Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.35 KB, 63 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lê Đức Lữ
LỜI MỞ ĐẦU
Thế kỷ XXI là thế kỷ của sự mở của và hội nhập, đất nước chúng ta
đang ngày một đổi mới cùng với sự phát triển nói chung của thế giới. Trong
quá trình mở cửa chúng ta mở rộng mối quan hệ với rất nhiều nước trên thế
giới, đây cũng là một cơ hội vô cùng thuận lợi cho các ngân hàng thương mại
có điều kiện phát triển chính mình. Trong những năm qua, hoạt động của hệ
thống ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và hoạt động cho vay nói
riêng đã có những đóng góp ngày càng tích cực vào công cuộc phát triển kinh
tế, kiềm chế lạm phát, huy động được nguồn vốn nhàn rỗi của các tầng lớp
dân cư và tổ chức kinh tế xã hội vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.
Trong điều kiện toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, các doanh
nghiệp vừa và nhỏ (DNV&N) ngày càng thể hiện vai trò quan trọng của mình
trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Đặc biệt trong
những năm gần đây, Nhà nước ta đang cải cách và mở cửa thúc đẩy nền kinh
tế phát triển theo hướng thị trường với nhiều thành phần kinh tế tham gia,
DNV&N một lần nữa khẳng định là một thành phần kinh tế quan trọng của
nền kinh tế quốc dân. Hoạt động của các DNV&N đã tạo ra công ăn việc làm
cho người lao động, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thu hút nguồn lực trong và
ngoài nước.
Các DNV&N ở nước ta hầu hết mới đi vào hoạt động, quy mô vốn nhỏ
nên nhu cầu về vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng sản xuất, cải tiến kĩ
thuật công nghệ và đầu tư rất lớn. Vì vậy, cho vay các DNV&N đang trở
thành đầu ra tín dụng lớn đối với các ngân hàng thương mại nói chung. Thấy
Hà Văn Thạch Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lê Đức Lữ
được điều đó, chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm đã ngày càng quan tâm và chú
trọng hơn đến các doanh nghiệp này.
Sau một thời gian thực tập tại chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm, em nhận
thấy rằng: Đối với NHCT Hoàn Kiếm hiện nay thì cho vay đối với các


DNV&N đang là mục tiêu chiến lược lâu dài, là một vấn đề có ảnh hưởng
không nhỏ đến sự phát triển của chi nhánh nên em quyết định chọn chuyên đề
“Mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh
Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm". Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục
lục, danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động cho vay của ngân hàng thương
mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay đối với các DNV&N tại chi nhánh
NHCT Hoàn Kiếm
Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay đối với DNV&N tại chi nhánh NHCT
Hoàn Kiếm
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS Lê Đức Lữ cùng các cô
chú, các anh chị cán bộ nhân viên tại chi nhánh đã giúp đỡ và chỉ dạy cho em
để em có thể hoàn thành chuyên đề này.
Hà Văn Thạch Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lê Đức Lữ
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO
VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại
Chúng ta đều biết rằng một trong những nhân tố tiên quyết để thị
trường tài chính phát triển mạnh mẽ là phải có một hệ thống các trung gian tài
chính đủ mạnh, đủ sức hoạt động với tư cách là những tổ chức kinh doanh
chuyên nghiệp trong lĩnh vực tài chính – tiền tệ. Ở hầu hết các nước, đặc biệt
là các nước đang phát triển thì ngân hàng thương mại là loại hình trung gian
tài chính cơ bản với quá trình phát triển lâu đời nhất và có uy tín nhất. Ngân
hàng thương mại thông qua các hoạt động của mình đã trở thành một công cụ
giúp Chính phủ điều tiết nền kinh tế. Vậy ngân hàng thương mại là gì?
Xét trên phương diện các loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp thì

Ngân hàng thương mại là các tổ chức tài chính làm nhiệm vụ cung cấp một
danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và
dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì
một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Theo luật Các tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ
ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này
để cung cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Hà Văn Thạch Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lê Đức Lữ
Quá trình phát triển của ngân hàng không chỉ làm gia tăng về số lượng
mà còn làm tăng quy mô của mỗi ngân hàng. Nhưng dù tồn tại dưới hình thức
nào, NHTM vẫn luôn khẳng định vai trò quan trọng đối với toàn bộ nền kinh
tế quốc dân.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn
Nguồn vốn mà ngân hàng tạo được thông qua hoạt động huy động vốn
chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số vốn của ngân hàng. Trước đây, các
NHTM chủ yếu là nhận tiền gửi của những người gửi tiền tiết kiệm. Ngày
nay, dưới sự tác động mạnh mẽ của sự cạnh tranh giữa các NHTM và sự tiến
bộ của khoa hoạc kỹ thuật, cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh
tế, các NHTM đã đưa ra rất nhiều hình thức huy động vốn.
Một lượng vốn lớn được NHTM huy động thông qua tài khoản séc, tài
khoản tiết kiệm, tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, kỳ phiếu, giấy chứng nhận tiền
gửi…Bên cạnh đó khi cần vốn đáp ứng nhu cầu thanh khoản hay đầu tư,
NHTM có thể vay các ngân hàng khác, chiết khấu, tái chiết khấu tại Ngân
hàng Nhà nước hoặc tại các tổ chức tài chính trong và ngoài nước. NHTM
còn tạo lập nguồn vốn thông qua phát hành và bán các cổ phiếu, tạo lập các
quỹ dự trữ từ lãi ròng.
Để có được lượng vốn thông qua hoạt động huy động vốn, các NHTM

phải bỏ ra những chi phí nhất định bao gổm: lãi tiền gửi, lãi tiền vay, chi phí
giao dịch…
1.1.2.2. Hoạt động sử dụng vốn
Hoạt động chính của NHTM là huy động vốn để sử dụng vào các mục
đích kinh doanh nhằm thu lợi nhuận. Việc sử dụng vốn chính là quá trình tạo
Hà Văn Thạch Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lê Đức Lữ
nên các loại tài sản khác nhau của ngân hàng, trong đó cho vay và đầu tư là
hai hoạt động lớn và quan trọng nhất.
* Ngân quỹ: Là khoản mục tài sản không sinh lời (hoặc sinh lời thấp
trong trường hợp gửi tại NHNN và các ngân hàng khác có được hưởng lãi),
song là tài sản có tính thanh khoản cao nhất, đáp ứng nhu cầu chi trả thường
xuyên, đảm bảo hoạt động ngân hàng diễn ra suôn sẻ.
* Cho vay: Là hoạt động chủ chốt tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng, ngân
hàng nhường quyền sử dụng vốn cho khách hàng của mình, sau một thời gian
nhất định đã được thỏa thuận, ngân hàng được quyền thu lại cả vốn và lãi.
* Cho thuê: Là việc mà ngân hàng sẽ bỏ tiền mua tài sản để cho khách
hàng thuê theo những thỏa thuận nhất định giữa khách hàng và ngân hàng
(Leasing).
* Đầu tư: cũng là việc ngân hàng nhường quyền sử dụng vốn cho
người khác nhưng dưới hình thức góp vốn cùng các chủ dự án đầu tư. Thu
nhập của ngân hàng qua hoạt động đầu tư căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận và tỷ
trọng đầu tư vốn của ngân hàng.
* Các hoạt động sử dụng vốn khác: Các hoạt động tài trợ phát triển, các
chương trình phát triển phi lợi nhuận, các chương trình xóa đói giảm nghèo,
phát triển giáo dục, đào tạo...
1.1.2.3. Các hoạt động trung gian
Là những hoạt động mà ngân hàng đứng ở vị trí trung gian cung cấp
các dịch vụ tài chính cho khách hàng: Chuyển tiền, thanh toán không dùng
tiền mặt (thanh toán bù trừ, séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thanh toán bằng

L/C, thanh toán bằng hối phiếu), cung cấp các dịch vụ tài chính (môi giới, tư
vấn, ủy thác, bảo lãnh,...), các dịch vụ ngân hàng tiện ích như Homebanking,
Internetbanking, E-banking...
1.1.3. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Hà Văn Thạch Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lê Đức Lữ
1.1.3.1. Khái niệm và các quy tắc cho vay của ngân hàng thương mại
Cho vay là hoạt động kinh doanh tạo ra lợi nhuận chủ yếu khi các
NHTM mới thành lập. Chỉ có lãi suất thu được từ hoạt động cho vay mới bù
nổi chi phí tiền gửi, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí rủi ro đầu tư và
nhiều loại chi phí khác của các NHTM.
Cho vay của NHTM, nói rộng ra là hoạt động tín dụng của NHTM, là
một lĩnh vực phức tạp và liên quan đến những biến chuyển của môi trường
kinh tế. Tuy nhiên, cho vay mà chúng ta đề cập ở đây là một nghiệp vụ tín
dụng, một hình thức cấp tín dụng của ngân hàng.
Nhìn chung, trên thế giới người ta định nghĩa cho vay là hoạt động
trong đó người cho vay cam kết giao cho người đi vay một khoản tiền và
người này cam kết sẽ hoàn trả sau một thời hạn nhất định. Giá trị hoàn trả lớn
hơn giá trị khoản vay một phần được gọi là lãi cho vay. Phần tiền lãi này tỷ lệ
với số lượng tiền và thời hạn vay. Thực chất, cho vay của ngân hàng thương
mại là hoạt động chuyển giao quyền sử dụng vốn cho khách hàng - người đi
vay với điều kiện sau một thời gian, họ phải hoàn trả cho ngân hàng khoản
vay ban đầu cộng với tiền lãi theo một tỷ lệ nhất định gọi là lãi suất của khoản
vay theo như thoả thuận với ngân hàng trước khi vay. Thông thường, lãi suất
ghi trên hợp đồng cho vay mà người đi vay phải trả là lãi suất danh nghĩa nên
nó không phản ánh giá trị thực tế của số tiền cho vay. Thời hạn cho vay là
khoảng thời gian từ khi khách hàng nhận được vốn vay cho đến khi họ phải
trả hết vốn gốc và các điều kiện khác theo đúng cam kết với ngân hàng.
Có thể nói cho vay là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận cho các
NHTM nhưng cũng đem lại nhiều rủi ro gây tổn thất cho ngân hàng. Chính vì

vậy, để đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời từ cho vay thì tất cả các
NHTM đều phải đảm bảo được hai nguyên tắc cho vay cơ bản sau đây:
Hà Văn Thạch Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lê Đức Lữ
 Thứ nhất, tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi. Đây
là nguyên tắc quan trọng hàng đầu vì phần lớn vốn của ngân hàng là
nguồn vốn huy động (gồm tiền gửi của khách hàng và các khoản vay
mượn khác) từ khách hàng. Nếu các khoản cho vay không hoàn trả
đúng hạn thì nhất định sẽ ảnh hưởng xấu đến khả năng thanh khoản
của ngân hàng. Do đó, ngân hàng luôn yêu cầu người đi vay thực
hiện đúng cam kết này.
 Thứ hai, khách hàng phải sử dụng vốn vay đúng mục đích như đã
thoả thuận với ngân hàng, không trái với các quy định của pháp
luật. Đây không chỉ là nguyên tắc mà còn là phương châm hoạt
động cho vay, bởi vì nó hướng đến mục tiêu và yêu cầu phát triển
kinh tế xã hội của Chính phủ trong từng giai đoạn phát triển, thông
qua việc đẩy nhanh nhịp độ phát triển nền kinh tế hàng hoá, tạo ra
nhiều khối lượng sản phẩm - dịch vụ đồng thời tích luỹ để thực
hiện tái sản xuất mở rộng. Nếu phát hiện khách hàng vi phạm
nguyên tắc này (rủi ro đạo đức), ngân hàng có quyền thu hồi nợ
trước hạn và nếu khách hàng không có tiền thì chuyển nợ quá hạn
để đảm bảo an toàn cho ngân hàng.
1.1.3.2. Vai trò của hoạt động cho vay
Cho vay là hoạt động cơ bản, mang lại thu nhập chủ yếu cho mỗi
NHTM. Do vậy, hoạt động cho vay quyết định sự tồn tại và phát triển của
một ngân hàng, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường với sự canh tranh ngày
càng gay gắt như hiện nay. Hoạt động cho vay thường chiếm trên 70% tổng
tài sản có của ngân hàng. Thu nhập từ hoạt động cho vay chiếm tỷ trọng cao
trong tổng thu nhập của ngân hàng. Ở các nước phát triển thì tỷ lệ này 60%,
còn ở các nước đang phát triển như Việt Nam thì tỷ lệ này là 90%. Như vậy

Hà Văn Thạch Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lê Đức Lữ
có thể thấy tầm quan trọng đặc biệt của tín dụng ngân hàng không chỉ đối với
ngân hàng, khách hàng có quan hệ tín dụng mà đối với cả nền kinh tế nói
chung.
Thứ nhất, ngân hàng tiến hành huy động nguồn tiền nhàn rỗi tạm thời
trong nền kinh tế và thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng đáp ứng các
nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp và các cá nhân khác, góp phần mở rộng
sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng cường vốn đầu
tư vào nền kinh tế.
Vốn là một yếu tố quan trọng trong quá trình hoạt động của các tổ chức
kinh tế. Khi có đủ vốn, họ có thể dễ dàng hơn trong việc thực hiện các kế
hoạch đầu tư hay xây dựng cơ bản của mình. Ngược lại, khi thiếu vốn, họ sẽ
gặp khó khăn trong việc ra các quyết định kinh tế. Ngay cả khi có nguồn vốn
nhàn rỗi thì doanh nghiệp cũng mất đi chi phí cơ hội của vốn. Vì vậy, các
doanh nghiệp cần vốn phải tìm kiếm vốn đề bù đáp sự thiếu hụt và các doanh
nghiệp thừa vốn tạm thời thì lại có nhu cầu cho vay. Việc tìm kiếm một tổ
chức nào đó đang thừa vốn hoặc thiếu vốn để vay hoặc cho vay là một vấn đề
rất khó khăn trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Do đó, tín dụng ngân hàng
trở thành một công cụ rất quan trọng, kết nối nhu cầu của người thiếu vốn và
người có vốn nhàn rỗi tạm thời. Theo đó, vốn tiền tệ được luân chuyển một
cách liên tục, làm tăng thêm phần tích lũy tư bản cho ngân hàng và góp phần
tăng trưởng kinh tế thông qua nguồn thu từ việc cung cấp tín dụng.
Thứ hai, tín dụng ngân hàng góp phần cơ cấu lại nền kinh tế quốc dân.
Trong nền kinh tế thị trường thường tồn tại các ngành có trạng thái phát triển
đối lập nhau. Một số ngành có điều kiện thuận lợi, lịch sử hình thành lâu đời
nên có thế mạnh để phát triển những ngành kinh tế mũi nhọn. Nhưng ngược
lại, có những ngành kinh tế vì những nguyên nhân khác nhau mà kém phát
Hà Văn Thạch Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lê Đức Lữ

triển hơn. Nhiều nước trong chiến lược phát triển của mình đã phân loại
những ngành kinh tế mũi nhọn và những ngành kinh tế kém phát triển để có
chiến lược cơ cấu lại nhằm cân đối nền kinh tế. Để thực hiện được điều đó thì
cần có vốn và tín dụng ngân hàng sẽ đáp ứng điều đó.
Thứ ba, tín dụng ngân hàng tác động đến hiệu quả sản xuất kinh doanh
và thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế. Trong hoạt động sản xuất
kinh doanh hàng hóa dịch vụ, doanh nghiệp cần vốn để đầu tư máy móc thiết
bị, mua nguyên vật liệu, đổi mới công nghệ… Ngân hàng sẽ đáp ứng được
yêu cầu đó khi doanh nghiệp bảo đảm hoàn trả cả gốc lẫn lãi và thực hiện
đúng hợp đồng tín dụng. Nếu vi phạm thì khách hàng sẽ phải chịu phạt thông
qua mức lãi suất phạt đối với nợ quá hạn, mất quyền sở hữu đối với các tài
sản đảm bảo… Điều này buộc các doanh nghiệp phải làm ăn có hiệu quả hơn,
tạo ra lợi nhuận đủ để trả nợ cho ngân hàng và tăng thêm giá trị cho chủ sở
hữu.
Thứ tư, tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế thúc đẩy quá trình mở
rộng và giao lưu hợp tác kinh tế quốc tế. Ngày nay, xu hướng quốc tế hóa,
khu vực hóa nền kinh tế toàn cầu ngày càng đa dạng và phát triển cả về chiều
rộng và chiều sâu. Giao lưu kinh tế quốc tế là một nhân tố bên ngoài đặc biệt
quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế các nước nhất là các nước
đang phát triển. Xuất nhập khẩu vốn và hàng hóa, dịch vụ là những lĩnh vực
hợp tác quốc tế quan trọng và thông dụng. Tín dụng ngân hàng là công cụ đắc
lực cho các nhà đầu tư và kinh doanh xuất nhập khẩu thâm nhập vào thị
trường quốc tế.
1.1.3.3. Các hình thức cho vay của NHTM
Tuỳ thuộc vào các tiêu thức phân loại khác nhau mà hoạt động cho vay
của NHTM bao gồm các loại sau:
Hà Văn Thạch Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lê Đức Lữ
a) Căn cứ vào thời hạn cho vay
Việc phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động

của ngân hàng vì: thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi
của khoản cho vay cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo tiêu
thức này thì cho vay của NHTM bao gồm:
• Cho vay ngắn hạn
Cho vay ngắn hạn là các khoản cho vay có thời hạn dưới 12 tháng. Bao
gồm các loại: cho vay nhằm bổ sung vốn lưu động của các doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh dịch vụ, hoặc cho vay đáp ứng vốn sản xuất, kinh doanh dịch
vụ và đời sống của hộ sản xuất hoặc cá thể. Thông thường tỷ trọng các khoản
cho vay ngắn hạn thường chiếm tỷ trọng lớn hơn các khoản cho vay trung và
dài hạn. Do nhiều nguyên nhân như: tín dụng ngắn hạn ít rủi ro hơn, mặt khác
nguồn vốn trung và dài hạn khan hiếm và đắt đỏ hơn…
• Cho vay trung và dài hạn
Cho vay trung và dài hạn là các khoản cho vay có thời hạn có thời hạn
trên 12 tháng. Thông thường các khoản cho có thời hạn từ 12 đến 36 tháng,
(hoặc 12 đến 60 tháng) thì được xếp vào cho vay trung hạn. Các khoản cho
vay có thời hạn lớn hơn 36 tháng (hoặc 60 tháng) thì được xếp vào các khoản
cho vay dài hạn. Vốn trung và dài hạn được xem là rất cần thiết cho quá trình
sản xuất kinh doanh, tuy nhiên đối với ngân hàng thì cho vay trung và dài hạn
hàm chứa nhiều rủi ro, do đó lãi suất thường cao hơn lãi suất cho vay ngắn
hạn.
b) Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay
• Cho vay sản xuất, kinh doanh
Cho vay kinh doanh là việc ngân hàng cho các doanh nghiệp vay vốn
để đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh. Vốn vay được đầu tư mua sắm
Hà Văn Thạch Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lê Đức Lữ
trang thiết bị, máy móc, nguyên vật liệu… dùng cho sản xuất. Kết quản sản
xuất kinh doanh là nguồn trả nợ chính cho ngân hàng.
• Cho vay tiêu dùng
Nhằm phục vụ các nhu cầu trong tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình.

Các NHTM cho hộ gia đình, cá nhân có nhu cầu vay vốn mua những loại tài
sản lớn dùng trong cuộc sống như xe hơi, nhà ở, du học, du lịch… Ngân hàng
có thể cho vay trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các đại lý bán lẻ, các nhà
phân phối...
c) Căn cứ vào phương thức cho vay
• Cho vay từng lần
Cho vay từng lần là hình thức cho vay áp dụng đối với những khách
hàng không có nhu cầu vay vốn thường xuyên. Theo đó, mỗi lần vay khách
hàng phải làm bộ hồ sơ vay vốn mới trình ngân hàng.
• Cho vay theo hạn mức tín dụng
Là phương thức mà theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng
một hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ.
Cho vay theo hạn mức tạo điều kiện thuận lợi cho những khách hàng có nhu
cầu vay vốn thường xuyên. Cho vay theo hạn mức làm giảm chi phí cho mỗi
khoản vay cho khách hàng cũng như cho ngân hàng.
d) Căn cứ vào hình thức bảo đảm trong cho vay
Lựa chọn đối nghịch khiến người cho vay phải chịu tổn thất khi người
đi vay không thể thanh toán các món tiền vay và chịu vỡ nợ. Vật thế chấp là
vật thuộc sở hữu của người đi vay được cam kết sẽ trả cho người cho vay nếu
người đi vay không hoàn trả khoản tiền vay đúng hạn trong hợp đồng. Thông
thường, các ngân hàng khi cho vay thường yêu cầu khách hàng phải có tài sản
bảo đảm. Vì trong kinh doanh luôn có những biến cố ngoài dự tính của ngân
Hà Văn Thạch Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lê Đức Lữ
hàng và khách hàng, chính điều này sẽ đem lại rủi ro và có thể gây ra tổn thất
lớn cho ngân hàng. Do đó, trừ những khách hàng có uy tín cao còn hầu hết
các khách hàng khi vay đều phải có tài sản bảo đảm. Đây là nguồn trả nợ thứ
hai khi nguồn thứ nhất là từ thu nhập trong hoạt động kinh doanh không đảm
bảo trả nợ. Như vậy theo tiêu thức này thì ngân hàng cho vay theo hai loại
khác nhau là: cho vay có tài sản bảo đảm và cho vay không có tài sản bảo

đảm.
• Cho vay có bảo đảm bằng tài sản
Cho vay có bảo đảm bằng tài sản là việc ngân hàng yêu cầu khách hàng
vay phải làm hợp đồng thế chấp hoặc cầm cố tài sản cho khoản tiền vay. Tài
sản đem bảo đảm cho khoản vay phải đáp ứng các yêu cầu của ngân hàng
nhận thế chấp.
Tài sản bảo đảm xét theo một vài khía cạnh cũng gây trở ngại cho cả
khách hàng và ngân hàng. Để đảm bảo tính an toàn trong cho vay đồng thời
khách hàng dễ dàng tiếp cận với vốn vay của ngân hàng thì trong chính sách
tài sản bảo đảm của các ngân hàng cũng linh động hơn. Khách hàng có thể
bảo đảm cho khoản vay bằng hàng hoá trong kho như nguyên, nhiên, vật liệu,
sản phẩm, hoặc bảo đảm bằng các hợp đồng chi trả của người thứ ba, bảo
đảm bằng chứng khoán, tuy chứng khoán có thể bán với ít nhiều rủi ro, song
quản lý chứng khoán là tương đối thuận tiện đối với ngân hàng vì phần lớn
các ngân hàng đều có nghiệp vụ quản lý và kinh doanh chứng khoán. Ngân
hàng cũng chấp nhận sử bảo đảm của bên thứ ba cho người đi vay, là bên cam
kết sẽ trả nợ thay cho khách hàng nếu khách hàng không trả nợ được. Tuy
nhiên đối với những người bảo lãnh phải có uy tín, hoặc có tài sản của người
bảo lãnh…
• Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản
Hà Văn Thạch Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lê Đức Lữ
Tài sản bảo đảm là trở ngại cho khách hàng muốn tiếp cận với vốn vay
của ngân hàng đặc biệt là đối với khách hàng là người nghèo, hộ sản xuất
nhỏ… Trong những trường hợp này, thì việc đáp ứng yêu cầu về tài sản bảo
đảm của người vay là khó khăn hoặc không thể. Các ngân hàng cũng có thể
cho khách hàng vay mà không cần có tài sản bảo đảm cho khoản tiền vay đó.
Có hai lý do chính để các ngân hàng cho vay mà không cần có tài sản bảo
đảm.
Thứ nhất: các khoản cho vay có giá trị nhỏ, trong khi xét thấy phương

án đầu tư sinh lợi đảm bảo nguồn trả nợ ngân hàng.
Thứ ha: do chính sách của Chính phủ, hoặc của bản thân các ngân
hàng, nhằm tạo điều kiện cho người sản xuất tiếp cận dễ dàng với vốn ngân
hàng hoặc để chiếm lĩnh thị trường. Các khoản vay với điều kiện có TSBĐ có
thể bị hạn chế, hoặc bãi bỏ.
e) Căn cứ vào đối tượng sử dụng vốn vay
• Cho vay trực tiếp
Là loại cho vay mà khách hàng nhận tiền vay và trả nợ trực tiếp cho
ngân hàng. Trong quan hệ vay vốn chỉ có hai chủ thể vay vốn và trả nợ trực
tiếp với nhau, đó là khách hàng và ngân hàng. Thông thường áp dụng đối với
các khách hàng lớn quan hệ tín dụng không thường xuyên với ngân hàng.
Cho vay trực tiếp sẽ khiến ngân hàng có cơ hội tìm hiểu kỹ về khách hàng,
tránh rủi ro, tuy nhiên sẽ làm tăng các chi phí cho quá trình tìm kiếm thông
tin về khách hàng.
• Cho vay gián tiếp
Là việc ngân hàng cho khách hàng vay thông qua các hội, các tổ hay
các đại lý bán lẻ. Các tổ chức này có thể thực hiện thay ngân hàng một số
khâu trong quá trình cho vay như: phát tiền vay, thu nợ, thu lãi… Cho vay
gián tiếp thường áp dụng với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay
Hà Văn Thạch Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lê Đức Lữ
phân tán, ở xa ngân hàng. Việc cho vay thông qua trung gian có nhiều ưu
điểm như giảm bớt thời gian, chi phí cho mỗi khoản vay. Tuy nhiên, cho vay
gián tiếp cũng tồn tại nhiều khiếm khuyết như: các trung gian không trung
thực cho khách hàng vay với lãi suất cao, ngân hàng không tiếp xúc trực tiếp
với khách hàng của mình dẫn đến việc thẩm định thiếu chặt chẽ điều này đem
lại rủi ro lớn cho ngân hàng.
f) Căn cứ vào phương thức hoàn trả vốn vay
• Cho vay hoàn trả một lần
Là loại hình cho vay mà quy định nghĩa vụ trả nợ của khách hàng được

thực hiện tại một thời điểm nhất định, toàn bộ số tiền gốc, tiền lãi được hoàn
trả làm một món.
• Cho vay hoàn trả nhiều lần
Là loại cho vay mà khách hàng sẽ hoàn trả cho ngân hàng tiền gốc và
lãi theo định kỳ. Ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận trước số
tiền lãi vay phải trả cộng với số nợ gốc chia ra để trả theo các kỳ hạn trong
thời gian vay. Hình thức cho vay này thường áp dụng cho những khách hàng
có nguồn thu nhập ổn định, thời hạn cho vay trung hoặc dài hạn, khối lượng
tiền vay lớn. Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng
thông qua một hạn mức nhất định. Đây là hình thức có độ rủi ro cao vì khách
hàng vay thường thế chấp bằng chính hàng hoá mua trả góp. Khả năng trả nợ
phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay.
Ngoài ra, việc phân loại cho vay còn căn cứ vào một số tiêu thức khác
như căn cứ vào đồng tiền cho vay, tính cấp vốn của việc cấp vốn… ta có các
loại như: cho vay bằng đồng nội tệ, cho vay ngoại tê, cho vay luân chuyển,
cho vay thấu chi…
1.2. DNV&N trong nền kinh tế thị trường
Hà Văn Thạch Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lê Đức Lữ
1.2.1. Khái niệm và vai trò của DNV&N
1.2.1.1. Khái niệm
Hiện nay, trên thế giới có nhiều loại hình doanh nghiệp đa dạng và
phong phú trong nền kinh tế. Nếu chúng ta căn cứ vào quy mô hoạt động của
các doanh nghiệp thì chia ra làm 2 loại hình doanh nghiệp: doanh nghiệp lớn
và doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNV&N). Các tiêu chuẩn để xác định quy mô
doanh nghiệp nhìn chung ở các quốc gia đó là: (1) số lượng lao động, (2) tổng
nguồn vốn (tổng tài sản) và (3) doanh thu trung bình hàng năm.
Hai tiêu chuẩn đầu tiên được sử dụng phổ biến hơn cả. Tuy nhiên, các
chuyên gia kinh tế cho rằng khó có thể đưa ra một khái niệm chuẩn về các
DNV&N bởi vì quy mô doanh nghiệp lớn hay nhỏ ở mỗi quốc gia phụ thuộc

vào mức độ phát triển kinh tế của quốc gia đó cũng như mục đích phân loại
trong từng thời điểm nhất định. Hơn nữa, cách xác định các doanh nghiệp vừa
và nhỏ trong trong từng ngành nghề kinh doanh là khác nhau. Ví dụ như
doanh nghiệp công nghiệp có thể coi là nhỏ trong khi một doanh nghiệp
thương mại cùng cỡ lại là doanh nghiệp vừa hoặc lớn bởi vì doanh nghiệp
công nghiệp cần nhiều lao động hơn.
Hiện nay, theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế giới (World Bank) các
doanh nghiệp vừa và nhỏ được phân chia theo quy mô như sau:
BẢNG 1.1: TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH DNV&N CỦA NGÂN HÀNG THẾ GIỚI
Loại hình DN
Số lao động
(người)
Doanh thu hàng
năm (USD)
Tổng tài sản
(USD)
DN siêu nhỏ 1 - 9 < 0,1 triệu < 0,1 triệu
DN nhỏ 10 - 49 < 3 triệu < 3 triệu
DN vừa 50 - 300 < 15 triệu < 15 triệu
Hà Văn Thạch Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lê Đức Lữ
Nguồn: http:// www. worldbank.org
Đây là cách phân loại chung được Ngân hàng Thế giới đưa ra sau khi
đã thu thập số liệu về các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở hầu hết quốc gia trên
thế giới. Do đó, chúng ta có thể coi đây là một cách phân loại đáng tin cậy và
khá chính xác. Tuy nhiên, do sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế giữa
các nước phát triển với các nước kém phát triển nên cách phân loại này chỉ
còn phù hợp về tiêu chí số lượng lao động. Chúng ta thấy rõ điều này qua ví
dụ về phân loại doanh nghiệp trong liên minh các nước Châu Âu (EU).
BẢNG 1.2: TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH CÁC DNV&N CỦA HỘI ĐỒNG CHÂU ÂU

Loại hình
doanh nghiệp
(DN)
Số lao động
(người)
Doanh thu hàng
năm (euros)
Tổng tài sản
(euros)
DN siêu nhỏ 1 - 9 < 2 triệu < 2 triệu
DN nhỏ 10 - 49 < 10 triệu < 10 triệu
DN vừa 50 - 249 < 50 triệu < 43 triệu
DN lớn
> 250 > 50 triệu > 43 triệu
Nguồn: http:// europa.eu.int
Còn ở các nước đang phát triển, chẳng hạn ở Việt Nam các DNV&N
bao gồm các doanh nghiệp (doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty cổ phần, hợp tác xã, liên minh hợp tác xã, doanh nghiệp nhà
nước hoặc hộ kinh doanh cá thể đăng ký kinh doanh theo Nghị định 02/2002/
NĐ-CP) có số vốn nhỏ hơn 10 tỷ đồng và số lao động thường xuyên hàng
năm không quá 300 người.
1.2.1.2. Vai trò của DNV&N
Hà Văn Thạch Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lê Đức Lữ
Ở Việt Nam nói riêng và trên thế giớí nói chung, DNV&N luôn được
đánh giá là nhân tố thúc đây sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Cụ thể
DNV&N đã thể hiện vị trí của mình trên các mặt chủ yếu sau:
* Tạo việc làm cho người lao động
Có thể nói rằng tác động kinh tế lớn nhất của các DNV&N là tạo việc
làm cho một số lượng lớn người lao động, giải quyết nạn thất nghiệp. Ở Việt

Nam, các DN thuộc thành phần kinh tế hiện tiếp nhận khoảng 13 triệu người,
tức khoảng 25_27 % lực lượng lao động, giải quyết tình trạng thất nghịêp. Ý
nghĩa to lớn của các DNV&N là tạo việc làm không chỉ thể hiện ở triển vọng
thu hút thêm lao động trong tương lai. Để đầu tư cho một người vào làm cho
các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì luôn thấp hơn so với việc một doanh nghiệp
muốn tiếp nhận một lao động, chi phí hoạt động cũng ít hơn các doanh nghiệp
lớn vì các doanh nghiệp lớn cần có sự quản lý chặt chẽ, chi phí cũng tốn kém
còn các doanh nghiệp nhỏ thì gọn nhẹ dễ chuyển biến để chuyển đổi hình
thức cũng như các mặt hàng kinh doanh.
* Thu hút nguồn vốn trong dân cư
Người dân Việt Nam chưa có ý thức đầu tư do chúng ta mới vượt qua
những thử thánh to lớn về sự chuyển đổi nền kinh tế. Luôn lo ngại về tình
trạng mất ổn định nên tâm lý mọi người thích giữ tiền hơn là đầu tư để sinh
lợi. Tiềm lực tài chính trong dân cư còn khá lớn, tuy nhiên lại không tập trung
mà chỉ rải rác, với tính chất nhỏ bé DNV&N đã giúp nên kinh tế sử dụng hiệu
quả các nguồn lực tài chính trong dân cư, hạn chế tiền nhàn rỗi không sinh lời
trong nền kinh tế. Tuy các doanh nghiệp vốn ít nhưng nếu tận dụng được
nguồn vốn này cho sản suất thì lại mang lại một hiệu quả vô cùng to lớn, bởi
tổng các doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất lớn nên tổng nguồn vốn trong tất cả
các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì vô cùng lớn. Đấy chính là thế mạnh của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hà Văn Thạch Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lê Đức Lữ
* Đóng góp to lớn vào tăng trưởng kinh tế
DNV&N có khả năng nhanh chóng chuyển đổi mặt hàng, chuyển
hướng sản xuất, đổi mới công nghệ…cho phù hợp với sự biến động của môi
trường kinh doanh.Và như vậy các DNV&N làm cho nền kinh tế năng động
hơn. Bên cạnh đó, sự phát triển DNV&N đã và đang tạo ra những chuyển
biến hết sức quan trọng về cơ cấu của nền kinh tế: Từ nền kinh tế sản xuất
nhỏ dựa trên nông nghiệp là chủ yếu chuyển sang một nền kinh tế thị trường.

nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước.
1.2.2. Đặc điểm của DNV&N
o Năng động, linh hoạt, sáng tạo trong kinh doanh
Do quy mô vừa và nhỏ và mô hình tổ chức giản đơn nên các doanh
nghiệp dễ dàng chuyển hướng sản xuất kinh doanh khác khi thấy lĩnh vực
ngành nghề sản xuất đó có lợi hơn. Việc điều chuyển này cũng không khó
khăn và tốn kém như sự thay đổi ngành nghề sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp lớn. Với lợi thế này của mình các DNV&N có thể nắm bắt
được cả những yêu cầu nhỏ lẻ mang tính khu vực và địa phương, khai thác
hết năng lực của mình, sáng tạo trong hoạt động để đạt được hiệu quả kinh
doanh cao nhất.
o Có thể nhanh chóng thích ứng công nghệ hiện đại thế giới
Do các trang thiết bị máy móc phục vụ sản xuất kinh doanh của các
DNV&N đa phần có giá trị không quá lớn như trong các doanh nghiệp lớn,
nên các DNV&N dễ dàng đổi mới, áp dụng được công nghệ hiện đại phục vụ
quá trình sản xuất kinh doanh cho năng suất cao.
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam công nghệ đã được
cải thiện nhưng vẫn còn lạc hậu so với các nước phát triển trên thế giới.
Trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế đang diễn ra gay gắt trong lĩnh vực khoa
học công nghệ thì trình độ khoa học kỹ thuật của phần lớn DNV&N Việt
Hà Văn Thạch Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lê Đức Lữ
Nam trong 5 năm qua đã có những cải thiện đáng kể trong việc ứng dụng các
thiết bị khoa học công nghệ. Từ việc sử dụng các thiết bị lạc hậu từ 20 - 50
năm so với các thiết bị nước bạn tính từ trước năm 2000, đến nay các doanh
nghiệp nước ta đã nhanh chóng ứng dụng các phần mềm mới cùng với các
trang thiết bị hiện đại vào khâu sản xuất kinh doanh.
o Tổ chức sản xuất quản lý các doanh nghiệp vừa và nhỏ gọn nhẹ,
tiết kiệm chi phí
Với số lượng lao động không nhiều, việc tổ chức sản xuất cũng như bộ

máy quản lý trong các DNV&N tương đối nhỏ gọn, không có nhiều các khâu
trung gian làm tăng hiệu quả hoạt động doanh nghiệp. Các quyết định chế độ,
chỉ tiêu… đến với người lao động cũng nhanh chóng vì thế mà công tác kiểm
tra giám sát tiến hành thuận lợi, không phải qua nhiều khâu trung gian, tiết
kiệm được chi phí, thời gian quản lý doanh nghiệp.
o Vốn chủ sở hữu nhỏ
Theo thống kê kinh tế số lượng DNV&N chiếm khoảng 97% số doanh
nghiệp trong cả nước hiện có, nhưng số vốn đăng ký của các doanh nghiệp
chỉ chiếm khoảng 50% tổng số vốn kinh doanh của các doanh nghiệp trong cả
nước. Trong đó có tới 40% các DNV&N có số vốn dưới 5 tỷ đồng là doanh
nghiệp ở quy mô nhỏ. Điều này cho thấy các DNV&N có vốn kinh doanh rất
nhỏ.
o Trình độ người quản lý và người lao động trong các doanh nghiệp
vừa và nhỏ Việt nam còn hạn chế
Trong số hơn 25% lao động có chuyên môn thì chỉ 7% lao động có
trình độ cao đẳng và đại học. Chủ doanh nghiệp có trình độ đại học cũng chỉ
khoảng 4%. Về cơ bản, đội ngũ này mới được hình thành những năm 90, còn
thiếu kinh nghiệm nhiều mặt, từ kỹ năng quản lý đến hiểu biết về công nghệ
Hà Văn Thạch Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lê Đức Lữ
và thị trường. Quy mô nhỏ, lại khó khăn về vốn nên hầu hết các DNV&N
không đủ kinh phí để đầu tư, nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao
động.
o Thị thường tiêu thụ sản phẩm nhỏ bé
Thị trường tiêu thụ sản phẩm của các DNV&N gặp không ít khó khăn
xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ yếu là quyền sở hữu công nghiệp chưa
được thực hiện nghiêm túc, sản phẩm luôn bị tấn công do việc xuất hiện các
mặt hàng làm giả, hàng nhái, hàng nhập lậu. Cùng với sự độc quyền của một
số doanh nghiệp lớn khiến sức cạnh tranh của DNV&N lại càng nhỏ trên thị
trường nội địa. Ngoài ra còn do hạn chế về công nghệ dẫn đến mặt hàng sản

xuất chưa đa dạng, chất lượng và tính cạnh tranh chưa cao, khả năng tiếp cận
thị trường kém. Do đó thị trường tiêu thụ của các DNV&N còn khả nhỏ bé.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng cho vay đối với DNV&N
của NHTM
1.3.1. Các nhân tố chủ quan
1.3.1.1. Các nhân tố về phía ngân hàng
* Mục tiêu của ngân hàng
Trong một thời kỳ nhất định tất cả các hoạt động của ngân hàng đều
nhằm đạt được một mục tiêu, chiến lược kinh doanh nào đó đã được đặt ra.
Do đó quyết định mở rộng cho vay đối với bất kỳ đối tượng nào cũng đều
phải căn cứ vào mục tiêu hoạt động chung của ngân hàng.
* Lãi suất cho vay
Lãi suất cho vay là nhân tố có tác động trực tiếp đến thu nhập từ cho
vay của ngân hàng.
Thu lãi từ cho vay = Dư nợ cho vay (đến thời điểm tính lãi) x Lãi suất
cho vay
Hà Văn Thạch Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lê Đức Lữ
Như vậy lãi suất cao có thể mang lại thu nhập lớn hơn cho ngân hàng.
Nhưng để mở rộng cho vay thì việc nâng lãi suất cho vay là không hợp lý. Vì
lãi suất cho vay có tác động ảnh hưởng đến dư nợ cho vay thông qua tăng,
giảm giá trị món vay. Trên thị trường còn rất nhiều ngân hàng, tổ chức tín
dụng khác đều có hoạt động cho vay. Nhìn từ góc độ của khách hàng, lãi suất
cho vay là yếu tố quyết định đến lợi ích kinh tế của họ, họ cần lựa chọn cho
vay ở những nơi có lãi suất thấp hoặc có lãi suất phù hợp với nhu cầu của họ
nhất.
Lãi suất là công cụ điều chỉnh nguy hiểm, như “con dao hai lưỡi”: Nếu
vì muốn tăng dư nợ cho vay, ngân hàng hạ thấp lãi suất thì kết quả là khách
hàng đến vay nhiều hơn, tăng được dư nợ cho vay nhưng thu nhập của ngân
hàng từ cho vay lại giảm không đảm bảo được mở rộng cho vay nhưng vẫn

duy trì mục tiêu lợi nhuận. Nếu vì mục tiêu lợi nhuận mà ngân hàng tăng lãi
suất thì khách hàng vay giảm, dư nợ cho vay giảm, không thực hiện được mở
rộng cho vay. Vì vậy bài toán đặt ra cho ngân hàng khi muốn mở rộng cho
vay là phải tính toán được một mức lãi suất cho vay phù hợp, vừa đảm bảo
được khách hàng đến vay vốn ngày càng nhiều vừa đảm bảo được lợi nhuận
cho ngân hàng.
Ngân hàng có các mức lãi suất cho vay khác nhau tùy thuộc vào kỳ hạn
của khoản vay, tùy theo loại tiền vay và tùy thuộc vào từng đối tượng khách
hàng. Ngân hàng khi thỏa thuận lãi suất cho vay với khách hàng phải tính đến
rủi ro, lãi suất hòa vốn, lãi suất cạnh tranh trên thị trường, mức lợi nhuận
mong muốn tối thiểu của ngân hàng, chi phí vốn, chi phí quản lý khác của
ngân hàng, thuế, tỷ lệ lạm phát...
* Qui trình, thủ tục, phương thức cho vay của ngân hàng
Mỗi đối tượng khách hàng khác nhau đều có đặc điểm hoạt động sản
xuất kinh doanh khác nhau, trình độ quản lý khác nhau dẫn đến nhu cầu vay
Hà Văn Thạch Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lê Đức Lữ
vốn cũng như khả năng đáp ứng những yêu cầu mà ngân hàng đặt ra cũng
khác nhau (như các yêu cầu về tài sản đảm bảo, lập dự án, qui định sổ sách
hạch toán kế toán, yêu cầu về công tác kiểm toán...). Vì vậy qui trình, thủ tục
cho vay cần xây dựng phù hợp, trung hòa được hai mục tiêu là an toàn tín
dụng cho ngân hàng và tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng, áp dụng linh
hoạt đối với mỗi khách hàng trên cơ sở hai bên cùng có lợi.
Mặt khác, hoàn thành tốt qui trình cho vay trong tất cả các bước từ điều
tra, thẩm định, quyết định cho vay, phát tiền vay và xử lý thu hồi nợ là nhằm
hạn chế những rủi ro có thể xảy ra đảm bảo an toàn vốn vay, cũng là thực
hiện mở rộng cho vay nhưng vẫn đảm bảo an toàn và hiệu quả.
Phương thức cho vay có ảnh hưởng trực tiếp đến việc vay vốn của
khách hàng vì khi có nhu cầu vay vốn khách hàng sẽ lựa chọn một phương
thức cho vay phù hợp nhất với nhu cầu của họ. Hiện nay các ngân hàng đều

có rất nhiều phương thức cho vay để đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng
khi đến vay vốn: cho vay trực tiếp từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay
theo hạn mức dự phòng, cho vay trả góp, cho vay theo hạn mức thấu
chi...Ngân hàng nào càng áp dụng nhiều phương thức cho vay đa dạng với
những điều kiện hấp dẫn cho khách hàng càng có điều kiện phục vụ nhiều
khách hàng hơn, khách hàng đến vay nhiều hơn, có khả năng tăng dư nợ tốt
hơn.
* Mạng lưới chi nhánh ngân hàng và đội ngũ cán bộ ngân hàng
Mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm, điểm giao dịch
của ngân hàng là nơi mà thu hút khách hàng đến với ngân hàng, là nơi đầu
tiên mà khách hàng tiếp xúc với ngân hàng nên là nhân tố có ảnh hưởng
không nhỏ đến mở rộng cho vay. Mặt khác hoạt động của ngân hàng nếu kết
hợp với các cấp chính quyền địa phương, bộ máy công an, kiểm soát còn tạo
Hà Văn Thạch Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lê Đức Lữ
điều kiện để ngân hàng nắm rõ tình hình hoạt động của khách hàng thuận lợi
trong tiếp xúc, cũng như giám sát việc thực hiện khoản vay của khách hàng.
Ngoài ra việc mở rộng mạng lưới ngân hàng không chỉ ở việc mở thêm
nhiều chi nhánh mới mà còn được thể hiện ở việc cán bộ ngân hàng trực tiếp
đến từng địa bàn, tiếp xúc với khách hàng, phổ biến về hoạt động ngân hàng,
hướng dẫn thủ tục cho người có nhu cầu vay vốn.
Bên cạnh đó đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng cũng có ảnh hưởng
đến mở rộng cho vay. Thái độ phục vụ, trình độ hiểu biết của các cán bộ,
nhân viên là bộ mặt của một ngân hàng, vì đây là những người trực tiếp gây
ấn tượng đầu tiên với khách hàng. Một khách hàng có ấn tượng tốt đẹp về
ngân hàng thì họ sẽ quảng bá cho nhiều người khách hàng khác đến với ngân
hàng khi có nhu cầu vay vốn, và ngược lại. Ngoài ra công tác marketing, tư
vấn, gặp gỡ, trò chuyện hướng dẫn khách hàng các thủ tục vay vốn, giới thiệu
các dịch vụ tiện ích cũng đem lại những thay đổi trong hoạt động cho vay.
* Tình hình huy động vốn

Ngân hàng chỉ có thể tiến hành mở rộng cho vay khi có một số lượng
vốn đủ lớn để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, tăng qui mô cho vay. Thực tế
nguồn vốn tự có của ngân hàng là rất nhỏ bé nên các ngân hàng phải tìm mọi
cách huy động vốn trong nền kinh tế. Hoạt động huy động vốn đạt hiệu quả là
điều kiện để ngân hàng tiến hành mở rộng cho vay.
Mặt khác cơ cấu vốn huy động được cũng có ảnh hưởng: Nếu nguồn
huy động được chủ yếu là ngắn hạn thì ngân hàng bị hạn chế nếu muốn mở
rộng cho vay trung và dài hạn và ngược lại. Ngân hàng Nhà nước còn qui
định tỷ lệ chuyển hoán tối đa nguồn ngắn hạn sang cho vay trung và dài hạn,
đây cũng là điểm hạn chế ngân hàng mở rộng cho vay.
1.3.1.2. Các nhân tố thuộc về DNV&N
Trước hết là khoản vay phụ thuộc vào nhu cầu vay của khách hang.
Hà Văn Thạch Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lê Đức Lữ
Khách hang là doanh nghiệp khi có nhu cầu vay với tình hình tìa chính tốt,
hoạt động kinh doanh có lãi, thì sẽ tạo điều kiện cho ngân hang trong thẩm
định đánh giá các khoản vay, từ đó khoản vay có thể dễ dàng được thực
hiện.Tuỳ thuộc vào nhu cầu của mỗi khách hang mà ngân hang có thể phát
triển nhiều phương thức cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay
đối với sinh viên…Có lúc khách hang xin vay vượt mức giới hạn mức cho
phép của ngân hang sẽ phải lựa chọn đồng ý hoặc từ chối. Những quyết định
cho vay của ngân hang phải hết sức linh hoạt để đáp ứng yêu cầu của khách
hang.
Tiếp đó là tình hình tài chính của doanh nghiệp là cơ sở quan trọng để
ngân hang có quyết định cho vay hay không. Ngân hàng nào cũng muốn mở
rộng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, song càng
lẫn sâu vào hoạt động của doanh nghiệp thì ngân hang càng gánh chịu nhiều
rủi ro, do đó ngân hang phải hạn chế cho vay trong khả năng thanh toán của
mình. Vốn tự có và tài sản đảm bảo của doanh nghiệp là tài sản bù đắp rủi ro
khi phát sinh bất lợi và là yêu cầu cho sự an toàn, tính khả thi của khoản vay.

Đặc biệt ngân hang quan tâm đến khả năng sinh lời và khả năng trả nợ của
doanh nghiệp trước khi đưa ra một quyết định choa vay, bởi khả naăg sinh lời
là nguồn trả nợ chính cho các khoản vay của doanh nghiệp.
Trình độ, khả năng dự báo các vấn đề kinh doanh, đạo đức tư cách của
khác hang là ngyên nhân ảnh hưởng đáng kể tới hoạt động cho vay. Nhiều
khách hang sẵn sang mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao, họ cũng
sẵn sang dung thủ đoạn lừa ngân hang làm cho ngân hang không xác định
được chính xác về mục đích và chất lượng của khoản vay dẫn đến rủi ro xảy
ra. Trong trường hợp người vay kinh doanh có lãi nhưng lại chây ỳ không trả
nợ, ngân hang sẽ không thu hồi được vốn đúng hạn. Khách hang cũng có thể
xin gia hạn nợ, nếu ngân hang gia hạn nợ quá nhiều cho khách hang sẽ làm
Hà Văn Thạch Lớp Ngân hàng 45B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Lê Đức Lữ
giảm độ an toàn và chất lượng cũng như khả năng trả nợ của khoản vay.
1.3.2. Các nhân tố khách quan
1.3.2.1. Các nhân tố thuộc về NHTW và Chính phủ
Khả năng cho vay của các ngân hàng chịu ảnh hưởng bởi các công cụ
của chính sách tiền tệ, bao gồm: dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở,
chính sách tái chiết khấu.
- Nghiệp vụ thị trường mở: Là hoạt động của NHTW mua bán các
chứng khoán có giá (tín phiếu kho bạc, tín phiếu Ngân hàng nhà nước…) trên
thị trường tiền tệ. Khi NHTW thực hiện nghiệp vụ thị trường mở sẽ làm tăng
hay giảm khối lượng tiền tệ và ảnh hưởng đến khả năng cung ứng cho vay
của NHTM.
- Dự trữ bắt buộc nhằm điều chỉnh khả năng cho vay của các NHTM.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến cho vay của hệ thống NHTM. Dự trữ bắt
buộc không được hưởng lãi. Khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng đòi hỏi các NHTM
phải tăng lãi suất cho vay làm khả năng cho vay của các NHTM giảm xuống.
- Chính sách tái chiết khấu: Là công cụ của NHTW trong việc thi hành
chính sách tiền tệ, bằng cách cho vay tái cấp vốn cho các NHTM kinh doanh.

Khi NHTW nâng lãi suất tái chiết khấu tức là giá cả các khoản vay tăng, làm
khả năng cho vay của các NHTM đối với nền kinh tế giảm và ngược lại.
- Chính sách lãi suất: Tháng 8/2000 NHNN thực hiện lãi suất cơ bản
đối với cho vay bằng VNĐ và cơ chế lãi suất thị trường có quản lý đối với
cho vay bằng ngoại tệ. Sau mấy năm thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận cho
thấy biên độ lãi suất này chỉ phù hợp với các NHNN và các khoản tín dụng
cho vay thành thị. Còn đối với các NHTM cổ phần (trừ quỹ tín dụng nhân
dân) và các khoản cho vay khu vực nông thôn là chưa thoả đáng. Lãi suất trần
cơ bản cộng thêm biên độ thực chất đã tạo nên trần lãi suất tối đa mà các
NHTM được phép cho vay, nhưng việc khống chế lãi suất trần cho vay sẽ
Hà Văn Thạch Lớp Ngân hàng 45B

×