Khoa học pháp lý
Bàn về tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự "phạm tội
nhiều lần"
ĐĂNG TRÊN TẠP CHÍ KHPL SỐ 4 (35)/2006
BÀN VỀ TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH
SỰ "PHẠM TỘI NHIỀU LẦN" QUY ĐỊNH TRONG LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM
LÊ VĂN LUẬT*
* ThS.TAND huyện Hướng Hoá, Quảng Trị
Tình tiết "Phạm tội nhiều lần" trong Luật Hình sự Việt Nam
được quy định là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hoặc
tình tiết định khung hình phạt trong rất nhiều tội phạm quy định
tại các điều của các chương khác nhau mà trong một số điều luật
thì tình tiết này có sự thể hiện nội dung và ý nghĩa khác nhau. Cụ
thể:
Trong BLHS năm 1999, tình tiết "Phạm tội nhiều lần" là tình tiết
định khung hình phạt quy định tại các tội phạm sau:
o (1) Điểm c khoản 1 Điều 104 về tội "Cố ý gây thương
tích ";
o (2) Điểm d khoản 2 Điều 111 về tội "Hiếp dâm";
o (3) Điểm c khoản 3 Điều 112 về tội "Hiếp dâm trẻ em";
o (4) Điểm b khoản 2 Điều 113 về tội "Cưỡng dâm";
o (5) Điểm b khoản 3 Điều 114 về tội "Cưỡng dâm trẻ em";
o (6) Điểm a khoản 3 Điều 115 về tội "Giao cấu với trẻ em";
o (7) Điểm a khoản 2 Điều 116 về tội "Dâm ô đối với trẻ
em";
o (8) Điểm b khoản 2 Điều 121 về tội "Làm nhục người
khác";
o (9) Điểm d khoản 2 Điều 123 về tội "Bắt, giữ hoặc giam
người trái pháp luật";
o (10) Điểm c khoản 2 Điều 125 về tội "Xâm phạm bí mật
hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác";
o (11) Điểm b khoản 2 Điều 131 về tội "Xâm phạm quyền tác
giả";
o (12) Điểm b khoản 2 Điều 169 về tội "Cố ý làm trái quy
định về phân phối tiền, hàng cứu trợ";
o (13) Điểm b khoản 2 Điều 170 về tội "Vi phạm quy định về
cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp";
o (14) Điểm b khoản 2 Điều 171 về tội "Xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp";
o (15) Điểm b khoản 2 Điều 173 về tội "Vi phạm các quy
định về sử dụng đất đai";
o (16) Điểm b khoản 2 Điều 176 về tội "Vi phạm các quy
định về quản lý rừng".
o (17) Điểm b khoản 2 Điều 193 về tội "Sản xuất trái phép
chất ma tuý";
o (18) Điểm b khoản 2 Điều 194 về tội "Tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý”;
o (19) Điểm b khoản 2 Điều 195 về tội "Tàng trữ, vận
chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc
sản xuất trái phép chất ma tuý";
o (20) Điểm b khoản 2 Điều 196 về tội "Sản xuất, tàng trữ,
vận chuyển, mua bán các phương tiện, dụng cụ dùng vào
việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma tuý";
o (21) Điểm a khoản 2 Điều 197 về tội "Tổ chức sử dụng trái
phép chất ma túy";
o (22) Điểm b khoản 2 Điều 198 về tội "Chứa chấp sử dụng
trái phép chất ma tuý";
o (23) Điểm b khoản 2 Điều 200 về tội "Cưỡng bức, lôi kéo
người khác sử dụng trái phép chất ma tuý";
o (24) Điểm b khoản 2 Điều 201 về tội "Vi phạm quy định về
quản lý sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma tuý
khác";
o (25) Điểm a khoản 2 Điều 228 về tội "Vi phạm quy định về
sử dụng lao động trẻ em";
o (26) Điểm c khoản 2 Điều 251 về tội "Hợp pháp hoá tiền,
tài sản do phạm tội mà có";
o (27) Điểm c khoản 2 Điều 254 về tội "Chứa mại dâm";
o (28) Điểm d khoản 2 Điều 255 về tội "Môi giới mại dâm";
o (29) Điểm a khoản 2 Điều 256 về tội "Mua dâm người chưa
thành niên";
o (30) Điểm a khoản 3 Điều 256 về tội "Mua dâm người chưa
thành niên";
o (31) Điểm b khoản 2 Điều 257 về tội "Chống người thi
hành công vụ";
o (32) Điểm b khoản 2 Điều 266 về tội "Sửa chữa, sử dụng
giấy chứng nhận và các tài liệu của cơ quan, tổ chức";
o (33) Điểm b khoản 2 Điều 267 về tội "Làm giả con dấu, tài
liệu của cơ quan, tổ chức";
o (34) Khoản 2 Điều 275 về tội "Tổ chức, cưỡng ép người
khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép";
o (35) Điểm c khoản 2 Điều 278 về tội "Tham ô tài sản";
o (36) Điểm c khoản 2 Điều 279 về tội "Nhận hối lộ";
o (37) Điểm c khoản 2 Điều 280 về tội "Lạm dụng chức vụ,
quyền hạn chiếm đoạt tài sản";
o (38) Điểm b khoản 2 Điều 281 về tội "Lợi dụng chức vụ,
quyền hạn trong khi thi hành công vụ";
o (39) Điểm b khoản 2 Điều 282 về tội "Lạm quyền trong khi
thi hành công vụ";
o (40) Điểm b khoản 2 Điều 283 về tội "Lợi dụng chức vụ,
quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi";
o (41) Điểm c khoản 2 Điều 284 về tội "Giả mạo trong công
tác";
o (42) Điểm d khoản 2 Điều 289 về tội "Đưa hối lộ";
o (43) Điểm d khoản 2 Điều 290 về tội "Làm môi giới hối
lộ";
o (44) Điểm a khoản 2 Điều 291 về tội "Lợi dụng ảnh hưởng
đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi".
Nếu điều luật không quy định là tình tiết định khung tăng nặng
hình phạt thì tình tiết "Phạm tội nhiều lần" là tình tiết tặng nặng
trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS.
Trong Luật Hình sự Việt Nam, nhà làm luật chưa đưa ra khái
niệm chính thức thế nào là tình tiết “Phạm tội nhiều lần". Nhưng
từ thực tiễn xét xử và một số quan điểm của các nhà luật học thì
tình tiết này được luận giải như sau:
Theo quy định tại Thông tư liên tịch số
01/1998/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BNV ngày 2-1-1998
hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Sửa đổi, bổ sung
một số điều của BLHS thì: " tình tiết "Phạm tội nhiều lần" quy
định tại khoản 2 Điều 133, khoản 2 Điều 134a (đối với một số
tội phạm có tính chất tham nhũng và tội phạm liên quan đến tình
dục) được hiểu là đã có tất cả từ hai lần phạm tội đó trở lên (hai
lần phạm tội tham ô trở lên, hai lần phạm tội lợi dụng chức vụ,
quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản XHCN trở lên ) mà mỗi
lần phạm tội có đầy đủ yếu tố cấu thành quy định tại khoản 1
điều luật tương ứng, đồng thời trong các lần phạm tội đó chưa có
lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự và cũng chưa hết thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này người
phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tổng giá trị tài sản của
các lần phạm tội cộng lại, nếu điều luật có quy định về giá trị tài
sản hoặc thiệt hại về tài sản"[1].
Theo tác giả Đinh Văn Quế thì "Phạm tội nhiều lần là phạm tội
từ hai lần trở lên như hai lần trộm cắp, hai lần lừa đảo chiếm
đoạt tài sản, ba lần chứa mại dâm, bốn lần tham ô và mỗi lần
thực hiện hành vi đã cấu thành một tội phạm độc lập nhưng tất
cả các tội phạm đó đều bị xét xử trong cùng một bản án ; Phạm
tội nhiều lần là người phạm tội có nhiều lần thực hiện hành vi
phạm tội, nhưng hành vi đó chỉ cấu thành một tội, xâm phạm đến
cùng một khách thể trực tiếp và chưa đưa ra truy tố, xét xử "
[2].
Theo tác giả Lê Văn Cảm thì "Phạm tội nhiều lần là phạm từ hai
tội trở lên mà những tội ấy được quy định tại cùng một điều luật
(hoặc tại cùng một khoản của điều luật) tương ứng trong phần
riêng BLHS, đồng thời đối với những tội ấy vẫn còn thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự và người phạm tội vẫn chưa bị xét
xử" [3].
Tổng hợp các quan điểm trên và từ thực tiễn xét xử, theo chúng
tôi tình tiết "phạm tội nhiều lần" được hiểu như sau:
Thứ nhất,Phạm tội nhiều lần là người phạm tội đã thực hiện từ
hai hành vi phạm tội trở lên, tác động đến cùng một đối tượng
hoặc nhiều đối tượng khác nhau, xâm phạm đến cùng một khách
thể trực tiếp, mà mỗi hành vi ấy đã có đủ các yếu tố cấu thành
một tội phạm độc lập, và được quy định tại cùng một điều luật
trong phần riêng BLHS (cùng là hành vi trộm cắp, hiếp dâm, lừa
đảo ).
Thứ hai,Khi xét xử, các hành vi đó chưa hết thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự và người phạm tội vẫn chưa bị xét xử hoặc bị
xử lý bằng các hình thức khác (đình chỉ vụ án, đình chỉ điều
tra ).
Thứ ba,Nếu điều luật có quy định về giá trị tài sản hoặc thiệt hại
về tài sản thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về
tổng giá trị tài sản của các lần phạm tội cộng lại.
Qua khái niệm trên, chúng ta có thể thấy, tình tiết "Phạm tội
nhiều lần" bao gồm năm nội dung sau:
(1) Phạm tội nhiều lần là người phạm tội đã thực hiện từ hai hành
vi phạm tội trở lên, tác động đến cùng một đối tượng hoặc nhiều
đối tượng khác nhau (ví dụ: phạm tội nhiều lần đối với cùng một
người hoặc đối đối với nhiều người - điểm c khoản 1 Điều 104
BLHS, nhiều lần trộm cắp, nhiều lần hiếp dâm ).
(2) Nếu tách ra từng hành vi phạm tội riêng lẽ thì mỗi hành vi ấy
đã đủ các yếu tố cấu thành một tội phạm độc lập.
(3) Tất cả các hành vi phạm tội đó đều được quy định tại một
điều luật cụ thể trong phần riêng BLHS (cùng là tội trộm cắp,
hiếp dâm ), có thể cùng một khoản, có thể phạm tội ở các khoản
khác nhau của cùng một điều luật.
(4) Các hành vi phạm tội đó chưa hết thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự, chưa bị các cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy
định của pháp luật (như đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án ) và
cùng bị đưa ra xét xử một lần trong cùng một vụ án (được tuyên
trong một bản án).
(5) Nếu điều luật có quy định về giá trị tài sản hoặc thiệt hại về
tài sản thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tổng
giá trị tài sản của các lần phạm tội cộng lại.
Cần lưu ý, khái niệm "Phạm tội nhiều lần" và khái niệm "Tội liên
tục" là hoàn toàn khác nhau. Tội liên tục là tội phạm được hình
thành từ một loạt hành vi nguy hiểm cho xã hội cùng loại, xảy ra
kế tiếp nhau và có tính liên tục, mà các hành vi đó có cùng một
mục đích chung, thống nhất, cùng xâm hại đến một khách thể và
trong sự tổng hợp của những hành vi đó thì cấu thành một tội
phạm độc lập (ví dụ: tội hành hạ hoặc ngược đãi cha mẹ, vợ
chồng, con cái; tội bức tử ). Trong "Tội liên tục", người phạm
tội đã thực hiện nhiều hành vi nguy hiểm cho xã hội giống nhau,
nhưng nếu tách riêng từng hành vi nguy hiểm cho xã hội đó thì
có hành vi đã đủ yếu tố cấu thành một tội phạm độc lập, cũng có
hành vi không đủ yếu tố cấu thành một tội phạm độc lập được
quy định tại điều luật tương ứng, nhưng nó là tội phạm thống
nhất và khi tổng hợp các hành vi nguy hiểm cho xã hội đó cũng
chỉcấu thành một tội phạm độc lập (gọi là Tội liên tục) quy định
trong phần các tội phạm của BLHS (như đã ví dụ: tội hành hạ
hoặc ngược đãi cha mẹ, vợ chồng, con cái; tội bức tử ).
Tuy nhiên, việc áp dụng tình tiết "Phạm tội nhiều lần" vào các
trường hợp cụ thể không phải đều giống nhau mà tùy theo các tội
phạm khác nhau thì nội dung, ý nghĩa của tình tiết này có thể
khác nhau. Cụ thể:
Theo quy định tại điểm 3.3, khoản 2 Mục I Nghị quyết số
02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của HĐTP TANDTC hướng
dẫn áp dụng một số quy định của BLHS thì, "Đối với nhiều lần
làm hoặc tàng trữ hoặc vận chuyển hoặc lưu hành tiền giả, ngân
phiếu giả, công trái giả thì cần phải lấy tổng số lượng tiền giả của
tất cả các lần phạm tội cộng lại để xem xét trách nhiệm hình sự
đối với họ; nếu trong các lần phạm tội đó có trường hợp đã hết
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì không xem xét trách
nhiệm hình sự đối với trường hợp đó (không cộng số lượng tiền
giả của lần phạm tội đó); nếu có hai lần phạm tội làm hoặc tàng
trữ hoặc vận chuyển hoặc lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công
trái giả trở lên thì ngoài việc cộng số lượng tiền giả của các lần
phạm tội để xem xét trách nhiệm hình sự đối với họ, còn phải áp
dụng tình tiết tăng nặng "phạm tội nhiều lần" quy định tại điểm g
khoản 1 Điều 48 BLHS.
Về tình tiết "Phạm tội nhiều lần" quy định tại điểm c khoản 1
Điều 104 BLHS:
Điểm c khoản 1 Điều 104 BLHS quy định "phạm tội nhiều lần
đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người" là một tình tiết
cấu thành tội phạm ở khoản 1 hoặc tình tiết định khung tăng nặng
hình phạt theo khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 104 BLHS về tội "Cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác". Như vậy, điểm c khoản 1 Điều 104 BLHS gồm hai nội
dung sau: (1) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người; (2)
Phạm tội nhiều lần đối với nhiều người. Cụ thể:
(1) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người là trường hợp
người phạm tội đã có từ hai lần trở lên thực hiện hành vi cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của cùng một người
mà mỗi lần thực hiện hành vi như vậy đã đủ yếu tố cấu thành tội
"Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác" quy định tại Điều 104 BLHS; và chưa có hành vi nào đã
hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã bị Toà án đưa
ra xét xử.
Ví dụ: Ngày 5/3/2005 A có hành vi cố ý gây thương tích đối với
B mà tỷ lệ thương tật bị thiệt hại là 11%, đến ngày 12/3/2005 A
lại có hành vi cố ý gây thương tích cho B mà tỷ lệ thương tật bị
thiệt hại là 30%, như vậy A đã có hành vi gây thương tích cho B
hai lần mà mỗi lần đã đủ yếu tố cấu thành tội "Cố ý gây thương
tích". Vì vậy A phải chịu tình tiết định khung tăng nặng hình phạt
là "phạm tội nhiều lần đối với cùng một người", quy định tại
điểm c khoản 1 Điều 104 BLHS.
(2) Đối với tình tiết "phạm tội nhiều lần đối với nhiều người" thì
có các trường hợp sau:
a. Phạm tội nhiều lần đối với nhiều người mà mỗi lần phạm tội
chỉ đối với một người.
Ví dụ: Ngày 5/3/2005 A có hành vi cố ý gây thương tích đối với
B mà tỷ lệ thương tật là 11%, đến ngày 12/10/2005 A có hành vi
cố ý gây thương tích đối với C mà tỷ lệ thương tật là 31%. Vì
vậy, A phải chịu tình tiết định khung tăng nặng là phạm tội nhiều
lần đối với nhiều người, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 104
BLHS.
b. Phạm tội nhiều lần đối với nhiều người mà trong đó, có lần
phạm tội đối với một người có lần phạm tội đối với nhiều người.
Ví dụ: Ngày 2/1/2006 A có hành vi cố ý gây thương tích đối với
H với tỷ lệ thương tật 11%, đến ngày 6/1/2006 A có hành vi cố ý
gây thương tích đối với vợ và con của H với tỷ lệ thương tật của
cả hai người là 15%.
c. Phạm tội nhiều lần đối với nhiều người mà trong đó lần nào
cũng phạm tội đối với nhiều người.
Ví dụ: Ngày 6/4/2006 K có hành vi cố ý gây thương tích đối với
vợ chồng H với tỷ lệ thương tật của cả hai người là 18%, đến
ngày 10/4/2006 A lại có hành vi cố ý gây thương tích cho hai con
của H với tỷ lệ thương tật của cả hai người là 30 %.
Trong cả ba trường hợp trên, mỗi lần thực hiện hành vi cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì
hành vi đó đều đã đủ yếu tố cấu thành ở khung cơ bản quy định
tại khoản 1 Điều 104 BLHS và chưa có hành vi nào bị hết thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã bị đưa ra xét xử.
Để hiểu thêm vấn đề này, chúng ta hãy nghiên cứu Nghị quyết số
01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán
TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình
sự.
Theo quy định tại Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày
12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán TANDTC (tại Mục 3.2 của
Nghị quyết) thì, tình tiết "Phạm tội nhiều lần đối với cùng một
người hoặc đối với nhiều người" quy định tại điểm c khoản 1
Điều 104 của BLHS được hiểu như sau :
a. "Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều
người" quy định tại điểm c khoản 1 Điều 104 của BLHS được
hiểu là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khoẻ của một người từ hai lần trở lên hoặc của hai người trở lên
(có thể một lần, có thể nhiều lần đối với mỗi người) và trong các
lần đó chưa có lần nào bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật hoặc
truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu xử lý hành
chính, xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc áp
dụng tình tiết "Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc
đối với nhiều người" để xét xử bị cáo theo khoản 1, khoản 2 hoặc
khoản 3 Điều 104 của BLHS được thực hiện theo hướng dẫn tại
các điểm b, c và d tiểu mục 3.2 này.
b. Chỉ áp dụng tình tiết "Phạm tội nhiều lần đối với cùng một
người hoặc đối với nhiều người" quy định tại điểm c khoản 1
Điều 104 của BLHS để xét xử bị cáo theo khoản 1 Điều 104 của
BLHS trong các trường hợp sau đây:
b1. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một
nguời từ hai lần trở lên mà mỗi lần tỷ lệ thương tật dưới 11%,
nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả các lần từ 11% trở lên.
Trường hợp trong các lần đó chỉ có một lần tỷ lệ thương tật từ
11% đến 30%, còn các lần khác tỷ lệ thương tật đều dưới 11% thì
bị cáo cũng chỉ bị xét xử theo khoản 1 Điều 104 của BLHS.
b2. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của hai
người trở lên (có thể một lần, có thể nhiều lần đối với mỗi người)
mà mỗi lần tỷ lệ thương tật dưới 11%, nhưng tổng tỷ lệ thương
tật của tất cả các lần từ 11% trở lên.
Trường hợp trong các lần đó chỉ có một người một lần tỷ lệ
thương tật từ 11% đến 30%, còn các lần khác tỷ lệ thương tật đều
dưới 11% thì bị cáo cùng chỉ bị xét xử theo khoản 1 Điều 104
BLHS.
c. Chỉ áp dụng tình tiết "Phạm tội nhiều lần đối với cùng một
người hoặc đối với nhiều người" quy định tại điểm c khoản 1
Điều 104 của BLHS để xét xử bị cáo theo khoản 2 Điều 104 của
BLHS trong các trường hợp sau đây:
c1. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một
người từ hai lần trở lên mà có ít nhất hai lần tỷ lệ thương tật từ
11% đến 30 %.
Trường hợp trong các lần đó chỉ có một lần tỷ lệ thương tật từ
31% đến 60%, còn các lần khác tỷ lệ thương tật đều dưới 31% thì
bị cáo cùng chỉ bị xét xử theo khoản 2 Điều 104 của BLHS.
c2. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của hai
người trở lên (có thể một lần, có thể nhiều lần đối với mỗi người)
mà trong đó có ít nhất hai người và mỗi người một lần tỷ lệ
thương tật từ 11% đến 30%.
Trường hợp trong các lần đó chỉ có một người một lần tỷ lệ
thương tật từ 31% đến 60 %, còn các lần khác tỷ lệ thương tật
đều dưới 31% thì bị cáo cũng chỉ bị xét xử theo khoản 2 Điều
104 BLHS.
d. Chỉ áp dụng tình tiết "Phạm tội nhiều lần đối với cùng một
người hoặc đối với nhiều người" quy định tại điểm c khoản 1
Điều 104 của BLHS để xét xử bị cáo theo khoản 3 Điều 104 của
BLHS trong các trường hợp sau đây:
d1.Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một
người từ hai lần trở lên mà có ít nhất hai lần tỷ lệ thương tật từ 31
đến 60%.
Trường hợp trong các lần đó chỉ có một lần tỷ lệ thương tật từ
61% trở lên, còn các lần khác tỷ lệ thương tật đều dưới 61% thì bị
cáo cũng chỉ bị xét xử theo khoản 3 Điều 104 của BLHS.
d2. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của hai
người trở lên (có thể một lần, có thể nhiều lần đối với mỗi người)
mà trong đó có ít nhất hai người và mỗi người một lần tỷ lệ
thương tật từ 31% đến 60%.
Trường hợp trong các lần đó chỉ có một người một lần tỷ lệ
thương tật từ 61% trở lên, còn các lần khác tỷ lệ thương tật đều
dưới 61% thì bị cáo cũng chỉ bị xét xử theo khoản 3 Điều 104 của
BLHS.
Khi áp dụng Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP cần lưu ý các điểm
sau:
(1) Nghị quyết quy định chỉ áp dụng tình tiết "Phạm tội nhiều lần
đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người" để định khung
tăng nặng hình phạt (nâng lên một khung hình phạt) nếu người
phạm tội có ít nhất hai hành vi phạm tội trở lên quy định tại một
khung hình phạt liền kềnhẹ hơn(quy định tại đoạn 1 của các
điểm c1, c2, d1, d2).
(2) Ngược lại, không áp dụng tình tiết "Phạm tội nhiều lần đối
với cùng một người hoặc đối với nhiều người" để định khung
tăng nặng hình phạt (nâng lên một khung hình phạt) nếu người
phạm tội có ít nhất hai hành vi phạm tội trở lên nhưng không quy
định cùng trong một khung hình phạt liền kềnhẹ hơn (quy định
tại đoạn 2 của các điểm c1, c2, d1, d2).
Theo chúng tôi, các trường hợp quy định tại đoạn 2 của các điểm
c1, c2, d1, d2 của Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP thì cần hướng
dẫn thêm là, khi xét xử phải áp dụng thêm tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự "Phạm tội nhiều lần" đối với bị cáo quy
định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS. Bởi lẽ: thực chất, Toà
án chưa áp dụng tình tiết "Phạm tội nhiều lần đối với cùng một
người hoặc đối với nhiều người" để định tội hoặc định khung
hình phạt trong các trường hợp trên, vì trong các lần phạm tội đó,
bị cáo đã có một lần phạm tội thỏa mãn khung hình phạt đang áp
dụng, vậy nó được coi là tình tiết định tội hoặc định khung hình
phạt ở chỗ nào nữa? (Ví dụ tại đoạn 2 điểm d2: "Trường hợp
trong các lần đó chỉ có một người một lần tỷ lệ thương tật từ 61%
trở lên (đã thoả mãn khoản 3 Điều 104), còn các lần khác tỷ lệ
thương tật đều dưới 61% (khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 104 hoặc
cả khoản 1, khoản 2 ) thì bị cáo cũng chỉ bị xét xử theo khoản 3
Điều 104 của BLHS". Mà khi một tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự không đã là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt thì
phải coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại
Điều 48 BLHS (khoản 2 Điều 48 BLHS).
Cũng theo quy định tại Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày
12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán TANDTC (tại Mục 4 của
Nghị quyết) thì, tình tiết"Phạm tội nhiều lần" quy định tại
điểm c khoản 2 Điều 254 của BLHS được hướng dẫn như sau:
(4.1)Chỉ áp dụng tình tiết "Phạm tội nhiều lần" đối với người
chứa mại dâm khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a. Chứa mại dâm (không phân biệt tại một địa điểm hay tại các
địa điểm khác nhau) một đôi hoặc nhiều đôi mua bán dâm khác
nhau từ hai lần trở lên trong các khoảng thời gian khác nhau
(không phân biệt thời gian dài hay ngắn);
b. Chứa mại dâm hai đôi mua bán dâm trở lên độc lập với nhau
trong cùng một khoảng thời gian;
c. Chứa mại dâm một người mua bán dâm với hai người trở lên
trong các khoảng thời gian khác nhau.
(4.2)Không coi là phạm tội nhiều lần trong các trường hợp sau
đây:
a. Chứa mại dâm một đôi mua bán dâm trong một khoảng thời
gian liên tục;
b. Chứa mại dâm nhiều người (một nhóm) cùng đến mua bán
dâm, nhưng chỉ một người trong số họ hoặc một số người trong
số họ hoặc tất cả họ cùng nhau thoả thuận đứng ra giao dịch với
người chứa mại dâm để trả tiền thuê địa điểm, phương tiện một
lần và việc mua bán dâm diễn ra trong cùng một khoảng thời
gian.
Ngoài ra, cũng cần phải nói thêm rằng, trong thực tiễn xét xử đã
gặp những vướng mắc nhất định khi áp dụng tình tiết phạm tội
nhiều lần. Ví dụ 1: Ngày 1/3/2004 A có hành vi trộm cắp 01
chiếc xe đạp trị giá 700.000đ tại huyện X tỉnh Q. Ngày 4/4/2004
A lại có hành vi trộm cắp 01 chiếc xe máy trị giá 5.000.000đ tại
huyện Y tỉnh Q. Ngày 5/2/2005 A có hành vi trộm cắp 01 chiếc
Tivi trị giá 2.000.000đ tại huyện Z tỉnh Q. Khi xét xử A thì có
các trường hợp xảy ra như sau:
(1) Sau ngày 5/2/2005 mới điều tra, truy tố A về ba lần thực hiện
hành vi phạm tội trộm cắp tài sản trên thì khi xét xử, Toà án chỉ
xét xử A về tội "trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 138 BLHS
với tổng trị giá tài sản trộm cắp là 7.700.000đ và áp dụng tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với A là "Phạm tội nhiều lần"
theo điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS. Hình phạt đối với A là cải
tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba
năm.
(2) Nhưng, giả thiết vào tháng 10/2005 A mới bị cơ quan có thẩm
quyền của huyện X phát hiện, điều tra, truy tố và xét xử A về
hành vi trộm cắp tài sản (trộm cắp chiếc xe đạp trị giá 700.000đ).
Đến tháng 1/2006 A lại bị TAND huyện Y xét xử về tội "Trộm
cắp tài sản" (Trộm cắp 01 chiếc xe máy trị giá 5.000.000đ).
Tháng 3/2006 A bị TAND huyện Z xét xử về tội "Trộm cắp tài
sản" (Trộm cắp 01 chiếc Tivi trị giá 2.000.000đ). Cả ba trường
hợp này các hành vi phạm tội của A được phát hiện tại ba thời
điểm khác nhau nên không thể tiến hành điều tra, truy tố, xét xử
A cùng một lần trong một bản án được mà đưa ra xét xử ba lần
tại ba Toà án của ba huyện khác nhau, sau đó tổng hợp hình phạt
theo quy định của pháp luật.
Xem xét hai trường hợp trên thì chúng ta thấy có sự bất cập trong
việc quy định và áp dụng pháp luật. Đối với trường hợp thứ (2)
thì A bị bất lợi hoàn toàn. Hình phạt "cải tạo không giam giữ đến
ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm" được áp dụng đối
với A qua ba lần xét xử. Còn trường hợp (1) thì chỉ áp dụng đối
với A một lần và A phải chịu thêm tình tiết "Phạm tội nhiều lần"
quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS mà thôi.
Thậm chí, có những trường hợp tương tự như trên, TAND huyện
X đang xét xử A về hành vi trộm cắp chiếc xe đạp thì A vẫn đang
được điều tra về hành vi trộm cắp chiếc xe máy và chiếc Tivi tại
huyện Y và huyện Z, nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn
không thể chờ để nhập vụ án theo quy định tại Điều 117
BLTTHS mà vẫn xét xử bình thường tuỳ theo từng hành vi bị
phát hiện tại các thời điểm khác nhau, sau đó tổng hợp hình phạt
theo quy định tại Điều 51 BLHS.
Trên đây là một số vấn đề lý luận và thực tiễn khi áp dụng tình
tiết phạm tội nhiều lần trong hoạt động xét xử, đề nghị TANDTC
có sự hướng dẫn cụ thể thêm về các trường hợp này.
[1] Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng. TANDTC
xuất bản, Hà Nội, 1998, tr. 41.
[2] Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học BLHS năm 1999 (phần
chung), Nxb TP. Hồ Chí Minh, 2000, tr. 293.
[3] Lê Văn Cảm, Sách chuyên khảo sau đại học, Nxb ĐHQG, Hà
Nội 2005, tr. 390.