Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng Cty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (630.14 KB, 120 trang )

MỞ ĐẦU
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam đang tích cực
chuẩn bị hành trang cho mình để đón nhận những cơ hội và thách thức do mở cửa
mang lại. Với việc thực hiện các cam kết song phương và đa phương, hướng tới gia
nhập WTO, một nhân tố đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp cũng
như sự phát triển của nền kinh tế, đó là nâng cao năng lực cạnh tranh bởi cạnh tranh
là đặc trưng vốn có của kinh tế thị trường và trong điều kiện hội nhập thì cạnh tranh
ngày càng trở nên gay gắt. Doanh nghiệp nào có sự chuẩn bị tốt về năng lực cạnh
tranh sẽ nắm được quyền chủ động trên thị trường.
Theo cách của mình, một số doanh nghiệp Việt Nam cũng đang phấn đấu cho
mục tiêu đó và đã đạt được những thành tích nhất định. Các doanh nghiệp Nhà Nước,
trong đó có Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi đã không
ngừng đổi mới bằng các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và tổ chức để nâng cao năng lực
cạnh tranh. Song so với yêu cầu của sự phát triển kinh tế thị trường, kết quả đạt được
còn khiêm tốn. Là một trong những Tổng Công ty lớn của bộ Nông Nghiệp Và Phát
Triển Nông Thôn, vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh để phát triển và thực hiện tốt
những nhiệm vụ kinh tế - chính trị do Nhà Nước giao là mối quan tâm hàng đầu của
Tổng Công ty.
Để tìm được câu trả lời cho vấn đề này cần có những nghiên cứu về lý luận và
thực tiễn nhằm tìm kiếm các giải pháp hữu hiệu. Trên tinh thần đó tác giả chọn vấn
đề “Nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông
Nghiệp Và Thủy Lợi” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Cạnh tranh kinh tế không còn là vấn đề mới mẻ với thế giới. Trong bộ “Tư bản” và
những tác phẩm trước đó, Các Mác đã nói đến cơ sở ra đời và tồn tại của cạnh tranh,
các tiêu thức phân loại, những mặt tích cực và tiêu cực của cạnh tranh. Vấn đề này
1
cũng được Lê Nin nhắc đến khi phân tích giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền. Nhất
là từ thập kỷ 80 của thế kỷ 20 trở lại đây, các lý thuyết về cạnh tranh đã được phát
triển thành những chiến lược cạnh tranh áp dụng trong quản lý kinh tế vĩ mô và vi mô


ở nhiều quốc gia.
Ở Việt Nam, vấn đề này bắt đầu được nhắc đến nhiều khi Việt Nam chuyển
đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đã có một số
cuộc hội thảo, công trình nghiên cứu và các bài viết trên các tạp chí về vấn đề này.
Một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ về cạnh tranh đã được công bố như: luận án
tiến sĩ của tác giả Nguyễn Quốc Dũng về đề tài “Cạnh tranh trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam” (2001), luận văn thạc sĩ về đề tài “Nâng cao sức cạnh tranh của
hàng hóa Việt Nam nhằm thực hiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” của tác giả
Bùi Văn Thành (2003). Nghiên cứu “Năng lực cạnh tranh quốc gia và năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp Việt Nam – nhân tố quan trọng trong hội nhập” của tiến sĩ Lê
Đăng Doanh – Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế trung ương (2003). Tác phẩm
“Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế” của tác giả Chu Văn Cấp (2003), nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia – Hà
Nội. Đề án phát triển Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi
từ năm 2001 đến 2010. Các nghiên cứu trên đã hệ thống được cơ sở lý luận về cạnh
tranh và những kinh nghiệm thực tế quí báu. Tuy nhiên nghiên cứu dưới góc độ quản
trị kinh doanh về năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông
Nghiệp Và Thủy Lợi chưa được thực hiện. Tác giả mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu
theo hướng này.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Mục đích nghiên cứu: Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của Tổng
Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi, đánh giá những thành công
đã đạt được, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng, từ đó chỉ ra định hướng và giải
pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
2
Một là: Hệ thống hóa những cơ sở lý luận chung về năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Hai là: Nghiên cứu một số kinh nghiệm quốc tế và của các Tổng Công ty
khác của Việt Nam, rút ra bài học về nâng cao năng lực cạnh tranh.

Ba là: Khảo sát các điều kiện về nguồn lực và hoạt động kinh doanh, những
công cụ Tổng Công ty đang sử dụng trong cạnh tranh từ đó làm rõ năng lực cạnh
tranh của Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi, đánh giá
thành công, hạn chế, nguyên nhân thực trạng đó.
Bốn là: Đưa ra các định hướng, tìm kiếm và đề xuất giải pháp hữu hiệu để
nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu năng lực cạnh tranh
của Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi thuộc bộ Nông
Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn.
- Phạm vi nghiên cứu: Lĩnh vực hoạt động của Tổng Công ty khá rộng gồm
sản xuất sản phẩm cơ khí, xây dựng, thương mại. Trong phạm vi đề tài này, luận văn
đi sâu nghiên cứu lĩnh vực kinh doanh chủ yếu là năng lực cạnh tranh của Tổng Công
ty về các sản phẩm cơ khí xây lắp phục vụ nông nghiệp, thủy lợi và thủy điện.
Phạm vi thời gian: Luận văn chọn mốc thời gian từ năm 2003 đến nay.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu truyền thống của khoa học kinh tế
là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp giữa lôgíc và lịch sử,
phân tích và tổng hợp. Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp thống kê, so
sánh định lượng nhằm tạo một phương pháp tiếp cận phù hợp với đối tượng và mục
tiêu nghiên cứu.
6. DỰ KIẾN ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
3
Về lý luận: Khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về cạnh tranh trong kinh tế
thị trường và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó chỉ ra cách thức
vận dụng các lý luận về cạnh tranh để nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh
nghiệp.
Về thực tiễn:
- Khái quát một số bài học kinh nghiệm về nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp từ đó chỉ ra những vấn đề cần quan tâm khi xây dựng chiến lược

cạnh tranh cho doanh nghiệp.
- Trên cơ sở phân tích thực trạng, luận văn cho thấy một bức tranh toàn
cảnh về năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và
Thủy Lợi, những điểm mạnh, điểm yếu và nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
cho Tổng Công ty.
7. KẾT CẤU LUẬN VĂN:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty Cơ Điện Xây
Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi.
Chương 3: Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi.
4
CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. CẠNH TRANH VÀ SỰ CẦN THIẾT NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
Kinh tế thị trường được xem là nền kinh tế năng động nhất, mang lại nhiều
thành tựu đóng góp cho sự phát triển của văn minh nhân loại. Kinh tế thị trường vận
động dưới sự tác động tổng hợp của các quy luật kinh tế khách quan, trong đó phải kể
đến quy luật cạnh tranh. Quy luật này đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự thích nghi với
những biến chuyển của nền kinh tế để tồn tại và phát triển. Cạnh tranh đã, đang và sẽ
là vấn đề được quan tâm nghiên cứu cả trên lý luận và trong thực tiễn nhằm vận dụng
ngày càng hiệu quả quy luật này phục vụ cho sự phát triển của mỗi doanh nghiệp,
mỗi quốc gia.
1.1.1. Khái niệm và phân loại cạnh tranh
1.1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh là một thuật ngữ đã được sử dụng từ khá lâu song trong những

năm gần đây được nhắc đến nhiều hơn, nhất là ở Việt Nam. Bởi trong nền kinh tế mở
hiện nay, khi xu hướng tự do hóa thương mại ngày càng phổ biến thì cạnh tranh là
phương thức để đứng vững và phát triển của doanh nghiệp. Nhưng “cạnh tranh là gì”
thì vẫn đang là một khái niệm chưa thống nhất, các nhà nghiên cứu đưa ra các khái
niệm cạnh tranh dưới nhiều góc độ khác nhau.
Theo diễn đàn cấp cao về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp tác và
Phát triển Kinh tế OECD: “Cạnh tranh là khả năng các doanh nghiệp, ngành, quốc gia
và vùng tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”.
Định nghĩa trên đã cố gắng kết hợp cả hoạt động cạnh tranh của doanh nghiệp, của
ngành và quốc gia.
Ủy ban Cạnh tranh Công nghiệp của Tổng thống Mỹ đưa ra khái niệm cạnh
tranh đối với một quốc gia như sau: “Cạnh tranh đối với một quốc gia thể hiện trình
độ sản xuất hàng hóa dịch vụ đáp ứng được đòi hỏi của thị trường quốc tế, đồng thời
5
duy trì và mở rộng được thu nhập thực tế của nhân dân nước đó trong những điều
kiện thị trường tự do và công bằng xã hội” [3]. Trong định nghĩa này người ta đề cao
vai trò của các điều kiện cạnh tranh là “tự do và công bằng xã hội”.
Như vậy, xét trên góc độ vĩ mô các khái niệm về cạnh tranh đều cho thấy
mục tiêu chung của hoạt động cạnh tranh là thỏa mãn tối đa nhu cầu thị trường trong
nước và quốc tế, tạo việc làm và thu nhập cao cho nền kinh tế.
Các nhà kinh tế của trường phái tư sản cổ điển quan niệm: “Cạnh tranh là
một quá trình bao gồm các hành vi phản ứng. Quá trình này tạo ra cho mỗi thành viên
thị trường một dư địa hoạt động nhất định và mang lại cho mỗi thành viên một phần
xứng đáng so với khả năng của mình”. Theo quan niệm này cạnh tranh chủ yếu là
cạnh tranh về giá, vì thế lý thuyết giá cả gắn chặt với lý thuyết cạnh tranh.
Khi nghiên cứu về cạnh tranh tư bản chủ nghĩa, Mác cũng đã đưa ra khái
niệm về cạnh tranh: “Cạnh tranh tư bản là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các
nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng
hóa nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch” [21]. Như vậy cạnh tranh là hoạt động của các
doanh nghiệp trong nền sản xuất hàng hóa với mục đích ganh đua, giành giật những

điều kiện thuận lợi tronh sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu lợi nhuận cao.
Kế thừa những tính hợp lý và khoa học của các quan niệm về cạnh tranh
trước đây, luận văn cho rằng để đưa ra một khái niệm đầy đủ cần chỉ ra được chủ thể
cạnh tranh, tính chất, phương thức và mục đích của quá trình cạnh tranh. Theo đó
chúng ta có thể quan niệm “ cạnh tranh là một quá trình kinh tế mà ở đó các chủ thể
kinh tế (quốc gia, ngành hay doanh nghiệp) ganh đua với nhau để chiếm lĩnh thị
trường, giành lấy khách hàng cùng các điều kiện sản xuất và tiêu thụ sản phẩm có lợi
nhất nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận”.
Như vậy về bản chất, cạnh tranh là mối quan hệ giữa người với người trong
việc giải quyết lợi ích kinh tế. Bản chất kinh tế của cạnh tranh thể hiện ở mục đích lợi
nhuận và chi phối thị trường. Bản chất xã hội của cạnh tranh bộc lộ đạo đức kinh
doanh và uy tín kinh doanh của mỗi chủ thể cạnh tranh trong quan hệ với những
người lao động trực tiếp tạo ra tiềm lực cạnh tranh cho doanh nghiệp và trong mối
quan hệ với người tiêu dùng và đối thủ cạnh tranh khác.
6
Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường, nó chịu
nhiều chi phối của quan hệ sản xuất giữ vị trí thống trị trong xã hội, nó có quan hệ
hữu cơ với các quy luật kinh tế khác như quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ,
quy luật cung cầu…, đây là một đặc trưng gắn với bản chất của cạnh tranh. Quy luật
cạnh tranh chỉ ra cách thức làm cho giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội, do đó nó
làm giảm giá cả thị trường, nó tạo ra sức ép làm gia tăng hiệu quả sử dụng các yếu tố
sản xuất, nó chỉ ra ai là người sản xuất kinh doanh thành công nhất.
1.1.1.2. Phân loại cạnh tranh
* Căn cứ tính chất cạnh tranh trên thị trường.
- Cạnh tranh hoàn hảo là hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có rất
nhiều người bán và người mua, mỗi người bán chỉ cung ứng một lượng hàng rất nhỏ
trong tổng cung của thị trường. Họ luôn luôn bán hết số hàng mà họ muốn bán với
giá thị trường. Bất cứ doanh nghiệp nào gia nhập hoặc rút lui khỏi thị trường cũng
không gây ảnh hưởng tới giá cả thị trường. Để tối đa hóa lợi nhuận họ chỉ còn có thể
tìm mọi cách để giảm chi phí sản xuất. Trong thị trường này mọi thông tin đều đầy

đủ và không có hiện tượng cung cầu giả tạo. Khi chi phí biên của doanh nghiệp giảm
xuống bằng với giá thị trường doanh nghiệp sẽ đạt lợi nhuận tối đa.
- Cạnh tranh không hoàn hảo là hình thức cạnh tranh mà mỗi doanh nghiệp
đều có sức mạnh thị trường (dù nhiều hay ít), họ có quyền quyết định giá bán của
mình, qua đó tác động đến giá cả thị trường.
+ Cạnh tranh độc quyền (cạnh tranh có tính độc quyền) là thị trường có
nhiều người bán và nhiều người mua, sản phẩm của các doanh nghiệp có thể thay thế
cho nhau ở một mức độ nào đó. Bằng các biện pháp như thay đổi mẫu mã, chất
lượng, kiểu dáng, quảng cáo thương hiệu, uy tín … các doanh nghiệp cố gắng khác
biệt hóa sản phẩm của mình để cạnh tranh và thu hút khách hàng. Trong thị trường
này, bên cạnh các biện pháp khác biệt hóa sản phẩm, chiến lược giá cả và chính sách
đối với khách hàng là các vấn đề mỗi doanh nghiệp luôn quan tâm để đảm bảo khả
năng cạnh tranh.
+ Độc quyền tập đoàn là trường hợp trên thị trường chỉ có một số hãng
lớn bán các sản phẩm đồng nhất hoặc không đồng nhất. Họ kiểm soát gần như toàn
7
bộ lượng cung trên thị trường nên có sức mạnh thị trường khá lớn. Các hãng trong
tập đoàn có tính phụ thuộc lẫn nhau nên quyết định giá và sản lượng của mỗi hãng
đều ảnh hưởng trực tiếp đến hãng khác trong tập đoàn và giá thị trường. Vì vậy họ
thường cấu kết với nhau để thu lợi nhuận siêu ngạch.
Nguyên nhân sự hình thành thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là do quá
trình phấn đấu tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp, cạnh tranh thúc đẩy quá trình
tích tụ và tập trung tư bản diễn ra không đều ở các ngành, các lĩnh vực kinh tế khác
nhau. Mặc dù vậy, cạnh tranh độc quyền lại có tác động tích cực thúc đẩy sản xuất
phát triển, nó làm lợi cho xã hội nhiều hơn là gây thiệt hại.
- Độc quyền hoàn toàn là hình thái thị trường đối lập với cạnh tranh hoàn
hảo. Chỉ có một người bán (hoặc mua) duy nhất trên thị trường, hàng hóa là độc nhất
và không có hàng thay thế gần gũi nên họ có sức mạnh thị trường rất lớn. Doanh
nghiệp độc quyền luôn quyết định giá và sản lượng sao cho thu được lợi nhuận siêu
ngạch. Nguyên nhân của độc quyền là do họ đạt được lợi thế kinh tế nhờ quy mô

(độc quyền tự nhiên), hoặc do cấu kết, thôn tính, kiểm soát được đầu vào… Độc
quyền luôn có những tác động xấu đến kinh tế xã hội như sản lượng bán thấp (không
đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng cho xã hội), giá quá cao và gây mất công bằng xã
hội. ở một số nước có luật chống độc quyền nhằm đảm bảo các lợi ích kinh tế xã hội.
* Căn cứ chủ thể tham gia thị trường: Đây là sự cạnh tranh trong khâu lưu
thông hàng hóa nhằm tối đa hóa lợi ích cho những chủ thể tham gia cạnh tranh.
- Cạnh tranh giữa người bán và người mua với đặc trưng nổi bật là người
mua luôn muốn mua rẻ và người bán luôn muốn bán đắt. Hai lực lượng này hình
thành hai phía cung cầu trên thị trường. Kết quả sự cạnh tranh trên là hình thành giá
cân bằng của thị trường, đó là giá mà cả hai phía đều chấp nhận được.
- Cạnh tranh giữa những người mua là sự cạnh tranh do ảnh hưởng của quy
luật cung cầu. Khi lượng cung một hàng hóa quá thấp so với lượng cầu làm cho
người mua phải cạnh tranh nhau để mua được hàng hóa mà mình cần dẫn tới giá cả
tăng vọt. Kết quả là người bán thu được lợi nhuận cao còn người mua phải mất thêm
một số tiền. Như vậy sự cạnh tranh này làm cho người bán được lợi và người mua bị
thiệt.
8
- Cạnh tranh giữa những người bán là sự cạnh tranh nhằm tăng sản lượng
bán. Do sản xuất ngày càng phát triển, thị trường mở cửa, lượng cung tăng nhanh
trong khi lượng cầu tăng chậm dẫn tới người bán (các doanh nghiệp) phải cạnh tranh
khốc liệt để giành thị trường và khách hàng. Kết quả là giá cả không ngừng giảm
xuống và người mua được lợi. Doanh nghiệp nào thắng trong cuộc cạnh tranh này
mới có thể tồn tại và phát triển.
* Căn cứ cấp độ cạnh tranh: Đây là sự cạnh tranh diễn ra trong lĩnh vực sản
xuất.
- Cạnh tranh giữa các sản phẩm là sự cạnh tranh về mẫu mã, kiểu dáng,
chất lượng, giá cả, phương thức bán hàng … Sản phẩm nào phù hợp nhất với yêu cầu
của khách hàng thì sản phẩm đó sẽ đảm bảo được khả năng tiêu thụ, kéo dài chu kỳ
sống của sản phẩm và tạo cơ hội thu thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành (cạnh tranh nội bộ ngành)

là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất một loại hàng hóa nhằm thu lợi
nhuận siêu ngạch. Trong nền kinh tế thị trường, theo quy luật, doanh nghiệp nào có
hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ thu lợi nhuận
siêu ngạch. Các doanh nghiệp sẽ áp dụng các biện pháp như cải tiến kỹ thuật, hợp lý
hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất nâng cao sức cạnh tranh
cho sản phẩm. Doanh nghiệp nào có nhiều sản phẩm có sức cạnh tranh cao sẽ cạnh
tranh thắng lợi trong ngành.
Như vậy cạnh tranh nội bộ ngành làm giảm chi phí sản xuất và giá cả hàng
hóa, là động lực thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất và tiến bộ kỹ thuật. Không có
cạnh tranh nội bộ ngành thì ngành đó không thể phát triển và kinh tế sẽ bị trì trệ.
- Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản
xuất ở các ngành khác nhau nhằm tìm nơi đầu tư có lợi nhất. Giữa các ngành kinh tế,
do điều kiện tự nhiên, kỹ thuật và một số nhân tố khách quan khác (như tâm lý, thị
hiếu, kỳ vọng, mức độ quan trọng,…) nên cùng với một lượng vốn, đầu tư vào ngành
này có thể mang lại tỷ suất lợi nhuận cao hơn ngành khác. Nhà sản xuất ở những
ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp có xu hướng di chuyển nguồn lực sang những ngành
có tỷ suất lợi nhuận cao. Kết quả là trong những ngành có thêm nhiều doanh nghiệp
9
tham gia lượng cung tăng vượt quá cầu, giá giảm dẫn tới tỷ suất lợi nhuận của ngành
giảm. Ngược lại, những ngành có nhiều doanh nghiệp rút lui sẽ có lượng cung nhỏ
hơn lượng cầu, giá tăng và tỷ suất lợi nhuận của ngành lại tăng.
Việc di chuyển nguồn lực giữa các ngành kéo theo sự biến động của tỷ suất
lợi nhuận diễn ra cho đến khi với một số vốn nhất định dù đầu tư vào ngành nào cũng
sẽ thu được tỷ suất lợi nhuận như nhau. Đó là tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Như vậy cạnh tranh giữa các ngành dẫn tới sự cân bằng cung cầu sản phẩm
trong mỗi ngành và bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận, đảm bảo sự bình đẳng cho việc
đầu tư vốn giữa các ngành, tạo nhân tố tích cực cho sự phát triển.
- Cạnh tranh giữa các quốc gia: Là các hoạt động nhằm duy trì và cải thiện
vị trí của nền kinh tế quốc gia trên thị trường thế giới một cách lâu dài dể thu được
lợi ích ngày càng cao cho nền kinh tế quốc gia đó. Tuy nhiên chủ thể trực tiếp tham

gia cạnh tranh là các doanh nghiệp. Nên nếu quốc gia nào có nhiều doanh nghiệp có
năng lực cạnh tranh cao thì quốc gia đó cũng có năng lực cạnh tranh tốt hơn.
1.1.2. Vai trò của cạnh tranh
Từ thế kỷ 18, Adam Smith, nhà kinh tế học cổ điển vĩ đại của Anh đã chỉ ra
vai trò quan trọng của cạnh tranh tự do trong tác phẩm “Của cải của các dân tộc”
(1776). Ông cho rằng sức ép cạnh tranh buộc mỗi cá nhân phải cố gắng làm công
việc của mình một cách chính xác và do đó nó tạo ra sự cố gắng lớn nhất. Kết quả
của sự cố gắng đó là lòng hăng say lao động, sự phân phối các yếu tố sản xuất một
cách hợp lý và tăng của cải cho xã hội. Cho tới nay, cạnh tranh được coi là phương
thức hoạt động để tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp, không có cạnh tranh
thì không thể có sự tăng trưởng kinh tế.
Vai trò của cạnh tranh được thể hiện ở hai mặt tích cực và hạn chế sau đây:
*Mặt tích cực:
- Đối với nền kinh tế: Cạnh tranh làm sống động nền kinh tế, thúc đẩy quá
trình lưu thông các yếu tố sản xuất. Thông qua cạnh tranh, các nguồn tài nguyên
được phân phối hợp lý hơn dẫn đến sự điều chỉnh kết cấu ngành, cơ cấu lao động
được thực hiện mau chóng và tối ưu.
10
Cạnh tranh là đòn bẩy mạnh mẽ nhất đẩy nhanh quá trình luân chuyển vốn,
luân chuyển các yếu tố sản xuất, phân phối lại tài nguyên, tập trung sản xuất và tích
luỹ tư bản.
Đồng thời cạnh tranh còn là cơ chế điều tiết việc phân phối lợi nhuận giữa
các ngành và trong nền kinh tế do chịu ảnh hưởng của quy luật bình quân hoá lợi
nhuận.
- Đối với chủ thể kinh doanh: Do động lực tối đa hoá lợi nhuận và áp lực
phá sản nếu dừng lại, cạnh tranh buộc các chủ thể kinh tế phải không ngừng tăng
cường thực lực của mình bằng các biện pháp đầu tư mở rộng sản xuất, thường
xuyên sáng tạo cải tiến kỹ thuật, công nghệ, tăng năng suất lao động, tăng chất
lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất...Qua đó cạnh tranh nâng cao trình độ mọi
mặt của người lao động, nhất là đội ngũ quản trị kinh doanh, đồng thời sàng lọc và

đào thải những chủ thể kinh tế không thích nghi được với sự khắc nghiệt của thị
trường.
- Đối với người tiêu dùng: Cạnh tranh cho thấy những hàng hoá nào phù
hợp nhất với yêu cầu và khả năng thanh toán của người tiêu dùng bởi cạnh tranh
làm cho giá cả có xu hướng ngày càng giảm, lượng hàng hoá trên thị trường ngày
càng tăng, chất lượng tốt, hàng hoá đa dạng, phong phú. Như vậy cạnh tranh làm lợi
cho người tiêu dùng. Bên cạnh đó cạnh tranh còn đảm bảo rằng cả người sản xuất
và người tiêu dùng đều không thể dùng sức mạnh áp đặt ý muốn chủ quan cho
người khác. Nên nói cách khác, cạnh tranh còn có vai trò là một lực lượng điều tiết
thị trường.
Như vậy, cùng với tác động của các quy luật kinh tế khách quan khác, cạnh
tranh đã giúp các doanh nghiệp trả lời các câu hỏi: sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và
sản xuất như thế nào một cách thoả đáng nhất. Vận dụng quy luật cạnh tranh, Nhà
Nước và doanh nghiệp có điều kiện hoạch định các chiến lược phát triển một cách
khoa học mà vẫn đảm bảo tính thực tiễn, chủ động hơn trong đối phó với mọi biến
động của thị trường.
*Về hạn chế:
11
Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, cạnh tranh cũng có một số hạn chế. Do
chạy theo lợi nhuận nên cạnh tranh có tác dụng không hoàn hảo, vừa là động lực tăng
trưởng kinh tế vừa bao hàm sức mạnh tàn phá mù quáng. Sự đào thải không khoan
nhượng những doanh nghiệp kinh doanh không có hiệu quả của cạnh tranh mặc dù
phù hợp quy luật kinh tế khách quan nhưng lại gây ra những hậu quả kinh tế xã hội
như thất nghiệp gia tăng, mất ổn định xã hội.
Cạnh tranh là quá trình kinh tế mà các chủ thể sử dụng mọi biện pháp trong đó
có cả những thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh để giành chiến thắng trên thương
trường như gian lận, quảng cáo lừa gạt khách hàng, tình trạng cá lớn nuốt cá bé, lũng
đoạn thị trường. Cuối cùng cạnh tranh có xu hướng dẫn đến độc quyền làm cho nền
kinh tế phát triển theo chiều hướng không tốt.
Tuy nhiên do cạnh tranh đã, đang và sẽ luôn là phương thức hoạt động của

kinh tế thị trường nên chúng ta cần nhận thức được các vai trò tích cực và hạn chế
của cạnh tranh để vận dụng quy luật này sao cho hiệu quả nhất.
1.1.3. Các công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp
Trong hoạt động cạnh tranh trên thị trường doanh nghiệp có thể sử dụng các
công cụ cạnh tranh khác nhau để chiếm lĩnh thị trường, tăng tốc độ tiêu thụ sản
phẩm, tăng thị phần... Các công cụ thường được các doanh nghiệp sử dụng là chất
lượng sản phẩm, giá cả, hệ thống phân phối.
1.1.3.1. Chất lượng sản phẩm
Để có thể sử dụng công cụ chất lượng sản phẩm để cạnh tranh có hiệu quả cần
làm rõ thế nào là chất lượng sản phẩm. Cách hiểu về chất lượng sản phẩm ảnh hưởng
trực tiếp đến quản lý chất lượng sản phẩm. Bởi chất lượng sản phẩm là một phạm trù
khá rộng và phức tạp phản ánh tổng hợp các nội dung kinh tế, kỹ thuật và xã hội.
Về phía khách hàng hoặc người tiêu dùng chất lượng sản phẩm được định
nghĩa là sự phù hợp và thoả mãn nhu cầu hoặc mục đích sử dụng của họ.
Về phía doanh nghiệp hoặc nhà sản xuất thì chất lượng sản phẩm là sự hoàn
hảo và phù hợp của sản phẩm với một tập hợp các yêu cầu hoặc tiêu chuẩn quy cách
đã xác định trước.
12
Nếu chỉ xét từ mỗi loại sản phẩm thì chất lượng sản phẩm được phản ánh bởi
các thuộc tính đặc trưng của sản phẩm đó. Chất lượng sản phẩm phụ thuộc số lượng
và chất lượng các thuộc tính được thiết kế đưa vào sản phẩm. Những thuộc tính đó
phản ánh công dụng hoặc giá trị sử dụng của sản phẩm và biểu hiện ở những chỉ tiêu
chất lượng cụ thể.
Nếu xét trên góc độ giá trị, chất lượng sản phẩm được hiểu là đại lượng đo
bằng tỷ số giữa lợi ích thu được từ tiêu dùng sản phẩm với chi phí phải bỏ ra để có
được lợi ích đó.
Dựa trên nghiên cứu các định nghĩa trên, tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá
(ISO) đã đưa ra định nghĩa chất lượng sản phẩm trong bộ tiêu chuẩn ISO 9000 như
sau: “Chất lượng sản phẩm là một tập hợp các thuộc tính của sản phẩm, tạo cho sản
phẩm đó khả năng thoả mãn yêu cầu đã nêu ra hoặc tiềm ẩn ”. Định nghĩa trên cho

thấy sự thống nhất giữa các thuộc tính nội tại của sản phẩm, các nhu cầu của khách
hàng, giữa các yêu cầu của người sản xuất và người tiêu dùng, giữa nhu cầu hiện tại
và kỳ vọng trong tương lai của khách hàng về sản phẩm. Vì vậy định nghĩa này được
chấp nhận và sử dụng rộng rãi trong các hoạt động kinh tế hiện nay.
Chất lượng sản phẩm có vai trò quan trọng trong cạnh tranh của mỗi doanh
nghiệp. Một trong các căn cứ quan trọng khi người tiêu dùng quyết định lựa chọn sử
dụng sản phẩm của doanh nghiệp là chất lượng sản phẩm. Theo M.Porter thì năng lực
cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp được thể hiện thông qua hai chiến lược cơ bản là
phân biệt hoá sản phẩm (chất lượng) và chi phí thấp. Vì vậy chất lượng sản phẩm trở
thành một trong những công cụ quan trọng nhất làm tăng năng lực cạnh tranh cho
doanh nghiệp.
Chất lượng sản phẩm thể hiện khả năng thỏa mãn nhu cầu khách hàng của
doanh nghiệp. Sản lượng tiêu thụ sẽ tăng cùng với sự gia tăng mức độ thoả mãn của
khách hàng. Đặc biệt khi trình độ xã hội ngày càng cao, xã hội ngày càng văn minh,
thị hiếu của người tiêu dùng đòi hỏi những sản phẩm có chất lượng cao về mọi mặt
chứ không chỉ đơn giản là tốt - bền - đẹp như trước kia. Như vậy chất lượng và cạnh
tranh là hai phạm trù luôn đi cùng và gắn bó chặt chẽ với nhau, chất lượng làm tăng
13
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và ngược lại năng lực cạnh tranh cao lại tạo cơ
sở tài chính và vật chất cần thiết cho nâng cao chất lượng sản phẩm.
Mặt khác trong nền kinh tế mở hiện nay, khi tham gia các tổ chức thương mại
quốc tế (AFTA, WTO...) cùng với các cơ hội kinh doanh là việc mỗi nước phải dỡ bỏ
khá nhiều các hàng rào thuế quan để hàng ngoại tràn vào cạnh tranh tự do ngay trên
sân nhà. Tuy vậy, không một quốc gia nào lại không tìm cách bảo hộ nền sản xuất
trong nước và một hàng rào mới lại được dựng lên. Đó là những tiêu chuẩn khắt khe
về chất lượng sản phẩm như giấy chứng nhận về mức độ phóng xạ cho phép đối với
hàng thực phẩm, chất lượng đóng gói bao bì, nhãn mác, giấy chứng nhận xuất xứ
hàng hoá... Các doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm không chỉ để đảm bảo
cạnh tranh thắng lợi trên sân nhà mà còn nhằm hướng tới khả năng vươn ra thị trường
quốc tế.

Để sử dụng có hiệu quả công cụ chất lượng sản phẩm nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh, doanh nghiệp cần làm tốt công tác quản lý chất lượng sản phẩm. Quản lý
chất lượng là các hoạt động có phối hợp để định hướng và kiểm soát một tổ chức về
chất lượng. Nói cách khác quản lý chất lượng sản phẩm bao gồm toàn bộ các hoạt
động từ việc xây dựng các quy trình đảm bảo chất lượng, thiết lập các văn bản xác
định trình tự và tương tác các quy trình, đảm bảo nguồn lực và thông tin cần thiết,
theo dõi kiểm tra và phân tích các quá trình nhằm đảm bảo mục tiêu chất lượng đã đề
ra. Và hệ thống quản lý chất lượng là một hệ thống để định hướng và kiểm soát một
tổ chức về chất lượng [8]. Đây là một hoạt động không thể thiếu đối với mỗi doanh
nghiệp để phát huy được lợi ích cạnh tranh đích thực từ sản phẩm.
Trên cơ sở nhận thức đầy đủ hơn về vai trò của chất lượng sản phẩm và quản
lý chất lượng, các doanh nghiệp cần xây dựng và tổ chức triển khai các hoạt động
đẩy nhanh quá trình cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm, tận dụng tốt nhất công
cụ này cho nâng cao năng lực cạnh tranh.
1.1.3.2. Giá cả
Giá cả là một phạm trù kinh tế khách quan phát sinh, phát triển cùng với sự ra
đời và phát triển của sản xuất hàng hoá. Ngày nay, giá cả hiện diện trong tất cả các
14
khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, các ngành, các khu vực của nền kinh tế, các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Giá cả không chỉ là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị
hàng hoá, nó còn biểu hiện tổng hợp các quan hệ kinh tế như cung cầu hàng hoá, tích
luỹ, tiêu dùng ... Vì vậy giá cả hình thành thông qua quan hệ cung cầu hàng hoá,
thông qua sự thoả thuận giữa người mua và người bán, giá được chấp nhận là giá mà
cả hai bên đều có lợi.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì giá bán sản phẩm là một trong những
công cụ quan trọng thường được sử dụng. Bởi giá bán sản phẩm có ảnh hưởng trực
tiếp đến sự hấp dẫn của sản phẩm và sản lượng tiêu thụ. Hai hàng hoá có cùng công
dụng chất lượng như nhau, khách hàng sẽ mua hàng hóa nào có giá thấp hơn. Có
nhiều chính sách giá khác nhau được doanh nghiệp sử dụng phù hợp với sản phẩm,
mục tiêu, tình hình thị trường và khả năng thanh toán của khách hàng. Trong quá

trình hình thành và xác định giá bán, doanh nghiệp có thể tham khảo một số chính
sách định giá sau:
- Chính sách định giá thấp: Là chính sách doanh nghiệp đưa ra mức giá thấp
hơn giá thị trường. Có hai cách áp dụng chính sách này:
+ Thứ nhất: Định giá thấp hơn giá thị trường nhưng vẫn cao hơn giá
thành sản phẩm. Doanh nghiệp sử dụng chính sách này khi sản phảm mới thâm nhập
thị trường, doanh nghiệp cần thu hút sự chú ý của khách hàng. Trường hợp này doanh
nghiệp sẽ thu được lợi nhuận thấp.
+ Thứ hai: Chính sách định giá thấp hơn giá thị trường và thấp hơn giá
thành sản phẩm. Trường hợp này doanh nghiệp không có lợi nhuận nhưng sẽ đẩy
nhanh tốc độ tiêu thụ tăng nhanh vòng quay của vốn, làm cơ sở cho chính sách định
giá cao sau này.
- Chính sách định giá cao: Doanh nghiệp áp dụng mức giá cao hơn giá thị
trường và cao hơn giá thành sản phẩm trong trường hợp sản phẩm mới tung ra thị
trường, chưa có đối thủ cạnh tranh, người tiêu dùng chưa biết rõ về sản phẩm và chưa
có cơ hội so sánh về giá. Giai đoạn này doanh nghiệp sẽ tranh thủ chiếm lĩnh thị
trường sau đó sẽ hạ dần đến mức bằng hoặc thấp hơn giá thị trường nhưng vẫn đảm
bảo thu lợi nhuận.
15
- Chính sách ổn định giá: Theo chính sách này doanh nghiệp sẽ chọn một mức
giá vừa phải và áp dụng trong thời gian dài để tạo uy tín và củng cố niềm tin của
khách hàng về sự ổn định của sản phẩm. Nó giúp sản phẩm có những nét độc đáo
khác biệt với đối thủ cạnh tranh từ đó doanh nghiệp có điều kiện giữ vững và mở
rộng thị phần.
- Chính sách bán phá giá: Là chính sách doanh nghiệp bán hàng với mức giá
rất thấp, không có lợi nhuận, thậm chí không bù đắp được chi phí sản xuất làm cho
đối thủ không thể cạnh tranh được về giá và phải tự rút lui khỏi thị trường. Khi đó
doanh nghiệp độc chiếm thị trường và lại chủ động nâng giá lên. Chính sách này rất
nguy hiểm, ít được sử dụng vì nó là con dao hai lưỡi. Hiện nay bán phá giá được coi
là phương thức cạnh tranh không lành mạnh và bị cấm sử dụng.

- Chính sách phân biệt giá: Là chính sách đưa ra những mức giá khác nhau đối
với cùng một loại sản phẩm khi bán cho những đối tượng khác nhau, cho những khu
vực thị trường khác nhau, hoặc khách hàng mua với số lượng khác nhau hoặc trong
những thời điểm khác nhau. Chính sách này giúp doanh nghiệp thoả mãn được nhiều
đối tượng khách hàng có nhu cầu và khả năng thanh toán khác nhau, tạo nên sự linh
hoạt về giá để hấp dẫn khách hàng đồng thời vẫn đảm bảo bù đắp được những chi phí
phát sinh do sản xuất những sản phẩm có chất lượng cao hơn hoặc do vận chuyển sản
phẩm đến những địa điểm khác nhau.
Như vậy việc nghiên cứu và vận dụng chính sách định giá là một vấn đề khá
phức tạp đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải luôn linh hoạt và sáng tạo bởi giá cả không
chỉ được quyết định bởi giá trị hàng hoá mà còn phụ thuộc khả năng thanh toán của
khách hàng. Để có thể vận dụng thắng lợi chiến lược giá cả trong cạnh tranh cần chú
ý một số vấn đề sau:
- Việc định giá chỉ là một yếu tố trong chiến lược tổng hợp nhằm đem lại doanh
thu và đảm bảo sức cạnh tranh cho doanh nghiệp nên không nhất thiết phải giảm giá
hoặc tăng giá trong mọi trường hợp có biến động.
- Việc định giá phải gắn liền với chính sách chiếm giữ thị phần. Doanh nghiệp
phải coi chiếm giữ thị phần là mục tiêu chiến lược và việc định giá phải góp phần
thực hiện mục tiêu này.
16
- Chiến lược định giá phải gắn liền với chiến lược cắt giảm chi phí. Dù việc
định giá phải dựa trên nhiều căn cứ khác nhau song chi phí vẫn là một yếu tố quan
trọng để định giá.
- Chiến lược giá cả phải dựa trên cơ sở cạnh tranh vì vậy doanh nghiệp cần
quan tâm thích đáng đến sự thay đổi giá và chính sách giá của đối thủ cạnh tranh.
- Chiến lược giá cả phải gắn với chiến lược phân khúc thị trường để có thể áp
dụng những chính sách giá khác nhau cho phù hợp.
- Một số nhóm khách hàng sẵn sàng chấp nhận giá cao để được sử dụng
những sản phẩm có chất lượng cao và nhãn hiệu nổi tiếng vì vậy doanh nghiệp nên
thực hiện chính sách đặt giá cao đối với những sản phẩm này để củng cố uy tín cho

sản phẩm, không bỏ lỡ cơ hội tăng lợi nhuận nhưng cần đảm bảo cung cấp cho người
tiêu dùng đủ những gì đã hứa hẹn trong sản phẩm.
-Cần xây dựng hệ thống đo lường để đánh giá kết quả công tác định giá. Đây
là hoạt động không thể thiếu để đánh giá hiệu quả công tác định giá, qua đó
đưa ra những điều chỉnh kịp thời, đáp ứng mọi biến động của thị trường.
Tóm lại, chiến lược giá cả là một công cụ cạnh tranh sắc bén của doanh
nghiệp, ảnh hưởng không nhỏ đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vì vậy
mỗi doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ các chiến lược giá và hoạch định chiến lược giá
cả sao cho phù hợp với biến động của thị trường và mục tiêu phát triển của doanh
nghiệp.
1.1.3.3. Hệ thống phân phối.
Có thể hiểu kênh phân phối là một tập hợp các cá nhân và tổ chức tham gia vào
quá trình làm cho sản phẩm tới được với khách hàng. Nếu doanh nghiệp lựa chọn
kênh phân phối không hợp lý có thể sẽ làm giảm sản lượng tiêu thụ rất nhiều và gặp
thất bại trong cạnh tranh. Nhất là trong giai đoạn hiện nay kênh phân phối càng thể
hiện vai trò quan trọng của nó vì :
- Chi phí vận chuyển thường tăng lên sau mỗi lần biến động giá nhiên liệu. Điều
đó thúc đẩy mỗi doanh nghiệp tìm ra phương thức vận chuyển hợp lý nhất, tiết kiệm
nhất.
17
- Mặc dù khoa học kỹ thuật đang phát triển với tốc độ chóng mặt nhưng lợi thế
cạnh tranh dựa vào công nghệ dễ bị đối thủ bắt chước. Hơn nữa hiệu quả sản xuất
không thể tăng vô hạn, nó gần như đã đạt điểm tối đa nên các doanh nghiệp khó hy
vọng vượt trội ở mặt này do đó phải đặt hy vọng vào kênh phân phối.
- Các sản phẩm ngày càng đa dạng và phong phú về mẫu mã, chất lượng, kích
thước, vì vậy các công ty dễ gặp khó khăn khi muốn giao hàng cho khách đúng sản
phẩm vào đúng thời điểm mà họ cần. Nhiệm vụ này lại đặt lên vai của bộ phận phân
phối.
- Đã có nhiều thay đổi lớn trong phương pháp quản lý tồn kho. Hiện nay thay vì
để hàng hoá tồn kho với số lượng lớn dẫn tới tăng chi phí bảo quản và lưu kho, các

doanh nghiệp có xu hướng giảm tồn kho xuống mức cần thiết tối thiểu để giảm chi
phí. Điển hình nhất là phương pháp quản lý “vừa kịp lúc” của Nhật Bản đã giúp các
doanh nghiệp Nhật Bản có lợi thế cạnh tranh rất lớn và thắng được các doanh nghiệp
của Mỹ. Để thực hiện hiệu quả phương pháp quản lý này không gì hơn là phải lựa
chọn được kênh phân phối hợp lý nhất và tốt nhất.
- Để xây dựng hoặc thay đổi được một kênh phân phối cần rất nhiều công sức
và thời gian vì nó còn phụ thuộc nhiều nhân tố khách quan khác chứ không chỉ phụ
thuộc mong muốn chủ quan của doanh nghiệp. Trên thực tế để lựa chọn và tiến hành
xây dựng một kênh phân phối vận hành trơn tru có khi phải mất nhiều năm. Vì vậy
chọn kênh phân phối hợp lý sẽ đảm bảo khả năng tiêu thụ và duy trì sức cạnh tranh
trong doanh nghiệp.
Tuy có rất nhiều hình thức tiêu thụ nhưng đa số các sản phẩm là những máy
móc thiết bị, nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng trong quá trình tiêu thụ nói chung đều
thông qua một số kênh chủ yếu như bán trực tiếp, bán thông qua các công ty bán
buôn của mình và các hãng bán buôn độc lập, sử dụng mạng lưới bán lẻ của hãng,
bán qua các cửa hàng, các hãng bán lẻ độc lập hoặc bán hàng qua điện thoại, qua
mạng. Việc lựa chọn và xây dựng kênh phân phối phải dựa trên các kết quả nghiên
cứu các đặc điểm thị trường bao gồm đặc điểm của nhóm khách hàng (cá nhân, tổ
chức, khách hàng mục tiêu, khách hàng tiềm năng,...), đặc tính sản phẩm (tính dễ hư
18
hỏng, tính thời vụ, đặc điểm kỹ thuật của sản phẩm,...), đặc điểm môi trường (điều
kiện kinh tế, khả năng quản lý, các ràng buộc pháp lý, điều kiện địa lý,...).
Trong những năm gần đây có nhiều thay đổi trong lựa chọn kênh phân phối,
các doanh nghiệp có xu hướng chọn kênh phân phối trực tiếp. Hình thức này cho
phép phát triển các quan hệ hợp đồng và hệ thống các đơn hàng cá biệt. Việc thực
hiện lịch giao hàng theo quy định sẽ tạo điều kiện cho khách hàng giảm được lượng
dự trữ tồn kho. Điều đó cũng là tiền đề để phát triển sản xuất kinh doanh có tính đến
yêu cầu cụ thể của khách hàng.
1.1.4. Khái niệm và sự cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp.

1.1.4.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Ở phần trên ta đã nghiên cứu các định nghĩa về cạnh tranh, để có thể cạnh
tranh thắng lợi mỗi doanh nghiệp phải có năng lực cạnh tranh nhất định. Vậy thế nào
là năng lực cạnh tranh? Các học giả và giới chuyên môn vẫn chưa có một sự nhất trí
cao về định nghĩa này.
Khi các chủ thể cạnh tranh với nhau để giành lợi thế về phía mình, các chủ thể
phải áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp nhằm duy trì và phát triển vị thế của mình
trên thị trường. Các biện pháp này thể hiện một sức mạnh nào đó, một khả năng nào
đó hoặc một năng lực nào đó của chủ thể được gọi là năng lực cạnh tranh của chủ thể
đó. Khi muốn chỉ một sức mạnh, một khả năng duy trì được vị trí của một hàng hoá
nào đó trên thị trường người ta cũng dùng thuật ngữ năng lực cạnh tranh của hàng
hoá, đó cũng là chỉ mức độ hấp dẫn của hàng hoá đó đối với khách hàng. Có tác giả
sau khi phân tích bản chất năng lực cạnh tranh đã đi đến kết luận “năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp thể hiện thực lực và lợi thế so sánh của nó so với đối thủ khác
trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ích ngày càng cao
cho doanh nghiệp của mình.”
Có quan điểm đã cho rằng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng
giành được và duy trì thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất định.
19
Các quan niệm xuất phát từ nhiều góc độ khác nhau nhưng đều liên quan đến
hai khía cạnh là chiếm lĩnh thị trường và lợi nhuận. Như vậy năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp có thể được hiểu là “khả năng tồn tại, duy trì hoặc gia tăng lợi nhuận,
thị phần trên thị trường của các sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp”.
Ở đây chúng ta cần phân biệt năng lực cạnh tranh của hàng hoá, năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của quốc gia.
Năng lực cạnh tranh của hàng hoá có thể hiểu khái quát là tổng thể các yếu tố
gắn trực tiếp với hàng hoá cùng với các điều kiện, công cụ và biện pháp cấu thành
khả năng cạnh tranh được chủ thể dùng trong ganh đua với nhau nhằm chiếm lĩnh thị
trường, giành khách hàng và đem lại nhiều lợi ích cho chủ thể tham gia cạnh tranh.
Còn năng lực cạnh tranh quốc gia, theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) cho

rằng “khả năng cạnh tranh của một quốc gia là khả năng đạt và duy trì được mức
tăng trưởng trên cơ sở các chính sách thể chế vững bền tương đối và các đặc trưng
kinh tế khác”.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của sản phẩm
khác nhau ở chỗ doanh nghiệp là một tổ chức chặt chẽ, có thể đồng thời sản xuất
nhiều mặt hàng với năng lực cạnh tranh khác nhau. Năng lực cạnh tranh của sản
phẩm thể hiện năng lực của sản phẩm đó thay thế một sản phẩm khác đồng nhất hoặc
khác biệt, có thể do đặc tính chất lượng sản phẩm hoặc giá cả sản phẩm. Năng lực
cạnh tranh của sản phẩm là một trong những yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp.
Trong khi đó cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có thể diễn ra khi họ cung ứng
những sản phẩm hoàn toàn giống nhau hoặc khác nhau và có thể thay thế cho nhau.
Nếu doanh nghiệp nào bán được nhiều sản phẩm hơn và ngày càng chiếm nhiều thị
phần hơn so với đối thủ thì doanh nghiệp đó có năng lực cạnh tranh cao hơn.
Năng lực cạnh tranh quốc gia là tổng hợp năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp trong quốc gia đó. Vì vậy hai vấn đề này luôn có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Và nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp là một trong những vấn đề then
chốt mà mỗi doanh nghiệp nói riêng và mỗi quốc gia nói chung luôn quan tâm trong
giai đoạn hiện nay.
20
1.1.4.2. Sự cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang thúc đẩy mạnh mẽ, sâu sắc quá trình
chuyên môn hoá và hợp tác quốc tế, lực lượng sản xuất lớn mạnh đang được quốc tế
hoá. Công nghệ thông tin làm cho nền kinh tế thế giới gắn bó, ràng buộc lẫn nhau dẫn
tới không một quốc gia nào, một nền kinh tế dân tộc nào muốn phát triển mà có thể
tách rời khỏi hệ thống kinh tế thế giới, không hoà nhập vào sự vận động chung của
nền kinh tế thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của nước
mình với kinh tế khu vực và thế giới, tham gia vào phân công lao động quốc tế, gia
nhập các tổ chức kinh tế song phương và đa phương, chấp nhận tuân thủ những quy
định chung được hình thành trong quá trình hợp tác và đấu tranh giữa các thành viên

của tổ chức. Trong quá trình hội nhập, các nước tham gia đều phải tuân theo những
luật chơi chung khá phức tạp được thể hiện trong nhiều điều ước quốc tế:
Một là: Khái niệm thương mại đã được mở rộng, không chỉ gồm thương mại
các hàng hoá và dịch vụ thông thường mà còn bao gồm cả các lĩnh vực đầu tư bản
quyền, tư vấn, sở hữu trí tuệ...Nói cách khác các hàng hoá được buôn bán hiện nay
không chỉ bao gồm phần cứng mà còn cả phần mềm, trong đó phần mềm ngày càng
quan trọng hơn.
Hai là: Khi gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế, các quốc gia đều phải giảm
thiểu, thậm chí xoá bỏ hàng rào thuế quan. Ví dụ trong khuôn khổ AFTA, các nước
thành viên cam kết cắt giảm thuế quan xuống mức từ 0 đến 5% theo một lộ trình nhất
định [18]. Trong khuôn khổ WTO các nước công nghiệp phát triển phải giảm thuế
xuất nhập khẩu hàng công nghiệp xuống 3 đến 4%, hàng nông sản chỉ còn 6%. Các
nước đang phát triển được duy trì mức thuế suất cao hơn, khoảng 10 đến 12%.
Ba là: Giảm dần tiến tới xoá bỏ hàng rào phi thuế quan. Chỉ được áp dụng
một số biện pháp hạn chế để bảo vệ môi trường, vệ sinh, bản sắc văn hoá, an ninh.
Ngày nay, khi chất xám chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong sản phẩm, việc bảo hộ
bản quyền sở hữu trí tuệ, nhãn mác sản phẩm được quy định rất chặt chẽ.
Bốn là: Nhà Nước không được bao cấp cho doanh nghiệp, chỉ đối với nông
sản thì được phép bao cấp ở một số khâu hỗ trợ sản xuất.
21
Năm là: Mở cửa thị trường cho các doanh nghiệp nước ngoài vào kinh doanh,
tạo sân chơi bình đẳng cho doanh nghiệp trong và ngoài nước. Hệ thống luật pháp về
kinh tế - thương mại phải rõ ràng công khai.
Sáu là: Các nước đang phát triển, các nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kế
hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường được hưởng một số ưu đãi về cam kết và
thời gian thực hiện.
Nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp và sự phát triển của doanh
nghiệp có sự tác động qua lại hỗ trợ lẫn nhau:
- Nâng cao năng lực cạnh tranh giúp doanh nghiệp phát triển và hội nhập. Nó
sẽ thúc đẩy tiến trình phát triển của doanh nghiệp bởi năng lực cạnh tranh của doanh

nghiệp tỷ lệ thuận với tốc độ phát triển của doanh nghiệp. Nó còn giúp doanh nghiệp
hội nhập kinh tế thuận lợi cả về chiều rộng và chiều sâu một cách chủ động.
- Khi doanh nghiệp đứng vững và phát triển sẽ tạo điều kiện ngược lại để
doanh nghiệp nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh của mình. Bởi những thành tựu
của sự phát triển sẽ giúp doanh nghiệp có thêm nhiều cơ hội kinh doanh, có đủ khả
năng về nguồn lực để tiếp cận những tiến bộ về kỹ thuật, công nghệ mới, về tổ chức
quản lý sản xuất kinh doanh.
Trong giai đoạn hiện nay vấn đề có tính chất quyết định là mỗi doanh nghiệp
phải luôn phấn đấu nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để sẵn sàng nắm lấy cơ
hội và đủ khả năng đối mặt với các thách thức trong quá trình hội nhập để tồn tại và
phát triển bền vững.
1.2. PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH
NGHIỆP
Để lựa chọn các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp cần có các tiêu chí định lượng và định tính để đo lường và đánh giá
năng lực cạnh tranh. Có nhiều tiêu chí có thể sử dụng, trong đó tiêu chí được sử dụng
phổ biến nhất và có thể phản ánh tương đối đầy đủ và sát thực về năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp là thương hiệu và thị phần, chi phí sản xuất, tỷ suất lợi nhuận.
22
1.2.1. Thương hiệu và thị phần của doanh nghiệp
Trong quá trình phát triển sản xuất và lưu thông, các nhà sản xuất hoặc cung
ứng dịch vụ đã đặc định hàng hóa của mình bằng cách sử dụng những dấu hiệu dưới
hình thức nào đó để thể hiện. Những dấu hiệu đó được gọi là thương hiệu, được nhà
sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ sử dụng trong thương mại nhằm ám chỉ sự liên quan
giữa hàng hóa và dịch vụ với người có quyền sử dụng dấu hiệu đó với tư cách là
người chủ sở hữu hoặc đăng ký thương hiệu.
Theo định nghĩa của Hiệp hội Marketting Hoa Kỳ “thương hiệu là một cái tên,
một từ ngữ, một dấu hiệu, một biểu tượng, một hình vẽ hoặc tổng hợp tất cả các yếu
tố trên nhằm xác định một sản phẩm hoặc dịch vụ của một (hoặc một nhóm người) và
phân biệt sản phẩm dịch vụ đó với các đối thủ cạnh tranh” [2]. Có thể nói thương

hiệu là hình thức thể hiện bên ngoài tạo ra ấn tượng, thể hiện cái bên trong cho sản
phẩm hoặc doanh nghiệp. Thương hiệu tạo ra nhận thức và niềm tin của người tiêu
dùng đối với sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp cung ứng. Giá trị của một thương
hiệu là triển vọng lợi nhuận mà thương hiệu đó có thể đem lại cho nhà sản xuất trong
tương lai. Nói cách khác thương hiệu là tài sản vô hình của doanh nghiệp. Ví dụ, khi
nói đến cà phê người ta nghĩ ngay đến Trung Nguyên, khi nói đến xe máy người ta
nghĩ ngay đến Honda, khi nói đến máy vi tính người ta nghĩ ngay đến Microsoft, đó
chính là thương hiệu. Tên hàng hóa gắn với thương hiệu trở thành một cụm từ dễ nhớ
và làm cho khách hàng nhớ đến doanh nghiệp.
Xây dựng thương hiệu là vấn đề đòi hỏi thời gian, khả năng tài chính và ý chí
không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Một doanh nghiệp có năng
lực cạnh tranh cao cũng có nghĩa là họ đã xây dựng được thương hiệu mạnh, thương
hiệu đó luôn được khách hàng nhớ và nhận biết rõ ràng. Một thương hiệu mạnh là
một thương hiệu có thể tạo được sự thích thú cho khách hàng mục tiêu, làm cho họ
tiêu dùng và tiếp tục tiêu dùng nó. Nếu khách hàng đã đam mê thích thú một thương
hiệu, họ sẽ trung thành với thương hiệu đó và như vậy doanh nghiệp đã đạt được mục
tiêu cạnh tranh của mình.
Qua việc xây dựng thành công một thương hiệu người ta có thể đánh giá về
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đó vì:
23
- Thương hiệu làm cho khách hàng tin tưởng vào chất lượng, yên tâm và tự
hào khi sử dụng thương hiệu.
- Thương hiệu tốt giúp tạo dựng hình ảnh công ty, thu hút khách hàng mới,
vốn đầu tư, thu hút nhân tài.
- Thương hiệu tốt giúp phân phối sản phẩm dễ dàng hơn, tạo thuận lợi khi tìm
thị trường mới.
- Uy tín cao của thương hiệu tạo lòng trung thành của khách hàng đối với sản
phẩm, đem lại lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp, giúp cho việc triển khai khuếch
trương sản phẩm dễ dàng hơn, đòng thời giảm chi phí tiếp thị, giúp doanh nghiệp có
điều kiện phòng thủ, chống lại sự cạnh tranh quyết liệt về giá.

- Thương hiệu của người bán khi đã đăng ký bao hàm sự bảo hộ của pháp luật
đối với những tính chất độc đáo của sản phẩm trước những sản phẩm bị đối thủ cạnh
tranh bắt chước.
Để có một thương hiệu mạnh doanh nghiệp phải xây dựng một chiến lược về
thương hiệu nằm trong chiến lược marketting tổng thể căn cứ các kết quả về nghiên
cứu thị trường, đồng thời phải đăng ký thương hiệu trong và ngoài nước. Như vậy
thương hiệu mới trở thành một tài sản thực sự có giá trị đối với doanh nghiệp.
Cùng với thương hiệu, thị phần cũng là một chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp. Thị phần của doanh nghiệp là tỷ trọng giữa số hàng hóa của
doanh nghiệp so với tổng số hàng hóa được bán trên thị trường. Hoặc là tỷ trọng
giữa doanh thu của doanh nghiệp về một loại sản phẩm nào đó so với tổng doanh thu
sản phẩm đó trên thị trường. Thị phần tương đối là tỷ lệ so sánh giữa doanh thu của
doanh nghiệp với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất. Nó cho biết vị thế của doanh nghiệp
trên thị trường. Doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao sẽ chiếm được thị phần
tương ứng với năng lực cạnh tranh đó và có nhiều khả năng tăng thị phần. Thị phần
là một loại tài sản vô hình của doanh nghiệp, để giành và giữ vững được thị phần đòi
hỏi doanh nghiệp phải có sự nỗ lực không ngừng trong việc sản xuất các sản phẩm
đáp ứng yêu cầu của thị trường, làn tốt công tác marketting và đảm bảo chất lượng
sản phẩm như đã hứa. Năm 1997, kem đánh răng P/S có thị phần khoảng 80 đến 90%
thị trường kem đánh răng Việt Nam, khi tham gia liên doanh góp 8 triệu đô la trong
24
đó tài sản cố định hữu hình là đất được đánh giá 3,5 triệu đô la, còn tài sản cố định vô
hình là thị phần trên thị trường Việt Nam được đánh giá 4,5 triệu đô la. Điều đó cho
thấy, P/S có năng lực cạnh tranh cao và năng lực cạnh tranh đó giúp P/S chiếm được
một thị phần đáng kể, nó thực sự trở thành tài sản và là thế mạnh của P/S.
1.2.2. Chi phí sản xuất.
Cạnh tranh thắng lợi trên thị trường, nói cách khác là có năng lực cạnh tranh
cao được thể hiện ở kết quả tuyệt đối là tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Trong điều
kiện hiện nay, khi giá cả hàng hóa có xu hướng giảm xuống, để tăng lợi nhuận doanh
nghiệp phải tìm mọi cách giảm chi phí sản xuất. Chi phí sản xuất cho đơn vị sản

phẩm là toàn bộ các chi phí về nguyên vật liệu, lao động, máy móc thiết bị và các chi
phí khác doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Một loại sản
phẩm có chất lượng tương đương, doanh nghiệp nào sản xuất với chi phí thấp hơn có
thể bán với giá thấp mà vẫn đảm bảo mục tiêu lợi nhuận. Trong trường hợp phải cạnh
tranh gay gắt về giá thì doanh nghiệp nào có chi phí thấp sẽ có lợi thế, nhất là đối với
những sản phẩm nhạy cảm về giá.
Giảm chi phí sản xuất là quá trình doanh nghiệp tìm mọi biện pháp về kỹ
thuật, công nghệ, quản lý, tổ chức để làm cho hao phí cá biệt của doanh nghiệp nhỏ
hơn hao phí xã hội. Nhất là hoạt động đầu tư cho máy móc thiết bị và công nghệ, nếu
lựa chọn và thực hiện tốt một dự án sẽ có tác dụng giảm chi phí một cách hiệu quả và
lâu dài, ngược lại, hoạt động đầu tư thiếu tính toán sẽ tăng thêm gánh nặng chi phí
cho doanh nghiệp và sẽ rất khó khắc phục. Quá trình này đòi hỏi phải có những nỗ
lực thực sự bởi để thực hiện giảm chi phí cho mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh,
doanh nghiệp phải xem xét nghiên cứu kỹ và giảm chi phí đúng lúc, đúng chỗ.
Những chi phí nào là chi phí tạo ra giá trị gia tăng cho doanh nghiệp thì không thể cắt
giảm, những chi phí nào bất hợp lý không tạo ra giá trị gia tăng cho doanh nghiệp thì
phải giảm triệt để. Điều này đòi hỏi phải quản lý rất tốt tổng chi phí và kết cấu chi
phí của doanh nghiệp.
25

×