Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

những ảnh hưởng của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng tới việc thực hiện quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.05 KB, 54 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường
quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách (Lời nói đầu, Luật Hôn nhân và gia
đình nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2000). Có nhiều cơ sở để xác lập nên
một gia đình, trong đó hôn nhân là yếu tố chủ đạo. Lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin đã khẳng định rằng hôn nhân và gia đình là các quan hệ xã hội ra đời mang
tính lịch sử, cùng với sự xuất hiện của xã hội có giai cấp, chế độ tư hữu và Nhà
nước. Vì vậy, như bất cứ một quan hệ xã hội nào, quan hệ hôn nhân và đình cũng
chịu sự tác động, điều chỉnh của Nhà nước thông qua các quy định của pháp luật
mà trước tiên phải kể đến là vấn đề kết hôn và đăng ký kết hôn. Đăng ký kết hôn là
một sự kiện pháp lý quan trọng tạo nên một tế bào mới cho xã hội, đồng thời thể
hiện sự giám sát của Nhà nước đối với việc tuân thủ pháp luật nói chung và pháp
luật hôn nhân và gia đình nói riêng.
Tuy nhiên, thực tế có rất nhiều trường hợp nam nữ mong muốn xác lập quan
hệ vợ chồng đã chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn,
hoặc nhiều trường hợp nam nữ chỉ mong muốn chung sống như vợ chồng với suy
nghĩ “sống thử”. Xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như: do phong tục, tập
quán; do xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa đã góp phần mang văn hóa
nước ngoài du nhập vào Việt Nam. Trong xu thế phát triển kinh tế, văn hóa của
nước ta hiện nay, việc chung sống như vợ chồng vẫn sẽ tồn tại, thậm chí có thể có
chiều hướng gia tăng. Điều này sẽ gây ra những tác động lớn đến việc thực hiện
quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ chung sống như vợ chồng và những
người có liên quan.
Xuất phát từ thực tiễn đó, bài khóa luận này nghiên cứu tình trạng nam nữ
chung sống như vợ chồng với mong muốn chỉ ra những ảnh hưởng của nó đến quan
hệ vợ chồng - quan hệ giữa các bên chung sống, đồng thời đề xuất một số kiến nghị
nhằm hạn chế hiện tượng nam nữ chung sống như vợ chồng trong xã hội, bảo vệ
quyền lợi của những người có liên quan, đặc biệt là quyền lợi của phụ nữ và trẻ em.
2. Mục đích, phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Mục đích nghiên cứu: khóa luận tập trung phân tích và làm sáng tỏ những ảnh


hưởng của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng tới việc thực hiện quyền, nghĩa
vụ giữa vợ và chồng; đưa ra quan điểm và đường lối xử lý về pháp lý; nêu một số
kiến nghị giải quyết tình trạng này. Từ đó, góp phần hạn chế hiện tượng nam nữ
chung sống như vợ chồng diễn ra trong xã hội; bảo vệ quyền, lợi ích của các bên,
của người thứ ba liên quan đến quan hệ này, đặc biệt là bảo đảm cho quyền lợi của
phụ nữ và trẻ em.
- Phạm vi nghiên cứu: khóa luận nghiên cứu hiện tượng nam nữ chung sống như vợ
chồng dưới góc độ pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu, các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh
và xã hội học đã được sử dụng.
4. Cơ cấu: khóa luận gồm:
Phần mở đầu
Chương 1. Khái quát về kết hôn và việc chung sống như vợ chồng mà không đăng
ký kết hôn
Chương 2. Những ảnh hưởng của việc nam nữ chung sống như vợ chồng mà
không đăng ký kết hôn tới quan hệ vợ chồng và những giải pháp về mặt pháp lý.
Phần kết luận
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KẾT HÔN VÀ VIỆC CHUNG SỐNG NHƯ
VỢ CHỒNG MÀ KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN
1.1. KHÁI NIỆM KẾT HÔN VÀ QUY ĐỊNH VỀ VIỆC ĐĂNG KÝ KẾT HÔN
1.1.1. Khái niệm kết hôn
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, hôn nhân là cơ sở của gia đình,
là tế bào của xã hội, nó thể hiện tính chất và kết cấu của xã hội. Trong tác phẩm
“Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước” (năm 1884),
Ănghen đã nhấn mạnh:
Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử, quy cho đến
cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản thân sự
sản xuất đó lại có hai loại. Một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt: thực

phẩm, quần áo, nhà ở và những công cụ cần thiết để sản xuất ra những
thứ đó; mặt khác là sự sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi
giống. [1, tr.44]
Như vậy, hôn nhân là một hiện tượng xã hội mang tính lịch sử, phát sinh và
phát triển đồng thời với tiến trình phát triển của xã hội loài người. Cùng với sự thay
đổi các hình thái kinh tế - xã hội đã có nhiều hình thái hôn nhân và gia đình tồn tại
và phát triển, hình thái gia đình thấp hơn bị thay thế bởi hình thái mới cao hơn:
Ở thời đại mông muội, có chế độ quần hôn; ở thời đại dã man, có chế độ
hôn nhân cặp đôi; ở thời đại văn minh, có chế độ một vợ một chồng được
bổ sung bằng tệ ngoại tình và nạn mại dâm. Ở giai đoạn cao của thời đại
dã man, thì giữa chế độ hôn nhân cặp đôi và chế độ một vợ một chồng, có
xen kẽ sự thống trị của người đàn ông đối với nữ nô lệ và chế độ nhiều vợ.
[1, tr.117]
Chính vì mang tính lịch sử, quan hệ HN&GĐ phản ánh các đặc điểm, đặc
trưng và có vai trò lịch sử nhất định đối với mỗi giai đoạn phát triển của xã hội. Tất
cả những điều đó được thực hiện thông qua các chức năng xã hội cơ bản của gia
đình: chức năng sinh đẻ, chức năng giáo dục và chức năng kinh tế. Việc duy trì tốt
các mối quan hệ trong gia đình mà nền tảng là quan hệ hôn nhân không những góp
phần mang lại những lợi ích của bản thân các thành viên trong gia đình mà còn gắn
liền với lợi ích của Nhà nước, của toàn xã hội. Nhà nước luôn phải sử dụng pháp
luật để điều chỉnh các khía cạnh của quan hệ HN&GĐ. Sự điều chỉnh này ở mỗi
Nhà nước, mỗi chế độ là khác nhau. Nó có thể là sự quy định rõ ràng bằng quy
phạm pháp luật hoặc thừa nhận bằng tập quán. Nhà nước đã kiểm soát được quyền
tự do kết hôn của công dân bằng cách đặt ra các quy định công dân phải xác lập
quan hệ vợ chồng như thế nào, tuân thủ những điều kiện, thủ tục gì. Điển hình
trong các quy định đó chính là quy định về kết hôn và điều kiện kết hôn.
Luật HN&GĐ năm 1959 và Luật HN&GĐ năm 1986 đã quy định về chế định
kết hôn nhưng không giải thích cụ thể về thuật ngữ “kết hôn”. Khắc phục điều này,
Luật HN&GĐ năm 2000 đã đưa ra định nghĩa “kết hôn là việc nam và nữ xác lập
quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết

hôn” (khoản 2, Điều 8). Việc xác lập quan hệ vợ chồng phải dựa trên yếu tố tình
cảm thương yêu, gắn bó giữa hai bên nam, nữ; họ mong muốn xây dựng gia đình
hạnh phúc với nhau. Như vậy, bên cạnh các điều kiện về nội dung: tuổi kết hôn,
đảm bảo sự tự nguyện của hai bên nam và nữ, không vi phạm điều khoản cấm kết
hôn…, còn có điều kiện về hình thức kết hôn.
1.1.2. Quy định về việc đăng ký kết hôn
Hiện tại chưa có một văn bản pháp luật nào định nghĩa hay giải thích cho
thuật ngữ “đăng ký kết hôn”. Từ điển Tiếng Việt có giải thích “đăng ký là ghi vào
sổ của Cơ quan quản lý để chính thức được công nhận cho hưởng quyền lợi hay làm
nghĩa vụ”. Theo đó, có thể hiểu đăng ký kết hôn là thủ tục do các bên nam nữ thực
hiện tại cơ quan có thẩm quyền, từ đó sẽ phát sinh các quyền và nghĩa vụ của vợ
chồng trước pháp luật.
Pháp luật HN&GĐ của Nhà nước ta từ năm 1945 đến nay quy định khá đầy
đủ về việc đăng ký kết hôn. Cụ thể là, Điều 11 Luật HN&GĐ năm 1959, Điều 8
Luật HN&GĐ năm 1986 và Điều 11 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định:
Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
(sau đây gọi là cơ quan đăng ký kết hôn) thực hiện theo nghi thức quy định
tại Điều 14 của Luật này.
Mọi nghi thức kết hôn không theo quy định tại Điều 14 của Luật này đều
không có giá trị pháp lý.
Nam nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì
không được pháp luật công nhận là vợ chồng.
Vợ chồng đã ly hôn muốn kết hôn lại với nhau cũng phải đăng ký kết hôn.
Sở dĩ, Nhà nước ta quy định đăng ký kết hôn là thủ tục pháp lý bắt buộc khi
hai bên nam, nữ muốn xác lập quan hệ vợ chồng bởi những lí do sau:
- Thứ nhất, thông qua việc đăng ký kết hôn, Nhà nước sẽ kiểm soát việc tuân
theo pháp luật của công dân, xét xem họ có tuân thủ các điều kiện kết hôn theo quy
định hay không, do đó có thể hạn chế được các trường hợp kết hôn trái pháp luật
như: tảo hôn; vi phạm chế độ Hôn nhân một vợ, một chồng; kết hôn do một bên bị
ép buộc hoặc lừa dối,…

- Thứ hai, đăng ký kết hôn là một trong các hoạt động quản lý hành chính
Nhà nước về công tác hộ tịch (khai sinh; khai tử; nhận cha, mẹ, con…) Bởi vậy
thực hiện tốt việc đăng ký kết hôn sẽ góp phần giúp cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền quản lý công tác hộ tịch ở địa phương.
- Thứ ba, việc cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận kết hôn là sự kiện
pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật HN&GĐ giữa vợ và chồng, bao gồm các
quan hệ về nhân thân và tài sản. Giấy chứng nhận kết hôn là cơ sở pháp lý để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi bên vợ, chồng.
Mọi nghi thức kết hôn khác như tổ chức lễ cưới tại gia đình hoặc kết hôn theo
phong tục tập quán, tiến hành theo nghi lễ tôn giáo tại nhà thờ mà không có Giấy
chứng nhận kết hôn do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp thì không được công
nhận là hợp pháp. Như vậy, việc kết hôn phải được đăng ký tại cơ quan đăng ký kết
hôn thì mới có giá trị pháp lý, hai bên nam nữ mới phát sinh quyền và nghĩa vụ
giữa vợ chồng với nhau.
Về thủ tục đăng ký kết hôn, Điều 14 Luật HN&GĐ quy định:
Khi tổ chức đăng ký kết hôn phải có mặt hai bên nam, nữ kết hôn. Đại diện
cơ quan đăng ký kết hôn yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết
hôn, nếu hai bên đồng ý kết hôn thì đại diện cơ quan đăng ký kết hôn trao
Giấy chứng nhận kết hôn cho hai bên.
Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27
tháng 12 năm 2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch. Theo đó, việc đăng ký kết hôn
được quy định tại Mục 2, Chương II như sau:
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký kết hôn là Ủy ban nhân dân cấp xã,
nơi cư trú của bên nam hoặc bên nữ thực hiện việc đăng ký kết hôn (Điều 17)
Khi đăng ký kết hôn, hai bên nam nữ phải nộp tờ khai và xuất trình Giấy
chứng minh nhân dân.
Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, nếu có đủ điều kiện
kết hôn theo quy định của Luật HN&GĐ thì hai bên nam nữ sẽ được ký vào Giấy
chứng nhận kết hôn và Sổ đăng ký kết hôn, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ký và
cấp cho mỗi bên vợ, chồng một bản chính Giấy chứng nhận kết hôn. Trong trường

hợp cần phải xác minh thêm thì thời hạn nói trên có thể được kéo dài không quá 5
ngày. (Điều 18)
1.2. KHÁI QUÁT VỀ VẤN ĐỀ NAM NỮ CHUNG SỐNG NHƯ VỢ
CHỒNG MÀ KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN
1.2.1. Hành vi chung sống như vợ chồng của nam nữ
Nam nữ chung sống như vợ chồng là hành vi của hai bên nam nữ, tuy không
phải là vợ chồng nhưng đã ăn ở với nhau và coi nhau là vợ chồng. Họ liên kết với
nhau trên cơ sở tự nguyện và không đăng ký kết hôn. Qua việc nghiên cứu một số
vấn đề lý luận về hôn nhân, kết hôn và đăng ký kết hôn ở phần trên, chúng ta có thể
khẳng định một nguyên tắc, đó là việc kết hôn chỉ có giá trị pháp lý khi hai bên
nam nữ tuân thủ các quy định của pháp luật về kết hôn và đăng ký kết hôn. Như
vậy, nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền thì sẽ không được công nhận là vợ chồng trước pháp luật. Tuy
nhiên, trên thực tế, các bên chung sống vẫn coi nhau là vợ chồng và mọi người
xung quanh vẫn cho rằng họ là vợ chồng của nhau.
Chung sống như vợ chồng có thể được chia làm hai dạng cơ bản: chung sống
như vợ chồng không trái pháp luật và chung sống như vợ chồng trái pháp luật.
- Chung sống như vợ chồng không trái pháp luật: là việc nam nữ chung
sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn mặc dù có đủ điều kiện kết hôn. Có
nhiều trường hợp nam, nữ thực sự muốn là vợ chồng của nhau, muốn được yêu
thương, chăm sóc và thực hiện nghĩa vụ giữa vợ và chồng với nhau nhưng họ lại
không đăng ký kết hôn vì nghĩ là không cần thiết. Ngoài ra, những năm gần đây
nổi lên tình trạng “sống thử” của giới trẻ, hay còn có tên gọi khác là “hôn nhân thử
nghiệm”. Những người này có đủ điều kiện kết hôn nhưng chưa đăng ký kết hôn
mà chung sống như vợ chồng với quan niệm “thử” là vợ chồng, nếu hợp nhau thì
đăng ký kết hôn, không hợp thì chia tay. Bên cạnh đó, còn có một bộ phận nam nữ
thanh niên có đủ điều kiện kết hôn nhưng không mong muốn là vợ chồng mà chỉ
chung sống với nhau nhằm thỏa mãn một số lợi ích nhất định. Những hình thức
chung sống như vợ chồng như trên đã trực tiếp hay gián tiếp làm mất dần đi thuần
phong mỹ tục của người Việt từ xưa tới nay.

- Chung sống như vợ chồng trái pháp luật: là việc nam nữ chung sống như
vợ chồng không đăng ký kết hôn và không có đủ điều kiện để được kết hôn. Trong
thực tế, có những trường hợp vì nhiều nguyên nhân, lý do khác nhau mà nam nữ
muốn kết hôn khi một bên hoặc cả hai bên chưa đến tuổi kết hôn theo quy định của
pháp luật. Đối với các trường hợp này thì họ thường tổ chức “cưới chui”. Bởi vì,
bản thân nam nữ và gia đình biết rằng nếu có yêu cầu đăng ký kết hôn thì cơ quan
đăng ký kết hôn cũng sẽ từ chối việc đăng ký kết hôn cho họ. Hoặc có thể nam nữ
cũng đã yêu cầu được đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền nhưng đã bị từ
chối. Cũng có thể là từ phía cha mẹ già muốn cho con yên bề gia thất để khi nhắm
mắt xuôi tay được yên lòng nên họ đã tổ chức lễ cưới cho con khi con chưa đến
tuổi kết hôn. Có thể, có trường hợp gia đình ít người, muốn có người để phụ giúp
việc nên đã lấy vợ, lấy chồng cho con khi con chưa đến tuổi kết hôn. Khi tổ chức
lễ cưới, có thể nam nữ hoặc gia đình có ý nghĩ rằng tổ chức lễ cưới trước rồi khi
nào đủ tuổi kết hôn sẽ đi đăng ký sau. Nhưng sau khi cưới, hai bên nam nữ lại
không có ý định đi đăng ký kết hôn nữa. Như vậy, chính họ đã coi quan hệ của
mình là vợ chồng, và bạn bè, hàng xóm cũng mặc nhiên coi họ là vợ chồng của
nhau.
Trước khi Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực, những trường hợp nam nữ
chung sống như vợ chồng có đủ điều kiện kết hôn mà không đăng ký kết hôn thì
được coi là “hôn nhân thực tế”, gọi là “hôn nhân” tức là Nhà nước đã thừa nhận đó
là quan hệ vợ chồng.
“Hôn nhân thực tế” là thuật ngữ chỉ quan hệ hôn nhân được xác lập trên cơ sở
các bên nam, nữ không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nhưng có đủ
các điều kiện kết hôn. Dù không có Giấy chứng nhận kết hôn, các bên nam, nữ vẫn
chung sống với nhau như vợ chồng, thực hiện các quyền, nghĩa vụ với gia đình và
xã hội.
Theo quan điểm của nhà làm luật Việt Nam, đăng ký kết hôn là thủ tục pháp
lý bắt buộc, song trong một số trường hợp vẫn phải thừa nhận “hôn nhân thực tế”
xuất phát từ những lí do như: do tác động của điều kiện lịch sử trong thời gian đất
nước có chiến tranh; do ảnh hưởng của tôn giáo, phong tục, tập quán….Với những

lí do này mà nhiều đôi nam nữ đã về chung sống như vợ chồng với nhau mà không
thực hiện việc đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền. Việc Nhà nước công
nhận “hôn nhân thực tế” giữa những người này là để bảo vệ cho những quyền lợi
về nhân thân và tài sản giữa họ, hơn nữa là bảo vệ cho quyền lợi của phụ nữ và trẻ
em “phòng khi” cuộc hôn nhân không đạt được mục đích tốt đẹp của nó, các bên
không thể sống chung với nhau nữa và có yêu cầu ly hôn, chấm dứt quan hệ giữa
họ.
Luật HN&GĐ năm 2000 ra đời đã không công nhận vấn đề “hôn nhân thực
tế” đối với các trường hợp nam và nữ bắt đầu chung sống như vợ chồng từ ngày
01/01/2001 trở đi (ngày Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực) là dựa trên những cơ
sở lý luận và cơ sở thực tiễn nhất định. “Hôn nhân thực tế” là một hiện tượng xã
hội mà phần nhiều do yếu tố khách quan lịch sử quy định, cho đến thời điểm Luật
HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực thì các yếu tố khách quan này đã thay đổi. Thực tế
cho thấy, sự phát triển của đời sống xã hội và pháp luật đã từng bước đi vào đời
sống nhân dân, đã khiến cho vấn đề “hôn nhân thực tế” được nhìn nhận lại. Tuy
nhiên, theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 ban hành ngày 09/06/2000 của Quốc hội
thì những trường hợp nam nữ chung sống trước ngày 03/01/1987 vẫn được công
nhận là hôn nhân thực tế.
Cơ sở lý luận của việc không thừa nhận “hôn nhân thực tế” xuất phát từ vai
trò của việc đăng ký kết hôn. Đăng ký kết hôn tạo ra một trật tự pháp lý ổn định
trong việc xác lập mối quan hệ vợ chồng, thực hiện nguyên tắc hôn nhân tự nguyện
và tiến bộ; tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ quan
hệ vợ chồng. Tất cả những điều đó đã khẳng định đăng ký kết hôn là một chế định
pháp lý có tính chất bắt buộc để công nhận một cuộc hôn nhân có giá trị pháp lý, và
Luật HN&GĐ năm 2000 đã không công nhận vấn đề “hôn nhân thực tế” đối với
các trường hợp chung sống như vợ chồng từ ngày 01/01/2001 trở về sau.
Cơ sở thực tiễn của việc không thừa nhận “hôn nhân thực tế” là do sự biến
đổi nhiều mặt của tình hình kinh tế - xã hội của đất nước những năm qua đã đem lại
nhiều tác động to lớn, khiến cho việc đăng ký kết hôn có điều kiện thực hiện thuận
lợi: nền kinh tế phát triển, chất lượng cuộc sống của người dân được nâng lên rõ

rệt, do đó trình độ hiểu biết pháp luật nói chung và pháp luật HN&GĐ nói riêng
cũng được nâng cao; công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật được chú
trọng hơn đã góp phần đưa các quy định của pháp luật tới gần với nhân dân, ý thức
làm theo pháp luật của người dân được cải thiện;...
Xuất phát từ các cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, Điều 11 Luật HN&GĐ
năm 2000 khẳng định: “nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau
như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng.”
Như vậy, quan điểm không công nhận là vợ chồng theo pháp luật đối với các
trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng từ sau ngày 01/01/2001 là hoàn toàn
đúng đắn, xét trên các góc độ:
- Thứ nhất, nếu thừa nhận hôn nhân thực tế, tức là cho phép xác lập quan hệ
vợ chồng mà không cần đăng ký kết hôn thì các quy định về việc đăng ký kết hôn
sẽ không bảo đảm được hiệu lực thi hành, tức là không bảo đảm được tính pháp chế
xã hội chủ nghĩa
- Thứ hai, việc thừa nhận hôn nhân thực tế sẽ gây ra những khó khăn, vướng
mắc trong việc giải quyết các tranh chấp về nhân thân và tài sản phát sinh từ quan
hệ HN&GĐ, làm cho tính thống nhất trong việc xét xử của Tòa án không được đảm
bảo.
- Thứ ba, việc thừa nhận “hôn nhân thực tế” sẽ gây ảnh hưởng đến hiệu quả
của công tác quản lý Nhà nước về hộ tịch; việc quản lý hộ tịch và nhân khẩu ở địa
phương sẽ không tránh khỏi tình trạng lơi lỏng, bị bỏ xót.
Như vậy, Luật HN&GĐ năm 2000 đã hoàn toàn có đủ cơ sở lý luận và thực
tiễn để không thừa nhận hôn nhân thực tế và bắt buộc thực hiện quy định về đăng
ký kết hôn. Tuy nhiên, để đạt được điều này thì bên cạnh quan điểm nhất quán
cũng cần phải thực hiện nhiều biện pháp mang tính hỗ trợ thiết thực như: không
ngừng tuyên truyền, giáo dục, giải thích về ý nghĩa của việc đăng ký kết hôn, tạo
mọi điều kiện để việc đăng ký kết hôn được dễ dàng, thuận lợi, đặc biệt là đối với
nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
1.2.2. Thực trạng nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết
hôn ở Việt Nam hiện nay

* Thực trạng nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn giai
đoạn trước khi Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực
Theo kết quả điều tra 8 năm thực hiện Luật HN&GĐ năm 1986 do Bộ tư
pháp tiến hành và số liệu điều tra của các cơ quan chức năng có liên quan cho thấy
thực trạng chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết hôn ở nước ta đã trở
thành một hiện tượng xã hội khá phổ biến và hiện ngày càng có xu hướng phát triển
phức tạp cả về số lượng và tính chất quan hệ. Theo Báo cáo tổng kết 8 năm thi
hành Luật HN&GĐ năm 1986, số liệu đã thống kê được như sau:
- Số lượng cặp vợ chồng chung sống không đăng ký kết hôn nhiều nhất ở hai
dân tộc H’mông và Dao tại Lào Cai, có tới 90% trên tổng số cặp vợ chồng không
đăng ký.
- Tại An Giang, Hà Tây, một số xã vùng sâu của tỉnh Tiền Giang có tỉ lệ nam
nữ chung sống khá cao, chiếm khoảng 50% trên tổng số các cặp vợ chồng.
- Tại Thành phố Hồ Chí Minh, từ năm 1986 đến tháng 06/1995 ước tính có
khoảng 12.712 đôi vợ chồng chung sống với nhau sau đó mới đi đăng ký kết hôn.
Có khoảng 10.418 trường hợp chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết
hôn.
- Tại tỉnh Kiên Giang có khoảng 12.285 trường hợp chung sống như vợ
chồng.
- Tại tỉnh Long An có khoảng 9.514 cặp vợ chồng không đăng ký.
Trên đây là một vài con số minh họa cho tình trạng nam, nữ chung sống như
vợ chồng mà không đăng ký kết hôn trong giai đoạn trước năm 2000, khi Luật
HN&GĐ có hiệu lực. Chắc rằng, trong thực tế còn có rất nhiều những trường hợp
khác chưa được rà soát tới. Điều đó cho thấy tình trạng chung sống như vợ chồng
mà không đăng ký kết hôn có xu hướng tăng nhanh về số lượng, phức tạp về hình
thức biểu hiện của mối quan hệ. Đồng thời, không phân biệt về vị trí địa lý và
không gian lãnh thổ, số lượng tăng mạnh mẽ diễn ra ở hầu khắp các địa phương,
tỉnh thành.
* Thực trạng nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn giai
đoạn sau khi Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực

Theo Chỉ thị số 02/2003/CT-BTP ngày 14/7/2003 của Bộ trưởng Bộ tư pháp
thì từ khi Luật HN&GĐ năm 2000 cũng như các văn bản hướng dẫn áp dụng ra
đời, dưới sự quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp, sự cố
gắng, nỗ lực của các cơ quan tư pháp địa phương, sự tham gia tích cực của các tổ
chức, đoàn thể quần chúng, làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân cũng
như thực hiện nhiều hình thức đăng ký kết hôn phong phú như tổ chức ngày đăng
ký kết hôn, đăng ký lưu động tại thôn, ấp, bản, làng… nên các địa phương đã rà
soát, lập danh sách và đăng ký kết hôn cho phần lớn các trường hợp nam và nữ
chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 01 năm 1987 đến ngày 01
tháng 01 năm 2001 mà có đủ điều kiện đăng ký kết hôn. Do vậy, số lượng các
trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn đã được
giảm một cách đáng kể.
Tuy nhiên, do số lượng các trường hợp phải đăng ký kết hôn theo mục 3 Nghị
quyết số 35/2000/QH10 quá lớn, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại sự thiếu tích cực, chủ
động ở một số địa phương nên trong cả nước còn không ít trường hợp đã được rà
soát, lập danh sách nhưng chưa được đăng ký kết hôn.
Theo một vài số liệu thống kê: ở Lào Cai có tới 90% các cặp vợ chồng chung
sống với nhau mà không đăng ký kết hôn [21]; ở Điện Biên, con số của Sở Tư pháp
Điện Biên đưa ra là 35.022 cặp hôn nhân thực tế, 8000 cặp không đăng ký hoặc
không đủ điều kiện đăng ký kết hôn, tỉ lệ không đăng ký kết hôn tính trung bình là
19% [17]; ở Hải Phòng tính đến năm 2003 thì tỉ lệ này là 3,7% [16]…
Việc điều tra tình trạng chung sống như vợ chồng ở mỗi tỉnh để tìm ra được
một con số chính xác tỉ lệ các trường hợp chưa tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn có
thể được coi là bất khả thi, bởi chỉ tới khi các bên có mâu thuẫn và yêu cầu Tòa án
giải quyết thì lúc đó quan hệ chung sống như vợ chồng của họ mới thực sự được
làm rõ.
Chung sống như vợ chồng giữa nam và nữ mang tính quy luật của tự nhiên,
đó là sự hướng tới nhau, gắn bó và liên kết giữa hai loài khác giống [1, tr.130] do
đó nó đã, đang và sẽ tồn tại trong xã hội của chúng ta. Mặt khác, đây cũng là một
quan hệ bị chi phối bởi các điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa, phong tục, tập

quán…. Do đó nhiệm vụ của mỗi quốc gia là phải sử dụng pháp luật sao cho thật
hiệu quả để hạn chế quan hệ này trong thực tế cuộc sống.
1.2.3. Nguyên nhân dẫn đến việc nam nữ chung sống như vợ chồng hiện
nay
Việc nam nữ chung sống như vợ chồng hiện nay có thể bắt nguồn từ nhiều
nguyên nhân khác nhau, xin đưa ra một số nguyên nhân cơ bản.
* Do tác động của xu thế hội nhập, toàn cầu hóa
Như tất cả các quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam là chủ thể của quan hệ
kinh tế quốc tế nên không đứng ngoài xu hướng hội nhập kinh tế khu vực và quốc
tế.
Trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001), Đảng ta nhận định:
“toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước
tham gia; xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản
xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có
mặt tiêu cực…” Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X (năm 2006) lại tiếp tục đưa ra
nhận định: “toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng
nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là
các nước đang phát triển.”
Xu hướng toàn cầu hóa tác động đến hàng loạt các lĩnh vực như: chính trị,
kinh tế, xã hội, văn hóa… Xét đến góc độ văn hóa, có thể coi đây là quá trình “Tây
hóa”. Song song với sự tự do hóa thương mại thì tự do văn hóa cũng được mở rộng,
đi đôi với những thành tựu đáng kể về mặt kinh tế và thương mại thị một số nét văn
hóa phương Tây tiêu cực cũng đã xâm nhập vào Việt Nam. Và một trong những
yếu tố chịu sự tác động rất lớn của văn hóa phương Tây chính là mô hình gia đình
truyền thống nhiều thế hệ cùng với những quan niệm đẹp đẽ về HN&GĐ. Người ta
vẫn thường lấy một cách gọi chung là “lối sống phương Tây” cho một số hành vi
đang được coi là nan giải trong giới trẻ ngày nay như: sống thử, sống thực dụng,
buông thả,….
Việt Nam được coi là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ
thông tin nhanh chóng, các trò chơi điện tử trực tuyến - game online, nói chuyện

trên mạng bằng chat voice (nói chuyện qua internet), chat webcam (vừa nói chuyện
vừa xem hình của “đối phương” qua internet); thêm vào đó là các website tìm bạn,
tìm người yêu qua mạng,… đã tạo điều kiện cho nam nữ tiếp cận nhau nhanh hơn,
dễ dàng hơn từ đó góp phần đẩy nhanh số lượng nam, nữ chung sống như vợ
chồng.
Bên cạnh đó, nền kinh tế thị trường, công nghiệp hóa - hiện đại hoá càng
ngày càng gia tăng thêm nhiều áp lực đến mỗi cá nhân và mỗi gia đình như áp lực
việc làm, cạnh tranh lao động; sự thích nghi với mọi môi trường, hoàn cảnh. Với
gia đình, càng ngày xu hướng tách rời, độc lập giữa con cái, cha mẹ, các thế hệ
trong gia đình với nhau càng rõ nét. Thế nên, một cá nhân dễ dàng thiết lập một
mối quan hệ mới và cũng dễ dàng phá vỡ nó.
Những phân tích trên cho thấy, sự phát triển của tình hình kinh tế - xã hội
được thúc đẩy bởi xu thế hội nhập kinh tế, toàn cầu hóa đã tạo ra hàng loạt các yếu
tố cùng tác động đến mỗi cá nhân, mỗi gia đình. Đó là những cơ sở, điều kiện để
cho việc chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn ngày càng gia tăng.
* Do ảnh hưởng của phong tục tập quán, hủ tục lạc hậu
Trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay, mặc dù trình độ văn hóa nói chung
cao hơn, song ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thì trình độ văn hóa vẫn
còn thấp, đời sống HN&GĐ của một số đồng bào dân tộc thiểu số còn bị chi phối
nặng nề của phong tục tập quán do đó ảnh hưởng của các quy định pháp luật tới
nhận thức của đồng bào chưa rõ rệt, đồng bào còn chưa thấy rõ được ý nghĩa của
việc đăng ký kết hôn đối với quan hệ vợ chồng. Cuộc sống của vợ chồng phần
nhiều được quyết định theo phong tục tập quán, quan niệm đạo đức truyền thống.
Những phong tục tập quán đó có dấu ấn sâu sắc trong đời sống của đồng bào dân
tộc, một mặt nó tạo ra bản sắc dân tộc riêng, nhưng mặt khác nó cũng gây ra những
cản trở nhất định đến việc tiếp nhận các quy phạm pháp luật, tiếp nhận những nét
văn hóa mới. Có thể kể ra một số phong tục cưới xin hiện nay được coi là trái với
quy định của pháp luật HN&GĐ, nhưng nó vẫn đã và đang tồn tại, ăn sâu vào đời
sống của đồng bào dân tộc thiểu số.
Luật tục của người Ê đê ở Tây Nguyên có phong tục khi cưới vợ, cưới chồng

cho con trai, con gái thì nhà đó phải làm cỗ mời cả làng đến dự và chứng kiến, nếu
nhà nghèo thì dân làng sẽ đóng góp cho, hai bên nam nữ lấy nhau không đăng ký
kết hôn tại UBND. Những cuộc hôn nhân không tiến hành đúng nghi lễ này thì sẽ
bị dân làng, dòng họ dùng luật tục để bắt phải tổ chức kết hôn lại.
Theo tập tục của người Thái, hôn nhân chỉ được nhà nước công nhận sau khi
đã tổ chức nghi lễ cưới xin truyền thống. Để tổ chức nghi lễ này, nhà trai phải mang
sang nhà gái “cống vật” bao gồm một lượng lớn thực phẩm, gia súc, rượu và một
khoản tiền nhất định để lấy được người con dâu, nếu nhà trai đáp ứng được những
đòi hỏi này của nhà gái thì lúc đó cô dâu, chú rể mới chính thức trở thành vợ
chồng.
Ngoài ra, còn có một số dân tộc vẫn duy trì tục cướp vợ - cướp con gái nhà
người khác về làm vợ mình mà không cần phải tuân theo các điều kiện về kết hôn,
tức là không quan tâm đến sự tự nguyện của “đối tượng” kia, chứ chưa tính đến
việc họ còn không tuân thủ quy định của Luật HN&GĐ về việc đăng ký kết hôn.
Qua một số ví dụ trên, có thể thấy: một vài dân tộc thiểu số ở nước ta coi lễ
cưới theo phong tục tập quán có ý nghĩa quan trọng hơn nghi lễ kết hôn do Nhà
nước quy định; họ có thể tự cho mình quyền không phải thực hiện việc đăng ký kết
hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Như vậy, phong tục tập quán đã trở
thành một rào cản cho việc trở thành vợ chồng trước pháp luật của hai bên nam nữ.
* Do xuất phát từ yếu tố tâm lý chủ quan của hai bên nam, nữ
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, việc không đăng ký kết hôn còn có một
nguyên nhân khác: đó là sự chủ động lựa chọn của hai bên nam nữ, họ không muốn
đăng ký kết hôn vì không muốn thực hiện thủ tục này. Có nhiều lý do để lý giải cho
việc làm đó:
- Có nhiều trường hợp việc chung sống như vợ chồng diễn ra giữa những
người phụ nữ và đàn ông đã từng trải qua một cuộc hôn nhân trước đó. Họ không
thấy sự cần thiết của việc đăng ký kết hôn khi chung sống với người khác giới,
hoặc cho rằng có đủ chín chắn để quyết định cho những việc làm của mình, tin
tưởng rằng đời sống chung của họ sẽ êm đềm, không xảy ra mâu thuẫn trầm trọng.
Cũng trong hoàn cảnh đó, một số người tuổi đã ở tuổi “xế chiều”, họ tự nguyện

chung sống để giúp đỡ nhau nhưng do e ngại với những người khác về tình trạng
“rổ giá cạp lại” nên đã không đăng ký kết hôn.
- Trong thực tế có không ít trường hợp khi bản án ly hôn của Tòa án có hiệu
lực một thời gian thì họ lại quay trở về chung sống với nhau. Về nguyên tắc, vợ
chồng đã ly hôn mà muốn quay lại với nhau thì phải đăng ký kết hôn. Tuy nhiên,
do ngại ngùng hoặc không ý thức được sự cần thiết của việc đăng ký kết hôn nên
họ quyết định không đi đăng ký kết hôn nữa mà về chung sống lại với nhau.
- Có một xu hướng khác, nhất là trong giới trẻ, họ cảm thấy mệt mỏi với
những mối quan hệ chặt chẽ của hôn nhân hợp pháp, không muốn đăng ký kết hôn
để có thể có một lối ra dễ dàng khi họ không muốn ràng buộc nhau nữa.
- Tình trạng nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
còn xảy ra ở một bộ phận sinh viên ra các tỉnh, thành phố lớn để học tập. Do sống
xa nhà, thiếu thốn cả về điều kiện vật chất và tinh thần. Họ đã chọn giải pháp chung
sống như vợ chồng để giải quyết những khó khăn của mình.
- Cuối cùng, phải kể đến đó là những trường hợp nam nữ do không có đủ điều
kiện kết hôn theo luật định như: trường hợp đã có vợ, có chồng nhưng lại muốn
chung sống với người khác; hay trường hợp nam, nữ chưa đủ tuổi kết hôn nên
muốn “cưới chui”,… Tất cả những lý do đó khiến cho họ đi đến quyết định chung
sống với nhau như vợ chồng mà bỏ qua thủ tục đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền
của Nhà nước.
* Do các quy định của pháp luật chưa hiệu quả
Nguyên tắc “không thừa nhận hôn nhân thực tế” được quy định ở Điều 11
Luật HN&GĐ năm 2000. Tiếp theo đó là hàng loạt các văn bản hướng dẫn thi hành
Luật HN&GĐ: Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/06/2000 của Quốc hội;
Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001
của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp… Như
vậy là các quy định pháp luật đã rất rõ ràng, chi tiết nhưng tại sao số lượng các
trường hợp không đăng ký vẫn gia tăng, thậm chí với số lượng ngày một nhanh.
Phải chăng quy định của pháp luật chưa thực sự hiệu quả và chưa dự liệu được hết
thực tế cuộc sống? Có thể thấy các văn bản dưới luật nói trên đều quy định rõ ràng

về việc giải quyết về mặt pháp luật đối với “hôn nhân thực tế” cũng như đường lối
giải quyết tình trạng này. Tuy vậy, vẫn không tránh khỏi những hạn chế:
Việc ra đời của các quy định trên cũng nhằm để giải quyết thực tiễn xét xử
đang bức xúc của ngành Tòa án; do quan điểm giải quyết khác nhau của Tòa án các
cấp, các địa phương về vấn đề công nhận hôn nhân thực tế chưa có sự thống nhất
giải quyết ở cùng một nội dung vụ việc. Chính vì vậy, phần nhiều những văn bản
này nghiêng về quy định giải thích như thế nào là hôn nhân thực tế.
Pháp luật quy định chế tài do vi phạm các quy định về HN&GĐ hiện nay
gồm có Nghị định 87/2001/NĐ-CP ngày 21/11/2001 của Chính phủ về việc xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực HN&GĐ và Bộ luật hình sự năm 1999 (Chương
XV - các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình), trong đó có quy định về
“hành vi vi phạm trong việc đăng ký kết hôn” tại Điều 9 của Nghị định
87/2001/NĐ-CP và quy định tội “đăng ký kết hôn trái pháp luật” tại Điều 149 Bộ
luật hình sự. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự quy định các dấu hiệu về mặt khách quan
của hành vi được liệt kê bao gồm: sửa chữa, làm sai lệch nội dung, giả mạo giấy tờ
để đăng ký kết hôn nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, cố ý khai
gian dối hoặc có hành vi lừa dối khác,… và xác nhận sự kiện kết hôn cho người
mình biết rõ là không đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật; và chủ thể
của các hành vi trên chủ yếu là người có thẩm quyền trong việc đăng ký kết hôn
(người cấp Giấy chứng nhận kết hôn và ghi vào Sổ đăng ký kết hôn) mà chưa hề có
chế tài với người xác lập quan hệ vợ chồng mà không đăng ký kết hôn tại cơ quan
có thẩm quyền. Pháp luật nên quy định những chế tài nghiêm khắc đối với các bên
trong quan hệ chung sống như vợ chồng trái pháp luật, theo mức trách nhiệm hành
chính hoặc trách nhiệm hình sự tăng dần tương ứng với hậu quả nghiêm trọng mà
hành vi đó gây ra.
Từ đây, có thể thấy rằng để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật thì
những hạn chế của pháp luật cần phải được khắc phục. Như vậy, hiệu lực thi hành
của các văn bản pháp luật mới được nâng cao, người dân mới có ý thức tôn trọng
và thực hiện pháp luật.
Trên đây là những nguyên nhân lý giải vì sao mà dù điều kiện kinh tế, xã hội

của đất nước hiện nay đã phát triển nhưng tình trạng chung sống như vợ chồng vẫn
đang gia tăng và có tác động xấu đến đời sống gia đình và xã hội.

1.3. PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VỀ VẤN ĐỀ NAM
NỮ CHUNG SỐNG NHƯ VỢ CHỒNG
Thế kỷ 21 là thế kỷ mà quyền tự do cá nhân được đề cao hơn bao giờ hết. Ở
hầu hết các nước trên thế giới, cũng như ở Việt Nam, hiện tượng nam nữ chung
sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn đang diễn ra phổ biến. Do điều kinh
tế, chính trị, xã hội của từng nước là khác nhau nên việc nhìn nhìn nhận của pháp
luật mỗi nước về vấn đề nam nữ chung sống như vợ chồng là khác nhau.
1.3.1. Sự điều chỉnh đối với quan hệ chung sống như vợ chồng ở Anh
quốc
Tại Anh, hiện tượng nam nữ chung sống như vợ chồng được điều chỉnh bởi
pháp luật HN&GĐ.
Sự chung sống như vợ chồng của những phụ nữ đã ly hôn trước khi kết hôn
lần thứ hai gần như là quy tắc xử sự hiện nay, áp dụng cho 70% các trường hợp kết
hôn như vậy. Bên cạnh đó, những phụ nữ chưa một lần kết hôn chung sống như vợ
chồng với một người nam giới trước khi họ tiến hành kết hôn ngày càng trở thành
phổ biến, từ 7% năm 1970 tăng đến 48% vào năm 1987 [20]. Cho đến nay, con số
này còn tăng lên nhiều.
Từ thực tế đó, Quốc hội Anh đã ban hành những đạo luật khác nhau dẫn đến
sự thay đổi về mức độ công nhận đối với hiện tượng chung sống như vợ chồng mà
không đăng ký kết hôn ở công dân.
Trước đây, pháp luật Anh không công nhận những người ăn ở với nhau như
vợ chồng mà không kết hôn là vợ chồng, dưới góc độ pháp luật các bên chung sống
như vợ chồng không có tư cách pháp lý của các cặp đã kết hôn, vì vậy mối quan hệ
giữa họ không thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật HN&GĐ, đồng thời những
người chung sống như vợ chồng mà không kết hôn cũng không chịu sự điều chỉnh
của bất kỳ một đạo luật hoặc một quy chế pháp lý nào. Do vậy, giữa họ không phát
sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý đối với nhau.

Hiện nay, sự nhìn nhận về việc chung sống như vợ chồng đã có sự thay đổi.
Những quy định về sự ăn ở với nhau như vợ chồng đã được ban hành (cohabitation
rule), trong đó, vấn đề tài sản giữa các bên chung sống phải được đối xử như giữa
vợ chồng với nhau. Các nguyên tắc phân chia tài sản và cấp dưỡng cũng được áp
dụng như các trường hợp kết hôn. Khi việc chung sống bị tan vỡ thì quyền, lợi ích
hợp pháp của trẻ em phải được bảo vệ như đối với trẻ em của các cặp kết hôn. Các
vấn đề như cấp dưỡng, bảo đảm việc hoc hành, vui chơi, giải trí của trẻ em do các
cặp chung sống sinh ra phải được quan tâm.
Như vậy, mặc dù pháp luật Anh không công nhận các bên chung sống mà
không đăng ký kết hôn là vợ chồng nhưng lại có các quy định riêng điều chỉnh
quan hệ này nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia, của trẻ em
được sinh ra từ quan hệ đó và bảo vệ an ninh xã hội.
1.3.2. Sự điều chỉnh đối với quan hệ chung sống như vợ chồng ở Mỹ
Khác với nước Anh, pháp luật của Mỹ cho rằng hôn nhân là một hợp đồng
dân sự được ký kết giữa một người nam và một người nữ làm phát sinh các quyền
và nghĩa vụ giữa vợ chồng với nhau, hợp đồng này được lập nên và giải thể theo
nghi thức trang trọng hơn hợp đồng thông thường. Trong đó, kết hôn là một sự kiện
bắt buộc phải được tiến hành tại nhà thờ hoặc tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Sở dĩ nhà làm luật của Mỹ không coi quan hệ nam nữ chung sống như vợ
chồng mà không đăng ký kết hôn thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật HN&GĐ
bởi tác động xấu của quan hệ này tới đời sống gia đình và xã hội, thuật ngữ “living
together outside of marriage” (chung sống ngoài hôn nhân) được sử dụng để không
thừa nhận tư cách vợ chồng giữa các bên, do đó các bên không được hưởng các
quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản mà pháp luật quy định cho các vợ chồng
trong hôn nhân hợp pháp.
Ở một số bang như: Ohio, Texas, Washington. DC,… Tòa án lại thừa nhận
tính hợp pháp của quan hệ chung sống như vợ chồng và gọi đó là “hôn nhân thực
tế” nhưng phải đáp ứng được một số điều kiện là: thời gian chung sống của các bên
phải lâu dài; giữa họ đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối
với nhau; thậm chí có bang quy định còn phải được những người xung quanh công

nhận và các bên phải có nguyện vọng được kết hôn với nhau [20].
Như vậy, về mặt pháp lý nhà làm luật phủ định tính hợp pháp của hiện tượng
nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, xuất phát
từ quan điểm coi hôn nhân là một hợp đồng, sự tự do, tự nguyện của các bên nam,
nữ là yếu tố quyết định thì nhà làm luật vẫn tiếp tục thừa nhận “hôn nhân thực tế”
mặc dù quan điểm này không phải là phổ biến ở hầu khắp 50 bang ở nước Mỹ.
1.3.3. Sự điều chỉnh đối với quan hệ chung sống như vợ chồng ở
Australia
Quan hệ HN&GĐ ở Australia chỉ thuộc phạm vi điều chỉnh của nhà thờ cho
tới khi đạo luật về HN&GĐ đầu tiên “Marriage Act” ra đời năm 1961. Từ đó, các
khía cạnh của quan hệ hôn nhân mới được thể hiện rõ ràng bằng những quy định cụ
thể. Pháp luật Australia quy định nam nữ muốn trở thành vợ chồng phải tiến hành
hôn lễ tại nhà thờ hoặc tại cơ quan nhà nước. Sự tuyên bố của nhà thờ hoặc Giấy
chứng nhận của cơ quan nhà nước có giá trị pháp lý trong việc khẳng định rằng
quan hệ hôn nhân đã phát sinh hiệu lực.
Như vậy, trên nguyên tắc pháp luật Australia không công nhận các bên chung
sống như vợ chồng mà không tiến hành hôn lễ tại nhà thờ hoặc tại cơ quan nhà
nước là vợ chồng. Tuy nhiên, xuất phát từ quan điểm của pháp luật Australia coi
hôn nhân là hợp đồng nên cũng công nhận quan hệ vợ chồng đối với những trường
hợp các bên ký kết một hợp đồng sống chung với nhau gọi là “cohabitation
contract”. Khi hợp đồng sống chung giữa các bên được ký kết thì các bên có tư
cách là vợ chồng của nhau. Nếu trong hợp đồng có những điều khoản trái với đạo
đức, chính sách công cộng thì điều khoản đó sẽ không phát sinh hiệu lực, còn hợp
đồng sống chung thì vẫn có giá trị pháp lý. Đối với các trường hợp này quan hệ hôn
nhân được phát sinh do hợp đồng.
1.3.4. Sự điều chỉnh đối với quan hệ chung sống như vợ chồng ở Pháp
Nhà làm luật của Pháp quan niệm hôn nhân đồng thời mang hai tính chất: hợp
đồng dân sự và thiết chế pháp luật.
- Điều 194 Bộ luật dân sự quy định:
Không ai có thể được đòi hỏi danh nghĩa vợ, chồng và các hệ quả dân sự

của hôn nhân nếu không xuất trình chứng thư kết hôn được ghi vào sổ hộ
tịch, trừ các trường hợp quy định tại Điều 46, phần các chứng thư hộ tịch.
Trước sự phát triển của quan hệ chung sống như vợ chồng, người Pháp, thông
qua con đường lập pháp hay án lệ, đã cố gắng áp dụng đối với những người chung
sống như vợ chồng một quy phạm pháp luật trước đây chỉ dành riêng cho các cặp
vợ chồng hợp pháp, chẳng hạn như thuế thu nhập, quyền tiếp tục thuê nhà ở, …[18]
- Bên cạnh đó, Điều 515 cũng quy định: “thỏa ước dân sự về sự đoàn kết là
một hợp đồng được giao kết bởi hai thể nhân trưởng thành, khác giới hoặc cùng
giới, nhằm tổ chức cuộc sống chung của họ.” Tính hợp đồng của hôn nhân thể hiện
ở giai đoạn trước và tại thời điểm kết hôn, khi đó phản ánh sự tự nguyện thỏa thuận
của các bên kết hôn. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền tự do của họ, cũng như để những
điều kiện kết hôn của pháp luật được tôn trọng thì một thủ tục tố tụng đặc biệt và
bắt buộc được tổ chức tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Như vậy, việc nam nữ
chung sống như vợ chồng sẽ không được Nhà nước thừa nhận là hôn nhân hợp
pháp.
Tóm lại, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, phong tục tập quán và
quan điểm làm luật của các nước, một số nước đã thừa nhận chung sống như vợ
chồng như là một dạng thức của hôn nhân, ngược lại, một số nước khác lại không
thừa nhận. Nhìn chung, đa số nhà làm luật các nước đều công nhận sự tồn tại của
tình trạng này như là một tất yếu khách quan của cuộc sống. Đồng thời, họ có
những quy định cần thiết để điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên, hạn chế
những ảnh hưởng tiêu cực của hiện tượng này đối với đời sống gia đình và xã hội.
CHƯƠNG 2
NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC NAM NỮ CHUNG SỐNG NHƯ
VỢ CHỒNG MÀ KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN TỚI QUAN HỆ VỢ
CHỒNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP VỀ MẶT PHÁP LÝ
2.1. NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC NAM NỮ CHUNG SỐNG NHƯ
VỢ CHỒNG MÀ KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN TỚI QUAN HỆ VỢ CHỒNG
2.1.1. Giá trị pháp lý của Giấy chứng nhận kết hôn
Khi hai bên nam nữ tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn theo luật định thì mỗi

người sẽ được trao cho một bản chính giấy chứng nhận kết hôn công nhận hai bên
là vợ chồng của nhau.
Giấy chứng nhận kết hôn (Giấy đăng ký kết hôn) là chứng chỉ do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền đăng ký kết hôn cấp cho hai bên nam nữ, sau khi
đã xem xét các điều kiện kết hôn của họ là hợp pháp, tổ chức đăng ký kết
hôn theo nghi thức luật định và ghi nhận sự tự nguyện kết hôn để trở thành
vợ chồng của họ. Giấy chứng nhận kết hôn là chứng cứ viết, xác nhận
giữa hai bên nam nữ đã phát sinh và tồn tại quan hệ vợ chồng. Quan hệ
này được Nhà nước công nhận và quy định các biện pháp bảo hộ. [12,
tr.304]
Việc được cấp Giấy chứng nhận kết hôn mang giá trị pháp lý to lớn, đó là:
- Việc tiến hành nghi thức đăng ký kết hôn cho hai bên nam nữ do cơ quan
đăng ký kết hôn thực hiện và cấp Giấy chứng nhận kết hôn cho họ có ý nghĩa rất
quan trọng. Đây được coi là biện pháp để Nhà nước kiểm soát việc tuân thủ pháp
luật trong quá trình thực hiện kết hôn của công dân, ngăn chặn hiện tượng vi phạm
các điều kiện kết hôn mà pháp luật đã quy định, bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho
hai bên nam, nữ khi thiết lập quan hệ vợ chồng.
- Giấy chứng nhận kết hôn còn là bằng chứng bắt buộc để Tòa án xem xét và
thụ lí giải quyết khi vợ chồng muốn ly hôn. Trường hợp vợ chồng đã ly hôn, muốn
tái hợp lại, phải cùng nhau đi đăng ký kết hôn lại để được cấp Giấy chứng nhận kết
hôn mới, khi đó, họ mới được công nhận là vợ chồng hợp pháp.
- Việc cấp Giấy chứng nhận kết hôn là một sự kiện pháp lý làm phát sinh
quan hệ hôn nhân và gia đình nói chung cũng như quan hệ vợ chồng nói riêng. Bao
gồm những quyền, nghĩa vụ về nhân thân và các quyền, nghĩa vụ về tài sản giữa vợ
và chồng.
2.1.2. Những ảnh hưởng của việc nam nữ chung sống như vợ chồng mà
không đăng ký kết hôn tới quan hệ vợ chồng
Giả sử mọi cuộc hôn nhân đều diễn ra một cách êm đẹp, các bên nam nữ thật
sự yêu thương, gìn giữ được mối quan hệ vợ chồng lâu dài, mục đích hôn nhân đạt
được thì việc có đăng ký kết hôn hay không không trở thành vấn đề nghiêm trọng.

Nhưng, nếu trong quá trình chung sống xảy ra mâu thuẫn, cuộc hôn nhân đó không
có hạnh phúc, đời sống chung không thể kéo dài thì việc bảo vệ quyền và lợi ích
của các bên sẽ gặp khó khăn do hai bên không đăng ký kết hôn.
Xem xét những ảnh hưởng của việc nam nữ chung sống như vợ chồng không
đăng ký kết hôn đến quan hệ vợ chồng chính là chỉ ra những tác động của sự không
được thừa nhận là vợ chồng tới việc thực hiện quyền và nghĩa vụ về tài sản và nhân
thân giữa vợ chồng.
* Ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ
chồng
Trong Luật HN&GĐ năm 2000 thì quyền và nghĩa vụ về nhân thân bao gồm:
Nghĩa vụ và quyền thể hiện mối quan hệ tình cảm giữa vợ và chồng (Điều 18);
Nghĩa vụ và quyền thể hiện quyền bình đẳng, tự do, dân chủ của vợ chồng (Từ
Điều 19 đến Điều 23); Quyền và nghĩa vụ đại diện cho nhau giữa vợ và chồng
(Điều 24).
Theo Điều 18 Luật HN&GĐ năm 2000 thì vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu,
chung thủy với nhau. Sở dĩ, pháp luật quy định như vậy là bắt nguồn từ nguyên tắc

×