Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.9 KB, 14 trang )

lOMoARcPSD|9242611

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH

BÀI THI KẾT THÚC HỌC PHẦN
..........................................................................................Môn
LUẬT ĐẠI CƯƠNG...................................................

thi:

PHÁP

Họ và tên sinh viên: BÙI NGUYỄN CẨM LY...................................................................................
MSSV: 030337210141....................................Lớp học phần: LAW349_211_D19..........................

THÔNG TIN BÀI THI
Bài thi có: (bằng số): …… trang
(bằng chữ): …… trang

BÀI LÀM

MÃ ĐỀ THI
Yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật. Lý luận
và thực tiễn


lOMoARcPSD|9242611

LỜI NÓI ĐẦU
Như chúng ta đã biết để sống và làm việc ở một đất nước nào đó thì chúng
ta cần phải hiểu về nhà nước và pháp luật nơi đó để tránh vi phạm các quy định


của pháp luật. Là công dân nước Việt Nam cũng như là sinh viên đang học tập
trên ghế nhà trường chúng ta cũng cần phải trang bị cho mình những kiến thức
về pháp luật để phục vụ cho đời sống và công việc sau này. Và pháp luật đại
cương là môn học cung cấp những kiến thức chung nhất, cơ bản nhất về nhà
nước và pháp luật nói chung, đồng thời nghiên cứu về Nhà nước và pháp luật
Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Pháp luật thể hiện ý chí của nhân dân, được đảm bảo thực hiện bằng quyền
lực nhà nước và là phương tiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng
dân, vì vậy mà các quy định của pháp luật được đông đảo nhân dân tôn trọng và
tự giác thực hiện nghiêm minh. Tuy nhiên, trong xã hội vẫn còn nhiều hiện
tượng vi phạm pháp luật, xâm hại đến các lợi ích vật chất và tinh thần của nhà
nước, của xã hội và của nhân dân. Đó là một hiện tượng nguy hiểm, tác động
tiêu cực đến các mặt của đời sống xã hội. Do vậy, việc nghiên cứu vấn đề vi
phạm pháp luật, đặc biệt là cấu thành vi phạm pháp luật sẽ có ý nghĩa rất lớn
trong việc góp phần đề ra những biện pháp hữu hiệu để đấu tranh phòng và
chống vi phạm pháp luật trong xã hội. Bài tiểu luận dưới đây tìm hiểu về“ Cấu
thành vi phạm pháp luật” sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về vấn đề vi phạm pháp
luật.
Dưới đây là kết cấu chính của bài tiểu luận:

- Phần 1: Lý luận chung về cấu thành vi phạm pháp luật
- Phần 2: Cấu thành vi phạm pháp luật qua tình huống cụ thể

1


lOMoARcPSD|9242611

I.


CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT( VPPL)

I.

Khái niệm vi phạm pháp luật.

Vi phạm pháp luật là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật, do người có
năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm hoặc
đe dọa xâm hại đến các quan hệ xã hội được nhà nước xác lập và bảo vệ.
II.

Cấu thành vi phạm pháp luật.

Khái niệm : cấu thành vi phạm pháp luật là tổng thể các dấu hiệu cơ bản, đặc thù
cho một loại vi phạm pháp luật cụ thể, được nhà nước quy định trong các văn
bản quy phạm pháp luật, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật : Có bốn yếu tố cấu thành vi phạm
pháp luật: Mặt khách quan, mặt chủ quan, khách thể, chủ thể của vi phạm pháp
luật.
2.1. Mặt khách quan của vi phạm pháp luật:
Khái niệm: Mặt khách quan của vi phạm pháp luật là toàn bộ những biểu
hiện ra bên ngoài của vi phạm pháp luật. Bao gồm bốn biểu hiện sau:

- Hành vi trái pháp luật: thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành
động, trái pháp luật gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho xã hội.
Ví dụ: hành vi khơng đóng thuế theo quy định của nhà nước, hành vi giết
người, trộm cắp....

- Hậu quả nguy hiểm cho xã hội: là thiệt hại gây ra cho các quan hệ xã hội
được nhà nước xác lập và bảo vệ của vi phạm pháp luật (đây là dấu hiệu

không bắt buộc phải có trong mọi vi phạm pháp luật). Thiệt hại cho xã hội
thể hiện dưới những hình thức:

 Thiệt hại về thể chất: sức khoẻ, tính mạng của con người.
 Thiệt hại về tinh thần: danh dự, nhân phẩm, quyền tự do của con
người.

 Thiệt hại về vật chất: tài sản bị tổn thất, hư hại.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và hậu quả nguy hiểm
cho xã hội: hành vi trái pháp luật là nguyên nhân, còn sự thiệt hại của xã
hội là kết quả.
2


lOMoARcPSD|9242611

->Mục đích của việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp
luật và sự thiệt hại cho xã hội là xem hành vi trái pháp luật có phải là nguyên
nhân trực tiếp dẫn tới sự thiệt hại cho xã hội hay không và sự thiệt hại cho xã
hội có phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật hay khơng, vì trên thực
tế có trường hợp hành vi trái pháp luật khơng trực tiếp gây ra sự thiệt hại cho
xã hội mà sự thiệt hại đó do ngun nhân khác.
Ví dụ(1): Chu Ngọc L là nhân viên công ty T, quận B đi xe máy đến trụ sở cơng
ty Đ cùng đóng trên địa bàn để gặp Nguyễn Xuân B. Đến nơi, thấy B đang ngồi
ăn ở chiếc ghế cạnh bàn uống nước, L tiến về phía B, đứng trước bàn uống nước
cách B 1m nói: “Đưa tiền để em đưa nó, hơn 5h nó gọi em rồi”.
Thấy vậy, B phẩy tay nói “đi ra”. L tiếp tục nói “đưa tiền cho em khơng”? B vẫn
nói “đi ra”. Ngay lập tức, L dùng chân phải đang đi giầy đá mạnh vào cổ bên trái
khiến B ngửa cổ ra sau tựa vào ghế. Thấy xảy ra va chạm, một số nhân viên công
ty Đ chạy đến can ngăn. Lúc này, mặt anh B đã tím tái, người lịm đi, gọi khơng

phản ứng nên được đưa đi cấp cứu tại bệnh viện. Đến 20h30’ cùng ngày, Nguyễn
Xuân B tử vong.Tại Bản kết luận pháp y xác định, “nguyên nhân chết của B là
do chảy máu não, phù não tụt hạnh nhân tiểu não do chấn thương sọ não kín. Cơ
chế hình thành thương tích: Thương tích vùng đầu do vật tày tác động gây ra…”.
Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh A quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can
đối với Chu Ngọc L về tội “cố ý gây thương tích” theo Điều 134 Bộ luật Hình sự
năm 2015. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A cũng truy tố Chu Ngọc L về tội “cố ý
gây thương tích”.
->Ở ví dụ này mặc dù gây ra cái chết cho nạn nhân nhưng L khơng bị cấu
thành tội giết người. Có thể thấy việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi- hậu quả là rất quan trọng trong việc xác định tội.
Ngồi những yếu tố nói trên cịn có các yếu tố khác như: Công cụ, phương tiện,
phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh vi phạm pháp luật...
2.2. Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật:
Khái niệm: Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật là trạng thái tâm lý bên trong
của chủ thể khi thực hiện hành vi trái pháp luật, bao gồm: Lỗi, động cơ, mục
đích của vi phạm pháp luật.
2.2.1. Lỗi
3


lOMoARcPSD|9242611

Khái niệm : Là trạng thái tâm lý của chủ thể khi thực hiện hành vi vi phạm
pháp luật, được thể hiện dưới hai hình thức: lỗi vơ ý và lỗi cố ý.
Lỗi cố ý bao gồm lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp
Lỗi vô ý bao gồm lỗi vô ý do quá tự tin và lỗi vô ý do cẩu thả
Lỗi cố ý trực tiếp:

 Chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy

trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả đó xảy ra.

 Về mặt ý chí: sự lựa chọn hành vi phạm tội là sự lựa chọn duy nhất, chủ thể
lựa chọn hành vi phạm tội vì chủ thể mong muốn hành vi đó.
Ví dụ:

 Khi cịn là cơng an viên xã HS, ơng H có giải quyết một vụ việc ghen tng
có liên quan đến ơng Ngọc. Vì một số lí do dẫn đến ơng Ngọc thù hằn cá
nhân với ông H. Ngày 18.10.2021 ông Ngọc đi vào một cửa hàng bán gas
quen QL1, trong túi quần bọc theo cây búa. Lúc này trước cửa hàng gas có
ơng H(ngụ xã HS) và một người khác đang ngồi chơi cờ trên ghế đá. Nhớ lại
chuyện mâu thuẫn với nạn nhân từ nhiều năm trước. Do đó, khi thấy ơng H
đang say mê đánh cờ tướng, mất cảnh giác ông Ngọc đã bất ngờ rút cây búa
trong túi quần ra và tấn công liên tiếp vào ông H,sau khi gây án ông Ngọc
cầm hung khí rời khỏi hiện trường. Nạn nhân được đưa đi cấp cứu trong tình
trạng nguy kịch và tử vong tại bệnh viện.
→ Trong trường hợp này ông Ngọc đã phạm tội “giết người” với lỗi cố ý trực
tiếp. Bởi vì ơng Ngọc tuy nhận thức rõ hành vi dùng búa đập vào đầu ơng H có
thể làm chết người nhưng vẫn làm và mong muốn ông H chết.

 Anh P vì tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp mà thất nghiệp lại thêm
những chủ nợ liên tục địi nợ nên anh đã có ý định trốn về q. Nhưng vào
ngày 9/11 thấy mình có những dấu hiệu nhiễm bệnh Covid 19 nên đã mua
dụng cụ về tự test nhanh và biết mình đã nhiễm bệnh. Lúc này vì chán ghét
cuộc sống nên anh P đã cố tình tiếp xúc gần với nhiều người, xong việc anh
định tự tử nhưng không thành.
→ Hành vi của anh P được cấu thành tội “làm lay lan dịch bệnh truyền nhiễm
nguy hiểm cho người” với lỗi cố ý trực tiếp.
Lỗi cố ý gián tiếp:
4



lOMoARcPSD|9242611

 Chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy
trước hậu quả do hành vi của mình gây ra, tuy khơng mong muốn nhưng có ý
thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.

 Về mặt ý chí: Người phạm tội không mong muốn hậu quả xảy ra, tức hậu quả
xảy ra khơng phù hợp với mục đích phạm tội. Tuy nhiên để thực hiện mục đích
này, người phạm tội để mặc hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà hành vi của mình
có thể gây ra
Ví dụ: Do có mâu thuẫn từ trước nên K(19 tuổi) có cầm theo 1 đoạn gậy dài
đến cơng viên tìm H (19 tuổi) để hỏi rõ sự việc. Khi đến cơng viên, K nhìn thấy
H và M đang ngồi ở ghế đá phía trong cơng viên (K và M khơng có mẫu thuẫn
gì). K cầm đoạn gậy đi đến chỗ H, hai người to tiếng với nhau, sau đó K ném
đoạn gậy về phía H đang đứng đối diện với mình ( M đang đứng phía sau H). Lúc
này H nghiêng người tránh được nên đoạn gậy trúng vào mắt trái của M. Kết quả
M bị vỡ nhãn cầu trái, tỷ lệ tổn thương cơ thể là 40%.
Trong trường hợp này K đã có dấu hiệu tội phạm cố ý gây thương tích, được
thực hiện với lỗi cố ý gián tiếp. Vì mục đích K ném gậy về phía H để
gây thương tích, khi ném gậy K nhận thức được hành vi ném gậy của mình
là hành vi nguy hiểm và có thể gây thương tích cho người khác. Mặc dù K
chỉ mong muốn hậu quả xảy ra với B nhưng lại có ý thức để mặc hậu quả
xảy ra với những người khác có mặt tại sân bóng (trong đó có M).
Lỗi vơ ý do quá tự tin :

 Chủ thể vi phạm thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại
cho xã hội nhưng tin rằng hậu quả đó sẽ khơng xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa
được nên đã thực hiện hành vi trái pháp luật và gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội


 Về mặt ý chí: Người phạm tội khơng mong muốn hậu quả xảy ra, nhưng tin
rằng với khả năng, kinh nghiệm, với các biện pháp mình áp dụng, cách thức,
phương tiện thực hiện, các điều kiện chủ quan, khách quan khác mà hậu quả
tác hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được…nhưng hậu quả nguy
hiểm cho xã hội đã xảy ra.
Ví dụ: N và M rủ nhau đi tắm sông M bơi giỏi và biết N không biết bơi
nhưng M đã cố tình đẩy N xuống nước để trêu đùa và nghĩ rằng mình có thể
cứu N. Tuy nhiên do mải đùa cợt M đã không để ý dẫn đến việc N bị chết đuối.
→ Trong trường hợp này, M đã có dấu hiệu tội phạm vơ ý làm chết người,
5


lOMoARcPSD|9242611

được thực hiện với lỗi cố ý do quá tự tin. Vì M có thể thấy trước hậu quả
gây ra từ hành vi của mình với N, tuy khơng mong muốn hậu quả đó xảy ra
nhưng vì q tự tin là mình bơi giỏi, tin tưởng rằng mình có thể cứu được N,
tuy nhiên, thực tế lại gây ra hậu quả làm chết người.

- Lỗi vô ý do cấu thả:
 Chủ thể vi phạm do khinh suất, cẩu thả mà không nhận thấy trước hậu quả
nguy hại cho xã hội do hành vi của mình gây ra, mặc dù có thể nhận thấy và
cần phải thấy trước hậu quả đó.

 Về mặt ý chí: Vì khơng thấy trước được hậu quả xảy ra nên người phạm tội
không mong muốn hậu quả xảy ra
Ví dụ:

 A do tức giận đã ném viên đá ra đường, chính lúc ấy B chạy xe máy ngang

qua và bị viên đá văng trúng đầu dẫn đến tai nạn tử vong.

 Anh C trong phun thuốc xịt cỏ do khinh suất, khơng để ý hướng gió, lúc
này em D (8 tuổi) đứng theo hướng gió gần đó và bị thuốc văng vào mắt
dẫn đến tổn thương mắt nghiêm trọng.

 Ở hình thức lỗi này, người phạm tội không nhận thức được hậu quả nguy hiểm
cho xã hội do hành vi của mình gây ra. Có thể có hai trường hợp người phạm tội
khơng thấy trước được hậu quả của hành vi:

 Trường hợp thứ nhất, người phạm tội không nhận thức được khả năng gây ra
hậu quả từ hành vi của mình và cũng khơng nhận thức được hậu quả xảy ra.
Ví dụ: bảo vệ ngủ quên dẫn đến tài sản của công ty bị mất trộm.

 Trường hợp thứ hai, người phạm tội có thể nhận thức khả năng gây ra hậu
quả từ hành vi của mình nhưng khơng nhận thức được hậu quả xảy ra.
Ví dụ: Hành vi chuyển hướng của xe máy, xe ô tô khi tham gia giao thông
đường bộ nhưng không bật đèn xi –nhan báo hiệu gây tai nạn
2.2.2. Động cơ của vi phạm pháp luật

- Khái niệm: là động lực bên trong thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi vi phạm
pháp luật như ghen tuông, đê hèn, vu lợi....

- Ví dụ: hành vi tham ơ để vu lợi, hành vi giết người để trả thù cá nhân....
- Động cơ phạm tội nói chung đều có ảnh hưởng đến tính nguy hiểm cho xã hội
của tội phạm. Nhưng hướng ảnh hưởng cũng như mức độ ảnh hưởng đó khơng
6


giống nhau trong tất cả eác trường hợp. Do vậy, động cơ phạm tội có thể được

quy định là dấu hiệu định tội, dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng hoặc
giảm nhẹ hoặc chỉ là tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nói
chung.

- Trong một số ít trường hợp, động cơ phạm tội được quy định là dấu hiệu của cấu
thành tội phạm cơ bản, cho phép phân biệt tội phạm với không phải là tội phạm.
2.2.3 Mục đích VPPL

-

Khái niệm: Là kết quả mà chủ thể muốn đạt được khi thực hiện vi phạm pháp
luật

-

Tuy nhiên kết quả thực tế không phải lúc nào cũng trùng khớp theo mong muốn
của chủ thể thực hiện VPPL
2.3.

Chủ thể VPPL

- Khái niệm: Là cá nhân hoặc tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lí đã thực
hiện hành vi VPPL.

 Cá nhân là chủ thể vi phạm pháp luật phải là người không mắc bệnh tâm
thần hoặc mắc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng
điều khiển hành vi và đủ độ tuổi do pháp luật quy định.

 Tổ chức là chủ thể vi phạm pháp luật, bao gồm: các cơ quan nhà nước; đơn
vị vũ trang nhân dân; các tổ chức xã hội; các tổ chức có tư cách pháp nhân

theo quy định của pháp luật.......và các tổ chức nước ngoài theo quy định
của
pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết
hoặc tham gia có quy định khác. Tổ chức là chủ thể vi phạm pháp luật, sau
khi chấp hành xong quyết định áp dụng pháp luật phải xác định trách nhiệm
pháp lí của cá nhân gây ra vi phạm pháp luật theo quy định của pháp luật.
2.4.

Khách thể VPPL

Khái niệm: Khách thể của vi phạm pháp luật là những quan hệ xã hội được pháp
luật bảo vệ bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại tới như chủ quyền quốc gia, trật tự
quản lý kinh tế của nhà nước, chế độ hôn nhân và gia đình....
Khách thể của vi phạm pháp luật có thể được phân biệt theo ngành luật, theo đó có
+Khách thể của vi phạm hình sự (khách thể của tội phạm)
+Khách thể của vi phạm hành chính
7


+Khách thể của vi phạm dân sự
+Khách thể của vi phạm kỉ luật...

- Trong mỗi ngành luật cịn có thể phân biệt: khách thể chung, khách thể loại và
khách thể trực tiếp. Cụ thể như sau:
+Khách thể chung của tội phạm: là tổng hợp tất cả các quan hệ xã hội bị tội phạm
xâm hại và được Luật hình sự bảo vệ. Theo Luật hình sự Việt Nam, khách thể
chung của tội phạm là những quan hệ xã hội được xác định tại khoản 1 Điều 8 Bộ
luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
-> Thông qua khách thể chung, chúng ta có thể thấy được nhiệm vụ của Bộ luật hình
sự và bản chất giai cấp của nó. Hay nói đúng hơn là thấy được chính sách hình sự của

một quốc gia.
+Khách thể loại của tội phạm: là nhóm quan hệ xã hội có cùng tính chất được
một nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ và bị một nhóm tội phạm
xâm hại.
->Khách thể loại có vai trị quan trọng về mặt lập pháp. Nó là cơ sở để Bộ luật hình
sự xây dựng các chương trong phần các tội phạm.
+Khách thể trực tiếp của tội phạm: là một hoặc một số quan hệ xã hội cụ thể bị
hành vi phạm tội cụ thể xâm hại.
->Khách thể loại là cơ sở thể hiện rõ nhất bản chất của tội phạm cụ thể.
II. CẤU THÀNH VI PHẠM PHÁP LUẬT QUA TÌNH HUỐNG CỤ THỂ:
Tình huống(2)
Theo hồ sơ vụ án thảm sát ở Bình Phước, tháng 10.2013, Lê Thị Ánh Linh (22
tuổi, con gái ông Lê Văn Mỹ, chủ nhà) có mối quan hệ tình cảm với Nguyễn Hải
Dương nhưng do gia đình khơng đồng ý nên Linh chủ động chia tay. Sau khi 2 người
chấm dứt quan hệ tình cảm, Dương vẫn cảm thấy khơng thể sống thiếu Linh nên nảy
sinh ý định giết cả gia đình Linh cướp tài sản để trả thù. Để chuẩn bị cho hành vi
phạm tội, Dương lên kế hoạch mua 1 súng bắn bi giá 6 triệu đồng, 1 khẩu súng điện
giá 2 triệu đồng, 1 con dao Thái Lan dài 30 cm, 1 dao bấm lưỡi dài 7 cm, mua 1 sim
rác để liên lạc, mua găng tay, khẩu trang bịt mặt, mượn xe máy của Trần Thị Trinh
(dì của Dương), lấy 10 dây rút nhựa, 1 cuộn băng keo dính để bịt miệng nạn nhân.
Trưa ngày 6 tháng 7, 2015 Dương hẹn Tiến uống cafe và rủ Tiến tham gia cướp tài
sản của một gia đình giàu có ở Huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước và Tiến đã
8


đồng ý tham gia. Để đột nhập vào nhà ông Mỹ, Dương biết nhà ơng Mỹ đều có khóa
trong nên Dương đã lừa Vỹ (cháu bà Nga) là sẽ cho tiền và gà để Vỹ xuống mở cổng
cho Dương và Tiến vào nhà ông Mỹ để thực hiện hành vi giết người cướp tài sản.
Theo đúng kế hoạch đã hoạch định từ trước, vào khoảng 2 giờ, 7 tháng 7, Dương và
Tiến đi xe máy đến cổng nhà ông Mỹ và nhắn tin cho Vỹ ra mở cổng, khi Vỹ ra mở

cổng, Dương và Tiến đã khống chế Vỹ và giết ngay ở sân gần cổng ra vào. Sau khi
giết xong Vỹ bọn chúng đã đột nhập lên lầu 1 bắt trói Linh (con gái ơng Mỹ) và Như
(cháu gái bà Nga), dùng băng keo bịt miệng Linh và Như, trói vào cửa sổ và xuống
tầng trệt bắt trói ơng Mỹ và cháu Quốc Anh (con trai ông Mỹ), khống chế bà Nga
yêu cầu chỉ nơi cất tiền và tài sản. Bà Nga đã tự mở két sắt nhưng không có tiền và
tài sản q, bọn chúng đã lục sốt trong phòng và cướp được hơn 4 triệu đồng và 1 ít
Đơ la Mỹ. Sau đó, bọn chúng trói bà Nga lại, dẫn cháu Quốc Anh để tra khảo tiền tài
sản. Cháu Quốc Anh trả lời không biết, bọn chúng đã giết cháu Quốc Anh. Sau khi
giết cháu Quốc Anh, bọn chúng quay trở lại phịng ơng Mỹ giết bà Nga và ông Mỹ.
Rồi tiếp tục lên lầu 1 tra khảo cháu Linh, cháu Như về tiền và tài sản, nhưng khơng
có nên bọn chúng giết chết cháu Như và Linh. Đồng thời lấy đi 5 điện thoại, 1 iPad
của các nạn nhân. Sau khi gây án xong, phát hiện bé gái 18 tháng tuổi khóc, lúc này
Dương động lịng trắc ẩn nên dỗ bé ngủ tiếp. Trước khi rời hiện trường để che dấu
hành vi phạm tội của mình, bọn chúng đã xuống tầng trệt lấy quần của ông Mỹ mặc
và tẩu thốt. Khi về đến phịng trọ của Tiến, bọn chúng đã kiểm tra lại tài sản cướp
được, cùng những quần áo, phương tiện gây án như dao, súng, giày dép cho vào ba
lô giao cho Tiến quản lý. Qua điều tra năm nạn nhân bị đâm chết bằng dao nhọn, còn
bà Nga bị giết bằng dao Thái Lan chứ không phải cắt. Dương là người trực tiếp đâm
các nạn nhân, còn Tiến dùng dây siết cổ.
1. Mặt khách quan của VPPL trong tình huống trên.
Hành vi trái pháp luật: là hành vi giết người cướp tài sản của Nguyễn Hải Dương
và đồng phạm Tiến biểu hiện dưới dạng hành động đó là:
+ Dương dùng dao đâm vào cổ nạn nhân sau khi đã khống chế được các nạn nhân
+ Tiến đã dùng dây siết cổ nạn nhân cho bất tỉnh để Dương thực hiện hành vi giết
người
Hành vi của Dương và Tiến đã gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng dẫn đến cái
chết thương tâm của 6 người trong một gia đình, cướp đi một gia đình của một
đứa bé mới 18 tháng tuổi và để lại một nỗi đau kinh hồng, thương xót tột cùng
9



của gia đình và người thân, làng xóm của ơng Mỹ, gây xôn xao, hoang mang dư
luận.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và hậu quả: Điều này thể hiện ở
chỗ sau khi Dương cùng Tiến giết các nạn nhân, các nạn nhân mới tử vong có
nghĩa là hành vi trái pháp luật xảy ra trước sự thiệt hại. Hành động dùng dây siết
cổ và dùng dao đâm vào cổ giết người luôn chứa đựng khả năng làm mất sinh
mạng của người bị đâm. Cái chết của 6 người là kết quả tất yếu mà hành động
của Dương và Tiến mang lại. Tức là, nguyên nhân dẫn đến cái chết của 6 người
nhà ông Mỹ là hành động giết người của Dương và Tiến.

- Thời gian thực hiện hành vi giết người là vào khoảng 2 giờ, 7 tháng 7 năm 2015
- Địa điểm xảy ra án mạng: cụ thể là Vỹ (cháu bà Nga) ở ngồi sân gần cổng ra vào,
và 5 người cịn lại (ông Mỹ, bà Nga, Linh, Như, cháu Quốc Anh) ở trong nhà ơng
Mỹ tại Huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước.

- Phương tiện thực hiện hành vi giết người: dao cùng với súng và dây
Từ những phân tích trên ta nhận thức rõ hơn được mặt khách quan của vi phạm pháp
luật và tất cả những yếu tố trên đều là cơ sở trực tiếp để truy cứu trách nhiệm pháp lí
của phạm nhân, nhưng quan trọng hơn cả là hành vi trái pháp luật, có những hành vi
trái pháp luật mà pháp luật không cần quan tâm đến hậu quả của nó, bởi vì tính chất
của hành vi trái pháp luật là đặc biệt nghiêm trọng rồi. Trong khi xét đến hậu quả của
vi phạm, ta cần đặt chúng trong mối quan hệ nhân quả, tuyệt đối không được áp đặt,
có cái nhìn phiếm diện một chiều, hoặc suy diễn khơng thực tế hậu quả đó. Bên cạnh
đó, mức độ nguy hiểm của vi phạm còn được đánh giá qua công cụ, phương tiện thực
hiện án, thời gian, địa điểm xảy ra.
2. Mặt chủ quan của VPPL trong tình huống trên

- Trong tình huống trên tội giết người cướp tài sản của bị cáo Dương có lỗi cố ý
trực tiếp (người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã

hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra).

- Động cơ giết người ở đây là do Dương và Linh có mối quan hệ tình cảm với
nhau nhưng gia đình của Linh khơng đồng ý nên Linh chủ động chia tay. Sau
khi 2 người chấm dứt quan hệ tình cảm, Dương vẫn cảm thấy không thể sống
thiếu Linh nên Dương nảy sinh thù hận và muốn trả thù.

- Mục đích: Với động cơ đó bị cáo Dương đã nảy sinh ý định giết cả gia đình Linh
10


để trả thù và thực hiện hành vi cướp tài sản để trả công cho Tiến. Rõ ràng trong
thâm tâm của Dương mọi sự chuẩn bị cho hành vi giết người của Dương đã được
suy tính hết (Để chuẩn bị cho hành vi phạm tội, Dương lên kế hoạch mua 1 súng
bắn bi giá 6 triệu đồng, 1 khẩu súng điện giá 2 triệu đồng, 1 con dao Thái Lan
dài 30 cm, 1 dao bấm lưỡi dài 7 cm, mua 1 sim rác để liên lạc, mua găng tay,
khẩu trang bịt mặt, mượn xe máy của dì ruột, lấy 10 dây rút nhựa, 1 cuộn băng
keo dính để bịt miệng nạn nhân, Dương cịn chủ động rủ Tiến cùng mình thực
hiện hành vi phạm tội). Mục đích của Dương mang tính cục bộ và tiêu cực. Chỉ
vì hận thù cá nhân mà Dương đã cướp đi tính mạng của 6 người một cách khơng
thương xót. Hành vi đó của Dương và Tiến xứng đáng bị xã hội lên án và xét xử
đúng pháp luật.
3. Chủ thể vi phạm pháp luật trong tình huống
Tại thời điểm xảy ra vụ án bị cáo Dương và Tiến đã đủ tuổi phải chịu trách nhiệm
pháp lý với mọi loại tội phạm, khơng có bệnh làm hạn chế đến khả năng nhận
thức hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình, Dương và Tiến biết trước hậu quả
xấu do hành vi trái pháp luật của mình gây ra mà vẫn thực hiện. Tội “Giết người"
là tội đặc biệt nghiêm trọng. Do đó, về mặt chủ thể bị cáo Dương và Tiến phải
chịu trách nhiệm hình sự với tội giết người một cách dã man (dùng dao đâm vào
cổ), với hành vi đó hai bị cáo đã bị Tịa án nhân dân tỉnh Bình Phước tun án Tử

hình với hai tội danh Giết người và Cướp tài sản. Đây là kết quả xét xử thích
đáng dành cho hai bị cáo và xoa dịu dư luận xã hội.
4. Khách thể vi phạm pháp luật trong tình huống trên

- Cơng dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự
và nhân phẩm (Điều 20 Hiến pháp Việt Nam 2013). Quyền sống là một trong
những quyền cơ bản nhất của con người điều này được quy định rất rõ trong
điều 3 Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền. Theo đó “Mọi người đều có
quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân " Cuộc sống của mỗi con người
bắt đầu từ khi họ sinh ra cho đến khi họ chết. Tội giết người trực tiếp xâm
phạm đến quyền sống của con người, cụ thể ở đây là 6 nạn nhân trong gia
đình ơng Mỹ.

- Đối tượng tác động của tội giết người chính là thân thể của 6 nạn nhân kể
trên bị đâm vào cổ dẫn đến chết. Hành vi giết người của 2 bị cáo làm ảnh
11


hưởng tới quan hệ thân nhân giữa 6 nạn nhân với gia đình, bạn bè, hàng
xóm và những quan hệ xã hội khác. Làm tổn thương về mặt tinh thần đối
với người thân gia đình ơng Mỹ (cụ thể là bé Na đã trở thành trẻ mồ cơi
chỉ vì hành vi tàn ác của hai bị cáo- người duy nhất sống sót trong gia
đình).
Ngồi ra hành vi cướp tài sản còn làm ảnh hưởng đến quan hệ tài sản về
quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được nhà nước bảo vệ. Vì vậy
khi xét tới yếu tố khách thể của VPPL cần phải xét tới những ảnh hưởng mà
hành vi trái pháp luật làm xâm hại tới các quan hệ được pháp luật bảo vệ
Qua việc tìm hiểu các yếu tố dấu thành vi phạm pháp luật và nhất là tình huống cụ thể
trên giúp chúng ta có thêm những nhận thức mới hơn, tổng quát hơn về những hành vi
VPPL trong xã hội và từ đó chúng ta có thể tuân thủ đúng pháp luật.

III.

KẾT LUẬN

Việc xác định rõ ràng các yếu tố cấu thành của VPPL là vô cùng quan trọng giúp
truy cứu trách nhiệm pháp lý được hiệu quả, chính xác, cơng bằng và khách quan.
Tuy nhiên, tùy theo từng loại trách nhiệm pháp lí hoặc từng trường hợp trách
nhiệm pháp lí cụ thể mà cần phải xác định đầy đủ hoặc có thể bỏ qua không cần
xác định về những yếu tố nào đó của cấu thành VPPL. Vì vậy muốn định tội danh
một cách chính xác thì cần nắm vững cấu thành tội phạm.
Các mối quan hệ xã hội mà con người tham gia đều được pháp luật bảo vệ để
mang lại hạnh phúc cho nhân dân và đảm bảo trật tự an ninh xã hội. Tuy nhiên
hiện nay tình hình VPPL trong xã hội diễn ra ngày càng phức tạp với nhiều hình
thức, cách thức hoạt động và thủ đoạn ngày càng tinh vi. Vì vậy mà các cơ quan
chức năng, nhà chức trách có thẩm quyền khi truy cứu trách nhiệm pháp lí phải
hết sức thận trọng, tìm hiểu kĩ càng tất cả các căn cứ thực tế để tiến hành truy cứu
trách nhiệm pháp lí sao cho đúng người, đúng tội và công bằng tránh trường hợp
xử sai dẫn tới những đáng tiếc khơng đáng có.
Vì đây là một đề tài khá rộng, có thể tiếp xúc từ nhiều khía cạnh và góc độ khác
nhau mà khn khổ bài tiểu luận có hạn, nên có thể những phân tích của em chưa
thực sự được sâu sắc và còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý từ
các thầy các cô để bài làm của em sẽ được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Truy xuất
(1) :


/>
gay-ton-hai-cho-suc-khoe-cua-nguoi-khac-62350.html
(2) :

/>
hung-thu-gay-an-vu-tham-sat-6-nguoi-tai-binh-phuoc-n20150711154441590.htm
an-dau-thu-post1392235.html

Tài liệu tham khảo:
/> />Giáo trình Pháp luật đại cương Nhà xuất bản Bách khoa Hà Nội GVC.TS. Vũ Quang
Giáo trình Pháp luật đại cương Nhà xuất bản Đại học sư phạm (Chủ biên GS.TS Mai
Hồng Quỳ)
Bùi Xuân Phái, vi phạm pháp luật- một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam
hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội, 2001

13



×