Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

GDNT thạch thị thanh quyên k11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 14 trang )

Thạch Thị Thanh Quyên- K11

NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC ĐỘC ĐÁO CHÙA TÂY PHƯƠNG
VÀ SỰ VẬN DỤNG KIẾN THỨC VÀO PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC.
PHẦN MỞ ĐẦU
Đến thăm chùa Tây Phương chưa hết bàng hoàng trước vẻ đẹp hoành tráng
của kiến trúc thì lại càng sửng sốt khi chiêm ngưỡng thế giới sinh động của 72
pho tượng gỗ sơn son thếp vàng. Trên đất nước ta khơng ở đâu có được một
phịng triển lãm tuyệt vời và độc đáo như thế với nghệ thuật điêu khắc tôn giáo
nhưng lại phản ánh những đặc điểm dân tộc của con người Việt Nam. 72 pho
tượng gỗ của chùa Tây Phương là 72 cơng trình nghệ thuật đích thực, mỗi pho
tượng biểu hiện khơng chỉ cuộc đời, tính cách mà cả thế giới tâm linh của các vị
Phật, Bồ-tát và La-hán?
Phải nói rằng nét độc đáo nhất của chùa Tây phương là tượng 18 vị Tổ (đây là
tượng các vị Tổ Ấn Độ trong quan niệm của thiền tơng Trung quốc). Mỗi pho
tượng có một vẻ mặt khác nhau, có pho thì đứng, có pho thì ngồi, pho có vẻ mặt
hân hoan tươi tắn, khổ người đầy đặn trịn trĩnh, pho có vẻ mặt đăm chiêu, có pho
như đang phân bua thì thầm trị chuyện cùng ai, pho thì giương mắt mày nhíu
xệch, trán như nổi sóng, mơi cong chua chát, có pho mặt trầm tư khắc khổ, tai dài
ngang vai nghe đủ chuyện buồn vui của kiếp người... Các nghệ nhân xưa đã thổi
hồn vào từng bức tượng, cho ta thấy những người đã đắc đạo mà lòng vẫn còn
nặng nỗi đau trần thế.
Những pho tượng của chùa Tây phương mà điển hình là 18 vị la hán không
chỉ mang ý nghĩa tâm linh mà nó cịn là nét độc đáo của điêu khắc cổ Việt Nam.
Với nét độc đáo của điêu khắc, phù điêu mang đậm màu sắc trang trí của chùa
Tây Phương nói riêng, của di sản văn hóa nghệ thuật Việt Nam nói chung đã
đóng góp vào con đường bổ sung kiến thức không chỉ từ giai đoạn giáo dục cơ
bản mà còn đến giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp. Tạo tiền đề nâng
cao hiểu biết cho giáo viên trong quá trình giảng dạy cho HS tìm hiểu thêm về
yếu tố và nguyên lý tạo hình trong chương trình GDPT 2018.


Trường ĐHSP Nghệ thuật TW

1


Thạch Thị Thanh Quyên- K11

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Chùa Tây Phương

Mặt tiền chùa Tây Phương

Mặt bên chùa Tây Phương

Chùa Tây Phương (tên chữ là Sùng Phúc tự) là một ngôi chùa tọa lạc trên đỉnh
đồi Tây Phương, hình cong như lưỡi câu (xưa gọi là núi Câu Lậu) cao chừng
50m, thuộc núi Ngưu Lĩnh (núi Con Trâu), xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh
Hà Tây cũ, thành phố Hà Nội nay. Chùa cách trung tâm Hà Nội 40 km về hướng
Tây Bắc, cách thị xã Sơn Tây 18 km về hướng Đông Nam.
1.1

Lịch sử
Một số sách báo viết về chùa Tây Phương

cho rằng được xây dựng vào thời nhà Mạc,
nhưng khơng chứng minh. Niên đại này có
thể tin được, vì đầu thế kỷ 17 vào những năm
30 chùa đã phải sửa chữa lớn, hơn nữa trong
chùa còn hai tấm bia đều bị mờ hết chữ nhưng


Tên chùa: Tây Phương cổ tự

cịn đọc được rõ tên bia ở mặt ngồi là Tín thí và Tây Phương sơn Sùng Phúc tự
thạch bi (mặt bia kia áp vào tường hồi toà chùa giữa nên khơng đọc được), các
hoa văn trang trí thuộc phong cách nghệ thuật cuối thế kỷ 16 sang đầu thế kỷ 17.

Trường ĐHSP Nghệ thuật TW

2


Thạch Thị Thanh Quyên- K11

Năm 1632, vào đời vua Lê Thần Tông, chùa xây dựng thượng điện 3 gian và
hậu cung cùng hành lang 20 gian. Khoảng những năm 1657-1682, Tây Đô Vương
Trịnh Tạc lại cho phá chùa cũ, xây lại chùa mới và tam quan. Đến năm 1794 dưới
thời nhà Tây Sơn, chùa lại được đại tu hoàn toàn với tên mới là "Tây Phương Cổ
Tự" và hình dáng kiến trúc cịn để lại như ngày nay.
Thơng tin trên trang web chính thức của tỉnh Hà Tây thì nói chùa được thành
lập từ thế kỷ 6-7 nhưng đã trải qua nhiều lần trùng tu. Trung tâm Sách kỷ lục Việt
Nam đã xác lập kỷ lục ngày 12-12-2007 về những pho tượng La Hán được các
nghệ nhân đương thời tạo tác một cách chân thực và sinh động với những đường
nét điêu khắc kỹ thuật điêu luyện tuyệt mỹ là : Chùa Tây Phương với bộ tượng La
Hán điển hình nhất của nghệ thuật điêu khắc Việt Nam thế kỷ XVIII.
1.2 Kiến trúc

Nếp nhà có hai tầng mái kiểu
chồng diêm

Từ chân núi, theo con đường dốc dài khoảng 160m qua 239 bậc lát đá ongthì đến

đỉnh núi và cổng chùa. Chùa có ba nếp nhà song song hình chữ “Tam”, thường
gọi là chùa Thượng, chùa Trung, chùa Hạ hay chùa Hộ (thờ Hộ Pháp), hay cịn
gọi là: bái đường, chính điện và hậu cung, thềm mỗi nếp nhà cách nhau 1,6m.
Mỗi nếp nhà có hai tầng mái kiểu chồng diêm, tám mái và tám góc là các đầu đao
vươn lên cong vút với những hình hoa, lá, rồng, phụng, sư tử. Tường xây toàn

Trường ĐHSP Nghệ thuật TW

3


Thạch Thị Thanh Quyên- K11

bằng gạch Bát Tràng nung đỏ, để trần tạo thành một khơng khí rất thơ sơ mộc
mạc, điểm những của sổ tròn với biểu tượng sắc và không; các cột gỗ đều kê trên
đá tảng xanh trong khắc hình cánh sen. Mái lợp hai lớp ngói: mái trên có múi in
nổi hình lá đề, lớp dưới là ngói lót hình vng sơn ngũ sắc như màu áo cà sa xếp
trên những hàng rui gỗ làm thành ô vuông vắn đều đặn. Xung quanh diềm mái
của ba tồ nhà đều chạm trổ tinh tế theo hình lá triện cuốn, trên mái gắn nhiều
con giống bằng đất nung, các đầu đao mái cũng bằng đất nung đường nét nổi lên
hình hoa, lá, rồng phượng giàu sức khái quát và khả năng truyền cảm. Cột chùa
kê trên những tảng đá chạm hình cánh sen. Tồn bộ ngơi chùa tốt ra một tính
hồnh tráng và phóng khống phù hợp với triết lý "sắc sắc không không" của nhà
Phật. Nơi đây cịn là nơi tập trung những kiệt tác hiếm có của nghệ thuật điêu
khắc tôn giáo bao gồm chạm trổ, phù điêu và tạc tượng. Khắp chùa chỗ nào có gỗ
là có chạm trổ. Các đầu bẩy, các bức cổn, xà nách, ván long... đều có chạm trổ đề
tài trang trí quen thuộc của dân tộc Việt: hình lá dâu, lá đề, hoa sen, hoa cúc,
rồng, phượng, hổ phù... rất tinh xảo.

Cột gỗ kê tảng đá khắc hình hoa

sen trong chùa Tây Phương

1.3

Chạm khắc hình rồng

Bộ tượng Phật

Trường ĐHSP Nghệ thuật TW

4


Thạch Thị Thanh Quyên- K11

Trong chùa có 72 pho tượng cùng với các phù điêu có mặt tại mọi nơi. Các tượng
được tạc bằng gỗ mít sơn son thếp vàng. Nhiều pho được tạc cao hơn người thật
như 8 pho tượng Kim Cương và Hộ Pháp, cao chừng 3 m, trang nghiêm phúc
hậu. Phần lớn các tượng này đều được coi là có niên đại cuối thế kỷ 18. Một số
tượng khác được tạc vào giữa thế kỷ 19. Hệ thống tượng ở chùa Tây Phương
gồm:
*Bộ tượng Tam Thế Phật
với ba pho tượng Phật: Quá
khứ, Hiện tại, Vị lai (còn
gọi là Tam thân: Pháp thân,
Ứng thân và Hóa thân) ngồi
ở tư thế tọa thiền, y phục
Bộ tượng Tam Thế Phật
Trường ĐHSP Nghệ thuật TW


5


Thạch Thị Thanh Quyên- K11

gập nếp đơn giản phủ kín cơ
thể, được coi là có niên đại
đầu thế kỷ 17.
*Bộ tượng Di-đà Tam Tôn:
gồm tượng đức Phật A-di-đà,
đứng hai bên là Quan Âm Bồ
Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát.

Bộ Di- Đà Tam Tôn

*Tượng Tuyết Sơn miêu tả đức Phật Thích ca trong thời kỳ tu khổ hạnh: mỗi
ngày ăn một hạt kê, một hạt vừng, tự hành xác để vươn lên thế giới tinh thần sáng
láng. Tượng màu đen thẫm khoác áo cà sa mỏng, tay chân gầy khẳng khiu, xương
nổi lên trước ngực. Tồn bộ cơ thể chìm trong suy tưởng, mắt trũng sâu, hướng
về nội tâm.

Tượng Tuyết Sơn

Trường ĐHSP Nghệ thuật TW

6


Thạch Thị Thanh Quyên- K11


*Tượng đức Phật Di lặc tượng trưng cho vị
Phật của thế giới cực lạc tương lai. Người
mập mạp, ngồi hơi ngả về phía sau, tồn thân
tốt ra sự thỏa mãn, sung sướng.

Tượng đức phật Di Lặc

*Tượng Văn thù Bồ Tát: đứng chắp tay, chân đi đất, các ngón chân bấm móng
xuống mặt bệ.
*Tượng Phổ Hiền Bồ Tát: chắp tay trước ngực, khuôn mặt sáng rộng nổi lên trên
tấm thân phủ đầy y phục.

Bồ Tát Đại Diệu Tường

Bồ Tát Pháp hoa Lâm

(Văn Thù)

(Phổ Hiền)

Trường ĐHSP Nghệ thuật TW

7


Thạch Thị Thanh Quyên- K11

*Tượng Bát bộ Kim Cương, thể
hiện trình độ rất cao về nghệ thuật
lắp ghép gỗ và cách bố cục, chuyển

động của một thân thể mang giáp
trụ trong các thế võ.

Tượng Bát Bộ Kim Cương

*Mười tám pho tượng Tổ với phong
cách hiện thực: Đó là Ưu-ba-cầu-đa,
Đê-đa-ca, Di-trà-ca, Bà-tu-mật,
Phật-đà Nan-đề, Phục-đa-mật-đa,
Hiếp Tơn giả, Thương Na Hịa Tu,
Mã Minh, Ca-tỳ-ma-la, Long Thụ
Tôn giả, La-hầu-la-đa, Tăng-già

18 vị tổ chùa Tây Phương

Nan-đề, Già-gia-xá-đa, Cưu-mala-đa, Chà-dạ-đa. Theo một danh sách tên các nhân vật được tạc tượng trong một
tài liệu còn lưu truyền ở chùa thì đây là tượng các vị tổ Ấn Độ trong quan niệm
của Thiền tông Trung Quốc (xem thêm Nhị thập bát tổ). Mười tám vị tổ người
đứng kẻ ngồi, pho thì ngước mặt lên trời chỉ vào mây khói, pho thì hững hờ với
ngoại vật, tì cằm trên đầu gối nhếch mơi cười một mình nửa tinh nghịch nửa mỉa
mai, có pho vẻ mặt hân hoan tươi tắn, khổ người đầy đặn trịn trĩnh, pho khác có
vẻ mặt đăm chiêu lạ thường, lại có pho như đang đắn đo phân bua hay đang thì
thầm trị chuyện cùng ai.
Tượng La Hầu La đúng là chân dung một cụ già Việt Nam, thân hình gầy gị, mặt
dài, nhỏ, gị má cao, môi mỏng vừa phải. Chưa thấy pho tượng nào diễn tả y phục
một cách hiện thực mà lại đẹp đến như thế. Dáng điệu một tay cầm gậy, một tay

Trường ĐHSP Nghệ thuật TW

8



Thạch Thị Thanh Quyên- K11

để trên gối rất thoải mái, đôi bàn tay trông thấy rõ từng đốt xương bên trong.
Những nghệ nhân dân gian vô danh thời nhà Hậu Lê, thời nhà Tây Sơn đã là tác
giả của những kiệt tác tuyệt vời ấy của nền mỹ thuật Việt Nam.
Chùa Tây Phương đã là một cơng trình kiến trúc tôn giáo đặc sắc tiêu biểu cho
mỹ thuật Việt Nam thời Hậu Lê (thế kỷ 17-18). Năm 1960, nhà thơ Huy Cận đến
thăm chùa, đã làm những câu thơ rất sống động và gợi cảm về hình tượng những
con người đắc đạo mà lòng vẫn trầm ngâm suy tưởng về những khổ đau quần
quại của chúng sinh.

Trường ĐHSP Nghệ thuật TW

9


Thạch Thị Thanh Quyên- K11

Chương 2:
Giá trị nghệ thuật điêu khắc, chạm khắc độc đáo của chùa Tây Phương
và sự vận dụng nghệ thuật điêu khắc vào dạy học
Có thể nói lịch sử hình thành chùa Tây Phương diễn ra cùng với quá trình phát
triển Phật giáo của dân tộc. Những tấm bia đá, minh văn, hoành phi câu đối và
những truyền thuyết dân gian là phương tiện truyền tải giá trị lịch sử đặc sắc đó,
thể hiện tinh thần độc lập dân tộc, bản sắc văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giá trị
lịch sử của chùa Tây Phương còn được khẳng định là một trong những địa điểm
đánh dấu sự chuyển biến về hệ tư tưởng Phật - Lão - Nho cuối thời Lê Sơ, sang
nhà Mạc, rồi thời Lê Trung Hưng với thể hiện rõ nét nhất ở kết cấu kiến trúc hai

tầng tám mái, ơ cửa hình tròn biểu tượng cho âm dương ngũ hành, sắc sắc khơng
khơng.
Chùa Tây Phương là di sản văn hóa mang giá trị đặc biệt thể hiện qua nghệ
thuật kiến trúc đỉnh cao (về tỷ lệ hình học, mỹ thuật, khoa học), chạm khắc, tạc
tượng... từ đầu bẩy, các bức cốn, xà nách, ván long... đều chạm trổ đề tài trang trí
truyền thống, như: hình lá dâu, lá đề, hoa sen, hoa cúc, rồng, phượng, hổ phù... rất
tinh xảo. Hệ thống tượng Phật là điểm đặc sắc nhất, có thể coi đây như là một
Bảo tàng tượng Phật của Việt Nam. Các pho tượng Phật được làm bằng gỗ mít,
được tạo tác công phu, tinh xảo, giá trị nghệ thuật điêu khắc vào bậc nhất nước ta.
Phần lớn các tượng này có niên đại khoảng cuối thế kỷ XVIII, một số tượng khác
được tạc vào giữa XIX. Trong đó, tiêu biểu là các pho tượng Tuyết Sơn, Thập bát
vị La Hán, Bát Bộ Kim Cương... hội tụ đầy đủ và tạo ấn tượng thẩm mỹ sâu đậm
về nền điêu khắc cổ truyền.
Sự kiện Chùa Tây Phương trở thành Di tích quốc gia đặc biệt và Bộ tượng
Phật giáo chùa Tây Phương thời Tây Sơn được công nhận là Bảo vật quốc gia có
ý nghĩa vơ cùng quan trọng. Điều ấy khẳng định giá trị “vô song” của chùa Tây
Phương cũng như những pho tượng Phật ở nơi này. Với giá trị đặc biệt của di

Trường ĐHSP Nghệ thuật TW

10


Thạch Thị Thanh Quyên- K11

tích, di tích kiến trúc nghệ thuật Chùa Tây Phương (huyện Thạch Thất, thành phố
Hà Nội) đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt (theo
Quyết định số 2408/QĐ-TTg ngày 31/12/2014).
Trong chương trình GDPT 2018 thì mạch nội dung Điêu khắc, chạm khắc,
trang trí có từ bậc tiểu học cho đến hết lớp 12. Mỗi một cấp học đều có một cách

tiếp cận theo mức độ khác nhau. Nếu như ở bậc tiểu học HS chỉ học ở mức độ
nhận biết, làm quen, mơ phỏng hình dáng đơn giản thì lên đến cấp 2 mức độ bắt
đầu tăng dần đòi hỏi sự vận dụng được giá trị truyền thống vào thực hành sáng
tạo, phân biệt được chất liệu trong hội họa, tìm hiểu vài nét về mĩ thuật Trung đại
của Việt Nam, tìm hiểu tác giả, tác phẩm , di sản văn hóa nghệ thuật. Dựa trên
những những lí luận và lịch sử mĩ thuật có thể tiến hành phân tích được vai trị
của thị hiếu thẩm mĩ với nhu cầu sử dụng sản phẩm đã tạo ra. Lên đến cấp 3 các
mạnh nội dung về lí luận và lịch sử mĩ thuật, Điêu khắc được phân bố trong hệ
kiến thức rõ nét hơn. Trong đó mạch nội dung Lí luận và lịch sử mĩ thuật vừa
được thực hiện độc lập vừa bảo đảm lồng ghép trong thực hành, thảo luận mĩ
thuật (giống như chương trình của cấp 2 đã thực hiện lồng ghép) thì việc giáo
viên bổ sung lượng kiến thức về nghệ thuật điêu khắc chạm khắc độc đáo của
chùa Tây Phương góp giá trị khơng nhỏ trong hệ thống kiến thức đồng tâm từ tiểu
học cho đến hết cấp 3. Từ đó có thể vận dụng trong việc giảng dạy hàng ngày cho
học sinh ở các cấp học.
Để làm rõ vấn đề ta có thể nhận định một vài giá trị nghệ thuật điêu khắc
trong chùa Tây phương mang lại khi vận dụng trong việc giảng dạy học ở chương
trình mới trong số vơ vàn giá trị mà nó mang lại
Các hoạ tiết trang trí ở phía trong hay ngồi của chùa Tây Phương ln là
nguồn tư liệu phong phú có thể vận dụng giá trị truyền thống đó vào thực hành
sáng tạo như: Họa tiết hình hoa sen, hình vân mây cách điệu tạo hình trên đỉnh
bốn cây cột trụ tam quan thứ nhất ở dưới chân núi và ở trên mái ngói cổng tam

Trường ĐHSP Nghệ thuật TW

11


Thạch Thị Thanh Quyên- K11


quan thứ hai năm trong quần thể kiến trúc chùa Tây Phương. Họa tiết trang trí
hình đầu rồng, hình con nghê cách điệu tạo hình ở trên các đầu đao, mái chùa và
hình mặt rồng chạm nổi trên gỗ ở đầu đốc hồi chùa. Họa tiết hoa sen chạm nổi ba
lớp cánh hoa làm điểm đỡ chịu lực trên các bộ xà ngang, vì kèo, cột có kết cấu
khung bằng gỗ, vừa đáp ứng cơng năng kiến trúc vừa tạo tính thẩm mỹ….
Dưới góc nhìn cũng như cách thức tạo nên sản phẩm điêu khắc mang tính
sáng tạo. Ta có thể vận dụng một phần các thức điêu khắc tạc tượng tạo diện mạo
riêng của từng vị Phật trong chùa Tây Phương, người nghệ nhân dùng trí tưởng
tượng của mình khắc họa nên tướng mạo của các pho tượng Phật, ví như tượng
Bát bộ Kim Cương do trước đó hình ảnh thật của các vị Phật tổ khơng được lưu
lại bằng tranh ảnh ở ngồi đời thực, người nghệ nhân thơng qua trí tưởng tưởng
và lăng kính tạo hình, bàn tay nghề tài hoa đã tạc hình, khối, trang trí tơ màu cho
pho tượng do vậy ta thấy mỗi người nghệ nhân, hoặc phường thợ tùy thuộc vào
năng khiếu thẩm mỹ, tính sáng tạo, bàn tay nghề tạc nên hình dáng của các pho
tượng từ ghi chép trong các cuốn sách kinh thư của đạo Phật đó chính là sự hư
cấu ước lệ trong tạo hình Từ những hoa văn chạm khắc.
Cũng có thể dựa vào hệ thống kiến thức về lịch sử hình thành chùa Tây
Phương với lối kiến trúc, chạm khắc điêu khắc đặc trưng của thời kì đưa ra những
lí luận, phân tích ý tưởng thẩm mĩ của sản phẩm, hiểu được sự phù hợp của sản
phẩm với những đối tượng sử dụng khác nhau. Từ đó phân tích được vai trị của
thị hiếu thẩm mĩ với như cầu sử dụng sản phẩm thiết kế, hay sự ứng dụng của sản
phẩm đã tạo ra vào cuộc sống.
Với những cách vận dụng dựa trên nền tảng truyền thống mà nghệ thuật điêu
khắc độc đáo của chùa Tây Phương mang lại đã kích thích được tư duy sáng tạo
thực hành về khối, tạo cơ hội cho hs tiếp cận gần hơn với loại hình nghệ thuật thị
giác, khám phá bồi dưỡng thêm cho HS về nhận thức thẩm mĩ, trình bày được
quan điểm cá nhân về sản phẩm, tác phẩm mĩ thuật.

Trường ĐHSP Nghệ thuật TW


12


Thạch Thị Thanh Quyên- K11

C. KẾT LUẬN

Có thể nói chùa Tây Phương là bảo tàng tượng phật của Việt Nam bởi chùa Tây
Phương là nơi bảo lưu và gìn giữ rất nhiều pho tượng phật có giá trị. Nó thể hiện
tinh hoa tuyệt vời của nghệ thuật tạc tượng Việt Nam và là minh chứng của một
nền văn hố có từ lâu đời. Đến với Chùa Tây Phương là đến với thế giới cực lạc,
cõi niết bàn, chốn tu luyện của thần tiên. Đặc biệt hơn cả là 18 pho tượng La Hán
lớn bằng người thật trong các tư thế khác nhau ở hai bên tường lâu của thượng
điện. Mười tám vị tổ người đứng kẻ ngồi, pho thì ngước mặt lên trời chỉ vào mây
khói, pho thì hững hờ với ngoại vật, tì cằm trên đầu gối nhếch mơi cười một mình
nửa tinh nghịch nửa mỉa mai, có pho vẻ mặt hân hoan tươi tắn, khổ người đầy đặn
tròn trĩnh, pho khác có vẻ mặt đăm chiêu lạ thường, lại có pho như đang đắn đo
phân bua hay đang thì thầm trị chuyện cùng ai, mỗi vị là một nỗi khổ, cử chỉ,
dáng điệu riêng thể hiện những tính cách khác nhau khá sinh động và hiếm thấy
trong nghệ thuật điêu khắc cổ nước ta. Khơng chỉ có vậy, nơi đây còn là nơi tập
trung những kiệt tác hiếm có của nghệ thuật điêu khắc tơn giáo bao gồm chạm
trổ, phù điêu và tạc tượng. Khắp chùa chỗ nào có gỗ là có chạm trổ. Các đầu bẩy,
các bức cổn, xà nách, ván long... đều có chạm trổ đề tài trang trí quen thuộc của
dân tộc Việt: hình lá dâu, lá đề, hoa sen, hoa cúc, rồng, phượng, hổ phù... rất tinh
xảo. Chùa Tây Phương đã là một công trình kiến trúc tơn giáo đặc sắc tiêu biểu
cho mỹ thuật Việt Nam.
Với những giá trị nghệ thuật hiện hữu mà Chùa Tây Phương mang lại nếu có thể
vận dụng dựa trên nền tảng truyền thống mà nghệ thuật điêu khắc độc đáo đó
chắc chắn sẽ mang lại sự kích thích được tư duy sáng tạo thực hành về khối, tạo
cơ hội cho hs tiếp cận gần hơn với loại hình nghệ thuật thị giác, khám phá bồi

dưỡng thêm cho HS về nhận thức thẩm mĩ, trình bày được quan điểm cá nhân về
sản phẩm, tác phẩm mĩ thuật.

Trường ĐHSP Nghệ thuật TW

13


Thạch Thị Thanh Quyên- K11

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
B. NỘI DUNG ..................................................................................................... 2
CHƯƠNG 1. CHÙA TÂY PHƯƠNG ................................................................... 2
1.1. LỊCH SỬ ........................................................................................................ 2
1.2. KIẾN TRÚC ................................................................................................... 3
1.3 BỘ TƯỢNG PHẬT ......................................................................................... 4
CHƯƠNG 2. GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC CHẠM KHẮC ĐỘC ĐÁO
CỦA CHÙA TÂY PHƯƠNG VÀ SỰ VẬN DỤNG NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC
VÀO DẠY HỌC .................................................................................................. 10
C. KẾT LUẬN .................................................................................................. 13

Trường ĐHSP Nghệ thuật TW

14



×