Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

88 THỰC TIỄN áp DỤNG PHÁP LUẬT về QUYỀN, NGHĨA vụ của bị đơn TRONG tố TỤNG dân sự tại tòa án NHÂN dân THÀNH PHỐ hồ CHÍ MINH và một số KIẾN NGHỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.86 KB, 25 trang )

Đề tài: QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA BỊ ĐƠN TRONG VỤ ÁN DÂN SỰ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH

1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan các số liệu, thông tin sử dụng trong bài Báo cáo thực tập tốt
nghiệp này được thu thập từ nguồn thực tế tại Đơn vị thực tập, trên các sách báo khoa học
chuyên ngành (có trích dẫn đầy đủ và theo đúng qui định);
Nếu sai sót tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm theo qui định của nhà trường và
pháp luật.
Sinh viên
(ký tên, ghi đầy đủ họ tên)

2


MỤC LỤC

3


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS
HCM
TAND
TP
TTDS

Bộ Luật Tố tụng dân sự


Hồ Chí Minh
Tịa án nhân dân
Thành phố
Tố tụng dân sự

4


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày 25/11/2015, Quốc hội khóa XIII nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
thông qua BLTTDS, đánh dấu một bước phát triển mới của pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam. BLTTDS năm 2015 là văn bản pháp luật quy định chung và đầy đủ nhất về các
quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia vào quan hệ tố tụng dân sự, trong đó có bị đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tung dân sự. Quyền của của bị đơn, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được ghi nhận cụ thể và rõ ràng trong BLTTDS năm
2015, là cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thực thi cũng như bảo đảm thực hiện các
quyền hợp pháp của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng dân sự.
Việc nghiên cứu đánh giá luật thực định và thực tiễn hiện nay cho thấy mặc dù các quyền
của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được pháp luật ghi nhận khá đầy đủ
nhưng việc quan tâm bảo đảm thực hiện chúng trên thực tế vẫn còn chưa đạt hiệu quả
như mong muốn. Một số quy định của pháp luật về vấn đề này vẫn còn những hạn chế
nhất định như thiếu tính cụ thể, chưa phù hợp với thực tế, thiếu cơ chế để bảo đảm thực
hiện. Bên cạnh đó, tình trạng thiếu tơn trọng, thậm chí là vi phạm quyền của bị đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn còn tồn tại dẫn tới quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự khơng được bảo vệ, việc giải quyết vụ án có thể bị kéo dài.
Do vậy em đã chọn đề tài: “Quyền và nghĩa vụ của bị đơn trong vụ án dân sự theo
pháp luật Việt Nam hiện hành” làm đề tài để nghiên cứu.
2. Mục đích, đối tượng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về
quyền, nghĩa vụ của bị đ trong tố tụng dân sự.
Đánh giá thực trạng các áp dụng pháp luật quyền, nghĩa vụ của bị đươn trong tố tụng dân
sự.
Kiến nghị một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện và áp dụng thống nhất pháp luật về
quyền, nghĩa vụ của bị đươn trong tố tụng dân sự
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật liên quan đến quyền,
nghĩa vụ của bị đơn trong tố dụng dân sự theo quy định tại Bộ Luật Dân sự 2015 và Luật
Tố tụng dân sự 2015.
2.3. Giới hạn phạm vi nghiên cứu


Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn ở một số vấn đề về các quy định pháp luật liên
quan đến quyền, nghĩa vụ của bị đơn trong tố tụng dân sự từ thời điểm Bộ Luật Dân sự
2015 có hiệu lực đến nay.
3. Các phương pháp tiến hành nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện, đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng,
gắn lý luận với thực tiễn đặc biệt là phương pháp phân tích - tổng hợp, đánh giá.
Ngoài ra, việc nghiên cứu cũng được tiến hành đối với những văn bản pháp luật có liên
quan để phân tích, đối chiếu, tổng hợp
4. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Qua phân tích, đánh giá và chỉ ra thực trạng các quy định của pháp luật và thực tiễn thực
hiện, đề tài đưa ra những kiến nghị quan trọng nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền và
nghĩa vụ của bị đơn trong tố tụng dân sự đồng thời nâng cao hiệu quả thực hiện quyền tố
tụng của bị đơn.
5. Bố cục của báo cáo thực tập
Ngoài phần mở đầu và kết luận, báo cáo được chia thành 02 chương như sau:
Chương 1. Khái quát về quyền và nghĩa vụ của bị đơn
Chương 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền và nghĩa vụ của bị đơn trong tố tụng

dân sự - kiến nghị hoàn thiện


Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA BỊ ĐƠN TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ

1.1. Khái niệm quyền, nghĩa vụ của bị đơn trong tố tụng dân sự
Trong nhóm những người tham gia tố tụng, nổi bật và quan trọng nhất chính là đương sự.
Đương sự trong vụ việc dân sự là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình
phụ trách do có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ việc dân sự. Bị đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan là hai trong số các thành phần cấu thành nên đương sự trong vụ án
dân sự. Bị đơn trong vụ án dân sự là người tham gia tố tụng để trả lời về việc kiện do bị
nguyên đơn hoặc bị người khác khởi kiện theo quy định của pháp luật. Việc tham gia vào
vụ án dân sự của bị đơn mang tính bị động, bị buộc phải tham gia tố tụng để trả lời về
việc bị kiện.1
Như vậy, ở khía cạnh thuật ngữ pháp lý, có thể hiểu quyền tố tụng dân sự của bị đơn là
quyền năng mà pháp luật tố tụng dân sự quy định và bảo đảm thực hiện cho bị đơn dân sự
tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự được thực hiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình hoặc lợi ích cơng cộng, lợi ích Nhà nước; quyền tố tụng dân sự của người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là quyền năng mà pháp luật tố tụng dân sự quy định và
bảo đảm thực hiện cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia quan hệ pháp luật
tố tụng dân sự được thực hiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc lợi ích
cơng cộng, lợi ích Nhà nước.
1.2. Phân loại quyền, nghĩa vụ của bị đơn trong tố tụng dân sự
1.2.1. Nhóm các quyền liên quan đến sự tự định đoạt của bị đơn
Về cơ bản, các quyền tố tụng liên quan đến sự tự định đoạt của bị đơn nói chung được
ghi nhận trong pháp luật tố tụng dân sự là sự phản ánh bản chất của các quan hệ dân sự là
các quan hệ được hình thành dựa trên sự tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận giữa các
chủ thể.

Các quyền tố tụng liên quan đến sự tự định đoạt của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan tại các điều 70, 72 và 73 BLTTDS năm 2015 được xây dựng dựa trên các
nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự được quy định tại Chương II BLTTDS năm 2015 về
quyền yêu cầu Tịa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp (Điều 4), quyền quyết định và tự
1 Nguyễn Công Bình (Chủ biên, 2017), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 108.

7


định đoạt của đương sự (Điều 5), bảo đảm nguyên tắc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm (Điều
17), bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự (Điều 25),
Đối với nhóm quyền cơ bản liên quan đến sự tự định đoạt của bị đơn, bao gồm các quyền
tố tụng cụ thể như quyền đưa ra yêu cầu tố tụng; quyền chấp nhận hoặc bác bỏ một phần
hoặc tồn bộ u cầu của ngun đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu
độc lập; quyền giữ nguyên, thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu tố tụng; quyền tự thỏa thuận
với nhau về việc giải quyết vụ án và tham gia hòa giải do Tòa án tiến hành; quyền kháng
cáo, khiếu nại; quyền đề nghị kháng nghị.
1.2.2. Nhóm quyền liên quan đến hoạt động chứng minh
Chứng minh là một hoạt động quan trọng, có vai trị quyết định trong việc tìm ra sự thật
vụ án và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Chứng cứ chính là cơng cụ
hữu hiệu nhất để bị đơn phản bác lại những yêu cầu của nguyên đơn, chứng minh về tính
hợp lý trong yêu cầu của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan với cơ quan tư
pháp. Chứng minh vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan, là cơ sở để các đương sự trên xác định quyền hạn, nghĩa vụ của mình khi
đưa ra yêu cầu và thực hiện tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Nhóm
các quyền liên quan đến hoạt động chứng minh, theo quy định của pháp luật, bao gồm:
quyền cung cấp chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình;
quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung
cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình; quyền đề nghị Tịa án xác minh, thu thập tài liệu,
chứng cứ của vụ việc mà tự mình khơng thể thực hiện được; quyền yêu cầu đương sự

khác xuất trình tài liệu, chứng cứ mà họ đang giữ; quyền đề nghị Tòa án ra quyết định
yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài
liệu, chứng cứ đó; quyền đề nghị Tịa án triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định,
quyết định việc định giá tài sản; quyền được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do
đương sự khác xuất trình hoặc do Tịa án thu thập.
1.2.3. Nhóm quyền về tham gia tố tụng của bị đơn
Tham gia tố tụng là hoạt động quan trọng, có giá trị quyết định đến việc bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, là các quyền mà
bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được thực hiện liên quan đến các hoạt
động tố tụng. Việc bảo đảm các quyền về tham gia tố tụng cho bị đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan là một nội dung trọng tâm trong pháp luật tố tụng dân sự. Theo đó,
nhóm các quyền về tham gia tố tụng bao gồm quyền của bị đơn, người có quyền lợi,
8


nghĩa vụ liên quan được Tịa án thơng báo về việc khởi kiện, quyền tự bảo vệ hoặc nhờ
người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, quyền tham gia phiên họp, tham
gia và tranh luận tại phiên tịa, quyền nhận thơng báo hợp lệ để thực hiện quyền, nghĩa vụ
của mình, quyền đặt câu hỏi, đề xuất Tòa án những vấn đề cần hỏi liên quan đến vụ án,
được đối chất với các đương sự khác hoặc với người làm chứng.
1.2.4. Nhóm các quyền tố tụng khác
Trong quá trình tố tụng dân sự, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được pháp
luật trao cho các quyền tố tụng để bảo đảm sự công bằng, minh bạch, kịp thời trong hoạt
động tố tụng. Nhóm quyền này bao gồm các quyền sau:
- Quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
Người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng là những chủ thể có liên quan mật thiết,
có tính quyết định đến q trình giải quyết vụ án cũng như bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; do đó, sự khách quan, vơ tư của
họ trong q trình giải quyết vụ án mang ý nghĩa quan trọng đối với các đương sự trên.
Chính vì vậy, pháp luật đã quy định cho phép họ được quyền yêu cầu thay đổi người tiến

hành tố tụng, người tham gia tố tụng khi có căn cứ cho rằng họ khơng vơ tư trong việc
giải quyết vụ án. Theo quy định tại Khoản 5 Điều 55 BLTTDS năm 2015 thì trong trường
hợp có yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, đương sự cần có văn bản nêu rõ lý do và
căn cứ yêu cầu thay đổi các đối tượng trên. Thẩm quyền ra quyết định thay đổi người tiến
hành tố tụng được quy định tại Điều 56 BLTTDS năm 2015.
- Quyền đề nghị Tòa án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định tạm
đình chỉ giải quyết vụ án
Biện pháp khẩn cấp tạm thời là biện pháp Tịa án áp dụng trong q trình giải quyết vụ
việc dân sự nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ bằng chứng, bảo
toàn tài sản tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án.
Biện pháp khẩn cấp tạm thời khơng chỉ là cơng cụ hữu hiệu để Tịa án ngăn chặn thiệt
hại, bảo toàn tài sản, chứng cứ mà còn là phương thức để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự, do đó pháp luật cho phép đương sự được quyền đề nghị Tòa án áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời. Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khi có nhu
cầu thì làm đơn đề nghị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời kèm theo chứng cứ
chứng minh cho yêu cầu của mình (trong các trường hợp cần chứng cứ). Căn cứ vào yêu
cầu của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nếu vào giai đoạn trước khi mở
phiên tịa thì việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời do Thẩm phán được giao tiến
9


hành vụ án xem xét, ra quyết định; nếu vào giai đoạn xét xử tại phiên tịa thì việc áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời do hội đồng xét xử xem xét, ra quyết định.
- Quyền được cấp trích lục bản án, bản án, quyết định của Tòa án
Khi có được trích lục bản án, bản án, quyết định của Tịa án, bị đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan sẽ có được bản tóm lược tổng quan nhất về tình hình vụ án, bao gồm
cả việc Tịa án đã bảo đảm thực hiện theo những yêu cầu trước Tòa của họ như thế nào và
đến đâu, từ đó quyết định việc có kháng cáo, khiếu nại quyết định, bản án của Tịa án ra
hay khơng. Bên cạnh đó, trích lục bản án, bản án, quyết định được gửi cho đương sự cũng
được coi như một bằng chứng để đương sự lưu giữ, chứng minh việc những phán quyết

của Tịa án như trên là có thật, làm bằng chứng, chứng cứ để đương sự tiến hành thủ tục
kháng cáo, khiếu nại theo quy định.
1.3. Ý nghĩa của quy định về quyền, nghĩa vụ của bị đơn trong tố tụng dân sự
Quyền được bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn, người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan nói riêng và của đương sự nói chung là quyền cơ bản được ghi nhận tại các
văn bản pháp luật từ thuở sơ khai, từ trước thời kỳ cách mạng tháng Tám cho đến những
văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên ghi nhận một cách hệ thống các quyền tố tụng dân
sự như Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, Pháp lệnh giải quyết các
vụ án kinh tế năm 1994.… và tiếp tục được khẳng định tại BLTTDS năm 2015 (Điều 4).
Việc pháp luật quy định các quyền tố tụng cho bị đơn là tiền đề, là cơ sở pháp lý, là
phương tiện hữu hiệu để những chủ thể trên thực hiện được việc bảo vệ các quyền, lợi ích
hợp pháp của mình. Đối với bị đơn với tư cách khi tham gia tố tụng là chủ thể bị động,
việc được trao và bảo đảm thực thi các quyền hợp pháp của mình là cơ sở quan trọng để
tạo sự cân bằng trong quan hệ tranh chấp dân sự với các đương sự khác, cũng là cơ sở để
họ đòi hỏi, yêu cầu bảo vệ sự công bằng. Bên cạnh đó, đây cũng là cơ sở để giới hạn cho
bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về quyền hợp pháp của mình, khơng thực
hiện những việc khơng đúng theo quy định của pháp luật. Việc ghi nhận các quyền tố
tụng của bị đơn cũng là cơ sở để các cơ quan Nhà nước ý thức được trách nhiệm, nghĩa
vụ của mình trong các hoạt động của mình cũng như tôn trọng các quyền cơ bản của
đương sự.
Với Nhà nước, khi các quyền tố tụng dân sự của đương sự nói chung cũng như của bị đơn
nói riêng được bảo đảm, thì cũng là góp phần thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng và
Nhà nước về chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân. Vì vậy, ngồi ý nghĩa thực
hiện dân chủ trong tố tụng dân sự, việc ghi nhận và bảo đảm quyền tố tụng của bị đơn
10


cịn có ý nghĩa ổn định trật tự xã hội, tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, góp phần
thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
1.4. Quy định của pháp luật về quyền, nghĩa vụ của bị đơn trong tố tụng dân sự

1.4.1. Quyền đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn
Quyền phản tố của bị đơn được cụ thể hóa tại Điều 200 BLTTDS năm 2015. Theo đó,
khơng phải u cầu nào của bị đơn cũng được chấp nhận là yêu cầu phản tố. Tòa án sẽ
chỉ chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn nếu thuộc một trong ba trường hợp quy định tại
Khoản 2 Điều 200 BLTTDS năm 2015:
- Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.
- Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc tồn bộ
u cầu của ngun đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.
- Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có yêu cầu độc lập có sự liên quan với nhau và nếu được giải quyết trong cùng một
vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn. Bị đơn được quyền
đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm Thẩm phán mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp,
tiếp cận, cơng khai chứng cứ và hịa giải. Sau thời điểm này, bị đơn mới đưa ra u cầu
phản tố thì Tịa án khơng chấp nhận và sẽ hướng dẫn họ khởi kiện bằng một vụ án dân sự
khác.
Pháp luật cũng quy định cho bị đơn khi thực hiện quyền phản tố của mình thì có đầy đủ
quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn quy định tại Điều 71 BLTTDS năm 2015. Đây là một
điểm tiến bộ của BLTTDS năm 2015 so với quy định cũ tại BLTTDS năm 2004, sửa đổi
bổ sung năm 2011. Quy định này đã giúp tháo gỡ những vướng mắc trước đây, giúp các
bên đương sự cũng như Tịa án có cơ sở pháp lý để thực hiện quyền, nghĩa vụ và trách
nhiệm của mình đối với quan hệ pháp luật phát sinh từ yêu cầu phản tố của bị đơn.
1.4.2. Quyền đưa ra yêu cầu độc lập đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Đây là một quy định hoàn tồn mới tại BLTTDS năm 2015, theo đó, quyền đưa ra yêu
cầu độc lập của bị đơn đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quy định tại
Khoản 5 Điều 72 BLTTDS năm 2015 như sau:
“5. Đưa ra yêu cầu độc lập đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và yêu cầu độc lập
này có liên quan đến việc giải quyết vụ án. Đối với u cầu độc lập thì bị đơn có quyền, nghĩa vụ
của nguyên đơn quy định tại Điều 71 của Bộ luật này”.


11


Tuy nhiên, không phải bất cứ yêu cầu độc lập nào của bị đơn đối với người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan cũng được Tòa án chấp nhận. Theo quy định tại BLTTDS năm 2015,
chỉ những yêu cầu độc lập có liên quan tới việc giải quyết vụ án giữa nguyên đơn và bị
đơn thì mới được xem xét, giải quyết trong cùng một vụ việc. Với yêu cầu độc lập này, bị
đơn có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn dân sự quy định tại Điều 70 và
Điều 71 BLTTDS năm 2015. Thời hạn để bị đơn nêu ra yêu cầu độc lập của mình với
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trùng với thời hạn cho phép bị đơn đưa ra yêu cầu
phản tố với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.
1.4.3. Quyền của bị đơn trong việc chấp nhận hoặc bác bỏ một phần hoặc tồn bộ u
cầu của ngun đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập
Quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản lý chứng cứ cung cấp chứng
cứ được quy định tại Khoản 6 Điều 70 BLTTDS năm 2015:
“6. Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài
liệu, chứng cứ đó cho mình”.

Chứng cứ là một cơng cụ quan trọng để bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
chứng minh cho u cầu của mình là chính xác, hợp lý, tuy nhiên không phải lúc nào họ
cũng có điều kiện thu thập đủ các chứng cứ mà mình thấy cần thiết. Do đó, trong trường
hợp chứng cứ mà bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cần thu thập đang do cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác lưu giữ, quản lý thì pháp luật cho phép họ có quyền được yêu
cầu những chủ thể trên cung cấp cho mình. Song song với quy định quyền này cho đương
sự, pháp luật cũng quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ
chứng cứ tại Điều 7 BLTTDS năm 2015, cùng với những chế tài xử lý trong trường hợp
những chủ thể này không hợp tác, không cung cấp tài liệu, chứng cứ cho bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
1.4.4. Quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản lý chứng cứ cung
cấp chứng cứ đó cho mình

Chấp nhận hoặc bác bỏ một phần hoặc tồn bộ u cầu của ngun đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan có u cầu độc lập khơng phải là quyền của bị đơn đưa ra yêu cầu
của mình, mà là quyền thể hiện ý kiến của bị đơn.
Quyền này của bị đơn được ghi nhận tại Khoản 3 Điều 72 BLTTDS:
“3. Chấp nhận hoặc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập”.

12


Việc chấp nhận hoặc bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có yêu cầu độc lập ảnh hưởng đến nghĩa vụ chứng minh của bị đơn trong vụ án dân
sự. Trường hợp bị đơn bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có yêu cầu độc lập đối với mình thì bị đơn phải đưa ra chứng cứ để chứng minh
theo quy định tại Khoản 2 Điều 90 BLTTDS năm 2015. Trường hợp bị đơn chấp nhận
yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có u cầu độc lập thì
mặc nhiên những yêu cầu của các chủ thể trên sẽ được Tòa án cơng nhận và họ khơng có
nghĩa vụ phải chứng minh cho yêu cầu đó nữa.
Theo quy định trước đây, bị đơn chỉ có quyền chấp nhận hoặc bác bỏ một phần hoặc tồn
bộ u cầu của ngun đơn. Chính điều này đã tạo nên một lỗ hổng pháp lý lớn khi
không trao cho bị đơn quyền được chấp nhận hoặc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu
của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, mặc dù đối với trường hợp người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan có u cầu độc lập thì địa vị pháp lý của họ ngang bằng với
nguyên đơn, những yêu cầu độc lập của họ cũng ảnh hưởng rất lớn đến quyền và nghĩa
vụ của bị đơn. Khắc phục nhược điểm này, BLTTDS năm 2015 đã bổ sung đối tượng mà
bị đơn được thực hiện quyền chấp nhận hoặc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu là
yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.
1.4.5. Nghĩa vụ chứng minh, cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình
Cung cấp chứng cứ và chứng minh được xác định là một nguyên tắc cơ bản của tố tụng

dân sự theo quy định tại Điều 6 BLTTDS, quyền được bảo đảm thực hiện nguyên tắc này
được quy định tại Khoản 5 Điều 70 BLTTDS và cụ thể hóa tại Chương VII phần I
BLTTDS năm 2015.
Theo quy định của pháp luật, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền
cung cấp chứng cứ kể từ khi Tịa án thông báo về việc khởi kiện của nguyên đơn và
không được vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm. Trường hợp sau khi có quyết định
đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm đương sự mới cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng
cứ mà Tòa án đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự không giao nộp được vì có lý do
chính đáng thì đương sự phải chứng minh lý do của việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ
đó. Đối với tài liệu, chứng cứ mà trước đó Tịa án khơng u cầu đương sự giao nộp hoặc
tài liệu, chứng cứ mà đương sự khơng thể biết được trong q trình giải quyết vụ việc
theo thủ tục sơ thẩm thì đương sự có quyền giao nộp, trình bày tại phiên tịa sơ thẩm,
hoặc các giai đoạn tố tụng tiếp theo của việc giải quyết vụ việc dân sự.
13


Khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ, Tòa án cần phải lập biên bản, ghi rõ tên gọi,
hình thức, nội dung, đặc điểm của tài liệu, chứng cứ; số bản, số trang của chứng cứ và
thời gian nhận; chữ ký hoặc điểm chỉ của người giao nộp, chữ ký của người nhận và dấu
Tòa án. Biên bản này phải được lập thành hai bản, một bản lưu vào hồ sơ vụ việc và một
bản giao cho đương sự nộp chứng cứ13. Quy định về thời hạn giao nộp chứng cứ là một
nội dung mới, phù hợp với thông lệ quốc tế và cũng tạo được hành lang pháp lý cơ bản để
buộc bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có trách nhiệm hơn đối với hoạt
động cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của mình.
Việc cung cấp chứng cứ, tài liệu vừa là quyền vừa là trách nhiệm của đương sự, và Tịa
án chỉ có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ. Tuy nhiên, do pháp
luật quy định thiếu rõ ràng nên trong nhiều trường hợp nguyên đơn dân sự không tự thu
thập, giao nộp chứng cứ cũng khơng có văn bản đề nghị Tịa án xác minh, thu thập chứng
cứ vì cho rằng đó là nghĩa vụ của Tòa án, trong rất nhiều trường hợp các Thẩm phán đã
chỉ dựa vào những tài liệu, chứng cứ chưa đầy đủ trên để ra phán quyết ảnh hương đến

quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Bất cập này
cũng một phần do quy định của pháp luật chưa có sự tách biệt giữa các quy định về
quyền với các quy định về nghĩa vụ của bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nói
riêng và của đương sự nói chung.
Kết luận Chương 1
Chương 1 của đề tài đã làm rõ được khái niệm, ý nghĩa và phân loại được các quyền tố
tụng dân sự của bị đơn trong tố tụng dân sự. Theo đó, quyền tố tụng dân sự của bị đơn là
quyền năng mà pháp luật tố tụng dân sự quy định và bảo đảm thực hiện cho bị đơn dân sự
tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự được thực hiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình hoặc lợi ích cơng cộng, lợi ích Nhà nước.

14


Chương 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA BỊ
ĐƠN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ TẠI TỊA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ

HỒ CHÍ MINH VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền ,nghĩa vụ của bị đơn trong tố tụng dân sự
tại Tịa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
2.1.1. Tổng quan về áp dụng pháp luật về quyền,nghĩa vụ của bị đơn trong tố tụng dân
sự
Nhìn chung, việc bảo đảm thực hiện quyền tố tụng của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan ngày càng được các cơ quan, tổ chức, đặc biệt là các cơ quan tiến hành tố
tụng quan tâm. Để giúp bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thuận lợi trong
việc thực hiện quyền tố tụng của mình, TAND thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều biện
pháp hỗ trợ, đảm bảo để các đương sự trên thực hiện quyền của mình. TAND thành phố
Hồ Chí Minh đều niêm yết mẫu đơn yêu cầu tại trụ sở Tòa án, thuận lợi cho người có u
cầu Tịa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình hoặc cho người khác. Cán bộ tiếp
nhận đơn yêu cầu nhìn chung đều làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, tận tình hướng

dẫn người nộp đơn cách thức, trình tự viết đơn và thực hiện đúng đắn chế độ thông báo
về việc yêu cầu, giao nộp chứng cứ, tài liệu theo đơn.
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, TAND thành phố Hồ Chí Minh đã tơn trọng và
bảo đảm tốt hơn cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được thực hiện các
quyền tố tụng dân sự của mình. Một mặt, TAND thành phố Hồ Chí Minh ln cố gắng
xác định và triệu tập đầy đủ các đương sự đến tham gia tố tụng tại Tòa án, tránh việc bỏ
sót đương sự, đặc biệt là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Mặt khác, TAND thành
phố Hồ Chí Minh thực hiện nhiều biện pháp cần thiết do pháp luật quy định để đảm bảo
cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thực hiện được quyền đưa ra yêu cầu
phản tố, yêu cầu độc lập, quyền thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập
đến các quyền về cung cấp tài liệu, chứng cứ, quyền thay đổi người tiến hành tố tụng.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực thi các quyền tố tụng của bị đơn, vẫn cịn có
những tồn tại, hạn chế nhất định. Cụ thể là vẫn cịn tình trạng TAND thành phố Hồ Chí
Minh để tồn đọng quá hạn những vụ án cần giải quyết, chậm tống đạt các quyết định cho
bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; tạm đình chỉ cịn thiếu căn cứ hoặc lý do
tạm đình chỉ khơng cịn nhưng không theo dõi, đôn đốc để đưa vụ án ra xét xử làm cho
15


thời gian giải quyết vụ án bị kéo dài; một số trường hợp Thẩm phán xác định thiếu người
tham gia tố tụng hoặc xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng; đánh giá chứng cứ
còn thiếu khách quan, tồn diện nên quyết định giải quyết vụ án khơng chính xác. Trong
một số trường hợp, việc thu thập chứng cứ cịn chưa đầy đủ; xác định khơng đúng quan
hệ pháp luật tranh chấp dẫn tới thời gian giải quyết vụ án bị kéo dài; chưa xem xét đầy đủ
yêu cầu của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án dẫn đến giải quyết không đủ hoặc
vượt quá yêu cầu của đương sự.
2.1.2. Bất cập, vướng mắc trong áp dụng pháp luật về quyền, nghĩa vụ của bị đơn
trong tố tụng dân sự
Bất cập trong xác định thời điểm yêu cầu phản tố của bị đơn:
Ví dụ: Vụ án ly hơn giữa ngun đơn Lê Hồng Diệp Thảo và bị đơn Đặng Lê Nguyên

Vũ được Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh (TAND TP.HCM) giải quyết theo Bản án số
291/2019/HNGĐ-ST ngày 27/03/2019.
Bà Lê Hồng Diệp Thảo có đơn xin ly hôn ngày 26/10/2015; đơn bổ sung đơn ly hôn
ngày 21/11/2015 và ngày 30/08/2017 với nội dung đề nghị Tịa án giải quyết cho bà và
ơng Đặng Lê Ngun Vũ được ly hơn, về con chung thì bà u cầu là người trực tiếp
chăm sóc, ni dưỡng, ơng Vũ phải cấp dưỡng ni con và u cầu chia tồn bộ tài sản
chung được được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân.Ngày 17/11/2015, TAND Tp. HCM ra
thông báo thụ lý vụ án số 499/HNST về việc tranh chấp về hôn nhân và gia đình.
Đến ngày 21/06/2016, TAND Tp.HCM ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử. Sau đó,
ngày 18/07/2016, ơng Vũ đã có đơn u cầu phản tố về việc đề nghị Tòa án xem xét,
quyết định phân chia tài sản là tiền Việt Nam, các loại ngoại tệ, vàng là tài sản chung của
vợ chồng hiện bà Thảo đang nắm giữ, gửi tại 4 ngân hàng ở Việt Nam, đề nghị phân chia
các tài sản là bất động sản ở trong nước do bà Thảo đứng tên hoặc người khác đứng tên,
đề nghị chia số tiền chung của hai vợ chồng trong 04 công ty hiện do bà Thảo thành lập
trong nước và nước ngoài từ tiền chung của hai vợ chồng.
Vụ án nêu trên được TAND Tp. HCM giải quyết theo thủ tục sơ thẩm và có quyết định
đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm ngày 21/6/2016 (Trước ngày Bộ luật TTDS năm 2015 có
hiệu lực là ngày 01/7/2016). Như vậy, căn cứ vào quy định trên thì Tịa án phải áp dụng
Bộ luật TTDS năm 2004 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011 để giải quyết vụ án.
Nếu áp dụng Bộ luật TTDS năm 2004 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011 thì Tịa án chỉ
được thụ lý u cầu phản tố của bị đơn khi yêu cầu phản tố được đưa ra trước khi Tòa án
ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm.
16


Trong vụ án trên, bị đơn đã đưa ra yêu cầu phản tố ngày 18/07/2016, sau ngày Tòa án ra
quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm (ngày 21/6/2016). Do vậy, Tòa án phải áp dụng
Bộ luật TTDS năm 2004 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011 để giải quyết vụ án; đồng
nghĩa với việc Tòa án phải trả lại đơn yêu cầu phản tố vì lý do bị đơn đưa ra yêu cầu phản
tố sau thời điểm quy định của khoản 3 Điều 176 Bộ luật TTDS năm 2004 đã được sửa

đổi, bổ sung năm 2011.
Bất cập trong thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự:
Tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự là nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt trong tố
tụng dân sự. Do vậy, trong một số trường hợp thì việc Viện kiểm sát tham gia giải quyết
tranh chấp dân sự đã làm ảnh hưởng đến quyền tự định đoạt của đương sự. Thực tiễn cho
thấy, có những vụ việc dân sự sau khi Tòa án đã xét xử xong, đương sự cũng khơng có
kháng cáo, khơng đề nghị giám đốc thẩm nhưng Viện kiểm sát lại tiến hành kháng nghị,
khiến vụ việc dân sự lại tiếp tục phải giải quyết ở phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm, tái
thẩm, trong khi đó đương sự trong vụ án khơng muốn tiếp tục tiến hành tố tụng do sẽ ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích của họ, gây mất thời gian khơng mong muốn. Đây là vấn đề
đã được đặt ra từ khi sửa đổi, bổ sung BLTTDS năm 2004, tuy nhiên vẫn chưa có sự thay
đổi nhiều tại BLTTDS năm 2015.
Đặc điểm của quan hệ dân sự là sự tự định đoạt giữa các bên, tuy nhiên trong thực tiễn
xét xử, có nhiều trường hợp Tịa án khơng tơn trọng quyền tự định đoạt của đương sự.
Bất cập trong hoạt động Tòa án không xem xét đến yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập
của bị đơn.
Thực tế hiện nay, trong một vụ án có cả yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản
tố, yêu cầu độc lập của bị đơn thì khi nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện, có Tịa án căn cứ
vào lý do trên để đình chỉ giải quyết vụ án mà không xét đến việc yêu cầu phản tố, yêu
cầu độc lập của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn cần tiếp tục được giải
quyết, ảnh hưởng đến quá trình xét xử vụ việc.
Bất cập, vướng mắc và hạn chế trong thực tiễn thực hiện các quyền tố tụng của bị
đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về chứng minh trong tố tụng dân sự
Tòa án chưa thu thập, kiểm tra, đánh giá đầy đủ tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án
Đối với những vụ án tranh chấp có chứng cứ, tài liệu do cơ quan, tổ chức khác lưu giữ thì
việc thu thập của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng hết sức khó khăn.
Trên thực tế, đối với những chứng cứ được lưu giữ tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền
thì rất khó khăn cho đương sự trong việc thu thập chứng cứ. Đây là lý do gây cản trở việc
17



thực hiện nguyên tắc cung cấp chứng cứ của đương sự trước Tịa án, đồng thời làm gia
tăng cơng việc cho Tòa khi phải trực tiếp tiến hành thu thập các chứng cứ này theo yêu
cầu của đương sự. Việc khắc phục thực trạng này đã được đặt ra khi xây dựng BLTTDS
năm 2004 cũng như khi sửa đổi, bổ sung một số điều tại BLTTDS năm 2011 nhưng cho
đến nay vẫn chưa có nhiều chuyển biến trong thực tế.
- Việc giám định, định giá vẫn chưa phát huy được hiệu quả trong thực tiễn. Công tác
giám định, định giá đóng vai trị quan trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án, là cơ sở
để xác định quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ án dân sự, song thực tiễn cho
thấy trong những năm qua, tổ chức và hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền thực
hiện việc giám định đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế về quy mô tổ chức, khoa học, kỹ
thuật, nhiều lĩnh vực khơng có giám định viên thực hiện, khơng theo kịp và chưa đáp ứng
được địi hỏi của tình hình thực tế.
2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền,
nghĩa vụ của bị đơn trong vụ án dân sự
2.2.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền, nghĩa vụ của bị
đơn trong vụ án dân sự
- Cần phân định rõ các quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng Theo phân tích tại
Chương I và Chương II của đề tài, thì sự khơng rõ ràng của pháp luật khi quy định về
quyền và nghĩa vụ của đương sự nói chung cũng như của bị đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan nói riêng đã ảnh hưởng rất lớn đến việc thực thi của các chủ thể trên.
Do đó, pháp luật cần quy định theo hướng phân định rõ thành các điều luật về quyền của
đương sự và nghĩa vụ của đương sự riêng biệt. Theo đó, cần nhóm những quy định là
quyền của đương sự thành một điều riêng, nghĩa vụ của đương sự thành một điều riêng,
đối với những quy định vừa là quyền vừa là nghĩa vụ thì cần quy định tại cả hai điều luật
trên và cần có hướng dẫn cụ thể để áp dụng chính xác, tránh gây ra sự chồng chéo, hiểu
nhầm hoặc nhiều cách hiểu khi thực thi quy định pháp luật.
- Bổ sung căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là yêu cầu chính đáng của đương
sự hoặc là thỏa thuận tự nguyện của các bên đương sự
Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự không phải là việc chấm dứt giải quyết vụ án mà

chỉ là tạm thời dừng việc giải quyết để bảo đảm việc xét xử được thuận lợi, chính xác và
hợp lý. Bên cạnh đó, quan hệ dân sự vốn cốt là ở đôi bên, tức là việc giải quyết phụ thuộc
vào ý chí chủ quan của các đương sự. Do đó, để bảo đảm nguyên tắc tự định đoạt trong
quan hệ tố tụng dân sự cũng như bảo đảm việc xét xử được hợp lý, chính xác, đề nghị bổ
18


sung vào Khoản 1 Điều 214 BLTTDS năm 2015 một điểm với nội dung cho phép tạm
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự khi có u cầu chính đáng của đương sự hoặc có sự thỏa
thuận tự nguyện giữa các bên đương sự. Tất nhiên, việc yêu cầu này không phải được
chấp nhận một cách tùy tiện mà phải nằm trong khuôn khổ của pháp luật, tức là yêu cầu
này phải hợp lý, có căn cứ cụ thể và phải chứng minh được việc khơng tạm đình chỉ giải
quyết vụ việc sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người đưa ra
yêu cầu và Tòa án cần ra các văn bản hướng dẫn cụ thể đối với trường hợp này.
- Cần phân định rõ các quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng
Sự không rõ ràng của pháp luật khi quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự nói
chung cũng như của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nói riêng đã ảnh
hưởng rất lớn đến việc thực thi của các chủ thể trên. Do đó, pháp luật cần quy định theo
hướng phân định rõ thành các điều luật về quyền của đương sự và nghĩa vụ của đương sự
riêng biệt. Theo đó, cần nhóm những quy định là quyền của đương sự thành một điều
riêng, nghĩa vụ của đương sự thành một điều riêng, đối với những quy định vừa là quyền
vừa là nghĩa vụ thì cần quy định tại cả hai điều luật trên và cần có hướng dẫn cụ thể để áp
dụng chính xác, tránh gây ra sự chồng chéo, hiểu nhầm hoặc nhiều cách hiểu khi thực thi
quy định pháp luật.
- Bổ sung căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là yêu cầu chính đáng của đương
sự hoặc là thỏa thuận tự nguyện của các bên đương sự
ạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự không phải là việc chấm dứt giải quyết vụ án mà chỉ
là tạm thời dừng việc giải quyết để bảo đảm việc xét xử được thuận lợi, chính xác và hợp
lý. Bên cạnh đó, quan hệ dân sự vốn cốt là ở đơi bên, tức là việc giải quyết phụ thuộc vào
ý chí chủ quan của các đương sự. Do đó, để bảo đảm nguyên tắc tự định đoạt trong quan

hệ tố tụng dân sự cũng như bảo đảm việc xét xử được hợp lý, chính xác, đề nghị bổ sung
vào Khoản 1 Điều 214 BLTTDS năm 2015 một điểm với nội dung cho phép tạm đình chỉ
giải quyết vụ án dân sự khi có u cầu chính đáng của đương sự hoặc có sự thỏa thuận tự
nguyện giữa các bên đương sự. Tất nhiên, việc yêu cầu này không phải được chấp nhận
một cách tùy tiện mà phải nằm trong khuôn khổ của pháp luật, tức là yêu cầu này phải
hợp lý, có căn cứ cụ thể và phải chứng minh được việc khơng tạm đình chỉ giải quyết vụ
việc sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người đưa ra yêu cầu
và Tòa án cần ra các văn bản hướng dẫn cụ thể đối với trường hợp này.
- Cần có quy định hạn chế tình trạng đương sự giấu diếm tài liệu, chứng cứ có lợi trước
ngày mở phiên tòa xét xử
19


Theo đó, đối với quy định về việc giao nộp tài liệu, chứng cứ, đề nghị chỉnh lý Khoản 4
Điều 96 BLTTDS năm 2015 như sau:
“4. ...Trường hợp sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết
định mở phiên họp giải quyết việc dân sự, đương sự mới cung cấp, giao nộp tài liệu,
chứng cứ mà Tòa án đã yêu cầu giao nộp hoặc tài liệu, chứng cứ Tịa án khơng u cầu
giao nộp nhưng đương sự đang lưu giữ, bảo quản nhưng đương sự khơng giao nộp được
vì có lý do chính đáng thì đương sự phải chứng minh lý do của việc chậm giao nộp tài
liệu, chứng cứ đó. ...”.
Với quy định như trên, kể cả đối với những tài liệu, chứng cứ Tịa án khơng u cầu giao
nộp nhưng đương sự đang lưu giữ, bảo quản thì đương sự vẫn sẽ có nghĩa vụ giao nộp
cho Tịa án. Quy định này sẽ hạn chế được tình trạng đối với những tài liệu, chứng cứ
Tịa án khơng u cầu giao nộp mà có lợi cho mình thì đương sự sẽ cố tình giấu đi.
- Cần bổ sung quy định về việc Tịa án phải thơng báo lần cuối cho bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nói riêng và đương sự nói chung về những tài liệu, chứng
cứ mà mình thu thập được trước khi mở phiên tịa xét xử sơ thẩm:
Sau khi kết thúc phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hịa
giải, các bên đương sự có liên quan đến vụ án vẫn được quyền cung cấp các tài liệu,

chứng cứ bổ sung cho đến khi xét xử vụ án, tuy nhiên pháp luật lại chưa có quy định nào
đề cập đến việc thông báo cho các đương sự khác biết về những tài liệu, chứng cứ mới
được bổ sung này. Do đó, đề nghị chỉnh sửa Khoản 2 Điều 203 BLTTDS năm 2015 theo
hướng Thẩm phán được giao giải quyết vụ án có trách nhiệm thơng báo cho đương sự về
tài liệu, chứng cứ thu thập được sau phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và hòa giải trước khi mở phiên xét xử sơ thẩm 03 ngày (nếu có).
- Cần bổ sung vào Điều 489 BLTTDS năm 2015 quy định xử lý đối với trường hợp
đương sự không chịu hợp tác, nộp chi phí giám định khi Tịa án tiến hành giám định lại
do nghi ngờ mức giá do các bên đương sự thỏa thuận là không hợp lý.
- Để bảo đảm sự hợp lý và bình đẳng giữa các đương sự tham gia vào giải quyết vụ án
dân sự, tránh ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trong việc xét xử vụ án, đề nghị chỉnh sửa Khoản 1 Điều 207
BLTTDS năm 2015 về căn cứ xác định vụ việc khơng hịa giải được như sau:
“1. Ngun đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập
hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt”.

20


- Cần bổ sung quy định cho phép bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được
phép phát biểu đính chính, thay đổi trong trường hợp người bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của họ phát biểu tranh luận sai với quan điểm, ý chí của bị đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan. Cụ thể, đề nghị chỉnh lý các điểm b, c Khoản 1 Điều 248
BLTTDS năm 2015 như sau:
“b) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày ý kiến của bị đơn đối
với yêu cầu của nguyên đơn; yêu cầu phản tố, đề nghị của bị đơn và chứng cứ để chứng
minh cho yêu cầu, đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp. Bị đơn có quyền đính chính, bổ
sung ý kiến;
c) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
trình bày ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đối với yêu cầu, đề nghị của

nguyên đơn, bị đơn; yêu cầu độc lập, đề nghị của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp. Người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền đính chính, bổ sung ý kiến”.
- Để tránh tình trạng có hai cách hiểu đối với quy định tại Điều 196 BLTTDS năm 2015
về việc Tịa án phải thơng báo cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong
thời hạn 03 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án, đề nghị Tịa án cần có hướng dẫn cụ thể theo
hướng trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án, Tịa án phải gửi thơng báo về viêc
liên quan đến giải quyết vụ án đến bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
- Đối với quy định về quyền yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, đề
nghị Tòa án cần có hướng dẫn cụ thể về tiêu chí, cách thức để tính được tổn thất hoặc
thiệt hại có thể phát sinh làm cơ sở xác định khoản bảo đảm là tiền, kim khí quý, đá
quý ... phải nộp để bảo đảm được quyền lợi hợp pháp của bị đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự.
2.2.2. Kiến nghị đối với Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
Kiện tồn tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực chun mơn cao, có đạo đức tốt
và tận tâm, nhiệt tình để bảo đảm quyền tố tụng của bị đơn được thực thi đúng quy định
của pháp luật, tránh tình trạng xét xử sai, xâm phạm quyền tố tụng của bị đơn gây khó dễ,
sách nhiễu. Để thực hiện được nhiệm vụ trên, cần chú trọng vào một số nội dung sau:
Một là, chú trọng nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị, đạo đức
lối sống, tinh thần trách nhiệm trong công tác cho cán bộ, công chức, nhất là đội ngũ
Thẩm phán. Tăng cường chấn chỉnh kỷ cương, kỷ luật công vụ; nâng cao chất lượng công
tác thanh tra, kiểm tra công tác nghiệp vụ và việc thực hiện kỷ luật công vụ của cán bộ,
21


công chức, nhằm khắc phục những hạn chế, tồn tại trong việc thực hiện quyền tố tụng của
bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, phát hiện và xử lý kịp thời cán bộ, cơng
chức có hành vi vi phạm.
Hai là, nâng cao chất lượng và đề cao trách nhiệm của đội ngũ kiểm sát viên trong việc
kiểm sát việc tuân thủ pháp luật tố tụng, bảo đảm cho các quyền tố tụng của bị đơn,

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được thực hiện trên thực tế.
Ba là, đẩy mạnh việc phát triển các tổ chức bổ trợ tư pháp như phát triển các tổ chức
giám định theo hướng xã hội hóa, củng cố và kiện toàn hệ thống tổ chức giám định theo
hướng chuyên trách trong một số lĩnh vực quan trọng như giám định chữ ký, giám định
xây dựng…, tạo điều kiện để công dân yêu cầu thực hiện giám định được dễ dàng, thuận
lợi, chú trọng việc phát triển các tổ chức hoạt động dịch vụ pháp lý như thừa phát lại,
khuyến khích thẩm định giá ở những nơi chưa phát triển.
Đẩy mạnh tuyên truyền và phổ biến pháp luật tố tụng dân sự, nâng cao nhận thức pháp
luật tố tụng trong nhân dân, tạo điều kiện để người dân hiểu rõ về trình tự giải quyết vụ
án dân sự tại Tịa án, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, người tiến hành tố tụng, các
quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Cụ thể, trong giáo
dục, tuyên truyền và phổ biến pháp luật tố tụng dân sự cần tập trung làm cho mọi người
nhận thức được các quy định của BLTTDS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành
về quyền và nghĩa vụ của đương sự. Từ việc đương sự nói chung, bị đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan hiểu rõ được các quy định của pháp luật, họ sẽ chủ động hơn trong
thực hiện các quyền và tố tụng của mình, chủ động hơn trong việc yêu cầu bảo đảm và
thực thi các quyền tố tụng của mình trong tố tụng dân sự.
Kết luận Chương 2
Chương 2 đề tài đã phân tích làm rõ được thực trạng pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
hiện hành về quyền tố tụng của bị đơn đặc biệt là chỉ ra những hạn chế, bất cập, gây ảnh
hưởng đến việc bảo đảm và thực thi quyền của những đương sự trên thực tế. Kết quả
nghiên cứu đã chỉ ra rằng một số quy định về quyền tố tụng của bị đơn còn thiếu tính cụ
thể, chưa có tiêu chí về sự liên quan giữa yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn với yêu cầu
phản tố, yêu cầu độc lập của bị đơn dẫn tới khơng có cơ sở pháp lý để đương sự thực thi
và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn
thiện quy định của pháp luật và kiến nghị với TAND TP Hồ Chí Minh nhằm nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật về quyền, nghĩa vụ của bị đơn trong vụ án dân sự.

22



KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu của đề tài đã làm rõ được khái niệm, ý nghĩa, cũng như phân loại
được quyền tố tụng của bị đơn, để từ đó đưa ra được những phân tích, đánh giá, nhận xét
về những điểm tích cực và những mặt hạn chế cịn tồn tại trong quy định về quyền tố
tụng của bị đơn. BLTTDS năm 2015 đã quy định khá đầy đủ, chi tiết về quyền tố tụng
của bị đơn; tuy nhiên, vẫn tồn tại một số quy định về quyền tố tụng của bị đơn còn hạn
chế, bất cập, một số quy định chưa rõ ràng, đầy đủ, yêu cầu cơ quan có thẩm quyền cần
có những hướng dẫn kịp thời để áp dụng trong thực tiễn.
Từ việc nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định đó, đề
tài đã đề xuất được một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy định của pháp luật về quyền tố tụng của bị đơn. Tác giả cũng đã mạnh dạn
đưa ra một số đề xuất để hoàn thiện các quy định về quyền tố tụng của bị đơn đồng thời
đề xuất giải pháp thực hiện các quyền này như bảo đảm sự bình đẳng giữa các đương sự
trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự; kết hợp với việc đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức pháp luật tố tụng trong
nhân dân, tạo điều kiện để người dân hiểu rõ nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, người
tiến hành tố tụng, các quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định của pháp luật tố tụng dân
sự.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A.Văn bản quy phạm pháp luật
1. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
2. Bộ luật dân sự năm 2005.
3. Bộ luật dân sự năm 2015.
4. Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 hướng dẫn thi hành một số quy
định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ
sung.
B. Tài liệu tham khảo

1. Trung tâm từ điển học (2009), Từ điển tiếng việt, NXB Đà Nẵng, Hà Nội.
2. Đào Duy Anh (1957), Từ điển Hán Việt, Trường Thi xuất bản, Sài Gòn.
3. Nguyễn Lân (2002), Từ điển từ và ngữ Hán - Việt, NXB Văn Học, Hà Nội.
4. Nguyễn Công Bình (Chủ biên, 2017), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự, NXB Công an
nhân dân, Hà Nội.
5. Bùi Thị Huyền (Chủ biên, 2016), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015, NXB Lao Động, Hà Nội.
6. Bùi Thị Thanh Hằng (Chủ biên, 2014), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
7. Hồng Ngọc Thỉnh (2012), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Công an
nhân dân, Hà Nội.



×