Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

LUẬN VĂN: Hoạt động bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (701.31 KB, 75 trang )









LUẬN VĂN:

Hoạt động bảo đảm tiền vay bằng tài sản
cầm cố, thế chấp tại Sở giao dịch I - Ngân
hàng Công thương Việt Nam







Lời nói đầu
Trong bất kỳ một nền kinh tế nào, ngành Ngân hàng luôn có một vị trí quan
trọng, và vai trò của nó càng vô cùng to lớn hơn trong một nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa như ở nước ta hiện nay. Trong đó phải kể đến
hoạt động cho vay của ngân hàng. Bởi vì nước ta phải trải qua 2 cuộc kháng chiến,
sau khi giành được thắng lợi, đất nước được độc lập lúc đó ta mới có điều kiện xây
dựng kinh tế. Các doanh nghiệp phần lớn đều bước vào trường với kiến thức kinh
doanh ít ỏi, công nghệ nghèo nàn lạc hậu, hơn nữa đất nước ta duy trì chế độ bao
cấp quá lâu càng khiến cho các doanh nghiệp hoạt động trì trệ kém hiệu quả. Điều
đó đương nhiên cũng dẫn tới hiệu quả cho vay của ngân hàng là kém, gây thất thoát
cho ngân sách Nhà nước. Từ năm 1986 nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường,


các doanh nghiệp phải tự bươn chải làm ăn, nền kinh tế phát triển hơn lên và hoạt
động cho vay của ngân hàng thực sự phát huy được hiệu quả. Hoạt động cho vay
của ngân hàng góp phần phát triển kinh tế đất nước, tạo ra những động lực mới cho
cải cách kinh tế, dẫn đến sự hình thành và phát triển đa dạng nhiều loại ngành nghề,
hình thức kinh doanh. Đặc biệt trong những năm gần đây theo chủ trương của
Chính phủ, ngân hàng đã mạnh dạn cho vay các thành phần kinh tế mới như Công
ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân tạo điều kiện cho
họ phát triển, giải quyết thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Các hình
thức bảo đảm tiền vay đã đa dạng hơn xưa: người vay có thể bảo đảm tiền vay bằng
tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay, bảo lãnh
bằng tài sản của bên thứ 3; kể cả bảo đảm tiền vay trong trường hợp cho vay không
có bảo đảm bằng tài sản. Về phía ngân hàng bao giờ vấn đề hiệu quả hoạt động bảo
đảm tiền vay cũng phải được đưa lên hàng đầu. Có như thế ngân hàng mới thu hồi
được vốn và có lãi, trang trải chi phí; rồi lại tiếp tục sử dụng vốn quay vòng phát
huy được hiệu quả. Nhưng trong thực tế không phải lúc nào tiền vay cũng thu hồi
lại được đầy đủ và có lãi, vì có rất nhiều nguyên nhân từ môi trường kinh tế, môi
trường pháp lý của Nhà nước, … và một phần không nhỏ về phía cán bộ ngân hàng

đã không xem xét thẩm định tốt dự án trước khi cho vay, vấn đề nắm bắt thông tin
thị trường. Người đi vay nhiều khi khai báo không đúng sự thật, khai khống, làm
nhiều hồ sơ giả để vay nhiều hơn, xem xét phương án kinh doanh của mình chưa kỹ
càng …
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp là những ví dụ điển hình cho
hiệu quả hoạt động bảo đảm tiền vay của ngân hàng. Ngày nay nó càng trở thành
thời sự hơn trong giai đoạn phát triển kinh tế mạnh mẽ của đất nước. Mục đích của
đề tài này người nghiên cứu muốn đề cập đến hoạt động bảo đảm tiền vay bằng tài
sản cầm cố, thế chấp tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam, thực
trạng và hiệu quả hoạt động này tại Sở đang diễn ra như thế nào, nghiên cứu và đề
xuất khắc phục, nhằm nâng cao hiệu quả công tác này tại Sở nói riêng và hoạt động
ngân hàng cả nước nói chung.




Chương I
Lý luận chung về bảo đảm tiền vay trong hoạt động kinh doanh của ngân
hàng thương mại
1 Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
1.1 Ngân hàng thương mại:
1.1.1 Định nghĩa:
NHTMlà một tổ chức kinh doanh mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên của
nó là nhận tiền gửi của khách hàng (không kỳ hạn, có kỳ hạn, phát hành séc), về
trách nhiệm là phải hoàn trả số tiền đó và sử dụng số tiền đó để: đầu tư, cho vay,
chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
1.1.2 Các hoạt động chủ yếu của NHTM(hay còn gọi là nghiệp vụ):
Bao gồm 3 lĩnh vực nghiệp vụ: Nghiệp vụ nợ, nghiệp vụ có và nghiệp vụ môi
giới trung gian. Đó là các nghiệp vụ nằm trong bảng tổng kết tài sản, ngoài ra còn
có các dịch vụ khác không tổng kết trên bảng tài sản như bảo lãnh, cho thuê két sắt,
tư vấn …
Ba nghiệp vụ trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ lẫn nhau để hình thành
hoạt động kinh doanh của NHTM trong nền kinh tế. Khi NHTM đi vào hoạt động
ổn định, các nghiệp vụ được xen kẽ lẫn nhau trong suốt quá trình hoạt động, tạo
thành một chỉnh thể thống nhất.
*Nghiệp vụ nợ (nghiệp vụ tạo lập vốn): Đây là nghiệp vụ khởi đầu tạo điều kiện
cho sự hoạt động của ngân hàng. Về sau khi NHTM đã ổn định các nghiệp vụ của
nó được xen kẽ lẫn nhau trong suốt quá trình hoạt động. Huy động các nguồn vốn
khác nhau (tài sản nợ) trong hoạt động là lẽ sống quan trọng nhất của các NHTM.
Một ngân hàng không thể hình thành, lớn mạnh và phát triển mà lại không đặt vấn
đề huy động vốn lên hàng đầu. NHTM là người đi vay, tài sản nợ bao gồm những
khoản mà nhân dân gửi vào (ký thác) cho ngân hàng, hay ngân hàng đi vay các đối
tượng trong nền kinh tế như ngân hàng trung ương(NHTW), các ngân hàng hay tổ

chức tài chính khác, chính quyền, nước ngoài, các doanh nghiệp …

- Tài sản nợ của NHTM tập trung vào 5 nhóm phổ biến: 1) Vốn pháp định hay
vốn điều lệ, 2) Tiền gửi không kỳ hạn, 3) Tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm, 4) Các
khoản vay trên thị trường tiền tệ, 5) Các khoản vay của các ngân hàng khác hoặc
NHTW. Vốn pháp định là điều kiện bắt buộc ban đầu trước khi ngân hàng được
phép khai trương (hay còn gọi là vốn điều lệ) và được ghi rõ trong điều lệ hoạt động
của NHTM. Vốn điều lệ ít nhất phải bằng mức vốn pháp định do ngân hàng Nhà
nước công bố vào đầu mỗi năm tài chính. Vốn điều lệ quy định cho một ngân hàng
nhiều hay ít tuỳ thuộc vào quy mô và phạm vi hoạt động. Vốn điều lệ sẽ được bổ
sung và tăng dần dưới các hình thức: huy động thêm vốn từ các cổ đông, ngân sách
cấp lợi nhuận bổ sung … Vốn này chủ yếu được dùng để mua sắm bất động sản,
động sản, trang thiết bị … cho hoạt động ngân hàng, ngoài ra còn được dùng để góp
vốn liên doanh, cho vay, mua cổ phần của các Công ty khác. Không được dùng vốn
điều lệ để chia lợi tức, lập quỹ phúc lợi khen thưởng. Như vậy đến khi hoạt động,
vốn điều lệ của ngân hàng có thể đã nằm dưới dạng trụ sở, văn phòng, kho bãi, xe
cộ, trang thiết bị, dự trữ hay ký quỹ tại NHTW, hoặc đã đầu tư vào một thương vụ
nào đó.
ở Việt Nam để thành lập một NHTM trước hết phải có đủ vốn pháp định theo
mức quy định của ngân hàng Nhà nước. Nguồn vốn pháp định của mỗi ngân hàng
do tính chất sở hữu của ngân hàng quyết định, nghĩa là nguồn vốn này có thể do
Nhà nước cấp hoặc có thể do huy động trong xã hội. Việt Nam ta quy định như sau:
* Nếu là NHTM thuộc sở hữu Nhà nước, vốn pháp định do ngân sách Nhà nước
cấp 100% vốn ban đầu.
* Nếu là NHTM cổ phần, vốn pháp định (vốn điều lệ) do sự đóng góp của các
cổ đông dưới hình thức phát hành cổ phiếu.
* Nếu là NHTM liên doanh, vốn pháp định là vốn đóng góp cổ phần của các
ngân hàng tham gia liên doanh.
Ngoài vốn pháp định (vốn điều lệ), NHTM còn có các quỹ dự trữ buộc phải
trích lập trong quá trình tồn tại và hoạt động của ngân hàng: Quỹ phát triển kỹ thuật,

quỹ khấu hao tài sản cố định, quỹ bảo toàn vốn, quỹ phúc lợi … Toàn bộ các nguồn
vốn này được gọi vốn tự có của ngân hàng, nhưng nó lại vô cùng quan trọng vì qua

đó mọi người có thể thấy được thực lực, quy mô của ngân hàng và vì nó lại là cơ sở
để thu hút các nguồn vốn khác, là vốn khởi đầu tạo uy tín của ngân hàng đối với
khách hàng.
Theo đà phát triển, vốn này sẽ được gia tăng về số lượng tuyệt đối, song nó vẫn
luôn luôn chiếm tỷ trọng nhỏ trong kết cấu nguồn vốn. Vốn tự có chỉ là điểm xuất
phát để tổ chức hoạt động ngân hàng. Ngày nay các nghiệp vụ kinh doanh ngân
hàng dựa trên cơ sở vốn vay mượn (nghiệp vụ kỹ thác, vay các ngân hàng và các tổ
chức tài chính khác, phát hành các giấy tờ có giá …) tỷ lệ giữa vốn vay mượn và
vốn tự có có thể từ 1/10 đến 1/100. Vốn tự có là điều kiện pháp lý cơ bản, đồng thời
là yếu tố tài chính quan trọng nhất trong việc đảm bảo các khoản nợ đối với khách
hàng. Chính vì vậy quy mô vốn là yếu tố quyết định quy mô huy động vốn và quy
mô tài sản có. Vốn tự có càng lớn, sức chịu đựng của ngân hàng càng mạnh khi mà
tình hình kinh tế và tình hình hoạt động ngân hàng trải qua giai đoạn khó khăn. Vốn
tự có càng lớn, khả năng tạo lợi nhuận càng lớn vì có thể đa dạng hoá các nghiệp vụ
ngân hàng có nhiều cơ hội làm ra tiền hơn. Vốn tự có có 3 chức năng: Chức năng
bảo vệ (sự bảo đảm thanh toán cho người ký thác khi vỡ nợ, góp phần duy trì khả
năng trả nợ, bằng cách cung cấp một khoản tài sản dự trữ để ngân hàng khỏi bị đe
dọa bởi sự thua lỗ để có thể tiếp tục hoạt động); chức năng hoạt động (xây dựng trụ
sở, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng); chức năng điều
chỉnh (thoả mãn các cơ quan quản lý ngân hàng: xem xét cấp giấy phép hoạt động,
thiết lập các chi nhánh, giới hạn tín dụng đầu tư và mua sắm tài sản của ngân hàng).
- Nghiệp vụ ký thác: Do khách hàng gửi vào và để lại trong tài khoản của họ tại
ngân hàng; theo 2 mục đích: hưởng các lợi ích của các phương tiện mà ngân hàng
có thể cung cấp cho họ, thứ hai là lấy lãi suất như các số tiền gửi vào sổ tiết kiệm
hay vào các tài khoản định kỳ (trong trường hợp này thì khách hàng không còn
quyền sử dụng các dịch vụ của ngân hàng như dùng séc để thanh toán chẳng hạn).
Ký thác của ngân hàng chủ yếu từ 2 nguồn: Từ doanh nhân và từ dân cư. Luật

pháp quy định rõ trách nhiệm và quyền lợi của ngân hàng khi nhận ký thác và chính
nghiệp vụ ký thác còn cung cấp một tiêu chuẩn để phân biệt giữa ngân hàng và các
tổ chức tài chính trung gian khác. Về phương diện pháp lý, NHTM trở thành người

bảo quản các số tiền gửi dưới bất kỳ hình thức nào và được quyền sử dụng các số
tiền đó trong các nhu cầu hoạt động chuyên môn của mình, nhưng đồng thời cũng
có trách nhiệm hoàn lại vốn trong các điều kiện đã được quy định.
Các khoản tiền ký thác được phân loại thành: Tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm,
tiền gửi không kỳ hạn.
- Nghiệp vụ đi vay: Sau khi đã sử dụng hết vốn nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu
cầu vay vốn của khách hàng hoặc phải đáp ứng nhu cầu thanh toán và chi của khách
hàng, các NHTM có thể vay ở NHTW, ở các NHTM khác, vay ở thị trường tiền tệ,
vay các tổ chức nước ngoài … Vốn đi vay chỉ chiếm một tỷ trọng có thể chấp nhận
được trong kết cấu nguồn vốn, nhưng nó rất cần thiết và có vị trí quan trọng để bảo
đảm cho ngân hàng hoạt động kinh doanh một cách bình thường.
* Nghiệp vụ có: Huy động được vốn rồi thì NHTM phải tìm cách để hiệu quả
hoá những tài sản này. Hầu như tất cả các khoản mục bên tài sản nợ của ngân hàng
đều là vốn vay, nghĩa là ngân hàng phải trả lãi suất cho nó đến từng giờ. Do đó để
khỏi bị thiệt hại, ngân hàng luôn luôn phải cho vay hoặc đầu tư ngay số tài sản ấy
vào những dịch vụ sinh lời, có thu được lãi ngân hàng sẽ trả lãi cho vốn đã vay,
thanh toán cho các chi phí trong hoạt động, phần còn lại sẽ là lợi nhuận của ngân
hàng.
Tài sản có cho biết những khoản nợ mà thị trường nợ ngân hàng hoặc là những
khoản mà ngân hàng cho thị trường vay. Ngân hàng là chủ nợ và các đối tượng vay
tiền của nó là con nợ. Ngân hàng có rất nhiều cách để đầu tư tiền của nó. Sự khác
nhau giữa các loại đầu tư này hình thành nên sự khác nhau trong tài sản có của
NHTM và thường được quy về các nhóm sau:
- Dự trữ tiền mặt bao gồm tiền mặt tại kho của ngân hàng và tiền mặt ký gửi tại
NHTW.
- Đầu tư vào chứng khoán (trái phiếu, cổ phiếu, hối phiếu)

- Cho vay
- Đầu tư vào các loại tài sản (như bất động sản, cơ sở hạ tầng trang thiết bị …)

* Nghiệp vụ môi giới trung gian: Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ ngân
hàng theo đó cũng phát triển theo để đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng của công
chúng. Thực hiện nghiệp vụ trung gian mang tính dịch vụ sẽ đem lại cho các ngân
hàng những chứng khoản thu nhập khá quan trọng. Các dịch vụ ngân hàng sẽ giúp
ngân hàng phát triển toàn diện. Hiện nay, để cạnh tranh với nhau các NHTM không
ngừng tìm tòi, nghiên cứu, cung cấp tiện nghi cho khách hàng, tạo thêm những hình
thức dịch vụ mới, tạo sự phong phú đa dạng hoạt động kinh doanh.Dịch vụ ngân
hàng càng phát triển thể hiện xã hội càng văn minh, nền công nghiệp càng phát
triển.
Nghiệp vụ trung gian gồm rất nhiều loại dịch vụ ngân hàng khác nhau, chủ yếu
là các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt như sau:
- Dịch vụ chuyển khoản từ tài khoản này sang tài khoản khác cùng ở một ngân
hàng hay ở 2 ngân hàng khác nhau, thông qua các công cụ như séc, lệnh chi, thẻ chi
trả.
- Dịch vụ thu hộ và chi hộ cho khách hàng có tài khoản tiền gửi thanh toán tại
ngân hàng. Việc chi hộ ngân hàng chỉ tiến hành khi có lệnh của chủ tài khoản.
- Dịch vụ trả lương cho các doanh nghiệp có nhu cầu. Đến tháng doanh nghiệp
chỉ cần gửi bảng lương qua ngân hàng, theo đó ngân hàng sẽ ghi nợ vào tài khoản
doanh nghiệp đó và tiến hành chi lương cho những người có tên trong danh sách
tiền lương.
- Dịch vụ chuyển tiền tự địa phương này sang địa phương khác.
- Dịch vụ khấu trừ tự động cũng là dịch vụ với khách hàng là cá nhân. Theo đó
nếu khách hàng cho phép, ngân hàng sẽ tự động ghi nợ tài khoản của khách hàng để
thanh toán các hoá đơn đòi tiền do các đơn vị dịch vụ gửi đến như: trả tiền điện,
nước, điện thoại, thuê nhà … Đây là những khoản chi thường xuyên trong tháng,
nếu không có dịch vụ này khách hàng sẽ tốn nhiều thời gian và phiền toái khi đi
thanh toán các khoản này.


1.1.3 Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại:
Là hoạt động kinh doanh chủ chốt của NHTM để tạo ra lợi nhuận. Chỉ có lãi
suất thu được từ cho vay mới bù nổi chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh
doanh và quản lý, chi phí thuế các loại và chi phí rủi ro đầu tư. Kinh tế càng phát
triển, lượng cho vay của các NHTM càng tăng nhanh và loại hình cho vay cũng trở
nên vô cùng đa dạng. ở các nước đang phát triển (cả Việt Nam) khi cho vay ngắn
hạn chiếm bộ phận lớn hơn cho vay dài hạn.
Cho vay của NHTM, nói rộng ra là tín dụng của NHTM xét về mặt pháp lý có
thể phân thành 3 loại:
+ Cho vay ứng trước (hay còn gọi là loại cho vay trực tiếp, cho vay tiền).
+ Cho vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền.
+ Cho vay qua chữ ký (cho vay qua việc cam kết bằng chữ ký).
Mỗi loại cho vay có đặc thù riêng, thủ tục pháp lý khác nhau, mức độ an toàn
khác nhau.
+ Cho vay tiền: Là nghiệp vụ tín dụng trong đó người cho vay cam kết giao cho
người đi vay một khoản tiền và người đi vay cam kết sẽ hoàn trả theo thời hạn nhất
định. Giá trị hoàn trả lớn hơn giá trị khoản vay, phần chênh lệch đó là lãi cho vay.
Lãi cho vay tỷ lệ với số lượng tiền và thời hạn vay. Cho vay tiền cũng được gọi là
loại cho vay ứng trước: thông qua sự thoả thuận giữa người đi vay và người cho
vay, dựa trên các phương án kinh doanh người đi vay trình cho người cho vay; bên
cạnh đó khoản vay còn được đảm bảo bằng tài sản của người đi vay. Loại cho vay
này chứa đựng rủi ro cao vì thiếu cơ sở đảm bảo bằng những hành vi thương mại đã
được thực hiện, nghĩa là khách hàng nhận tiền vay sau đó mới đưa tiền đó vào sử
dụng. Khách hàng trong trường hợp này có thể sử dụng tiền trái mục đích ghi trên
khế ước vay do đó tạo rủi ro cho ngân hàng (rủi ro đạo đức).
Loại cho vay này dựa trên 3 nguyên tắc cơ bản:
- Tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi: Là nguyên tắc quan
trọng hàng đầu. Và để thực hiện nguyên tắc này mỗi lần cho vay ngân hàng phải
định kỳ hạn nợ phù hợp. Khi đến kì hạn nợ người đi vay phải lập giấy trả nợ cho


ngân hàng, nếu không ngân hàng sẽ tự động trích tài khoản tiền gửi của người đi
vay để thu hồi nợ. Nếu tài khoản tiền gửi không đủ số dư thì chuyển nợ quá hạn.
Sau một thời gian nếu khách hàng vẫn không trả nợ, ngân hàng sẽ phát mại tài sản
đảm bảo. Nguyên tắc này hạn chế rủi ro về thanh khoản.
- Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích: Không những là nguyên tắc mà
còn là phương châm hoạt động của ngân hàng. Hiệu quả của nó trước hết là đẩy
nhanh nhịp độ phát triển của nền kinh tế hàng hoá, tạo ra nhiều khối lượng sản
phẩm, dịch vụ; đồng thời tạo ra nhiều tích luỹ để thực hiện tái sản xuất mở rộng.
Khi thực hiện nguyên tắc này ngân hàng yêu cầu khách hàng vay vốn phải sử dụng
đúng mục đích đã ghi trong đơn xin vay, bởi vì mục đích đó đã được ngân hàng
thẩm định. Nếu phát hiện khách hàng vi phạm nguyên tắc này, ngân hàng có quyền
thu hồi nợ trước hạn, nếu khách hàng không có tiền thì chuyển nợ quá hạn.
- Vốn vay phải có tài sản tương đương làm đảm bảo: Tài sản này có thể là hình
thành từ vốn vay ngân hàng, là tài sản của người đi vay hoặc còn có thể là tín chấp
hoặc bảo lãnh của người thứ 3.
Có các loại đảm bảo tín dụng:
* Đảm bảo đối nhân: Là sự cam kết của một hay nhiều người về việc phải trả nợ
thay cho ngân hàng thay cho một khách hàng khi khách hàng này không hoàn trả
được nợ cho ngân hàng. Người đứng ra bảo lãnh phải thoả mãn các điều kiện sau:
có đủ năng lực pháp lý, đủ năng lực tài chính lành mạnh, có khả năng trả nợ thay
cho người vay vốn, phải có tài sản thế chấp, cầm cố.
Việc bảo lãnh phải được lập thành văn bản pháp lý gọi là hợp đồng bảo lãnh.
Hợp đồng đó phải có chứng nhận của cơ quan công chứng hoặc chứng thực của Uỷ
ban nhân dân quận, thị xã thuộc tỉnh, thành phố.
* Đảm bảo đối vật: Có 2 hình thức là thế chấp tài sản và cầm cố tài sản. Thế
chấp tài sản là việc bên vay dùng tài sản là bất động sản thuộc sở hữu của mình để
đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với bên cho vay. Bên đi vay vẫn tiếp tục sử
dụng tài sản thế chấp và chỉ giao cho bên cho vay giấy chủ quyền của tài sản đó.


Còn cầm cố tài sản là việc bên đi vay có nghĩa vụ giao tài sản là động sản thuộc
quyền sở hữu cuả mình cho bên cho vay để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
+ Cho vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền: Chủ yếu dựa trên cơ sở
mua bán các công cụ tài chính (hối phiếu, lệnh phiếu, ký hoá phiếu …) tạo ra
nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu của ngân hàng, tức là mua nợ tính trên khoảng
thời gian còn lại cho đến lúc đáo hạn của thương phiếu. Ngân hàng không phải cho
vay mà là được mua một trái phiếu về phương diện pháp lý, việc thu nợ có cơ sở
vững chắc.
Chiết khấu thương phiếu đem lại lợi nhuận cao mà tương đối ít rủi ro so với cho
vay ứng trước.
Cho vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền là kết quả của việc thanh toán
trước hạn một khoản trái quyền hay 1 chứng phiếu mà quyền sở hữu đã được
chuyển giao cho ngân hàng, đó chủ yếu là hình thức chiết khấu thương phiếu và
chuyển nhượng khoản cho vay nghề nghiệp.
+ Tín dụng qua chữ ký (cho vay qua cam kết bằng chữ ký). Ngân hàng không
ứng tiền ra mà chỉ cam kết sẽ trả một khoản nợ của khách hàng trong trường hợp
khách hàng không trả được. Chính vì lý do bảo lãnh cho khách hàng bằng uy tín của
mình mà người ta gọi là hành vi cam kết bảo lãnh của ngân hàng là tín dụng qua
chữ ký.
Bảo lãnh là đưa ra những cam kết của ngân hàng dưới hình thức cấp chứng thư
và hạch toán theo dõi ở ngoài bảng, chứ thực tế là không (hoặc chưa) phải sử dụng
ngay vốn để cho vay như các loại tín dụng thông thường. Có 2 loại: bảo lãnh ngân
hàng và tín dụng chấp nhận. Bảo lãnh ngân hàng là hình thức rất quan trọng trong
thực tiễn bởi vì nó là điều kiện rất hay phải có để một số người thụ trái được trả
chậm hoặc không phải ký quỹ tiền đặt cọc. Chẳng hạn như cơ quan hải quan yêu
cầu phải có sự bảo lãnh của ngân hàng để cho phép chậm trả, hoặc chính quyền các
cấp đòi hỏi phải có bảo lãnh ngân hàng để giao phó đơn hàng. Còn tín dụng chấp
nhận, ngân hàng chấp nhận một hối phiếu đòi tiền chính ngân hàng và ngay trước
khi hối phiếu đến hạn, khách hàng phải nộp vào ngân hàng số tiền cần thiết để thanh
toán. Như vậy ngân hàng không phải chi vốn ra về nguyên tắc. Việc chấp nhận này


cho phép chủ nợ có được một chứng từ đảm bảo được thanh toán bởi khả năng
thanh toán của ngân hàng đã đứng ra chấp nhận.
Ngoài 3 loại cho vay trên, NHTM còn có các loại cho vay khác như cho vay
kinh doanh bất động sản, cho vay cầm cố, hùn vốn kinh doanh, các nghiệp vụ liên
kết tín dụng …
1.2 Các hình thức đảm bảo tiền vay; nguyên tắc bảo đảm tiền vay:
1.2.1 Hình thức đảm bảo tiền vay bằng tài sản:
Là việc tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ
sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay.
+ Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay.
+ Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ 3.
+ Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
1.2.2 Hình thức đảm bảo tiền vay trong trường hợp cho vay không có bảo đảm
bằng tài sản:
+ TCTD chủ động lựa chọn khách hàng vay không có bảo đảm bằng tài sản.
+ TCTD Nhà nước được cho vay không có bảo đảm theo chỉ định của chính
phủ.
+ TCTD cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay có bảo lãnh bằng tín chấp của tổ
chức đoàn thể chính trị - xã hội.
1.2.3 Nguyên tắc bảo đảm tiền vay:
+ TCTD có quyền lựa chọn, quyết định việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản,
cho vay không có bảo đảm, chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Trường hợp
TCTD Nhà nước cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo chỉ định của Chính
phủ thì tổn thất do nguyên nhân khách quan của các khoản cho vay này được chính
phủ xử lý.
+ Khách hàng vay được TCTD lựa chọn cho vay không có bảo đảm bằng tài
sản, nếu trong quá trình sử dụng vốn vay TCTD phát hiện khách hàng vay vi phạm

cam kết trong hợp đồng tín dụng thì TCTD có quyền áp dụng các biện pháp bảo

đảm bằng tài sản hoặc thu hồi nợ trước hạn.
+ TCTD có quyền xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ khi khách hàng
vay hoặc bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ
đã cam kết.
+ Sau khi xử lý tài sản bảo đảm tiền vay nếu khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh
vẫn chưa thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ, thì khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh có
trách nhiệm tiếp tục thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết.
1.3 Quan niệm về hiệu quả bảo đảm tiền vay:
NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, mục tiêu hoạt động thì nhiều và
hiệu quả bảo đảm tiền vay là một trong những mục tiêu quan trọng ngân hàng luôn
hướng tới. Có thu hồi được nợ cho vay, có lãi; ngân hàng mới tiếp tục có vốn để tái
sản xuất, không ngừng nâng cao uy tín và chất lượng của mình trên thương trường,
tìm tòi ra những hình thức dịch vụ mới phục vụ khách hàng được tốt hơn; từ đó thúc
đẩy nền kinh tế phát triển chính là mục tiêu hoạt động ngay từ khi NHTM mới
thành lập. Nhưng dù cho ngân hàng có thẩm định dự án vay vốn của khách hàng,
đánh giá phương án sản xuất kinh doanh, phân tích tài chính khách hàng tốt đến đâu
đi chăng nữa vẫn không thể nói là có sự hoàn hảo, ngoài ra còn kể đến những sự
biến đổi thị hiếu, nhu cầu đột ngột của người tiêu dùng, ảnh hưởng thời tiết, những
biến động kinh tế trong và ngoài nước chưa thể lường hết được. Bản thân khách
hàng khi vay vốn ngân hàng họ không hề có ý định trốn tránh trách nhiệm trả nợ
vay của mình đối với ngân hàng nhưng họ bị lâm vào những tình huống bất ngờ,
mất khả năng trả nợ cho ngân hàng từ đó trốn tránh trách nhiệm trả nợ. Hiệu quả
bảo đảm tiền vay tốt biểu hiện ngân hàng cẩn thận, có trách nhiệm cao trong hoạt
động của mình, tất cả các khâu từ thẩm định, đánh giá, phân tích tài chính cho đến
ước lượng trước được những biến động trong tương lai (chỉ là tương đối). Điều này
cũng biểu hiện là ngân hàng hiểu khách hàng và công việc của họ có trách nhiệm
với khoản cho vay của mình, chịu khó thâm nhập tìm hiểu kỹ thị trường. Thu hồi
được nợ cho vay để tái cho vay, tránh được tình trạng thua lỗ, kể cả nguy cơ bị đổ
vỡ, tránh gây ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế.


Và điều quan trọng nhất là hiệu quả đảm bảo tiền vay tốt thì ngân hàng mới có
tiền để trả nợ trả lãi cho những người gửi tiền, cho những tổ chức, đoàn thể, cho các
khoản vay từ NHTW và các TCTD khác. Từ đó mới có thể tiếp tục thu hút huy
động vốn cho hoạt động kinh doanh của mình không ngừng phát triển.
Đảm bảo tiền vay bằng tài sản cầm cố ,thế chấp là những biện pháp của ngân
hàng nhằm thu hồi lại được nguồn vốn của mình ,vì phòng khi khách hàng vay
không có khả năng hoàn trả lại món nợ vay thì lúc đó ngân hàng còn nắm giữ tài
sản cầm cố, thế chấp của họ; ngân hàng có quyền được đem những tài sản đó ra
phát mại thu hồi lại khoản đã cho vay. Biện pháp này giảm thiêủ rủi ro cho phía
ngân hàng. Hiện nay ở Việt nam có xu hướng tất yếu đang diễn ra là sự phát triển
nhanh của hệ thống các doanh nghiệp ngoài quốc doanh :nhiều doanh nghiệp này
rất muốn mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình nhưng họ lại thiếu vốn
tiền mặt . Điều kiện duy nhất dể họ có thể vay vốn từ ngân hàng là phải có tài sản
cầm cố, thế chấp.Những tài sản cầm cố, thế chấp này phần lớn thường là tài sản có
giá trị sử dụng cao , hoặc nhà cửa , đất đai , nhà xưởng , dây chuyền sản xuất .Khi
nhận những tài sản này ngân hàng cùng với khách hàng định giá chúng cho đến khi
hai bên cùng thống nhât được giá trị đảm bảo của tài sản đó .Trước mắt thì ngân
hàng rất yên tâm vì giá nhà đất, giá máy móc trên thị trường lúc đó đúng thực là thế
,và ngân hàng đã giảm thiểu tối đa rủi ro bằng cách chỉ cho vay một tỷ lệ phần trăm
nhất định trên giá trị của tài sản đó. Nhưng những khó khăn về sau mới xuất hiện:
đó là khi khách hàng không có khả năng trả nợ , hết hạn mà cũng vẫn chưa trả ngân
hàng đem tài sản đó ra phát mại thì phần lớn thường vào lúc giá trị của chúng trên
thị trường bị suy giảm. Như nhà đất chẳng hạn, giá cả loại bất động sản này lên
xuống thất thường theo thời gian , theo thị trường ,theo quy hoạch; ngân hàng
không thể nắm bắt và theo dõi sát sao được sự biến động này,dẫn đến phần lớn khi
phát mại ngân hàng phải chấp nhận thu hồi chỉ được một phần nhỏ giá ngân hàng
đưa ra ban đầu ; đó là chưa kể đến hàng loạt các chi phí khác ngân hàng phải bỏ ra
như chi phí cưỡng chế thu hồi nhà đất trong trường hợp người vay liều lĩnh bất chấp
không giao nhà cho ngân hàng, chi phí cho việc cung cấp tạm nơi cư trú cho họ , chi
phí cho công chứng ,toà án


Còn đối với thiết bị máy móc dây chuyền sản xuất là tài sản cầm cố, thế chấp;
giá trị của những tài sản này cứ bị hao mòn đi một cách vô hình theo sự phát triển
như vũ bão của khoa học công nghệ .Máy móc sau hiện đại hơn , tinh vi và hiệu quả
hơn so với máy móc cũ và vô hình chung đẩy giá trị của máy cũ ngày càng giảm đi.
Để đối phó lại các chủ doanh nghiệp phải tận dụng được máy móc từng ngày từng
giờ , phát huy hết hiệu quả công suất của máy; đến khi ngân hàng nhận tài sản cầm
cố thế chấp để phát mại thì ngay bản thân máy móc đó cũng đã quá sập xệ , hao
mòn hữu hình rồi.
Đảm bảo tiền vay bằng tài sản cầm cố, thể chấp không phải chỉ có những khó
khăn trên mà ngay trong thực tế còn nhiều vấn đề phát sinh nữa ngay từ trong
những văn bản về hoạt động này .Các văn bản chồng chéo lên nhau giữa các Bộ,
ngành, Chính phủ và cả Ngân hàng Nhà Nước; thậm chí có nơi xử ký theo kiêủ này,
nơi kia xử ký theo kiểu khác vì sự hiểu và vận dụng khác nhau. Nhưng chung quy
lại cái thiệt nhìn thấy rõ nhất vẫn là về phía ngân hàng .
Nâng cao hiệu quả đảm bảo tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp chính là việc
tìm ra giải pháp để tháo gỡ khó khăn cho các hoạt động này, tìm giải pháp bình ổn
thị trường giá cả, tăng thêm quyền tự chủ hơn nữa cho các NHTM, hoàn thiện hệ
thống văn bản pháp qui trong hoạt động ngân hàng .Điều này càng thiết thực hơn
trong giai đoạn hiện nay khi ngành ngân hàng đang nỗ lực để có một sự biến đổi
vượt bậc , một bước cải cách trong toàn hệ thống nhằm nhanh chóng đưa nền kinh
tế nước ta phát triển đi lên , hội nhập với khu vực và thế giới .


Chương II
Thực trạng hoạt động đảm bảo tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp của
khách hàng vay tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam.

1 Giới thiệu về Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam:
1.1 Giới thiệu chung :

Có vị trí tại số 10 Lê Lai - Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội, một địa điểm thuận tiện
cho các hoạt động giao dịch kinh doanh, khu vực dân cư đông đúc, các dịch vụ
thương mại phát triển mạnh, nhiều cơ quan lớn, nhiều văn phòng đại diện của các
Công ty trong và ngoài nước, trung tâm của thủ đô. Từ nhiều năm qua hoạt động
của Sở luôn chiếm một vị trí quan trọng trong toàn bộ hệ thống hoạt động Ngân
hàng Công thương Việt Nam. Các chỉ tiêu kinh tế cơ bản luôn đứng đầu toàn hệ
thống: nguồn vốn luôn chiếm khoảng 20% trong hệ thống, dư nợ tín dụng, đầu tư
luôn đứng một trong hai vị trí dẫn đầu, hạch toán nội bộ cũng luôn dẫn đầu (năm
2001 là 5%). Sở luôn được chọn làm nơi triển khai thí điểm các chương trình, sản
phẩm dịch vụ mới của Ngân hàng Công thương Việt Nam, là đầu mối cho các chi
nhánh Ngân hàng công thương trên địa bàn, triển khai các chương trình của
NHCTVN với các đối tác và bạn hàng
1.2 Về tổ chức phòng ban tại Sở giao dịch I-NHCTVN
Ban lãnh đạo Sở gồm : 1 giám đốc, 3 phó giám đốc.
Các phòng: 9 phòng nghiệp vụ, 1 phòng giao dịch, 1 tổ nghiệp vụ bảo hiểm
(phòng giao dịch và tổ nghiệp vụ bảo hiểm mới thành lập khoảng T4, T5 năm
2001). Tổng số cán bộ của Sở là 261 người.
*Phòng cân đối tổng hợp: Tổ chức huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi của các
tổ chức kinh tế và dân cư bằng VNĐ hoặc ngoại tệ theo hướng dẫn của Tổng giám
đốc NHCTVN, trực tiếp điều hành lao động, tài sản tại các quỹ tiết kiệm của Sở,
đảm bảo an toàn tuyệt đối tài sản, tiền bạc của cơ quan Nhà nước tại các quỹ tiết
kiệm theo đúng chế độ hiện hành của Tổng giám đốc NHCTVN.
- Lập kế hoạch kinh doanh (hàng quý kết hợp với phòng kinh doanh, theo các
chỉ tiêu của NHCTVN giao)
- Tổng hợp phân tích báo cáo mọi tình hình hoạt động của Sở theo yêu cầu của
giám đốc Sở, giám đốc Ngân hàng Nhà nước trên địa bàn, Tổng giám đốc
NHCTVN.

- Tổng hợp báo cáo các vấn đề liên quan đến thi đua khen thưởng tại Sở theo
đúng cơ chế hiện hành của Tổng giám đốc NHCTVN.

- Làm các việc khác do Giám đốc Sở giao.
*Phòng kinh doanh:
- Thực hiện cho vay, thu nợ ngắn hạn, trung dài hạn bằng VNĐ hoặc ngoại tệ,
đối với các tổ chức kinh tế, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế theo đúng cơ chế
tín dụng của ngân hàng Nhà nước và hướng dẫn của Tổng giám đốc NHCTVN.
- Thực hiện bảo lãnh cho các doanh nghiệp để tham gia dự thầu, thực hiện hợp
đồng thanh toán mua hàng trả chậm theo đúng hướng dẫn của NHCTVN.
- Chiết khấu thương phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu và các chứng từ có giá theo quy
định của Thống đốc ngân hàng Nhà nước và Tổng giám đốc NHCTVN.
- Nghiên cứu đề xuất biện pháp giải quyết vướng mắc trong hoạt động kinh
doanh tại Sở, phản ánh kịp thời những vấn đề mới phát sinh để báo cáo Tổng giám
đốc NHCTVN xem xét, giải quyết.
- Phân tích hoạt động kinh doanh của khách hàng vay vốn tại Sở, cung cấp kịp
thời có chất lượng các báo cáo, thông tin về công tác tín dụng cho lãnh đạo Sở và
các cơ quan hữu quan theo đúng quy định của Tổng giám đốc NHCTVN.
- Làm một số công việc khác do giám đốc Sở giao.
*Phòng kế toán - tài chính:
- Thực hiện mở tài khoản và giao dịch với khách hàng theo đúng quy định của
Thống đốc ngân hàng Nhà nước và Tổng giám đốc NHCTVN; hạch toán kịp thời,
chính xác mọi biến động về vốn, tài sản của khách hàng và ngân hàng tại Sở.
- Thực hiện công tác thanh toán qua ngân hàng đối với các đơn vị tổ chức kinh
tế, tổ chức tín dụng và cá nhân, đảm bảo kịp thời, chính xác.
- Tiếp nhận và xử lý hạch toán kế toán theo đúng quy định các hồ sơ vay vốn
của khách hàng, phối hợp với phòng kinh doanh để thu nợ kịp thời, đúng chế độ,
các món đã cho vay.

- Tính và thu lãi tiền vay, phí dịch vụ; trả lãi tiền gửi cho khách hàng đúng, đầy
đủ kịp thời theo chế độ quy định, tổ chức hạch toán kế toán, mua bán ngoại tệ bằng
VNĐ; kế toán quản lý tài sản cố định, công cụ lao động, kho ấn chỉ, chi tiêu nội bộ
tại Sở theo đúng quy định của Nhà nước và hướng dẫn của Tổng giám đốc

NHCTVN.
- Lập các báo biểu kế toán tài chính, cung cấp số liệu liên quan theo đúng quy
định của ngân hàng Nhà nước và NHCTVN.
- Tham mưu cho giám đốc, trích lập, hạch toán sử dụng quỹ phúc lợi, khen
thưởng tại Sở, phù hợp với chế độ của Nhà nước và của Tổng giám đốc NHCTVN.
- Một số công việc khác.
*Phòng kinh doanh đối ngoại:
- Xác định giá mua bán và thực hiện mua bán ngoại tệ với các tổ chức kinh tế,
tổ chức tín dụng, cá nhân theo quy định của Nhà nước và hướng dẫn của Tổng giám
đốc NHCTVN.
- Hạch toán kịp thời, chính xác các nghiệp vụ thanh toán mua bán chuyển đổi
các loại ngoại tệ phát sinh tại Sở bằng ngoại tệ.
- Tiếp nhận và xử lý hạch toán kế toán theo đúng quy định các hồ sơ vay vốn
bằng ngoại tệ của khách hàng, phối hợp với phòng kinh doanh để thu lãi kịp thời.
- Thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế và làm các dịch vụ ngân hàng đối
ngoại theo thông lệ quốc tế và hướng dẫn của TGDD NHCTVN.
- Lập các báo biểu kế toán, báo cáo nghiệp vụ và cung cấp số liệu liên quan
theo yêu cầu của giám đốc Sở và TGĐ NHCTVN.
*Phòng tổ chức cán bộ, lao động và tiền lương:
- Nghiên cứu đề xuất với giám đốc Sở phương án sắp xếp bộ máy tổ chức của
Sở, đảm bảo đúng quy chế kinh doanh có hiệu quả.
- Tuyển dụng lao động, điều động, bố trí cán bộ nhân viên vào các vị trí công
tác phù hợp, phù hợp với năng lực, phẩm chất cán bộ và yêu cầu nhiệm vụ kinh
doanh.

- Lập quy hoạch cán bộ lãnh đạo tại Sở, phối hợp với các phòng đào tạo bồi
dưỡng cán bộ trong quy hoạch.
- Phối hợp với các phòng liên quan tham mưu cho giám đốc về kế hoạch và
thực hiện quỹ tiền lương giải quyết kịp thời về tiền lương, quyền lợi (3 năm/lần),
bảo hiểm xã hội và các chính sách khác cho cán bộ theo đúng quy định của Nhà

nước và của ngành.
- Lưu trữ và quản lý an toàn hồ sơ cán bộ thuộc Sở quản lý.
*Phòng kiểm soát nội bộ :
- Thực hiện kiểm tra, kiểm toán toàn bộ các hoạt động kinh doanh tại Sở, báo
cáo kết quả bằng văn bản với giám đốc Sở, TGDD NHCTVN, kiến nghị những vấn
đề cần sửa đổi, bổ sung về cơ chế.
- Làm đầu mối tiếp các đoàn kiểm tra, kiểm toán đến làm việc tại Sở.
- Giúp giám đốc giải quyết các đơn thư khiếu nại của khách hàng và cán bộ
công nhân viên Sở theo đúng thẩm quyền và quy định của pháp luật.
- Thực hiện đầy đủ chế độ thông tin báo cáo do TGĐ NHCTVN quy định.
* Phòng ngân quỹ:
- Thực hiện thu chi tiền mặt, VNĐ hoặc ngoại tệ, ngân phiếu thanh toán kịp thời
chính xác đúng chế độ.
- Tổ chức điều chuyển tiền giữa quỹ nghiệp vụ Sở và ngân hàng Nhà nước
thành phố Hà Nội an toàn, đúng chế độ trên cơ sở đáp ứng kịp thời đầy đủ nhu cầu
chi trả tại Sở.
- Thực hiện đầy đủ và nghiêm túc các quyết định về an toàn kho quỹ.
- Thực hiện bảo quản nhập xuất các loại ấn chỉ quan trọng và quản lý các hồ sơ,
tài sản thế chấp, cầm cố theo đúng chế độ quy định.
- Thực hiện mua tiền mặt, thu đối séc du lịch, thanh toán visa.
- Thực hiện chi tiết quỹ, giao nhận tiền mặt, ngân phiếu thanh toán với các quỹ
tiết kiệm an toàn.

* Phòng điện toán: Triển khai và phát triển các phần mềm ứng dụng của
NHCTVN về khai thác thông tin phục vụ cho hoạt động kinh doanh tại Sở.
- Cung cấp thông tin kịp thời, chính xác cho ban giám đốc và các phòng nghiệp
vụ để điều hành kinh doanh có hiệu quả.
- Đảm bảo an toàn bí mật số liệu, thông tin về hợp đồng kinh doanh của Sở theo
đúng quy định của ngân hàng Nhà nước,NHCTVN; thực hiện bảo trì, bảo dưỡng hệ
thống máy tính, thiết bị tin học để phục vụ cho công tác quản lý không bị ách tắc.

* Phòng hành chính quản trị:
- Thực hiện mua sắm toàn bộ trang thiết bị, phương tiện làm việc phục vụ hoạt
động kinh doanh, theo dõi quản lý, bảo dưỡng sửa chữa tài sản, công cụ lao động.
- Phối hợp với phòng kế toán tài chính lập kế hoạch mua sắm, sửa chữa tài sản
và công cụ lao động hàng quý, hàng năm theo đúng quy định của Nhà nước và
NHCTVN.
- Quản lý và điều hành xe ô tô, nội quy sử dụng điện và điện thoại của Sở.
- Tổ chức công tác văn thư, lưu trữ theo đúng quy định của Nhà nước và
NHCTVN.
- Tổ chức công tác bảo vệ an toàn cơ quan, xây dựng nội quy bảo vệ cơ quan.

Một số chỉ tiêu hoạt động kinh doanh của Sở
Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001
I. Tổng vốn huy động 7.779.000 9.262.841 16.587.595
II. Tổng dư nợ cho vay 1.077.432 1.246.561 1.497.004
III. Nợ quá hạn 6,8% 4,8% 3,6%
Tổng thu 459.656 405.197 572.966
Tổng chi 339.446 280.512 458.256
Lãi 120.210 124.685 114.708


Hiện nay dư nợ tại Sở là 1500 tỷ, trong đó chủ yếu là trung dài hạn (chiếm 65 -
70%). Khách hàng chủ yếu là các tổng Công ty lớn, vay nhiều (như Tổng Công ty
Bưu chính viễn thông vay 800 tỷ, Tổng Công ty điện lực vay 500 tỷ + đồng tài trợ
200 triệu USD của Sở, một số dự án nhỏ, ngắn hạn như Công ty thực phẩm miền
bắc 130 - 140 tỷ, Công ty xuất nhập khẩu hoá chất 40 tỷ …). Nhìn chung khách
hàng của Sở tập trung, không phân tán (kể cả cho vay doanh nghiệp ngoài quốc
doanh, cá thể, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần).
Nợ quá hạn (trong 1500 tỷ) tập trung nợ khó đòi 56 - 57 tỷ. Tổng nguồn vốn
của Sở là 10.000 tỷ.

2 Thực trạng hoạt động bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố và thế chấp tại
sở gdi -NHCT vn
2.1 Thực trạng hoạt động bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố
Theo quy định của thông tư số 06/2000/TT - Ngân hàng Nhà nước 1 của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam, TSCC gồm 8 loại:
+ Máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng, đá quý.
+ Ngoại tệ bằng tiền mặt, số dư trên tài khoản tiền gửi tại tổ chức tín dụng bằng
tiền Việt Nam, ngoại tệ.
+ Trái phiếu, cổ phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, sổ tiết kiệm,
thương phiếu, các giấy tờ khác giá trị được bằng tiền, riêng đối với cổ phiếu của
chính TCTD phát hành thì TCTD không được nhận làm TSCC.
+ Quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền
đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm, các quyền tài sản khác phát sinh từ hợp
đồng hoặc từ các căn cứ pháp lý khác.
+ Quyền đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp, kể cả trong doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài.
+ Quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên theo quy định của pháp luật.

+ Tàu biển theo quy định của Bộ luật Hàng Hải Việt Nam, tàu bay theo quy
định của luật Hàng không Dân dụng Việt Nam trong trường hợp được cầm cố.
+ Các tài sản khác theo quy định của pháp luật.
Đối với loại hình doanh nghiệp không phải là doanh nghiệp Nhà nước hoạt
động theo luật (như các Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Xí nghiệp
liên doanh với nước ngoài, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp tư
nhân, hợp tác xã) khi vay vốn nhất thiết phải thực hiện một trong các hình thức đảm
bảo nghĩa vụ trả tiền vay như sau:
+ Thế chấp
+ Cầm cố
+ Bảo lãnh của bên thứ 3.
Như vậy hoạt động cầm cố tại Sở thực chất là công việc giữa Sở với hệ thống

các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
vay của Sở có bảo đảm bằng tài sản cầm cố là rất ít, Sở rất ngại trong loại hình cho
vay này, vì phần lớn là rủi ro cao. Hiện nay Sở đang phát triển mạnh hoạt động cho
vay có tài sản cầm cố bảo đảm là sổ tiết kiệm, đặc biệt là càng thích hợp hơn với
những người kinh doanh, hộ kinh doanh, xí nghiệp kinh doanh vừa và nhỏ. Thủ tục
giao dịch trong loại hình cho vay này rất thuận tiện, nhanh chóng về cả 2 phía: Sở
và người vay. Ngân hàng không mất nhiều thời gian thẩm định dự án, xem xét kỹ
càng phương án kinh doanh của khách hàng vì sổ tiết kiệm có tính bảo đảm cao, còn
người vay có thể nhanh chóng có được một khoản tiền phục vụ kịp thời cho mục
đích của mình. Nhìn chung là những khoản tiền người vay muốn vay có bảo đảm
bằng sổ tiết kiệm là rất ít so với giá trị của Sở, Sở hoạt động linh hoạt hơn với loại
hình này.
Ví dụ một cá nhân muốn vay một khoản tiền, Sở sẽ phải lập bộ hồ sơ gồm 3
giấy sau: Biên bản hợp đồng tín dụng, giấy nhận nợ, giấy đề nghị xác nhận và
phong toả sổ tiết kiệm. Trong hợp đồng tín dụng khách hàng sẽ phải trình bày
chứng minh thư, điện thoại của mình, số tiền mình muốn vay, trình bày mục đích sử
dụng tiền của mình, thời hạn vay: thời hạn trả gốc và lãi; trị giá của sổ tiết kiệm.

Trên cơ sở hợp đồng tín dụng, ngân hàng sẽ lập giấy nhận nợ (chủ yếu là xác nhận
lại các thông tin trong hợp đồng tín dụng nhưng ngắn gọn hơn, ngoài ra người vay
còn phải khai báo thêm có dư nợ tại Sở hay không. Quan trọng trong giấy nhận nợ
là phải có đủ chữ ký của bên nhận nợ, của cán bộ tín dụng, của trưởng phòng kinh
doanh và cả chữ ký của giám đốc Sở giao dịch. Cuối cùng ngân hàng sẽ gửi giấy đề
nghị xác nhận và phong toả tới nơi đã phát hành sổ tiết kiệm, yêu cầu cơ quan đó
phải xác nhận và phong toả sổ tiết kiệm của người vay tại Sở. Sau khi cơ quan này
xác nhận và gửi lại giấy này thông báo cho Sở, lúc đó Sở mới tiến hành cầm cố sổ
tiết kiệm và giao cho người vay số tiền vay.
Ví dụ cụ thể: Theo hợp đồng tín dụng số 01 ngày 7/2/2002 bà Lê Minh Ngọc,
số chứng minh thư 141300062 do công an Hải Hưng cấp ngày 27/9/94, số điện
thoại 0913007379 muốn vay số tiền là 30 triệu đồng cho mục đích tiêu dùng, thời

giạn 3 tháng (từ 7/2/2002 đến 7/5/2002), lãi suất vay là 0,65% tháng (và bà Ngọc đã
chấp nhận mức lãi suất này). Thời điểm trả gốcvà lãi sẽ vào ngày7/5/2002. Giá trị
tài sản bảo đảm là sổ tiết kiệm trị giá 6000 USD, theo tỷ giá hôm đó 15.000
VNĐ/1USD. Sở đồng ý cho bà Ngọc vay và đông thời xác nhận trong giấy nhận nợ
là trước đó bà Ngọc không có dư nợ tại Sở. Tiếp đó sở gửi giấy đề nghị xác nhận và
phong toả tới quỹ tiết kiệm số 05 (là nơi bà Ngọc lập sổ tiết kiệm) thông báo bà
Ngọc đã dùng sổ tiết kiệm vào mục đích vay tiền tại Sở, yêu cầu quỹ tiết kiệm 05
xác nhận và phong toả sổ tiết kiệm của bà Ngọc. Quỹ tiết kiệm số 05 đã xác nhận bà
Ngọc lập sổ tiết kiệm tại đó và gửi lại giấy đề nghị, xác nhận và phong toả sổ, thông
báo đã phong toả sổ tiết kiệm của bà Ngọc (số tài khoản của sổ tiết kiệm bà Ngọc là
11.1.0037300.06; số tiền 6000 USD, ngày gửi 7/1/2002 và số dư đến ngày 7/2/2002
vẫn còn là 6000 USD).
Các doanh nghiệp nhỏ như Công ty tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn nếu
có tài sản bảo đảm là sổ tiết kiệm đứng tên chủ doanh nghiệp do Sở phát hành cũng
có thể vay cầm cố sổ tiết kiệm tại Sở giống như trên, cũng với thủ tục đơn giản, gọn
nhẹ, thuận lợi.

Nhìn chung hoạt động cầm cố sổ tiết kiệm của Sở đã tạo ra hướng kinh doanh
linh hoạt hơn cho cả Sở và khách hàng, nhanh chóng kịp thời cho mục đích kích cầu
đầu tư của cá nhân của doanh nghiệp, từ đó tạo ra thuận lợi cho kích cầu xã hội.
2.2 Thực trạng hoạt động bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp.
Theo tinh thần của thông tư 06, TSTC bao gồm:
+ Nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất, kể cả các tài sản gắn liền với nhà
ở, công trình xây dựng và các tài sản khác gắn liền với đất.
+ Quyền sử dụng đất mà pháp luật về đất đai quy định được thế chấp.
+ Trường hợp thế chấp toàn bộ tài sản có vật phụ, thì vật phụ đó cũng thuộc tài
sản thế chấp. Trong trường hợp thế chấp một phần bất động sản có vật phụ, thì vật
phụ chỉ thuộc tài sản thế chấp nếu các bên có thoả thuận.
+ Tàu biển theo quy định của Bộ luật Hàng hải Việt Nam. Tàu bay theo quy
định của luật Hàng không Dân dụng Việt Nam trong trường hợp được thế chấp.

+ Các tài sản khác theo quy định của pháp luật.
Do đặc điểm về khu vực địa lý là trung tâm Hà Nội, nơi tập trung nhiều các
doanh nghiệp nên đối tượng khách hàng của Sở vô cùng đa dạng bao gồm các
doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp Nhà nước, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công
ty cổ phần, hợp tác xã và tổ sản xuất, Công ty liên doanh … Tuy nhiên hoạt động
tín dụng của Sở giao dịch I thường tập trung chủ yếu vào khu vực kinh tế quốc
doanh, chính là các doanh nghiệp Nhà nước. Phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước
này lớn, làm ăn có uy tín, có hiệu quả, hơn nữa cho vay họ ít rủi ro hơn so với khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh nơi mà sự phức tạp và rủi ro luôn tiềm ẩn trong hoạt
động kinh doanh. Vì vậy hình thức bảo đảm tiền vay tại Sở giao dịch I chủ yếu bằng
tín chấp chiếm tới 86,99%, hình thức bảo lãnh chỉ là bảo lãnh bằng uy tín của người
bảo lãnh mà không có tài sản đảm bảo và do vậy chiếm tỷ lệ không đáng kể. Hình
thức cầm cố chủ yếu là cầm cố bằng sổ tiết kiệm tại chính Sở chiếm khoảng
10,31%. Còn hình thức thế chấp tài sản tuy chỉ chiếm tỷ trọng thấp khoảng 1,54%
nhưng đây lại là hình thức hữu hiệu nhất để thu hồi vốn cho Sở khi xảy ra rủi ro.

Nhưng cái khó cho hoạt động thế chấp của Sở là nhiều khách hàng thế chấp, họ
thuộc đủ mọi ngành nghề khác nhau dẫn tới lượng TSTC tại Sở vô cùng đa dạng
phong phú về tính năng và hoạt động của từng loại gây khó khăn cho công tác phát
mại TSTC tại Sở về sau này.
Các loại tài sản được thế chấp tại Sở chủ yếu bao gồm: nhà ở, quyền sử dụng
đất, các tài sản liên quan đến quá trình sản xuất kinh doanh như dây chuyền máy
móc thiết bị, hàng hoá … Các loại tài sản này đều có thị trường chuyên dụng để
mua bán, giao dịch, mặt khác việc phát mại các tài sản thế chấp này ngày càng
thuận lợi hơn do thẩm định và quản lý dễ dàng, nhu cầu của xã hội tăng, đáp ứng
nhu cầu phát triển công nghệ. Một số tài sản khác được phép thế chấp theo quy định
nhưng không thường được chấp nhận do khi phát mại gặp phải nhiều khó khăn về
thủ tục và quy trình xử lý cũng như hạn chế về khả năng, trình độ của cán bộ thẩm
định.

×