Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Đổi mới tổ chức và hoạt động Chính phủ theo yêu cầu nhà nước pháp quyền XHCN potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195 KB, 18 trang )



Khoa học pháp lý

Đổi mới tổ chức và hoạt động
Chính phủ theo yêu cầu nhà
nước pháp quyền XHCN
Một phiên họp thường kỳ
của Chính phủ. Ảnh: St

Cùng với cải cách kinh tế, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của
Chính phủ - cơ quan thực hiện chức năng hành pháp - giữ vị trí
trung tâm

Cùng với cải cách kinh tế, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của
Chính phủ - cơ quan thực hiện chức năng hành pháp - giữ vị trí
trung tâm trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam.
Yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ
máy nhà nước nói chung, Chính phủ nói riêng theo hướng xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCH nhằm “Xây dựng cơ chế vận
hành của nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm nguyên tắc tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong
việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” (1) được
Đảng ta đề ra như một tất yếu khách quan.
Ngoài việc nghiên cứu các đặc điểm chung của nhà nước pháp
quyền đối với Chính phủ như tính tối cao của pháp luật, tương
quan giữa 3 loại quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp; hành
pháp trong lập pháp; Chính phủ cầm lái chứ không phải là chèo
thuyền; Chính phủ hoạt động theo hướng là người phục vụ khách


hàng; Chính phủ phi tập trung hoá (2), trong quá trình xây dựng
nhà nước pháp quyền ở nước ta, các yêu cầu đối với việc đổi mới
tổ chức và hoạt động của Chính phủ được đặt ra là:
1. Nhận thức đúng về Chính phủ - cơ quan thực hiện chức
năng hành pháp
Trong cơ cấu quyền lực nhà nước, quyền hành pháp được các nhà
tư tưởng, các triết gia, các nhà luật học quan tâm và thừa nhận
như một điều kiện, nhân tố cơ bản bảo đảm sức mạnh của một
quốc gia: “Lực tổng quát của Chính phủ là lực của quốc gia” (3).
Nếu như quyền lập pháp thuộc về nhân dân (thông qua đại biểu
do nhân dân bầu ra) thì quyền hành pháp là “lực lượng công cộng
biến ý chí chung của quyền lực tối cao của nhân dân phục vụ cho
lợi ích quốc gia” (4); chỉ có thông qua cơ quan thực hiện quyền
hành pháp (Chính phủ), các lợi ích của dân tộc, ý chí của giai cấp
thống trị mới được thực hiện. ở nước ta, ý chí của Đảng cầm
quyền gắn liền với lợi ích của đại đa số nhân dân cũng chỉ có thể
thực hiện thông qua một Chính phủ được thành lập theo quy định
của Hiến pháp và hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
Quyền hành pháp ở nước ta, một loại quyền hiến định cùng với
quyền lập pháp và tư pháp tạo thành một chỉnh thể quyền lực
thống nhất. Các quyền này cùng bắt nguồn từ ý chí của nhân dân
và phục vụ lợi ích nhân dân.
Trong cơ cấu quyền lực đó, không có quyền nào đứng trên quyền
nào mà là sự tương tác, “cộng lực” nhằm thúc đẩy khả năng thực
hiện các quyền và lợi ích của công dân. Để thực hiện các quyền
đó, các quốc gia trên thế giới đều đi đến một nhận thức chung:
lập pháp - phê duyệt chính sách; hành pháp - hoạch định và thi
hành chính sách (Chính phủ thường hoạch định chính sách và đệ
trình Quốc hội), sau khi Quốc hội ban hành (phê duyệt) các đạo
luật, Chính phủ phải đưa các đạo luật vào cuộc sống; tư pháp - tài

phán các hành vi vi phạm lợi ích của nhà nước và công dân trong
các chính sách mà Quốc hội đã thông qua.
Như vậy, nếu xét tổng thể, thì Chính phủ là chủ thể hoạch định
chính sách và trình Quốc hội thông qua. Mặt khác, các chính sách
này đều được xã hội (bao gồm nhiều chủ thể quy tụ các lợi ích
khác nhau) chấp nhận hay phản ứng thông qua kênh chấp hành;
và thực hiện pháp luật (Chính phủ). Trong sách báo pháp lý,
người ta thường đề cập đến Nhà nước như một đại diện sức mạnh
công cộng quy tụ chủ yếu vào Chính phủ, chẳng hạn: Chính phủ
Hoa Kỳ đang đứng trước nguy cơ khủng hoảng kinh tế; nền kinh
tế Hoa Kỳ đang đứng trước sự lựa chọn của Tổng thống (người
đứng đầu hành pháp) hoặc Chính phủ Việt Nam đã đưa ra 8 giải
pháp nhằm hạn chế lạm phát Toàn bộ các hoạt động, từ hoạch
định chính sách vĩ mô, đệ trình Quốc hội và triển khai thực hiện
các chính sách (khi được Quốc hội thông qua hoặc theo thẩm
quyền của Chính phủ) là chức năng hành pháp của Chính phủ.
Bên cạnh đó, theo hiến định, người đứng đầu “cơ quan hành
chính nhà nước cao nhất” cũng thuộc về Chính phủ, nhằm tạo lập
một trật tự hành chính thống nhất từ trung ương đến địa phương
và bảo đảm các điều kiện vật chất, tinh thần đáp ứng cho toàn thể
xã hội. Trong các bản Hiến pháp của nước ta (1946, 1959, 1980
và 1992), chức năng hành pháp của Chính phủ đều được ghi nhận
dưới các thuật ngữ khác nhau “cơ quan chấp hành của Quốc hội;
cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ”.,
nhưng chưa ghi nhận chính thức thuật ngữ Chính phủ - hành
pháp, mà chủ yếu được ghi nhận trong các văn kiện Đại hội Đảng
các khoá VIII, IX và X về mối quan hệ giữa các cơ quan thực
hiện quyền lập pháp (Quốc hội), quyền hành pháp (Chính phủ),
quyền tư pháp (Toà án và Viện Kiểm sát).
Từ cách hiểu trên, xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam

cần nhận thức Chính phủ là cơ quan thực hiện chức năng hành
pháp - một loại quyền hiến định - nhằm thực hiện các chủ trương,
chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua việc hoạch
định chính sách cho toàn xã hội và thực hiện chúng một cách triệt
để khi được Quốc hội thông qua.
Để thực hiện có hiệu quả các chính sách này, Chính phủ phải tổ
chức thống nhất, có kỷ cương nền hành chính từ trung ương đến
địa phương nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của toàn
thể đất nước. (cơ quan hành chính nhà nước cao nhất).
2. Chính phủ xây dựng thể chế và tổ chức thực hiện pháp luật
Khác với các nước có chế độ tam quyền phân lập triệt để, ở nước
ta, nói đến cơ quan thực hiện chức năng hành pháp (hành pháp
tập thể và hành pháp cá nhân) đòi hỏi Chính phủ phải là chủ thể
hoạch định chính sách vĩ mô các hoạt động kinh tế - xã hội.
Chúng ta đều biết, bất cứ định hướng chính trị nào, muốn đi vào
đời sống xã hội đều phải được thực hiện thông qua Chính phủ và
hệ thống cơ quan hành chính trên hai phương diện:
Một là, thể chế hoá các định hướng chính sách đó thông qua hệ
thống pháp luật của các cơ quan nhà nước và suy cho cùng là
thực hiện thông qua vai trò của Chính phủ. Từ khởi thảo chính
sách, tổng kết đánh giá thực tiễn đến xây dựng dự thảo và đệ
trình Quốc hội chủ yếu do Chính phủ trình (5). Theo pháp luật
hiện hành, Chính phủ có thẩm quyền trải rộng trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội: Hiến pháp năm 1992 quy định 11 nhiệm
vụ, quyền hạn của Chính phủ (Điều 112§); 6 nhiệm vụ, quyền
hạn của Bộ trưởng (Điều 11). Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001
đã cụ thể hoá các quyền hạn, nhiệm vụ trên theo hướng Chính
phủ là chủ thể hoạch định chính sách vĩ mô và trình Quốc hội
thông qua nội dung hoạt động xây dựng thể chế và tổ chức thực
hiện pháp luật của mình.

Cùng với các quy định của pháp luật, trên thực tế, các chính sách
theo lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học và công
nghệ, dịch vụ công; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân; tăng cường quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự
an toàn xã hội, vấn đề đối ngoại đều được cơ quan thực hiện
chức năng hành pháp xây dựng thành chiến lược rất cụ thể để
phát triển phù hợp với thể chế chính trị và thẩm quyền hiến định.
Trong quản lý và điều hành nền hành chính, Chính phủ là chủ thể
chính, chủ yếu đưa pháp luật vào đời sống thông qua việc tổ chức
đánh giá tác động kinh tế xã hội, kiểm tra việc thực hiện và đề
xuất, kiến nghị những chủ trương, chính sách mới, loại bỏ những
bất cập khi tình hình kinh tế - xã hội thay đổi; đồng thời, theo
thẩm quyền, ban hành các chính sách, chế độ nhằm đáp ứng kịp
thời các yêu cầu của xã hội đặt ra. Một trong những ví dụ điển
hình về việc đề xuất thay đổi chỉ tiêu kinh tế xã hội năm 2008;
các biện pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì
tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, và gần đây là các
biện pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh; ngăn chặn
suy giảm kinh tế là minh chứng về yêu cầu xây dựng thể chế rất
thiết thực của Chính phủ đối với sự phát triển kinh tế của đất
nước.
Hai là, Chính phủ tổ chức thực hiện các chính sách của Đảng, các
văn bản pháp luật của Quốc hội và thực thi các quyết định của cơ
quan thực hiện chức năng tư pháp (Toà án). Có thể nói “Chính
phủ là trung tâm của bộ máy nhà nước có trách nhiệm tạo điều
kiện cho việc hoàn thành các quyền lập pháp và tư pháp” (6).
Chúng ta không thừa nhận khái niệm “cơ thể trung gian” (7) mà
các học giả tư sản dành cho Chính phủ, nhưng chúng ta cũng cần
khẳng định, nếu không có cơ quan thực hiện chức năng hành
pháp thì toàn bộ các chính sách được Quốc hội phê chuẩn hoặc

thông qua cũng như các quyết định, bản án của Toà án (vấn đề
cưỡng chế thi hành án hình sự, dân sự ) sẽ không có giá trị và
hiệu lực trong thực tiễn.
Bất cứ Chính phủ nào, nếu không thực hiện quyền lực cai trị
(hành chính) theo quy định của pháp luật thì khó có thể làm cho
xã hội phát triển đúng mục đích của Đảng cầm quyền và lợi ích
chính đáng của nhân dân.
Thành tựu của hơn hai mươi năm đổi mới đã chứng minh vai trò
hết sức lớn lao của Chính phủ trong việc tổ chức thực hiện các
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và bảo vệ lợi ích
chính đáng của nhân dân. Các tiến bộ xã hội và phát triển kinh tế
như đề cao quyền con người, vấn đề an sinh xã hội, xoá đói, giảm
nghèo; vận hành có hiệu quả các loại thị trường cơ bản (dịch vụ,
tài chính, bất động sản, khoa học công nghệ, thị trường lao động)
theo cơ chế cạnh tranh; phát triển các thành phần kinh tế, các loại
hình tổ chức sản xuất kinh doanh; nâng cao chất lượng, hiệu quả
giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát triển nguồn
nhân lực; phát triển văn hoá; thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là những kết quả và bài
học lớn về một Chính phủ quản lý, điều hành, tổ chức thực hiện
có hiệu quả đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước (8).
Tuy nhiên, trong thời gian tới, để Chính phủ thực sự đáp ứng
được yêu cầu này, theo chúng tôi, cần phải:
- Nâng cao tính chủ động và tầm nhìn chiến lược của Chính phủ
trong hoạt động hành pháp; nội dung chính sách phải được thể
hiện ngay khi xây dựng thể chế, tránh trường hợp trong quá trình
xây dựng (các dự án luật, pháp lệnh) nội dung chính sách không
được thể hiện rõ ràng để đến khi các dự án được đưa ra bàn thảo
xảy ra hậu quả: hoặc là Chính phủ không thông qua (như Dự án

Luật về Hội, Luật Đất đai, Luật Báo chí ) hoặc thông qua nhưng
khi trình sang Quốc hội, nội dung được sửa đổi, bổ sung không
đúng với tinh thần Chính phủ trình (như Luật Đăng ký bất động
sản, Luật Thanh tra ). Bên cạnh đó, cần tăng cường sự sáng tạo,
linh hoạt trong xây dựng và thực hiện thể chế. Thực tế thời gian
qua đã chỉ ra rằng, theo thẩm quyền, Chính phủ có rất nhiều sáng
kiến trong xây dựng thể chế một cách có hiệu quả trước khi Quốc
hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xây dựng thành luật, pháp lệnh,
nghị quyết (thông thường, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các
Bộ trưởng ban hành các chính sách trước khi các chính sách đó
được pháp điển hoá thành luật, pháp lệnh).
- Tăng cường vai trò và chất lượng của cơ quan tham mưu trong
việc xây dựng thể chế (các cơ quan của Chính phủ). Tư tưởng chỉ
đạo của người đứng đầu hành pháp phải được thường xuyên cập
nhật trong các dự án. Một dự án luật, pháp lệnh có thể ban soạn
thảo phải xin ý kiến Thủ tướng Chính phủ nhiều lần (nếu như dự
án phức tạp, nhạy cảm hoặc liên quan đến các lĩnh vực cơ bản
của đời sống xã hội). Bởi lẽ, như đã phân tích, nếu chính sách,
pháp luật thiếu tính khả thi (do tham mưu kém hiệu quả) thì sẽ rất
khó khăn cho cơ quan, người có thẩm quyền trong quản lý, chỉ
đạo, điều hành các vấn đề kinh tế - xã hội;
- Chuyên nghiệp hoá và chú trọng phát triển tài năng trong đội
ngũ xây dựng thể chế. Chất lượng thể chế phụ thuộc chính, chủ
yếu ở chất lượng cán bộ, công chức xây dựng thể chế. Trong đó,
cần chuyên môn hoá sâu và thu hút các chuyên gia giỏi, các nhà
khoa học tài năng trong và ngoài nước vào các lĩnh vực thể chế
mà chúng ta mới tiếp cận như kinh tế thị trường, khoa học công
nghệ, tổ chức quản trị doanh nghiệp ; đồng thời, khắc phục cho
được tư duy cục bộ, “nhóm lợi ích” của các cán bộ, công chức
trong các bộ, ngành xây dựng thể chế, bên cạnh việc tăng cường

phản biện khoa học, phản biện xã hội trong quá trình xây dựng
thể chế.
3. Yêu cầu về bộ máy gọn nhẹ, phân công, phân cấp rõ ràng
và tăng cường xã hội hoá các dịch vụ công
- “Chính phủ nhỏ - xã hội lớn” đang là xu thế tiến bộ trong hội
nhập kinh tế hiện nay. Một nét tiến bộ trong cơ cấu Chính phủ
Việt Nam khi chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN là tăng cường vai trò quản
lý nhà nước của các bộ, giảm thiểu các cơ quan thuộc Chính phủ,
xây dựng các bộ đa ngành, đa lĩnh vực (hướng tới bỏ chế độ chủ
quản đối với doanh nghiệp), tái cấu trúc cơ cấu từng bộ đáp ứng
yêu cầu cải cách hành chính; đồng thời, trong quá trình thực hiện
cải cách bộ máy, Chính phủ tiến hành phân công, phân cấp tương
đối rõ các nhiệm vụ của các bộ, ngành và địa phương (9). Tuy
nhiên, qua nghiên cứu, chúng tôi cho rằng, các khái niệm quản lý
nhà nước; ngành; lĩnh vực; bộ chuyên ngành và bộ tổng hợp; bộ,
cơ quan ngang bộ có chức năng quản lý nhà nước; cục, tổng cục
và các chức danh tương ứng; cơ quan thuộc Chính phủ không có
chức năng quản lý nhà nước vẫn còn là những nội dung cần
tranh luận về mặt khoa học.
Trong thời gian tới, yêu cầu về bộ máy gọn nhẹ cần hướng tới các
tiêu chí: một là, tái cấu trúc bộ máy hành chính phù hợp với mục
đích quản trị của Chính phủ: Chính phủ làm gì, làm như thế nào
cho tốt. Hai là, làm rõ hơn tính chất và phương thức quản lý của
bộ đa ngành, đa lĩnh vực; không nhất thiết mỗi ngành, lĩnh vực
phải có một bộ chủ quản (tài chính - ngân hàng; kế hoạch và đầu
tư - các lĩnh vực kinh tế ). Ba là, phân định rõ thẩm quyền tập
thể và cá nhân trong hoạt động hành pháp, đề cao vai trò của cá
nhân Thủ tướng, Chủ tịch UBND trong quá trình chỉ đạo, điều
hành hành chính. Bốn là, xây dựng cơ quan hoạch định chính

sách độc lập bao gồm các chuyên gia, các nhà khoa học ở từng
lĩnh vực và nâng cao trình độ chuyên môn hoá để phục vụ tốt cho
công tác quản lý nhà nước (tránh chồng chéo với các bộ, ngành)
nhằm bảo đảm tính khách quan, độc lập và khả năng tham mưu,
tư vấn hiệu quả cao.
- Đi đôi với yêu cầu xây dựng bộ máy Chính phủ gọn nhẹ, cần
chú ý phân công, phân cấp một cách hợp lý các nhiệm vụ giữa
các cơ quan trung ương với nhau, giữa trung ương với địa
phương; phân biệt rõ chức năng của chính quyền đô thị với chính
quyền nông thôn.
Chúng ta không phân quyền, nhưng phân công trách nhiệm, thẩm
quyền cho từng cấp thật rõ ràng nhằm phát huy tính độc lập, tự
chủ, tự chịu trách nhiệm đang là điểm nhấn thời sự của các quốc
gia có chế độ chính trị tương đồng. Cốt lõi của phân công, phân
cấp là tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của từng chủ thể trước
cơ quan có thẩm quyền, trước pháp luật. Yêu cầu khoa học của
phân công, phân cấp bao gồm: 1) Xác định rõ nhiệm vụ nào Thủ
tướng Chính phủ, các Bộ trưởng làm, việc nào trung ương, bộ
ngành làm; nhiệm vụ nào địa phương (tỉnh, huyện, xã) làm, loại
việc nào trung ương uỷ quyền cho địa phương, cấp trên uỷ quyền
cho cấp dưới. 2) Loại bỏ sự đùn đẩy và tính cục bộ, thiếu khách
quan (chọn lợi ích cho ngành, lĩnh vực, đẩy việc khó cho cấp trên
hoặc các ngành, địa phương). 3) Yêu cầu về trách nhiệm với cấp
trên (hoặc cấp uỷ quyền) và trước pháp luật về nhiệm vụ được
phân cấp). 4) Đề cao tính tự quản của địa phương khi được phân
cấp và tăng cường thanh tra, kiểm tra của cấp trên đối với cấp
dưới.
- Chú trọng chuyển giao những việc của Chính phủ xét thấy các
tổ chức xã hội và tư nhân làm tốt hơn như các dịch vụ giáo dục, y
tế, môi trường, vận tải công cộng theo nguyên tắc: 1) Những gì

các tổ chức xã hội, doanh nghiệp làm được thì được chuyển giao,
Chính phủ chỉ giữ lại những việc gì mà khả năng sinh lời ít, đầu
tư lớn, lâu dài mà các doanh nghiệp, tổ chức xã hội chưa đảm
đương được. 2) Chính phủ hỗ trợ bước đầu về cơ chế chính sách
hoặc tài chính cho các tổ chức xã hội, doanh nghiệp (hỗ trợ vốn,
thuế, đất đai, lãi suất ). 3) Xã hội hoá nhưng không thả nổi cho
xã hội, thị trường mà vẫn cần sự quản lý của Nhà nước nhằm
kiểm soát, định hướng xã hội, thị trường như tạo hành lang pháp
lý phù hợp, can thiệp kịp thời khi có biến động bất lợi cho dân
sinh (như Chính phủ đã có các biện pháp kiềm chế lạm phát và
hạn chế suy giảm kinh tế thời gian qua). Đây cũng là biểu hiện
vai trò của Chính phủ từ “chèo thuyền” sang “cầm lái” trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay.
4. Yêu cầu xây dựng nền hành chính có trách nhiệm và minh
bạch trong hoạt động của Chính phủ
- Đáp ứng yêu cầu của cải cách hành chính hiện nay, việc xây
dựng một nền hành chính trong sạch, có trách nhiệm cao với
nhân dân, với xã hội là biểu hiện của sự tiến bộ xã hội. Một
Chính phủ văn minh là Chính phủ có trách nhiệm với nhân dân,
phục vụ nhân dân, không cho phép bất cứ cơ quan, người có thẩm
quyền nào dựa vào quyền lực để vượt khỏi giới hạn trách nhiệm
trước nhân dân.
Trách nhiệm của Chính phủ, các thành viên Chính phủ bao gồm
trách nhiệm chính trị trước nhân dân (Quốc hội) và trách nhiệm
cá nhân trước pháp luật (chịu trách nhiệm về hành vi ứng xử
trong hoạt động công vụ với tư cách là chính khách, người đứng
đầu bộ, ngành được Đảng, nhân dân uỷ quyền). Về mặt pháp lý,
quyền hạn phải đi đôi với trách nhiệm (quyền hạn càng cao, trách
nhiệm càng lớn). Trách nhiệm chính là sự phản ứng của đối

tượng quản lý đối với chủ thể quản lý khi chủ thể vi phạm các qui
tắc quản lý nhà nước và phải gánh chịu những hậu quả bất lợi về
mặt vật chất và tinh thần đối với những hành vi trái pháp luật do
chủ thể đó gây ra. Đối với các thành viên Chính phủ, trách nhiệm
bao gồm cả việc xây dựng chủ trương chính sách trong ngành,
lĩnh vực (đề xuất chính sách) và trách nhiệm cá nhân trong việc
điều hành hành chính trong bộ, ngành (sai phạm của cấp dưới,
không chấp hành nghiêm minh pháp luật ). Nền hành chính
thông suốt phải vận hành trên cơ sở trách nhiệm của công chức
trước công vụ. Một cán bộ, công chức trong bộ máy của Chính
phủ phải có trách nhiệm và phải bị chế ước bởi các hình thức kỷ
luật khi vi phạm các qui tắc công vụ (không trừ một ai). Trong
việc xây dựng nhà nước pháp quyền, chúng ta nói tới Chính phủ
có trách nhiệm với xã hội cũng đồng nghĩa với việc cơ quan,
người có thẩm quyền trong hệ thống hành chính từ trung ương
đến địa phương phải thực sự là “công bộc” của dân và “chỉ được
làm những gì pháp luật cho phép”. Điều đáng mừng là gần đây,
Quốc hội đã thông qua Luật Cán bộ, công chức, ngoài các quy
định về trách nhiệm kỷ luật đối với công chức (6 hình thức), Luật
còn quy định các hình thức từ chức, bãi nhiệm đối với tất cả cán
bộ, công chức trong hệ thống chính trị của nước ta.
- Minh bạch hoá các hoạt động của Chính phủ là một trong những
nội dung chính trong hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung
và Chính phủ nói riêng. Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân,
do đó các hoạt động của Nhà nước cần được dân biết, dân bàn,
dân làm và dân giám sát, kiểm tra. Chính phủ điều hành xã hội vì
lợi ích của người dân, quyền hành pháp cũng bắt nguồn từ người
dân. Mặt khác, như đã phân tích, nhân dân là người tiếp nhận
(thừa nhận hay không thừa nhận) chính sách từ Nhà nước mà
Chính phủ là người hoạch định, đề xuất. Do đó, người dân cần có

thông tin (từ tham gia, phản biện đến chất vấn thông qua đại biểu
Quốc hội) là việc làm có ý nghĩa rất lớn đối với nền dân chủ
XHCN ở nước ta. Khía cạnh pháp quyền trong minh bạch hoá các
hoạt động của Chính phủ thể hiện ở các phương diện: 1) Mọi hoạt
động liên quan đến công quyền (chính sách công, văn bản qui
phạm pháp luật, hành vi ứng xử của cán bộ, công chức ) đều
phải được công khai để tạo khả năng giám sát của người dân. 2)
Người dân tham gia phản biện các chủ trương, chính sách (từ xây
dựng đến thực hiện chính sách) đều được các nghiệp đoàn, tổ
chức xã hội, các chuyên gia, nhà khoa học tham gia. 3) Xây dựng
văn hoá minh bạch chính sách theo hướng khi xây dựng và ban
hành chính sách, pháp luật phải rõ ràng, dễ hiểu, dễ vận dụng và
không chồng chéo; đồng thời, dư luận phải khách quan, đúng sự
thật khi tiếp nhận chính sách, pháp luật của các cơ quan nhà
nước. 4) Các hoạt động minh bạch của Chính phủ phải được chế
định bằng một đạo luật, trong đó quy định rõ trách nhiệm của các
chủ thể cung cấp, nhận thông tin; nội dung thông tin và các chế
tài cần thiết khi vi phạm sự minh bạch và quyền tự do thông tin.
5. Yêu cầu bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và
hoạt động của Chính phủ
Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết, yêu cầu quan trọng
trong việc xây dựng một Chính phủ mạnh theo hướng Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam. Công cụ hữu hiệu của Đảng cầm
quyền là sử dụng Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật để
truyền tải, định hướng hoạt động kinh tế - xã hội. Thể chế, bộ
máy Chính phủ hoạt động có hiệu quả phải có định hướng đúng
của Đảng. Đảng lãnh đạo bằng chủ trương chính sách nhưng
không làm thay, bao biện các hoạt động của bộ máy nhà nước;
Đảng cử các cán bộ ưu tú giữ các chức vụ trong Chính phủ,
không có nghĩa là phủ nhận các nguyên tắc hoạt động của hành

pháp mà ngược lại, bằng pháp luật, bằng sự chi phối của các quy
tắc pháp quyền, uy tín của Đảng càng được nâng cao. Thực tế đã
chỉ ra rằng, việc hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật của
bộ máy nhà nước nói chung và Chính phủ nói riêng cũng chính là
sự thể chế hoá cương lĩnh chính trị, quan điểm, đường lối của
Đảng và suy cho cùng, “đề cao vai trò của pháp luật cũng có
nghĩa là đề cao vai trò các quyết định cơ bản của Đảng” (10).
Để thực hiện được yêu cầu trên, cần xác định rõ phạm vi thẩm
quyền và trách nhiệm của Chính phủ trong quan hệ với các cơ
quan của Đảng, làm rõ những loại việc ở tầm Ban chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư trực tiếp quyết định hoặc
cho ý kiến định hướng; đồng thời, xác định rõ những loại việc do
Ban cán sự Đảng Chính phủ, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
chủ động quyết định theo thẩm quyền đã được Hiến pháp, Luật
Tổ chức Chính phủ quy định. Mặt khác, nghiên cứu lại vị trí, vai
trò của các Ban cán sự Đảng bộ, cơ quan ngang bộ, có vị trí
tương đối giống nhau trong mối quan hệ với Bộ Chính trị, Ban Bí
thư, cùng chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Hiện nay, Bộ trưởng là Bí thư Ban cán sự Đảng của bộ có trách
nhiệm báo cáo, xin ý kiến trực tiếp và thực hiện sự chỉ đạo của
Bộ Chính trị, Ban Bí thư về những vấn đề liên quan đến công tác
quản lý, điều hành của Bộ trưởng. Mối quan hệ công tác như vậy
có thể ảnh hưởng đến thẩm quyền, hiệu lực điều hành của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ và kỷ cương của một nền hành chính
thống nhất. Đây cũng là một trong những yêu cầu đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị nói
chung và Chính phủ nói riêng, nhằm “nâng cao năng lực lãnh đạo
của Đảng, hiệu lực và hiêụ quả quản lý của Nhà nước, phát huy
sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong quá trình hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (11) mà

Đảng đã đề ra.

(1) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X. NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 126.
(2) Xem Đêvit Âuxbot và Jet Ghenblơ. Đổi mới hoạt động của
Chính phủ: tinh thần doanh nghiệp đang làm thay đổi khu vực
công cộng như thế nào. NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 1997.
(3) Jean Jacques Rousseau. Bàn về Khế ước xã hội. NXB TP. Hồ
Chí Minh 1992, tr. 98.
(4) Jean Jacques Rousseau. Sđd, tr. 96.
(5) Hiện nay, trên 90% số dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết trình
Quốc hội, UBTVQH đều do Chính phủ chuẩn bị, đó là chưa kể
báo cáo kinh tế xã hội 6 tháng, hàng năm và việc triển khai các
nghị quyết của Quốc hội đều do Chính phủ trình.
(6) Xem: Nguyễn Đăng Dung, Chính phủ trong nhà nước pháp
quyền, NXB Đại học Quốc gia 2008, tr. 80.
(7) Xem Nguyễn Đăng Dung, sđd, tr. 80.
(8) Từ năm 2000 đến nay, số lượng các dự án luật, pháp lệnh
Chính phủ trình Quốc hội qua các năm là: 2000:11; 2001: 22;
2002: 6; 2003: 34; 2004: 36; 2005: 38; 2006: 23; 2007: 17. Số
lượng các văn bản QPPL của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
tăng dần từ 281 văn bản năm 2000 đến 479 văn bản năm 2007.
(nguồn: Báo cáo Kiểm điểm điều hành của Chính phủ các năm).
(9) Hiện nay chúng ta có 22 bộ, cơ quan ngang bộ, 8 cơ quan
thuộc Chính phủ. Tuy nhiên, cấu trúc trong từng bộ, việc tổ chức
chưa thực sự khoa học, chức năng, nhiệm vụ của một số đơn vị
còn chồng chéo, trùng lắp.
(10) Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20
năm đổi mới (1986-2006). NXB Chính trị Quốc gia 2005, tr. 86.
TS. Phạm Tuấn Khải


×