNTT vào dạy học phù hợp với đặc trưng bộ môn.
* Các nguyên tắc chung của một bài giảng có ứng dụng CNTT.
- Đảm bảo tính khoa học sư phạm và khoa học tin học.
- Đảm bảo tính hiệu quả, tính thực tế, tính giáo dục.
- Đảm bảo tính mở và tính phổ dụng.
- Đảm bảo tính cập nhật nội dung kiến thức bài giảng.
- Cần căn cứ vào mục tiêu, nội dung kiến thức cơ bản của bài học, xác định trọng
tâm bài và căn cứ trình độ nhận thức của học sinh cùng các điều kiện hiện có để
thiết kế bài giảng
- Đa dạng hóa kiến thức.
- Ứng dụng CNTT theo quan điểm dạy học tích cực, lấy học sinh làm trung tâm
* Những chú ý khi thiết kế bài giảng có ứng dụng CNTT .
Ba khâu quan trọng nhất: soạn giáo án, trình chiếu giáo án và hướng
dẫn học sinh ghi chép.
Mỗi lớp học thường có trung bình từ 35-45 học sinh. Trong khi đó các tiết
dạy GAĐT thường phải tắt bớt đèn, đóng bớt cửa sổ hay kéo rèm hạn chế ánh
sáng trời để ảnh trên màn rõ hơn. Như vậy, những học sinh ngồi ở các dãy cuối
lớp hay những học sinh mắt kém sẽ khó khăn khi quan sát hình ảnh, chữ viết hay
công thức trên màn chiếu. Do đó để học sinh có thể ghi chép được bài học chính
xác từ màn chiếu, giáo viên khi soạn giáo án trên Power Point cần chú ý một số

nguyên tắc về hình thức sau:
- Các trang trình chiếu phải đơn giản và rõ ràng.
8
- Không sao chép nguyên văn bài dạy, chỉ nên đưa những ý chính vào mỗi
trang slide.
 Về màu sắc của trang trình chiếu:
Màu sắc không được lòe loẹt, không nên dùng các hình đồ họa vui nhộn gây
mất tập trung cho học sinh. Cần tuân thủ nguyên tắc tương phản, chỉ nên sử dụng
chữ đậm màu (đen, xanh đậm, đỏ đậm…)trên nền trắng hay nền màu sáng.
Ngược lại, khi dùng màu nền sậm thì chỉ nên sử dụng chữ có màu sáng hay trắng.
 Về font chữ:
Dùng các phông chữ, khung, nền hợp lí. (vd: nền màu trắng, màu đỏ cho các
đề mục có vai trò ngang nhau “cỡ chữ, kiểu chữ giống nhau”, màu xanh mực cho
học sinh ghi vào vở…)
Chỉ nên dùng các font chữ đậm, rõ và gọn, không chân (Arial, Tahoma,
VNI-Helve…) hạn chế dùng các font chữ có đuôi (VNI-times…) vì dễ mất nét
khi trình chiếu.
 Về cỡ chữ:
Giáo viên thường muốn chứa thật nhiều thông tin trên một slide nên hay
có khuynh hướng dùng cỡ chữ nhỏ. Thực tế, trong kỹ thuật video, khi chiếu trên
màn hình TV (25 inches) cho vài người xem hay dùng máy chiếu Projector chiếu
lên màn cho khoảng 50 người xem thì cỡ chữ thích hợp nên từ khoảng 20 đến 30
trở lên mới đọc rõ được. Tuy nhiên, với đối tượng học sinh THCS, không nên
dùng cỡ chữ quá to, trông trang chiếu thô và không mỹ thuật.
 Về trình bày nội dung trên trang slide:
Giáo viên không nên trình bày nội dung tràn lấp đầy nền trang từ trên
xuống, từ trái qua phải, mà cần chừa ra khoảng trống đều hai bên và trên dưới
theo tỷ lệ thích hợp (thường là 1/5), để đảm bảo tính mỹ thuật, sự sắc nét và
9
không mất chi tiết khi chiếu lên màn. Khi khai thác đa phương tiện (hình ảnh, âm

thanh, hiệu ứng…) cần phải được lựa chọn cẩn thận, nếu không chúng sẽ gây
phân tán tư tưởng, tư duy lệch lạc trong học sinh. Những tranh, ảnh hay đoạn
phim minh họa dù hay nhưng mờ nhạt, không rõ ràng thì cũng không nên sử
dụng vì không có tác dụng cung cấp thông tin như ta mong muốn.
 Trình chiếu giáo án
Khi giáo viên trình chiếu Power Point, để học sinh có thể ghi chép kịp thì
nội dung trong mỗi slide không nên xuất hiện dày đặc cùng lúc. Ta nên phân
dòng hay phân đoạn thích hợp, cho xuất hiện theo hiệu ứng thời gian tương ứng.
Trường hợp có nội dung dài mà nhất thiết phải xuất hiện trọn vẹn cùng lúc, ta
trích xuất từng phần thích hợp để giảng, sau đó đưa về lại trang có nội dung tổng
thể, học sinh sẽ dễ hiểu và dễ chép hơn.
 Hướng dẫn học sinh ghi chép:
Cần thể hiện bố cục của bài giảng trong suốt quá trình giảng dạy. (vd: Tên
bài dạy, các đề mục) để học sinh dễ dàng củng cố.
Cần quy định màu chữ cho học sinh ghi vào vở. (vd: màu xanh mực…) và
cần quy định để học sinh có thể tự ghi khi nhìn màn hình.
Trong tiết học, học sinh phải có sẵn trước mặt sách giáo khoa quy định của
Bộ GD&ĐT và dùng vở để ghi chép. Khi trình chiếu Power Point và giảng bài,
giáo viên hướng dẫn học sinh cách ghi bài học vào vở như sau:
Những kiến thức căn bản, thuộc nội dung giáo khoa quy định sẽ nằm trong
các slide có ký hiệu riêng. Ví dụ ký hiệu (@, đặt ở góc trên bên trái, hoặc hình
ảnh ngón tay chỉ, hình ảnh chiếc bút viết). Học sinh phải chép đầy đủ nội dung
trong các slide này. Tập hợp nội dung các slide có ký hiệu riêng tạo nên kiến thức
yêu cầu tối thiểu của tiết học.
Những nội dung có tính thuyết minh, minh họa, mở rộng kiến thức sẽ
nằm trong các slide khác, không có ký hiệu riêng. Với những slide này, học sinh
10
tự chọn học nội dung để chép tùy theo sự hiểu bài của mình.
Với những kiến thức căn bản nhưng khá dài, nếu chép hết sẽ ảnh hưởng
đến tiến độ của tiết học, sau khi giảng xong giáo viên hướng dẫn học sinh đánh

dấu trong sách giáo khoa để về nhà chép (học sinh sẽ chừa khoảng trống thích
hợp).
Nguyên tắc giáo dục chủ động là lấy học sinh làm trung tâm. Giáo viên
trong quá trình giảng dạy là phải đảm bảo được việc học sinh nắm được kiến thức
trọng tâm, nhưng giáo viên không có quyền bắt học sịnh công nhận tất cả các đơn
vị kiến thức. Chính bản thân học sinh, trong khi tham gia tích cực vào tiết học,
sau khi tìm hiểu lại sách giáo khoa và tìm tòi ở các phương tiện multimedia, sẽ
chọn lọc đúc kết những kiến thức của tiết học và ghi chép, lưu trữ cho riêng
mình.
 Các tiêu chí đánh giá bài giảng:
- Kế hoạch bài giảng được thể hiện cụ thể, rõ ràng và logic, nêu bật mục
tiêu, nội dung, tiến trình bài giảng.
- Thể hiện được các yêu cầu của phương pháp dạy học tiên tiến, phát huy
tính tích cực của học sinh.
- Nội dung bài giảng bám sát kiến thức cơ bản của chương trình theo quy
định, có tính hệ thống và khoa học.
- Sử dụng và tích hợp các công cụ công nghệ thông tin sáng tạo, hợp lý,
nhằm phát huy tối đa chất lượng, tính hấp dẫn trong bài giảng; thu hút và tạo môi
trường tương tác tích cực giữa giáo viên và học sinh và giữa học sinh với nhau.
- Hình thức tổ chức, bố trí nội dung bài giảng khoa học, dễ hiểu, thân thiện.
- Hiệu quả, tác động và ảnh hưởng của bài giảng đối với môi trường giáo
dục.
3. Khai thác mạng Internet phục vụ dạy học:
11
Một trong các điều kiện quan trọng nhất để tăng cường hiệu quả giáo dục
và chất lượng giảng dạy là tìm kiếm nguồn tư liệu phong phú và phù hợp để bổ
sung những nội dung được quy định trong chương trình và sách giáo khoa.
Internet–nguồn tư liệu vô tận cho các bài giảng sẽ giúp giáo viên và học sinh đáp
ứng được yêu cầu đó .
a) Lợi ích từ internet đối với giáo viên:

- Giáo viên có thể tự học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình
độ tin học khi tham gia vào các diễn đàn, các câu lạc bộ, hay tìm hiểu các trang
Web từ mạng internet như:
giaovien.net, vnschool.net, violet.vn, dayhoc.vn, hocmai.vn,
dayhoctructuyen.org, edu.net.vn, diendan3t.net,
toanhoctuoitre.nxbgd.com.vn, toantuoitho.nxbgd.vn, …
- Giáo viên có thể tải các giáo án, bài giảng, tư liệu, đề thi và tài liệu phục vụ
cho công tác nghiên cứu và giảng dạy tại các trang web như: vioet.vn,
giaovien.net, edu.net.vn, vnschool.net, thuvienkhoahoc.com,
ebook.moet.gov.vn.
- Qua mạng internet giáo viên có thể tham gia vào các diễn đàn của học sinh,
các trường bạn, các blog … để tìm hiểu về tâm lý, sở thích của học sinh từ đó có
những phương pháp giáo dục học sinh đạt hiệu quả cao.
- Giáo viên có thể lập blog hay trang web hay các câu lạc bộ để trao đổi cùng
đồng nghiệp, phụ huynh và học sinh để nâng cao trình độ chuyên môn cũng như
nghiệp vụ sư phạm của mình.
b) Hạn chế:
- Nhiều giáo viên còn chưa thấy được các lợi ích từ việc khai thác internet,
có nhiều người nghĩ rằng internet chỉ là để đọc báo, để giải trí, cũng có người sợ
mình không biết cách khai thác mạng.
12
- Nhiều GV chưa có điều kiện để nối mạng internet, cũng có nhiều người
bận dạy thêm hay bận công việc gia đình không có thời gian nghiên cứu khai thác
mạng internet phục vụ công tác dạy học.
- Có những giáo viên còn non nớt về kiến thức, kĩ năng tin học, rất lúng
túng khi truy cập, khai thác mạng internet (tìm trang, download, lưu trữ, đưa vào
bài giảng…)
- Có những giáo viên ngại học, ngại tìm hiểu nghiên cứu để nâng cao trình
độ, bằng lòng với những kiến thức mình đã có.
4. Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học-vai trò của CBQL và

giáo viên:
Thời gian gần đây, phong trào thi đua soạn bài giảng điện tử để đổi mới
cách dạy và học đã được nhiều CBGV hưởng ứng tích cực. Đây được coi là con
đường ngắn để nâng cao chất lượng dạy học trong các nhà trường, tuy nhiên để
CBGV có thể làm chủ được CNTT còn nhiều vấn đề cần bàn…
Việc ứng dụng CNTT trong dạy học cho đến nay không còn mới mẻ,
nhưng cũng chưa hẳn đã được phổ biến rộng rãi, nhiều giáo viên còn e dè, ngại
ngần, sử dụng CNTT trong dạy học một cách máy móc, thụ động…Nguyên nhân
chủ yếu là do nhiều giáo viên đã ăn sâu cách dạy học truyền thống, ngại đổi mới,
bên cạnh đó trình độ tin học trong giáo viên chưa đồng đều, nhiều giáo viên chưa
được đào tạo cơ bản. Cùng với đó, trang thiết bị, máy móc để phục vụ việc dạy
học còn thiếu thốn…
Việc đầu tư hệ thống máy tính, máy chiếu đòi hỏi nguồn kinh phí không
nhỏ, máy chiếu projerter lại có khấu hao lớn, khi bị sự cố thì việc sửa chữa rất tốn
kém.
Việc lắp đặt máy chiếu cũng đòi hỏi phải có kỹ năng, nhiều giáo viên chưa
tự làm được, những khi có trục trặc không thể tự xử lý nếu không có trợ giúp.
13
Đứng trước những khó khăn này, nếu người thầy không thực sự say mê
nghề nghiệp, không có sự lao động sáng tạo thì sẽ khó mà đưa được CNTT vào
giảng dạy…. Đổi mới phương pháp dạy học, yếu tố quyết định là bản thân người
giáo viên có quyết tâm hay không. Nếu quyết tâm cao thì chắc chắn sẽ làm được.
* Vai trò của CBQL:
Là một cán bộ quản lý, một thanh tra viên, tôi hiểu rõ muốn đổi mới dạy
học và ứng dụng CNTT có hiệu quả trong nhà trường, trước hết chính người hiệu
trưởng cần phải hiểu rõ tầm quan trọng của đổi mới dạy học và vai trò của ứng
dụng CNTT vào dạy học, phải giúp giáo viên hiểu được thế nào là đổi mới dạy
học và muốn đổi mới dạy học giáo viên phải làm gì. Đồng thời hiệu trưởng cũng
phải tạo điều kiện cơ sở vật chất để việc thực hiện đổi mới dạy học của GV có thể
thực hiện…

Thấy được tầm quan trọng cũng như những khó khăn của giáo viên khi
ứng dụng CNTT vào giảng dạy, trong những năm qua, Ban giám hiệu Trường
THCS Lạc Vệ đã có kế hoạch tổ chức các hoạt động để hỗ trợ giáo viên trong
việc ứng dụng CNTT vào đổi mới phương pháp dạy học, từ việc nâng cao nhận
thức của CBGV đến tập huấn sử dụng phần mềm, hội giảng theo chuyên đề, đầu
tư trang thiết bị hiện đại…Chính vì vậy, đến thời điểm này, trên 50% CBGV của
trường đã có thể ứng dụng CNTT như một công cụ hữu hiệu trong quản lý và dạy
học.
Trường THCS Lạc Vệ hiện có 2 phòng máy tính cho học sinh. Nhà trường
luôn bố trí 2 máy tính trong văn phòng có nối mạng để giáo viên khai thác thông
tin, tư liệu và soạn bài. Tổ văn phòng có 3 máy tính, 2 cbql có máy tính riêng.
Trên 50% số máy tính được kết nối mạng internet. Trường dành riêng 1 phòng để
dạy học bằng máy chiếu giúp thuận lợi cho việc lắp đặt và giảng dạy.
Cơ sở dữ liệu ngày càng phong phú, tất cả các văn bản đều được đánh máy
và lưu trữ cẩn thận.
14
Trong các đợt thi GVDG các cấp, trường luôn cử một giáo viên tin học
trực tiếp đi cùng giáo viên dạy để trợ giúp kĩ thuật khi cần thiết, giúp giáo viên
yên tâm dự thi để có kết quả tốt.
Tuy nhiên, không phải trường nào cũng có quan điểm như vậy. Ở nhiều
trường, quan điểm của lãnh đạo nhà trường về vấn đề ứng dụng CNTT còn chưa
đồng bộ và chưa rõ ràng, còn có tâm lý hoài nghi về tính hiệu quả của việc làm
này. Trường không thực sự khuyến khích việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT, thiết
kế bài giảng điện tử trong công tác chuyên môn. Hơn nữa, để soạn ra một giáo án
điện tử, giáo viên phải mất rất nhiều công sức, thời gian cũng như kinh phí,
nhưng ở nhiều nơi, nhà trường không có hình thức động viên xứng đáng…
Khi bắt tay vào thiết kế bài giảng điện tử, nhiều giáo viên tỏ ra mệt mỏi vì
công sức phải bỏ ra để có một tiết dạy không phải tính bằng giờ mà bằng ngày.
Chính vì vậy, những khó khăn và tốn kém về thời gian, vật chất này cần được nhà
trường hiểu rõ để có sự động viên và đãi ngộ hợp lý, có sự hỗ trợ kinh phí …Hơn

nữa, Nhà trường cần tổ chức các phong trào thi đua giảng dạy bằng phương tiện
hiện đại, có tổng kết, biểu dương, khen thưởng nhằm tạo thêm khí thế sôi nổi và
để những giáo viên còn e ngại có những bước đi mạnh dạn hơn, đặc biệt là giáo
viên đã có tuổi và giáo viên mới vào nghề. Đẩy mạnh việc tổ chức các hội thảo,
trao đổi kinh nghiệm giữa các giáo viên, từ đó đề xuất với chuyên môn những
giải pháp góp phần nâng cao trình độ tin học cho giáo viên, có chế độ đãi ngộ cho
những giáo viên có bài giảng điện tử có giá trị, tích cực lao động sáng tạo trong
nghề, đồng thời đầu tư cơ sở vật chất phục vụ việc ứng dụng CNTT vào giảng
dạy…
II. KẾT QUẢ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Qua mấy năm áp dụng CNTT trong quản lý và dạy học, tôi thấy đã đạt được
một số kết quả bước đầu sau:
15
- Bản thân tôi luôn đi đầu và động viên phong trào áp dụng CNTT vào quản lý
và dạy học ở trường THCS Lạc Vệ, hiện đã có trên 50% giáo viên trong trường
đã là thành viên khá tích cực của các trang web ngành.
- Trường THCS Lạc Vệ đã lập Forum từ cuối năm 2009 là nơi thày và trò trao
đổi thông tin, thảo luận về các vấn đề liên quan đến công tác giáo dục. Địa chỉ:
/
- Bản thân đã áp dụng CNTT trong công tác quản lý của mình. Luôn cố gắng
tự học để có thể sử dụng CNTT để soạn thảo, lưu trữ, tra cứu tư liệu, nhận và
chuyển thông tin, báo cáo. Tôi còn tham gia tư vấn, giúp đỡ một số giáo viên
trong trường soạn giáo án điện tử, khai thác mạng internet phục vụ công tác dạy
học.
- Không ít giáo viên trường THCS Lạc Vệ đã sử dụng giáo án đánh máy, đa số
các tiết hội giảng, thi GVDG các cấp mà GV của trường tham gia đều sử dụng
CNTT và nhiều tiết đạt kết quả cao như môn Sinh, Vật Lý, Lịch Sử, Tiếng Anh,
GDCD, Địa…(Số tiết dạy bằng giáo án điện tử trong các đợt hội giảng đạt trên
70%; Số tiết thi GVDG các cấp đạt trên 90%).
- Trong 3 năm gần đây, năm nào trường THCS Lạc Vệ cũng có Giáo viên dự

thi và đạt danh hiệu GVDG cấp Tỉnh. Năm học 2009 – 2010 có 2 giáo viên đạt
trong đó có đ/c Nguyễn Phương Liên đạt Xuất sắc cấp Tỉnh.
- Việc ứng dụng CNTT đã đem lại những kết quả bước đầu, học sinh hứng
thú học tập và tìm hiểu nâng cao nhận thức, thầy cô ham học hỏi để cập nhật
thông tin, nâng cao nghiệp vụ
PHẦN III. NHỮNG VIỆC CẦN LÀM
I. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN.
16
1. Tham mưu, đề nghị các cấp quản lí giáo dục tạo điều kiện trang bị
những thiết bị cần thiết cho việc thực hiện GAĐT như máy tính, máy chiếu đa
năng, camera…
2. Tổ chức các chuyên đề, tập huấn học tập về cách sử dụng máy chiếu,
thiết lập các hiệu ứng trong PowerPoint, khai thác mạng internet cho giáo viên để
họ có thể tự thiết kế GAĐT cho mình, theo ý mình. Tránh việc phải nhờ soạn hộ
hoặc chỉ biết nhấn chuột cho chạy các trang slide, không thể tự xử lí khi có sự cố.
3. Tìm hiểu và nghiên cứu thêm những kỹ năng cơ bản và nâng cao trong
việc sử dụng GAĐT, khai thac mạng internet để làm phong phú thêm những dạng
bài tập khác nhau.
4. Tham gia các buổi hội giảng, chuyên đề, tập huấn để thu nhận những
góp ý chân thành từ đồng nghiệp, từ đó nâng cao chất lượng giảng dạy theo
phương pháp mới.
5. Thăm dò và đánh giá chất lượng học sinh sau giờ học để nắm bắt được
thực chất chất lượng của các em. Kịp thời điều chỉnh những bất cập trong quá
trình giảng dạy với máy chiếu.
6. Tránh các quan điểm tiêu cực như cự tuyệt giáo án điện tử, chỉ dạy theo
lối cổ điển “đọc chép” hoặc tuyệt đối hóa máy chiếu, học sinh thụ động tiếp thu
“nhìn chép”. Chỉ nên coi máy chiếu là một trong những công cụ, phương tiện dạy
học và cần được phối hợp với các công cụ phương tiện khác để làm cho giờ học
phong phú và đạt hiệu quả cao hơn.
Tôi nghĩ rằng, với khả năng sư phạm vốn có cộng thêm quá trình học tập,

bồi dưỡng về kiến thức tin học, các giáo viên hoàn toàn có thể thiết kế được bài
giảng điện tử để thể hiện tốt hơn phương pháp sư phạm, góp phần đổi mới
phương pháp giảng dạy.
II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
17
Biện pháp 1: Ngoài kiến thức chuyên môn cần phải trang bị những kiến
thức tin học cơ bản nhất:
Mặc dù GAĐT chưa được tất cả các trường học đón nhận rộng rãi, chưa
thực sự phổ biến trong tất cả đội ngũ tnhưng bước đầu nó đã tạo ra một không khí
học tập và làm việc khác hẳn cách học và cách giảng dạy truyền thống. Phải
chăng việc dạy bằng giáo án điện tử sẽ giúp người thầy đỡ vất vả bởi vì chỉ cần
“click” chuột? Thực ra, muốn click chuột để tiết dạy thực sự hiệu quả thì người
dạy cũng phải bỏ công tìm hiểu, làm quen với cách giảng bài mới này. Cụ thể,
người thầy cần phải:
- Có kiến thức cơ bản về sử dụng máy tính
- Biết sử dụng phần mềm trình diễn PowerPoint
- Biết cách truy cập và khai thác tài nguyên Internet.
- Có khả năng sử dụng một phần mềm chỉnh sửa ảnh, làm các ảnh động,
cắt các file âm thanh … đơn giản.
- Biết khai thác mạng internet để tìm giáo án, bài giảng, tư liệu.
- Biết cách sử dụng projecter.
Thoạt nghe thì có vẻ phức tạp nhưng thực sự để sử dụng GAĐT vào giảng
dạy có bắt buộc phải thực hiện hết những yêu cầu trên? Câu trả lời là không. Tuỳ
thuộc vào tính chất của mỗi môn học, mỗi bài học mà có các yêu cầu khác nhau
được đặt ra cho giáo viên. Tuy nhiên nếu đáp ứng được hết các yêu cầu trên thì
thật tuyệt vời, các hoạt động của giáo viên trong giờ dạy sẽ rất phong phú và hấp
dẫn, lại tiết kiệm được rất nhiều thời gian chuẩn bị bài.
Biện pháp 2: Khai thác và xử lý thông tin, tư liệu phục vụ cho bài giảng:
Từ những giáo án được soạn sẵn trên giấy và được trình bày lại trên bảng
đen làm thế nào để chúng trở thành các GAĐT được trình bày trên máy chiếu?

Điều này đòi hỏi người thầy phải biết sử dụng PowerPoint. Đây là một phần mềm
18
nằm trong bộ Office dùng để tạo các trình diễn đa dạng trên máy tính. Nếu chỉ
dừng ở mức độ gõ những nội dung cần thiết cộng thêm một ít định dạng về màu
sắc, font chữ, thiết nghĩ giáo viên nào cũng có thể làm được. Tuy nhiên nếu chỉ
có thế thì chúng ta chưa thực sự khai thác hết sức mạnh của PowerPoint cũng như
chưa phát huy hiệu quả của phương pháp giảng dạy mới này.
Những tư liệu minh họa cho các nội dung bài học tương đối nhiều trên
Internet. Thiết nghĩ, nếu chỉ cần bỏ chút thời gian mà có được những nội dung,
hình ảnh cần minh họa cho bài giảng thì đó là điều rất nên làm bởi lẽ nó vừa cung
cấp cho chúng ta tư liệu bài giảng lại vừa giúp ta nâng cao kỹ năng sử dụng máy
tính. Điều này cũng đồng nghĩa với việc giáo viên cần biết cách thức truy cập
Internet để lấy thông tin. Tuy nhiên, không phải hình ảnh nào chúng ta lấy từ
Internet đều thỏa mãn ý muốn. Điều quan trọng là biết cách chọn lọc tư liệu, tiết
kiệm được thời gian mà vẫn mang lại hiệu quả cao.
Các địa chỉ web mà giáo viên nên quan tâm:
, , , .
, ,
. ,
, .
, , www.dayhocintel.org.
Biện pháp 3: Đưa các tư liệu cần thiết vào bài dạy:
Khi đã sưu tập được những tư liệu cần thiết cần phải có sự chọn lọc cần
thiết để đưa vào bài giảng của mình. Không nên sử dụng quá nhiều hình ảnh tư
liệu mà chỉ sử dụng ở mức độ vừa phải để tránh làm phân tán sự tập trung của
học sinh.
Sau khi đưa hình ảnh minh họa vào bài giảng, thao tác cơ bản nhất đòi hỏi
người thầy phải nắm được là cách thiết lập các hiệu ứng để làm cho bài giảng
sinh động, mang lại không khí học tập, giảng dạy mới mẻ. Các hiệu ứng cần được
19

sử dụng một cách vừa phải để không làm ảnh hưởng đến sự tiếp thu kiến thức của
học sinh. Bên cạnh đó nếu giáo viên có thể sử dụng thành thạo PowerPoint thì
còn có thể thiết kế được nhiều kiểu bài tập khác nhau rất phong phú và hấp dẫn
như trò chơi ô chữ, lựa chọn đáp án…bằng việc sử dụng các hiệu ứng. Ngoài ra,
việc làm này còn giúp cho giáo viên tiết kiệm được thời gian viết nội dung lên
bảng, nội dung hiển thị đến đâu, giáo viên giảng đến đó, làm cho thời gian giảng
bài nhiều hơn, các em học sinh hiểu bài sâu hơn.
Biện pháp 4: Làm phong phú thêm hệ thống bài tập:
Khi đã biết cách sử dụng PowerPoint, Violet một cách thành thạo, giáo
viên có thể dễ dàng tạo ra được rất nhiều các dạng bài tập khác nhau nhờ việc sử
dụng các hiệu ứng ví dụ như dạng bài tập trắc nghiệm lựa chọn, trò chơi ô chữ…
Biện pháp 5: Linh hoạt khi hướng dẫn học sinh học tập
Bài giảng sau khi thiết kế sẽ được trình chiếu lên màn hình thông qua máy
chiếu. Nghĩa là giáo viên buộc phải biết cách sử dụng nó. Đây là một trong
những yêu cầu bắt buộc, chỉ cần một vài thao tác lắp máy chiếu với CPU của máy
tính hoặc kết nối với máy tính xách tay, lựa chọn chế độ 2 màn hình (double) và
điều chỉnh to nhỏ (zoom), độ nét (sharpness) trên màn hình giáo viên chắc hẳn sẽ
có một bài giảng chất lượng, học trò sẽ có không khí học thoải mái hơn. Thực tế
cho thấy nhờ GAĐT mà giáo viên đã tạo ra một không khí khác hẳn so với giờ
dạy truyền thống. Học sinh sẽ tập trung cao để nghe giảng và tư duy nhiều hơn
trong các giờ học.
Khi chuyển từ bài giảng truyền thống sang các slide trình diễn, giáo viên
thường mang tư tưởng của bài giảng cũ để áp đặt vào. Nghĩa là sẽ trình bày tất cả
những gì mình nói và viết vào slide. Điều này hoàn toàn sai lầm vì như thế học
sinh sẽ cho rằng giáo viên chỉ nói những điều trong sách, không mở rộng các kiến
thức ngoài, đồng thời nội dung trình chiếu sẽ rất dài, học sinh khó có thể ghi chép
đầy đủ vào vở để làm tài liệu học ở nhà.
20
Vì thế chỉ nên coi slide là nơi chỉ chứa tên bài học, các đề mục và các ý
chính phục vụ cho bài giảng. Nếu slide cần hình ảnh minh họa, giáo viên nên tìm

kiếm hình ảnh để chèn vào. Công đoạn đưa nội dung vào giáo viên cũng nên lưu
ý đến số lượng chữ, mầu sắc, kích thước trên các slide. Nhìn vào slide giáo viên
có nhiệm vụ giải thích kỹ càng và mở rộng nó ra chứ không phải là đọc các dòng
chữ trên slide. Nếu chưa quen với cách giảng dạy này, giáo viên có thể thấy khó
khăn trong việc xác định xem slide tiếp theo sẽ trình bày về vấn đề gì. Không
sao, để dễ dàng làm chủ quá trình điều khiển học sinh, giáo viên có thể in ra một
bản cầm tay (hand out) để vừa giảng vừa nhìn vào đó mà xác định vấn đề sẽ nói
tiếp theo.
Biện pháp 6: Sử dụng GAĐT không có nghĩa giáo án truyền thống bị
lãng quên.
Trong giáo án truyền thống chúng ta trình bày tất cả nội dung bài giảng.
Vậy thì đối với GAĐT chỉ gồm một số slide, các slide chỉ chứa từ khóa, hình
ảnh… thì làm thế nào mà GV có thể quan sát hết các vấn đề cần được giảng? Để
giải quyết việc này, tốt nhất giáo viên phải xây dựng cho mình một đề cương bài
giảng. Đề cương ghi rõ số tiết dạy của môn học, tên bài giảng tương ứng với các
tiết học nội dung cụ thể sẽ được trình bày trong mỗi tiết học là gì? Vấn đề nào
trình bày trước, vấn đề nào trình bày sau? Vấn đề nào cần được trọng tâm và
nhấn mạnh? Dành thời gian cho từng vấn đề là bao nhiêu? … Sở dĩ cần chuẩn bị
kỹ lưỡng như vậy là vì nếu tiết giảng dạy đó GV chưa nói hết nội dung các slide
hay đã trình bày hết nhưng thời gian còn thừa là đồng nghĩa với việc “cháy giáo
án” và không đảm bảo được yêu cầu của bài dạy. Kết hợp đề cương này cùng một
bản in cầm tay một cách hợp lý chắc chắn sẽ không mắc phải sự cố này.
Biện pháp 7: Kết hợp giữa trình chiếu và ghi bảng:
Mặc dù những nội dung cơ bản đã được giáo viên tóm lược và trình chiếu
trên màn chiếu, tuy nhiên nó lại không thể lưu lại được bố cục của bài dạy bởi
21
trong quá trình giảng dạy các slide phải được trình chiếu nối tiếp nhau, do đó sau
khi kết thúc bài học học sinh có thể sẽ chưa hình dung lại được hệ thống kiến
thức của bài học. Do vậy, song song với quá trình trình chiếu, giáo viên nên ghi
lên bảng đen những tiêu đề, đề mục của bài học để cuối tiết học, học sinh dễ hình

dung lại nội dung kiến thức vừa lĩnh hội. Đồng thời giáo viên có thể sử dụng
phần ghi bảng tóm tắt này để yêu cầu học sinh trình bày cụ thể lại nội dung của
từng ý.
Đối với những nội dung chính cần ghi chép vào vở, giáo viên đưa lên màn
chiếu và chiếu chậm lại để học sinh có thể ghi chép lại những kiến thức cơ bản
trên dùng làm tư liệu học tập ở nhà.
Biện pháp 8: Soạn giáo án đánh máy một cách tích cực, chi tiết và có sự
chỉnh sửa cần thiết hợp lý trước và sau mỗi tiết dạy để giáo án đánh máy có tác
dụng tốt nhất nâng cao hiệu quả giờ dạy cũng như cất lượng dạy học. Có kế
hoạch lưu trữ cẩn thận khoa học để sử dụng cho những năm học sau đồng trao
đổi giáo án với đồng nghiệp để có được những bộ giáo án tốt nhất cho công tác
giảng dạy.
Biện pháp 9: Cần tham gia tích cực vào các câu lạc bộ, diễn đàn, các trung
tâm tài nguyên giáo dục trên mạng để khai thác hiệu quả mạng internet nhằm
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ đồng thời nâng cao chất lượng dạy học.
PHẦN IV- KẾT LUẬN
Qua thực tế công việc, được sự giúp đỡ của các bạn đồng nghiệp, bản thân
tôi đã tiếp thu được nhiều điều bổ ích, thiết thực cho quá trình giảng dạy và công
tác. Tôi mạnh dạn chọn đề tài này với mong muốn được đóng góp một phần công
sức nhỏ bé của mình vào việc đổi mới phương pháp dạy học. Qua thực nghiệm
tôi thấy đề tài này đã có tác dụng tốt trong công tác quản lý và giảng dạy tại
trường THCS Lạc Vệ.
22
Tôi sẽ cùng các đồng nghiệp áp dụng những kinh nghiệm này vào công
việc trong các năm học tiếp theo nhằm từng bước nâng cao chất lượng giáo dục
học sinh.
Là một giáo viên văn, lựa chọn đề tài có liên quan đến CNTT, bản thân gặp
không ít khó khăn. Hơn nữa, do điều kiện về thời gian và năng lực có hạn, đề tài
chắc chắn còn nhiều sai sót, hạn chế . Tôi rất mong nhận được sự đóng góp chỉ
bảo của các cấp quản lý, các đồng nghiệp để làm kinh nghiệm cho bản thân

trong quá trình công tác sau này.
Tôi xin chân thành cảm ơn !

23

×