Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.94 KB, 13 trang )

Lời nói đầu
Thực hiện đờng lối đổi mới do Đảng ta khởi xớng, đất nớc ta đang trong quá
trình xây dựng nền kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Để có cơ sở lý
luận đúng đắn, phù hợp thực tiễn trong việc đề ra phơng hớng, nhiệm vụ xây dựng
nền kinh tế đó, Đảng và Nhà nớc ta luôn "kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và t tởng Hồ
Chí Minh" [Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.70]. Thực tế những năm qua cho
thấy, thực hiện nguyên tắc này nền kinh tế nớc ta đã và đang từng bớc phát triển theo
đúng định hớng xã hội chủ nghĩa và đã thu đợc nhiều thành tựu quan trọng.
Trong việc hoạch định đờng lối phát triển kinh tế, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật trong Triết học Mác -
Lênin.
Chính vì vậy, em quyết định chọn đề tài "Phép biện chứng về mối liên hệ phổ
biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
với hội nhập kinh tế quốc tế", để thực hiện bài tiểu luận này nhằm phân tích, tìm
hiểu sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta .
Em xin chân thành cảm ơn Thầy TS. Phạm Văn Sinh, ngời đã giúp đỡ em hoàn
thành bài tiểu luận đầu tay này.
I. Đặt vấn đề
1
Đờng lối phát triển kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam đợc khẳng định trong
văn kiện Đại hội IX là: "Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh
tế độc lập tự chủ... chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh có hiệu quả
và bền vững". Chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 xác định: "Gắn chặt
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế" là một
trong năm quan điểm phát triển.
Chủ trơng này rất phù hợp với điều kiện đất nớc ta, một đất nớc phát triển theo
định hớng xã hội chủ nghĩa trong hoàn cảnh quốc tế diễn biến rất phức tạp, đầy biến
động với những bất trắc khó lờng. Đất nớc ta đi lên từ một nền kinh tế bao cấp, tự
cung, tự cấp chuyển sang nền kinh tế thị trờng đầy cạnh tranh thì việc xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ sẽ giúp chúng ta có đợc một nền kinh tế có thực lực đủ mạnh


để tự đảm bảo phát triển ổn định theo đúng định hớng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở
đó đảm bảo đợc độc lập về chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh và còn là cơ sở đảm
bảo cho việc mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế.
Ngoài ra, chủ trơng này còn phù hợp với thực tế khách quan trong xu hớng toàn
cầu hoá thế giới, đặc biệt xu hớng toàn cầu hoá kinh tế. Điều này Mác và ăngghen đã
dự báo từ thế kỷ 19, khi phân tích sự phát triển mạnh mẽ của lực lợng sản xuất sẽ dẫn
đến quốc tế hoá sản xuất và thơng mại. Cho nên nó là xu thế khách quan do lực lợng
sản xuất phát triển nhanh chóng. Hiện nay, dù gặp khó khăn đến đâu, kinh tế thế giới
vẫn tiếp tục vận động theo xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá. Các khu vực kinh tế
khổng lồ tiếp tục ra đời và phát triển nh EU, Bắc Mỹ, khu vực Đông - Bắc á, khu vực
Đông Nam - á... Đặc biệt tổ chức thơng mại thế giới WTO phát triển mạnh với
khoảng 144 nớc. Tuy nhiên, xu thế này dẫn đến sự tùy thuộc lẫn nhau về kinh tế
ngày càng gia tăng, do đó các nớc trên thế giới đều rất coi trọng đến khả năng độc lập
tự chủ về kinh tế, nhằm đảm bảo lợi ích chính đáng của quốc gia, dân tộc mình trong
cuộc cạnh tranh kinh tế gay gắt và để xác lập một vị thế chính trị nhất định trên trờng
quốc tế. "Tổng kết của UNDP (Tổ chức hỗ trợ phát triển của Liên hợp quốc) cho rằng
từ khi diễn ra quá trình toàn cầu hoá đến nay, trên thế giới có 10 nớc giàu lên, nhng
có 130 nớc nghèo đi, trong đó có 60 nớc GDP bình quân đầu ngời thấp hơn trớc khi
2
tham gia toàn cầu hoá. Tổng kết những nớc vay nợ để phát triển cho thấy, cha đến
10% số nớc có khả năng trả đợc nợ, số còn lại trở thành con nợ lu cữu" [Tài liệu
nghiên cứu Văn kiện Đại hội IX của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001,
tr.25]. Chính vì thế hội nhập kinh tế quốc tế sẽ đem lại cho nền kinh tế Việt Nam
những lợi ích to lớn, nhng cũng mang đến những hậu quả khôn lờng không những
cho nền kinh tế mà cho cả chế độ xã hội chủ nghĩa, nếu chúng ta không xây dựng đợc
một nền kinh tế độc lập tự chủ.
Nh vậy, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế có mối
quan hệ biện chứng với nhau.
Dựa vào nguyên lý về mối liên hệ phổ biến chúng ta sẽ phân tích mối liên hệ giữa
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế. Định hớng phân

tích mối liên hệ bên trong, bên ngoài của việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với
hội nhập kinh tế quốc tế.
II. Giải quyết vấn đề
1. Nội dung nguyên lý
1.1. Phép biện chứng duy vật về mối liên hệ phổ biến
Phép biện chứng duy vật bao hàm nội dung hết sức phong phú, bởi vì đối tợng
phản ánh của nó - thế giới vật chất là vô cùng vô tận. Trong đó, nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến và phát triển là có ý nghĩa khái quát nhất. Trong bài tiểu luận này, chúng
ta chỉ đề cập đến nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Phép biện chứng duy vật khẳng định giữa các sự vật, hiện tợng trong thế giới
khách quan không cái nào tồn tại một cách cô lập, biệt lập mà chúng là một thể thống
nhất, trong đó các sự vật, hiện tợng tồn tại bằng cách qui định, ràng buộc, tác động
làm biến đổi. Mối liên hệ này chẳng những diễn ra ở mọi sự vật và hiện tợng trong tự
nhiên, trong xã hội, trong t duy mà còn diễn ra đối với các mặt, các yếu tố, các quá
trình của mỗi sự vật, hiện tợng. Đó là tính phổ biến của mối liên hệ.
Quan điểm biện chứng duy vật còn khẳng định tính khách quan và đa dạng của
mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tợng. Mối liên hệ là khách quan, là cái vốn có của
3
các sự vật, hiện tợng, cơ sở của nó là tính thống nhất vật chất của thế giới. Tính đa
dạng của mối liên hệ thể hiện ở chỗ: có mối liên hệ bên trong và bên ngoài; mối liên
hệ trực tiếp và gián tiếp; có mối liên hệ chung bao quát toàn bộ thế giới, có mối liên
hệ bao quát một số lĩnh vực hoặc một lĩnh vực riêng biệt của thế giới đó, có mối liên
hệ bản chất và không bản chất, có mối liên hệ tất yếu và ngẫu nhiên... Các loại liên hệ
khác nhau có vai trò khác nhau đối với sự vận động và phát triển của sự vật, hiện t-
ợng. Tuy nhiên quan điểm biện chứng duy vật về mối liên hệ cũng đòi hỏi phải thừa
nhận tính tơng đối trong sự phân loại các mối liên hệ.
Trong tính đa dạng của các hình thức và các loại liên hệ tồn tại trong tự nhiên,
trong xã hội và t duy con ngời, phép biện chứng duy vật tập trung nghiên cứu mối
liên hệ phổ biến - mối liên hệ chung nhất, phổ biến nhất của thế giới, mà tính chất
của nó thể hiện ở các mối liên hệ cụ thể. Vì thế, ăngghen viết: "Phép biện chứng là

khoa học về mối liên hệ phổ biến" [Ph.ăngghen: Biện chứng của tự nhiên, Nxb. Sự
thật, Hà Nội, 1971, tr.5].
1.2. ý nghĩa phơng pháp luận
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, đòi hỏi trong quá trình
nhận thức cũng nh hoạt động thực tiễn chúng ta cần thực hiện nguyên tắc toàn diện và
lịch sử cụ thể. Nh vậy tức là khi xem xét sự vật, hiện tợng hay nhận thức và giải quyết
một vấn đề gì thì cũng phải đặt nó trong mối quan hệ với sự vật, hiện tợng khác, xem
xét tất cả các mặt, các yếu tố của nó. Đồng thời cũng phải phân biệt đợc vị trí, vai trò
của các mối liên hệ, không đánh đồng vị trí các mối quan hệ, các mặt nh nhau trong
một điều kiện xác định.
2. Phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội
nhập kinh tế quốc tế
2.1. Khái niệm về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc
tế
4
T tởng "giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phơng
hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại" đã đợc Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng (khoá
VIII) và Văn kiện Đại hội VIII xác định nh là một trong những quan điểm chỉ đạo
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, cũng nh quan điểm "... Kiên trì đờng
lối kinh tế đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở..." đã đợc Đảng ta xác định ngay từ Hội
nghị lần thứ 4 Ban chấp hành trung ơng khoá VIII, nhng đây là lần đầu tiên trong văn
kiện của Đảng, Đảng ta đa ra chủ trơng về "xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ"
trong quá trình đổi mới, mở rộng quan hệ đối ngoại.
Vậy thế nào là nền kinh tế độc lập tự chủ?
"Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế không bị lệ thuộc, phụ thuộc vào các
nớc khác, ngời khác hoặc vào một tổ chức kinh tế nào đó về đờng lối, chính sách phát
triển, không bị bất cứ ai dùng những điều kiện kinh tế, tài chính, thơng mại, viện trợ...
để áp đặt, khống chế, làm tổn hại chủ quyền quốc gia và lợi ích cơ bản của dân tộc.
Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế trớc những biến động của thị trờng, tr-
ớc sự khủng hoảng của nền kinh tế tài chính bên ngoài, nó vẫn có khả năng cơ bản

duy trì sự ổn định và phát triển; trớc sự bao vây, cô lập và chống phá của các thế lực
thù địch, nó vẫn có khả năng đứng vững, không bị sụp đổ, không bị rối loạn" [Tài liệu
nghiên cứu Văn kiện Đại hội IX của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001,
tr.109].
Trong thời đại ngày nay, độc lập tự chủ về kinh tế không còn đợc hiểu đó là một
nền kinh tế khép kín, tự cung tự cấp, mà đợc đặt trong mối quan hệ biện chứng với
mở cửa, hội nhập, chủ động tham gia sự giao lu, hợp tác và cạnh tranh quốc tế trên cơ
sở phát huy tối đa nội lực và lợi thế so sánh của quốc gia. Điều này có nghĩa là độc
lập tự chủ về kinh tế cũng đồng thời hội nhập đợc vào nền kinh tế quốc tế.
Vậy thế nào là hội nhập kinh tế quốc tế?
"Cùng với sự xuất hiện của thuật ngữ toàn cầu hoá kinh tế thì khái niệm hội nhập
cũng bắt đầu đợc sử dụng. Có thể hiểu toàn cầu hoá kinh tế là quá trình phát triển
kinh tế của các quốc gia trên thế giới vợt khỏi biên giới quốc gia, hớng tới phạm vi
toàn cầu trên cơ sở lực lợng sản xuất cũng nh trình độ khoa học - kỹ thuật phát triển
5
mạnh mẽ và phân công quốc tế ngày càng sâu rộng, tính chất xã hội hoá của sản xuất
ngày càng tăng. Gắn liền với toàn cầu hoá kinh tế là hội nhập kinh tế quốc tế với
trọng tâm là mở cửa kinh tế, tham dự phân công hợp tác quốc tế, tạo điều kiện kết
hợp có hiệu quả nguồn lực trong nớc với bên ngoài, mở rộng không gian và môi trờng
để phát triển, chiếm lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể đợc trong quan hệ kinh tế quốc tế"
[Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Nguyễn Thuý Anh, Tạp chí cộng sản, số 12
(tháng 6-2001), tr.19].
Nh vậy, khái niệm về độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế là rõ ràng và đã
mang trong nó mối liên hệ biện chứng.
2.2. Mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế
quốc tế
Mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc
tế có thể xem nh là mối liên hệ bên trong, bên ngoài, mối liên hệ bên trong là xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, còn mối liên hệ bên ngoài là hội nhập kinh tế quốc
tế. Nói nh vậy có nghĩa là xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là điều kiện đảm bảo

cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, còn hội nhập kinh tế quốc tế là điều kiện để
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
Trong quá trình Đảng đề ra chủ trơng xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đã có
ý kiến cho rằng, trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế, mở cửa hội nhập mà lại đặt vấn
đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là thiếu nhạy bén, không thức thời, thậm chí
là bảo thủ, t duy kiểu cũ. Thế giới bây giờ là một thị trờng thống nhất, cần thứ gì thì
mua, thiếu tiền thì đi vay, sao lại chủ trơng xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ?
Quan điểm này về hình thức thì có vẻ hợp lý, nhng xét về phơng diện đờng lối
thì thực chất đây là một quan điểm nguy hiểm, sai trái.
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ không chỉ xuất phát từ quan điểm, đờng lối
chính trị độc lập tự chủ, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn, nhằm đảm bảo độc lập tự
chủ vững chắc về chính trị, bảo đảm phát triển bền vững và có hiệu quả cho chính
ngay nền kinh tế, cho việc mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế.
6

×