Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

LUẬN VĂN: Vai trò chủ đạo của Kinh tế Nhà nước ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (583.66 KB, 11 trang )








LUẬN VĂN:

Vai trò chủ đạo của Kinh
tế Nhà nước









Mở đầu
Thế kỷ 21 đang diễn ra trước mắt chúng ta với nhiều thách thức và cơ hội, đối
với nền kinh tế Việt Nam nói chung và với kinh tế nhà nước ta - một thành phần kinh
tế chủ đạo nói riêng.
Từ năm 1986 đến nay, Đại hội lần thứ VI và Đại hội lần thứ VII của Đảng đều
xác định kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, tuy nhiên quan điểm đó được xác định
theo tư duy mới. Đặc biệt trong thời kì đổi mới ngày nay, đứng trước cơn gió hội nhập
của khu vực và thế giới thì việc xác định chỗ đứng của TPKT này đang trở thành vấn
đề có ý nghĩa thực tiễn quan trọng và cấp bách.
Để tìm hiểu những thành tựu to lớn mà TPKT này đã đạt được, cũng như những
hạn chế còn thiếu sót, những kinh nghiệm quý báu trong việc sắp xếp lại thành phần -


cơ cấu, sự thay đổi phương thức sản xuất - quản lý, phương châm chỉ đạo trong các
ngành, các lĩnh vực của kinh tế Nhà nước, tôi quyết định chọn đề tài này để nghiên
cứu dưới góc độ một bài tập lớn.
Nội dung bài viết gồm 2 phần:
Phần I: Quan niệm về Kinh tế Nhà nước
Phần II: Vai trò chủ đạo của Kinh tế Nhà nước.














Nội dung
I-Quan niệm về kinh tế nhà nước
Đại hội lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt nam xác định nước ta hiện nay dựa
trên 3 hình thức sở hữu cơ bản là: Sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân
hình thành nên 6 thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng,
đan xen hỗn hợp, đó là: Kinh tế Nhà nước, Kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ,
kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Thành phần kinh tế Nhà nước là thành phần kinh tế mà vốn và TLSX thuộc sở
hữu nhà nước; Bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước và các tài sản thuộc sở hữu nhà
nước như; đất đai, hầm mỏ, rừng biển, ngân sách, các quỹ dự trữ, ngân hàng nhà nước,

hệ thống bảo hiểm, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội.
Các doanh nghiệp Nhà nước là bộ phận quan trọng nhất của kinh tế Nhà nước,
giữ những vị trí then chốt, đi đầu trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công
nghệ, nêu cao gương về năng suất, chất lượng hiệu quả kinh tế- xã hội và chấp hành
pháp luật.
Phân loại doanh nghiệp Nhà nước
+Các doanh nghiệp hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, nhằm đảm bảo
phúc lợi xã hội như các linh vực sản xuất phục vụ cho quốc phòng, an ninh, y tế, giáo
dục.
+Các doanh nghiệp kinh doanh nhằm mục tiêu lợi nhuận. đóng vai trò quan
trọng trọng góp phần làm tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Chú ý phân biệt kinh tế Nhà nước với doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp
nhà nước chỉ là một bộ phận quan trọng của kinh tế nhà nước. Còn kinh tế nhà nước là
đặc trưng của một loại hình sở hữu.
Con đường hình thành kinh tế Nhà nước:
Nhà nước đầu tư xây dựng mới các doanh nghiệp nhà nước. Quốc hữu hoá các
doanh nghiệp tư bản tư nhân hoặc góp vốn cổ phần khống chế với các doanh nghiệp
tư nhân.
*Phân biệt kinh tế Nhà nước ở Việt nam với kinh tế Nhà nước của CNTB độc
quyền.



Việt nam đang quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển của CNTB, nên tất
yếu tồn tại nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giẽ vai trò chủ đạo, là
thành phần kinh tế dựa trên sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất. Nhà nước chuyên
chính vô sản đại diện cho nhân dân quản lý nó. Nhà nước ta là nhà nước của dân, vì
dân và do dân.
Còn dưới CNTB độc quyền, nền kinh tế chịu sự thống trị của các tổ chức độc
quyền, phương thức sản xuất TBCN dựa trên cơ sở của chế độ tư hữu tư nhân TBCN

về tư liệu sản xuất. Nhà nước là nhà nước tư sản, phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư
sản, bản chất của nhà nước tư sản vẫn là bọc lột lao động làm thuê
II-Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
Thành phần kinh tế nhà nước giữa vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều
thành phần ở Việt nam, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước
định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Trong thành phần kinh tế nhà nước, các doanh nghiệp của nhà nước giữ những
vị trí then chốt, đi đầu trong việc ứng dụng những tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu
gương về năng suất chất lượng sản phẩm, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành luật
pháp.
Biểu hiện vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
KTNN giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân thể hiện chủ yếu trên các
mặt:
- Là đòn bày kinh tế quan trọng thúc đẩy tăng trưởng quan trọng và giải quyết
những vấn đề xã hội. Nó chiếm giữ các ngành nghề mũi nhọn, then chốt của nền kinh
tế, có khả năng chi phối môi trường xã hội và đảm bảo tính ổn định của nền kinh tế.
- KTNN góp phần hết sức quan trọng vào việctạo ra sản phẩm cho xã hội và
nguồn thu ngân sách, tạo ra nguồn lực đáng kể trong tay nhà nước để điều tiết quá
trình phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, KTNN còn đảm bảo
sức sản xuất và hoạt động của nền kinh tế, thực hiện các nhiệm vụ xuất, nhập khẩu đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội như việc làm, các công
trình phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường, giảm thiểu những tiêu cực trong đời sống.



Bằng nhiều hình thức hỗ trợ, giúp đỡ các TPKT khác cùng phát triển theo định
hướng XHCN, tính chất này của KTNN xuất phát từ vị trí chiến lược và khả năng chi
phối đến môi trường kinh tế - xã hội. Có những ngành có vai trò quan trọng như là
những yếu tố đảm bảo, tác nhân kích thích cho sự phát triển các ngành khác như giao
thông vận tải, thông tin liên lạc… song do tính chất của những ngành này mà các

thành phần kinh tế khác hoặc là không đủ vốn, hoặc là gặp khó khăn về quản lý trong
thu hồi vốn, thu lợi nhuận nên không đầu tư. Để khuyến khích mọi TPKT đầu tư sản
xuất khu vực KTNN đứng ra tổ chức xây dựng những cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng, tạo môi trường hoạt động kinh doanh có hiệu quả. ở đây vai trò chủ đạo
của KTNN được thể hiện như là yếu tố mở đường, kích thích sự phát triển toàn bộ theo
định hướng nhất định.
Tăng cường sức mạnh vật chất làm chỗ dựa để nhà nước thực hiện có hiệu lực
chức năng điều tiết cơ chế thị trường. KTNN không những định hướng sản xuất, mà
còn chi phối các chính sách xã hội kiềm chế được khuynh hướng độc quyền và tự phát
của kinh tế thị trường, bởi lẽ trong kinh tế thị trường tồn tại nhiều thành phần kinh tế
khác nhau vừa có những tích cực đồng thời có cả những hạn chế tiêu cực, do đó cần
phải có một "bàn tay" can thiệp chỉ đạo và hạn chế khắc phục những tiêu cực đó. ở đây
chúng ta nói đến TPKT chủ đạo đảm nhận vai trò này - nó phải có một sức mạnh vật
chất đủ lớn mới có thể thực hiện tốt nhất. Với những đặc điểm như đã nói trên đây,
chúng ta nhận thấy rằng KTNN có đủ khả năng để hoàn thành nhiệm vụ đó, với sản
lượng giá trị hàng hoá và dịch vụ công cộng tương đối lớn tạo ra đem lại khả năng chi
phối được giá cả thị trường, dẫn dắt và định hướng thị trường bằng chính chất lượng
và giá cả của sản phẩm và dịch vụ do mình cung cấp.
KTNN tạo dần nền tảng kinh tế - xã hội cho đời sống. Trong điều kiện nền kinh
tế nước ta, thu nhập của dân cư thấp kém, tích luỹ nhỏ nên việc đầu tư lớn chỉ có thể
thực hiện được bằng vốn NN. Mặt khác, KTNN thông qua việc cung cấp hàng hoá tạo
ra các sản phẩm và dịch vụ có tác dụng thúc đẩy lưu thông phân phối giữa các ngành
và các khu vực, góp phần đảm bảo việc xoá đói giảm nghèo, tiến hành các biện pháp
trợ cấp thường xuyên, đột xuất, cho vay vốn để phát triển sản xuất, góp phần khắc
phục sự khác biệt giữa các vùng và qua đó làm tăng tinh thần hoà hợp cộng đồng và ý
thức đoàn kết dân tộc.
III-Những giải pháp cơ bản phát huy vai trò chủ đạo của Kinh tế Nhà nước




1. Những thành tựu mà KTNN đã đạt được trong những năm qua
Thực tiễn cho thấy đến nay KTNN vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế
quốc dân ở nước ta, nhất là các ngành công nghiệp, xây dựng, vận tải, bưu chính viễn
thông, đường sắt, hàng không…KTNN cũng đóng góp một phần đáng kể vào tỉ trọng
GDP trên 40% hàng năm và là lực lượng chủ yếu cung cấp tài chính cho ngân sách nhà
nước 60%.
Trong công cuộc đổi mới kinh tế, KTNN đang từng bước đổi mới. Về cơ cấu
kinh tế đã có thay đổi lớn, tổng sản phẩm xã hội của KTNN giảm từ 37% năm 1998
xuống 34,5% năm 1990; thu nhập quốc dân giảm từ 28% xuống 27%; tổng sản phẩm
công nghiệp lại tăng từ 56,6% lên 57%; khối lượng vận chuyển hàng hoá tăng từ 68%
lên 72%. Trong việc thực hiện cơ chế mới, một số cơ sở KTNN đã chủ động xác định
và thay đổi phương thức kinh doanh, tìm thị trường đầu ra, tạo thêm nguồn vốn đi vay,
trình độ kỹ thuật công nghệ đã được đổi mới… Nhờ đó, các cơ sở KTNN vẫn phát
triển và kinh doanh có lãi.
Do yêu cầu của thời kỳ đổi mới, từ năm 1989 thực hiện chủ trương sắp xếp lại
doanh nghiệp Nhà nước chúng ta đã mạnh dạn cắt giảm một lượng đáng kể doanh
nghiệp hoạt động trong KTNN nhưng không đem lại hiệu quả kinh tế từ khoảng
12.000 năm 1990 xuống còn 5340 vào tháng 8 năm 2000. Nhờ đó, quy mô vốn tự có
và vốn ngân sách cấp cho các cơ sở doanh nghiệp tăng lên; các doanh nghiệp có thêm
vốn đầu tư, hiện đại hoá máy móc thiết bị, giúp cho năng suất lao động nâng cao đem
lại hiệu quả kinh tế. Đồng thời, sau khi sắp xếp lại tổ chức sản xuất, đổi mới cơ chế
quản lý nhiều doanh nghiệp đã chủ động sáng tạo tiếp cận thị trường xã hội và đã đứng
vững, sản xuất kinh doanh có lãi, nguồn thu nộp ngân sách nhà nước chiếm 61%.
(1)

2. Những hạn chế, vướng mắc trong quá trình phát triển
Trước hết, do chủ quan, duy ý chí và nóng vội đi lên CNXH nên trước năm
1986 chúng ta xoá bỏ mọi thành phần kinh tế mà chỉ tập trung phát triển kinh tế nhà
nước.
Hiện nay, trên thực tế đã có một số cơ sở kinh tế quốc doanh phải ngừng sản

xuất vì chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế quá thấp không đáp ứng yêu cầu của
thị trường, thậm chí có loại không có nhu cầu sử dụng.



Một biểu hiện tiêu cực của KTNN là nền tài chính xí nghiệp tồi tệ, do quy mô
nhỏ nên nhìn chung các DNNN đang đối mặt với tình trạng thiếu vốn để sản xuất -
kinh doanh. Thực tế vốn chỉ hoạt động khoảng 80%, số còn lại ở trong tình trạng nằm
chết. Tình trạng thiếu vốn làm cho DNNN không có khả năng đầu tư, đổi mới công
nghệ, thiết bị, nên hàng hoá sản xuất ra kém tính cạnh tranh.
Bộ phận đội ngũ cán bộ trong các DNNN đa số từ cơ chế cũ chuyển sang điều
hành xí nghiệp trong cơ chế mới nên thiếu tác phong công nghiệp, thiếu kinh nghiệm
quản lý cũng như kiến thức, trình độ năng lực của một nhà doanh nghiệp giỏi.
Nguyên nhân của những hạn chế:
Những nguyên nhân hoạt động kém hiệu quả của KTNN có thể khái quát như
sau:
Nhà nước ít vốn, song lại đầu tư dàn trải, chủ yếu là giữ cho doanh nghiệp tồn
tại, chứ chưa đủ sức phát triển và cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
Chế độ phân phối trong xí nghiệp của KTNN không phù hợp với kết quả sản
xuất kinh doanh, không có sự gắn bó chặt chẽ giữa lợi ích vật chất và trách nhiệm vật
chất với năng suất lao động do đó không khuyến khích được sản xuất.
Tuy chính phủ là người chủ sở hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu nhưng sự
nắm bắt tình hình, điều hành quản lý không có hiệu quả cao, không có sự chăm lo bảo
toàn và phát triển vốn và không có ai chịu trách nhiệm trực tiếp khi mất mát, thua lỗ.
Cán bộ quản lý chủ chốt thiếu tiêu chuẩn lãnh đạo, thiếu trách nhiệm trước tập
thể cũng như trước cơ quan Nhà nước.
Nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ trong sản xuất kinh doanh của các DNNN, hiệu
quả sản xuất không cao là do sự ỷ lại vào Nhà nước, toàn bộ nguồn vốn, kế hoạch phát
triển không cao là do sự ỷ lại vào Nhà nước, toàn bộ nguồn vốn, kế hoạch phát triển do
nhà nước đặt ra nên sự sáng tạo, năng động của doanh nghiệp mất hẳn. Bên cạnh đó vị

trí độc quyền đã làm mất đi động lực quảntọng trong việc nâng cao hiệu ủa hoạt động
kinh doanh của các xí nghiệp nhà nước. Sự độc quyền đã làm khu vực KTNN trở nên
trì trệ, kém năng động trong việc cải tiến, đổi mới thiết bị, công nghệ và sản phẩm, tự
nó trở thành nhân tố kìm hãm hoạt động của xí nghiệp.

(1)
Báo cáo của Bộ Tài chính về các chỉ tiêu chủ yếu, tháng 3-1993.



Nhà nước chưa có chính sách phù hợp trong đào tạo nhân công kỹ thuật tay
nghề cao trong các lĩnh vực các ngành nghề cần chuyên môn, mà chỉ chăm lo cho bộ
máy quản lý, dẫn đến tình trạng "nhiều thầy ít thợ". Đặc biệt chưa có kế hoạch đào tạo
bồi dưỡng các nhà doanh nghiệp về luật pháp, về kiến thức kinh doanh.
Trình độ trang bị cơ sở vật chất- kỹ thuật và công nghệ sản xuất của khu vực
KTNN nói chung là lạc hậu, chắp vá, công suất sử dụng máy móc thiết bị không cao,
năng suất và chất lượng sản phẩm thấp, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế
giới.
Trong nhiều năm, KTNN đã được bao cấp. Trong hầu hết các lĩnh vực của nền
kinh tế, lực lượng KTNN giữ vị trí độc quyền, không có một lực lượng kinh tế khác
cạnh tranh, do đó khi chuyển sang cơ chế mới thì nhiều cơ sở KTNN không thích nghi
được với điều kiện mới. Đó cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho
KTNN của nước ta trì trệ và kém hiệu quả.
3. Những giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò chủ đạo của KTNN
Để tạo khả năng tăng trưởng nhanh và có hiệu quả, các ngành KTNN cần tập
trung nguồn lực thích đáng để xây dựng các ngành kinh tế trọng điểm, mũi nhọn (công
nghiệp năng, điện tử và tin học, công nghệ sinh học, vật liệu mới…). Những ngành
này phải được đầu tư về vốn, lao động, kỹ thuật và công nghệ để tạo ra sự tăng trưởng
và phát triển với tốc độ nhanh, đủ sức chiếm lĩnh trên thị trường khu vực và thị trường
quốc tế.

Chúng ta tiến hành cổ phần hoá một số DNNN nhằm thu hút vốn đầu tư phát
triển chiều sâu cho công ty dựa trên các tiêu chí: Hiệu quả, đảm bảo xã hội, giữ định
hướng, khả năng về vốn tái đầu tư của Nhà nước… Tuy nhiên cũng cần phân định quá
trình cổ phần hoá DNNN không phải là quá trình tư nhân hoá KTNN mà là thị trường
hoá nền kinh tế, không bao cấp, bù lỗ tràn lan, chúng ta chấp nhận cạnh tranh và tiến
hành cổ phần hoá những doanh nghiệp làm ăn kém hiệuquả. Một mặt thông qua thị
trường sắp xếp lại KTNN. Mặt khác, Nhà nước chủ động có biện pháp thu hẹp những
DNNN làm ăn thua lỗ kém hiệu quả.
Tiến hành đổi mới cơ chế quản lý, tăng cường quyền tự chủ sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp, chúng ta cắt giảm tất cả những gì mang tính chất bao cấp, loại
bỏ dần tình trạng nợ nần dây dưa, chiếm dụng vốn lẫn nhau, lời giả, lỗ thật. Bên cạnh



việc đảm bảo phân phối theo lao động trong các DNNN, đảm bảo lợi ích người lao
động kết hợp chế độ phúc lợi với tăng cường khuyến khích bằng vật chất, tiền lương.
Thông qua quan hệ giữa người lao động và doanh nghiệp kích thích tính tích cực, chủ
động, sáng tạo và tinh thần trách nhiệm đối với quá trình sản xuất kinh doanh của
những người lao động.
Xoá bỏ dần sự độc quyền không cần thiết của các công ty Nhà nước, vì điều đó
sẽ làm phương hại đến sự lành mạnh hoá quan hệ thị trường vốn dĩ đòi hỏi bộ mặt
cạnh tranh bình đẳng và công bằng, làm giảm tính hiệu quả, tính năng động của nền
kinh tế.
Giảm bớt tỷ trọng KTNN trong mọi ngành nghề theo nguyên tắc ngành nghề
nào KTNN làm tốt thì tạo điều kiện cho nó phát triển, còn ngành nghề nào không
thuộc lĩnh vực then chốt thì chuyển sang hình thức sở hữu khác, đương nhiên phải
từng bước và xét đến hiệu quả về các mặt kinh tế- chính trị, giải quyết công ăn việc
làm…
Để nâng cao tính chất của các DNNN, một công việc hết sức cần thiết hiện nay
là đào tạo và sử dụng cán bộ quản lý doanh nghiệp, coi trọng năng lực quản lý và điều

hành, ý thức trách nhiệm trước Nhà nước và tập thể, gắn trách nhiệm với nghĩa vụ và
quyền lợi một cách rõ ràng. Thực tiễn hiện nay cũng đòi hỏi Nhà nước phải có kế
hoạch gấp rút đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và nghiệp vụ quả lý kinh doanh cho đội
ngũ cán bộ quản lý thuộc các DNNN. Việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý doanh
nghiệp phải đi đôi với nâng cao tay nghề cho người lao động, góp phần không ngừng
nâng cao năng suất lao động xã hội.
Trong chuyển dịch cơ cấu KTNN phải hết sức coi trọng chuyển dịch cơ cấu kỹ
thuật. KTNN phải lấy khoa học, công nghệ hiện đại thích hợp là hướng phát triển chủ
yếu không ngừng đổi mới công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, nhất là sản
phẩm xuất khẩu.



quan trọng hơn, điều đáng sợ là nếu những tín ngưỡng đặcbiệt được xem như
đặc điểm xã hội thì xã hội học sẽ cho là không có giá trị trong bản thân các tín ngưỡng.
Như vậy, có một sự rất miễn cưỡng trong hầu hết các nhà xã hội học Mỹ có đề
cập tới vấn đề tín ngưỡng tôn giáo trong bất kỳ đường hướng nào, phản bác lại các
quan niệm xã hội, không loại trừ sự phân tích nhiều hơn các loại hình tôn giáo bên rìa
hoặc giáo phái - bằng các gắn kết của các tín đồ đó. Thực tế là có một tình thế tiến
thoái lưỡng nan gay gắt về những vấn đề này. Sự tập trung về chức năng xã hội của
tôn giáo dẫn tới quan điểm cho rằng một số hình thức tôn giáo là điều kiện cần thiết
cho mọi hệ thống xã hội. Tuy vậy nhà xã hội học khi nói điều này chấp nhận một quan
điểm phản bác lại cái ràng buộc tôn giáo. Anh ta vẫn có ý hướng giải thích tôn giáo chỉ
bằng thuật ngữ xã hội và thấy các hệ quả của nó đơn thuần là xã hội. Trong khi nói
như vậy, giá trị của tín ngưỡng tôn giáo là một quan tâm không thích đáng đối với nhà
xã hội học, anh ta trong một ý nghĩa nào đó đang giữ một "vị trí tôn giáo" (28). Tuy
nhiên, điều vô cùng quan trọng là xác minh rằng phần lớn các nhà xã hội học về tôn
giáo là chính họ bị ràng buộc tôn giáo trong ý nghĩa chính thống. Những hậu quả của
những ràng buộc tôn giáo của họ ra sao đối với viễn cảnh và giải thích tôn giaó của họ,
và ngược lại, là một vấn đề hấp dẫn.

Sự nhậy cảm về tác động đối với "địa hạt tôn giáo" đã trở nên ít rõ rệt hơn trong
những năm qua. Lời dự đoán rằng khuynh hướng chung về các vấn đề tôn giáo của
phần đáng kể của dân Mỹ về đại thể không phải là tất cả đều khác đi với các quan
điểm mà các nhà xã hội học đã đề nghị (rằng tôn giáo là một sự cần thiết xã hội, rằng
có giá trị với tư cách là tôn giáo) có một nghi ngờ về nhân tố thúc đẩy trong sự thay
đổi này: tương tự, khuynh hướng của một số nhà thần học và tri thức tôn giáo thực
hiện xã hội học hoá tín ngưỡng của họ đã một phần chịu trách nhiệm về sự làm yếu đi
của tính trầm lặng của các nhà xã hội học với sự tôn trọng một số vấn đề chủ chốt về ý
nghĩa của tôn giáo bên ngoài lĩnh vực giáo phái. Điều đáng ghi nhận ở đây là một
trong số các nhà xã hội học Mỹ thường tham gia nhất vào đặc trưng hoá tôn giáo trong
thời hạn sau chiến tranh, thực tế là khởi đầu được trình bày bởi một nhà thần học Tin
lành, Paul Tillich với mục tiêu là Thượng đế là đấng quan tâm tới chúng ta cuối cùng.
Tôn giáo đã phải làm việc với các vấn đề về "mối quan tâm cuối cùng", lập luận rằng,
mọi người như là bộ mặt của động vật xã hội (9). Điều này làm dễ dàng cho cảm giác
rằng thực tế không có vấn đề cơ bản xã hội học. Khi định nghĩa tôn giáo. Sự xác nhận



ở đây là những giải thích xã hội và tôn giáo của thế giới thường là những giải thích
cạnh tranh. Cả hai đều tìm cách, bằng lời lẽ của chính mình, điều tra các đặc tính cơ
bản, "tinh tuý" của đời sống xã hội. Trong một nghĩa rất thực, xã hội học thường thấy
một cách truyền thống "lý lẽ tồn tại"
(1)
của đời sống xã hội, điều này là đặc biệt đúng
trong thời kỳ thuộc thế kỷ 19 khi các quan niệm tiến hoá chiếm ngự địa bàn của điều
tra xã hội học. Và trong khi nó thường trình bày có tham khảo các khoa học tự nhiên
và vật lý mà việc nghiên cứu các quy luật và các giải thích các hiện tượng mà các khoa
học này đề cập tới không cần hoặc không lô gích, cạnh tranh với các quan niệm tôn
giáo. Khó mà lập luận trong một trường hợp tương tự, cũng thuyết phục như thế, về
lĩnh vực của một số khoa học xã hội, nhất là xã hội học, nhân loại học và tâm lí học,

đặc biệt là khi như chúng ta đã thảo luận, xã hội học cố tìm cách để hiểu chính tôn
giáo (30)



(1)
Tiếng Pháp trong nguyên bản

×