Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Phân tích luận điểm của hồ chí minh bao nhiêu lợi ích đều vì dân bao nhiêu quyền hạn đều của dân công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.48 KB, 19 trang )

lOMoARcPSD|10162138

Bộ Giáo dục và Đào tạo
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
====000====

BÀI TẬP LỚN
Mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh
ĐỀ TÀI
Phân tích luận điểm của

Hồ Chí Minh: “Bao nhiêu

lợi ích đều vì dân. Bao

nhiêu quyền hạn đều của

dân. Cơng việc đổi mới,

xây dựng là trách nhiệm

của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là cơng việc của dân. Chính quyền từ
xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra”
Tên sinh viên:
Bùi Phương Mai -11202434
Cầm Ngân Hà - 11201142
Trương Hồng Huế - 11192157
Nguyễn Hương Trà - 11207142
Nguyễn Phương Linh - 11202205

Đoàn Anh Phúc - 11203116


Nguyễn Hà Nhật Ánh - 11196270
Phùng Duy Hiếu - 11191969
Võ Xuân Khiêm - 11192587
Trần Thi Vân Chi - 11190878

Lớp tín chỉ: 10
Giáo viên hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thùy Linh

Hà Nội, 01/2022

MỤC LỤC


lOMoARcPSD|10162138

III. GIÁ TRỊ/Ý NGHĨA CỦA LUẬN ĐIỂM

11

IV. LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆT NAM HIỆN NAY 14
KẾT LUẬN

17

TÀI LIỆU THAM KHẢO 18

LỜI MỞ ĐẦU
Trong thiên Vương chế của sách Tuân Tử, ông viết: “Quân giả chu dã, thứ nhân giả thủy
dã; thủy tắc tái chu, thủy tắc phúc chu” (vua là thuyền vậy, thứ dân là nước vậy; nước thì chở
thuyền, nước lại lật thuyền). Tư tưởng tiến bộ đó của ông rất được những nhà nho chân chính ở

Trung Quốc và Việt Nam tán thưởng. Còn ở Việt Nam, trong bài thơ Quan hải, Nguyễn Trãi đã
từng nói: “Thung mộc trùng trùng hải lãng tiền/ Trầm giang thiết tỏa diệc đồ nhiên./ Phúc chu


lOMoARcPSD|10162138

thủy tín dân do thủy/ Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên”. Tạm dịch là “Lớp lớp rào lim ngăn
sóng biển/ Khóa sơng xích sắt cũng vầy thơi/ Lật thuyền mới rõ dân như nước/ Cậy hiểm khôn
xoay mệnh ở trời.”
Vốn tiếp thu tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăng ghen, V.I.Lênin nên thế giới quan, tư duy triết
học của Hồ Chí Minh là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Người đã
bảo vệ và phát triển tư duy triết học trên nền tảng triết học Mác - Lênin. Tuy nhiên khác với các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh khơng để lại một tác phẩm triết học
như: Hệ tư tưởng Đức, Luận cương Phoi-ơ-bắc, Biện chứng của tự nhiên, Bút ký triết học...
Chính vì, Người vốn sinh ra trong một gia đình nhà Nho, là người con dân Việt mang
theo những tư tưởng nhân nghĩa của người xưa mà học tập cùng truyền thống thương dân yêu
nước của dân tộc ta. Hồ Chí Minh đã tiếp thu và gắn kết những lối sống và hoạt động cách
mạng trong thời đại đã có chủ nghĩa Mác - Lênin soi sáng, dẫn đường và nhiệm vụ của Người là
cứu nước, cứu dân, giải phóng dân tộc khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng đem lại hồ bình, tự do,
hạnh phúc cho đồng bào. Chính nhiệm vụ này đã cuốn hút Người với tất cả tinh thần và sức lực,
làm cho Người sống gần gũi với nhân dân, đem tinh tuý, sâu sắc của triết học diễn đạt thành
những điều giản dị, cụ thể, rõ ràng và thiết thực để nhân dân dễ hiểu, dễ làm. Hồ Chí Minh vẫn
thường nhấn mạnh nhiệm vụ của những người cách mạng là phải làm cho dân hiểu, làm cho dân
giác ngộ để nâng cao được trách nhiệm làm chủ, nâng cao được ý thức trách nhiệm chăm lo xây
dựng Nhà nước của mình. Ở đây, Người đã khẳng định: Việc nước là việc chung, mỗi người đều
phải có trách nhiệm "ghé vai gánh vác một phần". Quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với
trách nhiệm, nghĩa vụ.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước Việt Nam mới, nhân dân có đủ điều
kiện, cả về pháp luật và thực tế, để tham gia quản lý nhà nước. Người nêu rõ quyền của dân,
Nhà nước do dân tạo ra và nhân dân tham gia quản lý. Nếu thực hiện được những điều này thì

dân mới giàu, nước mới mạnh. Có thể thấy, quan điểm về dân chủ giữ một vai trò vị trí quan
trọng trong hệ tư tưởng và chi phối mọi hoạt động của Người. Quan điểm dân chủ của Hồ Chí
Minh bắt nguồn từ khát vọng hàng ngàn đời của dân tộc Việt Nam, đồng thời tiếp thu chọn lọc
tinh hoa văn hóa của nhân loại và được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam.
Chính vì vậy, nhóm chúng em đã chọn quan điểm: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao
nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp
kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do
dân cử ra” của Người để phân tích. Trong khn khổ có hạn của bài tiểu luận, nhóm chỉ có thể
đề cập tới một số mặt của vấn đề mà khơng thể đi sâu vào tất cả khía cạnh được. Nhóm rất
mong nhận được sự góp ý, chỉnh sửa của cơ để bài tiểu luận này thêm phần hồn thiện hơn.
Nhóm chúng em xin chân thành cảm ơn!


lOMoARcPSD|10162138

I.

Cơ sở của luận điểm

1. Cơ sở thực tiễn
Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội Nghị Véc-xây bản “Yêu sách của Nhân dân An
Nam”, đòi các quyền tự do tối thiểu cho dân tộc mình. Đây là văn kiện pháp lý đầu tiên đặt vấn
đề kết hợp khăng khít quyền tự quyết của các dân tộc và quyền con người
Trên hành trình cứu nước của mình, Hồ Chí Minh đã khảo sát mơ hình Nhà nước tư sản
Mỹ, Pháp. Người phát hiện ra đằng sau những lời hoa mỹ về “quyền bình đẳng, quyền sống,
quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc” của Tun ngơn độc lập 1776, đó là sự bất bình đẳng,
sự nghèo đói, nạn phân biệt chủng tộc và biết bao tàn bạo, bất công khác . Người coi đó là
“Những cuộc Cách mạng khơng đến nơi” vì ở đó chính quyền vẫn ở trong tay một số ít người
Sau khi đến Liên Xơ, Người đã tìm thấy mơ hình nhà nước kiểu mới: “…phát ruộng cho
dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền,…ra sức tổ chức kinh tế mới, để thực hiện chủ nghĩa

thế giới đại đồng” đã gợi ý cho Người về một kiểu nhà nước sẽ được xây dựng ở Việt Nam
trong tương lai mà Người đã nêu ra trong Chương trình vắn tắt của Đảng nam 1930.
Từ mơ hình Nhà nước cơng nơng binh chuyển sang mơ hình Nhà nước đại biểu cho khối
đại đoàn kết của toàn thể quốc dân là một bước chuyển sáng suốt của Hồ Chí Minh, phản ánh
được nét đặc thù của thực tiễn dân tộc, phù hợp với sự chuyển hướng chiến lược và sách lược
của Cách mạng Việt Nam
2. Cơ sở lý luận
a. Những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trước hết là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
Trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam như: tinh thần đoàn kết, tương
thân- tương ái, yêu thương thiên nhiên và con người, chăm chỉ lao động, lạc quan yêu đời, ý chí
đấu tranh anh dũng, tự lực, tự cường,... thì chủ nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu xuyên suốt lịch
sử dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước đã trở thành động lực, sức mạnh truyền thống, đạo lý làm
người, niềm tự hào và là nhân tố hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần Việt Nam. Hồ Chí Minh
viết: "Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin
theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba".
2. Tinh hoa văn hóa nhân loại: phương Đông và phương Tây
Cùng với chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh cịn chịu ảnh hưởng của văn hóa phương
Đơng và phương Tây. Người đã tiếp thu và kế thừa có phê phán tư tưởng dân chủ, nhân văn của
văn hóa Phục hưng, thế kỷ ánh sáng, của cách mạng tư sản phương Tây như Pháp, Mỹ, Anh;
những giá trị tư tưởng của Nho giáo, kiêm ái của Mặc gia, thuận theo tự nhiên của Lão gia, từ bi
bác ái của nhà Phật đã góp phần hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước vì con
người, một nhà nước của dân, do dân và vì dân.
il.com)


lOMoARcPSD|10162138

3. Chủ nghĩa Mác - Lênin
Tháng 12 năm 1920, trong Đại hội thứ XVIII của Đảng xã hội Pháp họp ở thành phố Tua,
đồng chí Nguyễn ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng sản và tham gia thành lập

Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt trong đời hoạt động cách mạng của
Người, bước ngoặt từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản, bước ngoặt đứng hẳn về con
đường cách mạng tháng Mười, đứng hẳn về chủ nghĩa Mác- Lênin và đứng hẳn về Quốc tế cộng
sản. Chính thế giới quan và phương pháp luận Mác- Lênin đã giúp Hồ Chí Minh tổng kết lý
luận và kinh nghiệm thực tiễn của lồi người để tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân
tộc. Chủ nghĩa Mác- Lênin là nguồn gốc lý luận, cơ sở chủ yếu nhất của sự hình thành, phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh. "Khơng có chủ nghĩa Mác- Lênin thì cũng khơng có tư tưởng Hồ
Chí Minh sánh ngang tầm thời đại và giải quyết được những nhiệm vụ lịch sử của cách mạng
Việt Nam".
5. Trí tuệ và phẩm chất chính trị của Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh là hiện thân của trí tuệ, phẩm chất đạo đức và truyền thống văn hóa tốt đẹp
của dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh là người lịch thiệp, có lối sống và phong cách giản dị, giàu
lịng nhân ái, lại rất thông minh, sắc sảo, nhạy bén về chính trị, rất ham học hỏi, có tư duy độc
lập, sáng tạo, có trí tuệ un bác, kiến thức sâu rộng, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa của các dân
tộc trên thế giới. Đối với Người, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân. Sự ấm no, hạnh phúc của nhân dân là mục đích duy nhất trong mọi suy nghĩ cũng như hành
động của Người. Từ những suy nghĩ đó mà trong mọi hành động cũng như việc làm, Người luôn
luôn đặt địa vị và quyền lợi của nhân dân lên trên hết, trước hết. Người rất gương mẫu và cũng
luôn căn dặn, giáo dục cán bộ, đảng viên phải kính dân, trọng dân, yêu dân, gần dân, học dân,
tin tưởng vào trí tuệ và lực lượng của dân. Nét đặc biệt trong phong cách chính trị Hồ Chí Minh
là ln gần gũi với nhân dân, lắng nghe ý kiến của quần chúng, quan tâm đến mọi tầng lớp nhân
dân.
Như vậy, suốt chặng đường 30 năm đi tìm đường cứu nước, vừa lao động, vừa học tập,
nghiên cứu chủ nghĩa Mác- Lênin, vừa tham gia trực tiếp các phong trào đấu tranh của công
nhân và nhân dân lao động, Người đã tích lũy được những tri thức và kinh nghiệm phong phú,
từng bước hình thành tư tưởng lý luận và phương pháp cách mạng của mình. Thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn là nét nổi bật, đặc sắc thuộc về bản chất khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Mọi luận điểm của Người đều là những khái quát lý luận từ thực tiễn chính trị- xã hội, được
phân tích trên quan điểm lịch sử- cụ thể, quan điểm toàn diện, hệ thống và phát triển. Người
viết: "Thực hành sinh ra hiểu biết; Hiểu biết tiến lên lý luận; Lý luận lãnh đạo thực hành". Đó

là con đường của quá trình nhận thức các sự vật, hiện tượng; con đường hướng đến chân lý của
nhận thức.
II.

Nội dung của luận điểm


lOMoARcPSD|10162138

Với niềm tin vững chắc vào lực lượng to lớn của nhân dân, coi cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng, xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, cho đến lúc để lại Di
chúc, Bác ln dành tâm huyết bồi đắp, củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với
nhân dân thông qua cầu nối là công tác vận động quần chúng. Riêng trong năm 1949, khi sự
nghiệp kháng chiến, kiến quốc chuẩn bị bước vào những chiến dịch lớn, Chủ tịch Hồ Chí Minh
thường xun nói về cơng tác dân vận trong hàng chục văn bản, tác phẩm, bằng nhiều hình thức
thể hiện trên những diễn đàn được đông đảo cán bộ, chiến sĩ, đồng bào theo dõi như Báo Sự
thật, Báo Cứu Quốc, Báo Qn du kích... Trong đó, tác phẩm “Dân vận” với hình thức bài báo
chỉ gần 650 từ là kết tinh thể hiện một cách toàn diện, hoàn chỉnh, cô đọng, khúc chiết, dễ hiểu,
dễ nhớ tư tưởng Hồ Chí Minh về những vấn đề căn cốt nhất trong cơng tác dân vận của Đảng,
đó là mối quan hệ giữa dân chủ và dân vận; quan điểm, nguyên tắc tiến hành công tác dân vận;
trách nhiệm vận động quần chúng của cả hệ thống chính trị; phương pháp vận động quần chúng
và những phẩm chất cần có đối với cán bộ dân vận. Tư tưởng của Người về công tác dân vận thể
hiện trong bài báo này chính là sự tích tụ, phát triển đường lối chiến lược về tập hợp lực lượng
cách mạng và công tác vận động quần chúng đã được thể hiện trong nhiều tác phẩm nổi tiếng
trước đó.
Luận điểm:
“Nước ta là nước dân chủ:
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.

Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”
đã được đề cập đến trong phần mở đầu của tác phẩm “Dân vận”, thể hiện sâu sắc lý luận, tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò và mối tương quan giữa dân ta và Đảng trong quá
trình tiến lên Xã hội Chủ nghĩa của đất nước.
1. Khái quát về những quan điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của
dân, do dân, vì dân .
Tổ chức quyền lực nhà nước phải có sự phân cơng, phân quyền và kiểm tra, giám sát lẫn
nhau nhằm phòng tránh sự lạm quyền và bảo đảm chủ quyền của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh,
để nhà nước thực sự là của dân, do dân, vì dân thì trong tổ chức quyền lực nhà nước phải có sự
phân cơng, phân quyền rõ ràng, có sự kiểm tra và giám sát lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực.
5


lOMoARcPSD|10162138

Điều này khơng chỉ nhằm phịng tránh sự độc đốn, chuyên quyền dẫn đến lồng quyền, lạm
quyền, xâm hại đến các quyền, tự do và dân chủ của nhân dân mà cịn bảo đảm cho nhà nước
hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, có tinh thần trách nhiệm đối với nhân dân.
Xây dựng chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt; xây dựng chế độ trách nhiệm của nhà nước,
của chính phủ đối với nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, để có được chính quyền mạnh mẽ, sáng
suốt của nhân dân thì trong tổ chức bộ máy nhà nước còn phải tinh gọn, phân định rõ ràng chức
năng, nhiệm vụ và trách nhiệm giữa các cơ quan nhà nước, giữa chính quyền trung ương và địa
phương; phải giáo dục, bồi dưỡng và xây dựng được một đội ngũ cán bộ, công chức vừa hồng,
vừa chuyên; phải phát huy dân chủ rộng rãi và phải biết dựa vào nhân dân để xây dựng và cổng
cố chính quyền cách mạng. Bên cạnh đó, để có chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt và chịu trách
nhiệm trước nhân dân, theo Hồ Chí Minh cần phải có biện pháp phòng tránh và kiên quyết
chống lại những căn bệnh thường gặp trong bộ máy nhà nước như tham ô, lãng phí, quan liêu...

Nếu không thường xuyên và kiên quyết chống lại những căn bệnh đó sẽ làm hủy hoại, suy yếu
và biến dạng nhà nước.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức có phẩm chất đạo đức tốt, tinh thơng nghiệp vụ.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ, công chức là nguồn vốn của nhà nước; công việc thành
hay bại đều do cán bộ tốt hay xấu; chủ trương, chính sách dù có hay, có tốt mấy đi chăng nữa
nhưng nếu khơng có đội ngũ cán bộ với phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực chuyên mơn thì
cũng khơng thể thực hiện được. Do vậy, nhà nước chỉ thực sự là của dân, do dân, vì dân khi và
chỉ khi có được một đội ngũ cán bộ, công chức vừa hồng, vừa chuyên.
Xây dựng một nền tư pháp độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, là thành trì của cơng lý và lẽ
phải. Quan điểm và tư tưởng xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nền tư pháp trong nhà
nước của dân, do dân, vì dân là làm sao để tịa án được độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong
quá trình xét xử. Theo Người, chỉ có độc lập thì tịa án mới có đủ khả năng bảo vệ chế độ nhà
nước, chế độ xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ công lý và công bằng xã
hội.
Dân chủ và thực hành dân chủ trong tưởng Hồ Chí Minh mang những nét độc đáo. Tử
tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ được thể hiện rất rõ ở ba thành tố, đó là: triết lý về con người, về
công quyền và về thiết chế xã hội. Trước hết về con người, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, con
người là quý giá nhất. Nên mọi hoạt động của nhà nước, của xã hội, của mối người đều phải
nhằm mục đích đem đến những điều tốt đẹp nhất cho con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
"Trong bầu trời khơng gì quý bằng nhân dân". Thành tố thứ hai trong tư tưởng dân chủ của Hồ
Chí Minh là cơng quyền. Quyền của nhân dân, quyền của công dân, quyền của từng tập đồn
cơng dân trong dân tộc và trong xã hội. "Làm cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết
dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm". Đối với Hồ Chí Minh, quyền hạn ln đi đơi
với nghĩa vụ, với trách nhiệm. Thành tố thứ ba là thiết chế xã hội. Người đề cao tư tưởng về một
6


lOMoARcPSD|10162138

xã hội theo luật (thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật). Luật nêu rõ dân có

quyền hạn, có lợi ích, có trách nhiệm đối với nhà nước và xã hội. Chính phủ phải đặt lợi ích của
nhân dân nên trên hết, nếu làm hại dân thì dân có quyền đuổi. Đảng và đồn thể phải ở trong xã
hội, phải do dân tổ chức...
Kết hợp hài hòa giữa đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh
là một mẫu mực về sự kết hợp đạo đức và pháp luật, chú trọng giáo dục đạo đức đi đôi với
không ngừng tăng cường vai trò, sức mạnh của luật pháp. Đây chính là một nét đặc sắc trong tư
tưởng, phong cách Hồ Chí Minh về nhà nước, pháp luật và về quản lý xã hội.
2. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân
a. Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở chủ nghĩa lập hiến
Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, một nhà nước dân chủ, tiến bộ phải là một nhà nước
có Hiến pháp, cơ chế tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước phải được quy định trong Hiến
pháp. Một nhà nước không được tổ chức và hoạt động trên cơ sở những quy định của Hiến pháp
thể hiện ý chí của nhân dân thì nhà nước đó là bất hợp hiến, bất hợp pháp.
b. Nhà nước của dân
Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là xác lập tất cả mọi quyền lực trong nhà nước và
trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Trong 24 năm làm Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã lãnh đạo
soạn thảo hai bản Hiến pháp, đó là Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959. Quan điểm
trên của Người được thể hiện trong các bản Hiến pháp đó. Chẳng hạn, Hiến pháp năm 1946 nêu
rõ: Tất cả quyền bính trong nước đều là của tồn thể nhân dân Việt Nam, khơng phân biệt nịi
giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tơn giáo; những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa
ra toàn dân phúc quyết. Nhân dân lao động làm chủ Nhà nước thì dẫn đến một hệ quả là nhân
dân có quyền kiểm sốt Nhà nước, cử tri bầu ra các đại biểu, ủy quyền cho các đại biểu đó bàn
và quyết định những vấn đề quốc kế dân sinh. Đây thuộc về chế độ dân chủ đại diện bên cạnh
chế độ dân chủ trực tiếp. Quyền làm chủ và đồng thời cũng là quyền kiểm soát của 72 nhân dân
thể hiện ở chỗ nhân dân có quyền bãi miễn những đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân
dân nào nếu những đại biểu đó tỏ ra khơng xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Hồ Chí
Minh đã nêu lên quan điểm dân là chủ và dân làm chủ. Dân là chủ có nghĩa là xác định vị thế
của dân, cịn dân làm chủ có nghĩa là xác định quyền, nghĩa vụ của dân. Trong nhà nước của
dân, với ý nghĩa đó, người dân được hưởng mọi quyền dân chủ. Bằng thiết chế dân chủ, nhà
nước phải có trách nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của dân, để cho nhân dân thực thi quyền làm

chủ của mình trong hệ thống quyền lực của xã hội. Quyền lực của nhân dân được đặt ở vị trí tối
thượng. Điều này có ý nghĩa thực tế nhắc nhở những người lãnh đạo, những đại biểu của nhân
dân làm đúng chức trách và vị thế của mình, khơng phải là đứng trên nhân dân, coi khinh nhân
dân, "cậy thế" với dân, "quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân". Một nhà nước như
thế là một nhà nước tiến bộ trong bước đường phát triển của nhân loại. Nhà nước Việt Nam Dân


lOMoARcPSD|10162138

chủ Cộng hịa do Hồ Chí Minh khai sinh ngày 2-9-1945 chính là Nhà nước tiến bộ chưa từng có
trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam bởi vì Nhà nước đó là nhà nước của dân,
nhân dân có vai trị quyết định mọi cơng việc của đất nước.
c. Nhà nước do dân
Nhà nước do dân lập nên, do dân ủng hộ, dân làm chủ. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh
thường nhấn mạnh nhiệm vụ của những người cách mạng là phải làm cho dân hiểu, làm cho dân
giác ngộ để nâng cao được trách nhiệm làm chủ, nâng cao được ý thức trách nhiệm chăm lo xây
dựng nhà nước của mình. Hồ Chí Minh khẳng định: việc nước là việc chung, mỗi người đều
phải có trách nhiệm "ghé vai gánh vác một phần". Quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với
trách nhiệm, nghĩa vụ.
d. Nhà nước vì dân
Nhà nước vì dân là một nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu, tất
cả đều vì lợi ích của nhân dân, ngồi ra khơng có bất cứ một lợi ích nào khác. Đó là một nhà
nước trong sạch, khơng có bất kỳ một đặc quyền, đặc lợi nào. Trên tinh thần đó Hồ Chí Minh
nhấn mạnh: mọi đường lối, chính sách đều chỉ nhằm đưa lại quyền lợi cho dân; việc gì có lợi
cho dân dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng cố gắng tránh. Dân là gốc
của nước. Hồ Chí Minh ln ln tâm niệm: phải làm cho dân có ăn, phải làm cho dân có mặc,
phải làm cho dân có chỗ ở, phải làm cho dân được học hành. Cả cuộc đời Người " chỉ có một
mục đích là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân". Hồ Chí Minh viết:
"khi tơi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục
đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đồn kết, tranh được chính quyền, ủy thác cho tơi gánh việc

Chính phủ, tơi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng - cũng vì mục đích đó" . Một Nhà nước vì
dân, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là từ chủ tịch nước đến cơng chức bình thường đều phải
làm cơng bộc, làm đày tớ cho nhân dân chứ không phải "làm quan cách mạng" để "đè đầu cưỡi
cổ nhân dân" như dưới thời đế quốc thực dân. Ngay như chức vụ Chủ tịch nước của mình, Hồ
Chí Minh cũng quan niệm là do dân ủy thác cho và như vậy phải phục vụ nhân dân, tức là làm
đày tớ cho nhân dân. Hồ Chí Minh nói: "Tơi tuyệt nhiên khơng ham muốn cơng danh phú quý
chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tơi phải gắng sức làm,
cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào
cho tơi lui, thì tơi rất vui lịng lui... Riêng phần tơi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non
xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn
trâu, khơng dính líu gì với vịng danh lợi”
e. Nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân
Nhà nước của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh, khơng có nghĩa là "nhà
nước tồn dân", nhà nước phi giai cấp. Bản chất giai cấp công nhân thể hiện ở chỗ toàn bộ hoạt
động của nhà nước từ pháp luật, cơ chế, chính sách đến những nguyên tắc tổ chức và hoạt động
8


lOMoARcPSD|10162138

đều thể hiện tư tưởng, quan điểm của giai cấp công nhân, nhằm từng bước xây dựng quyền làm
chủ của nhân dân, phục vụ lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc. Bản
chất giai cấp cơng nhân, tính nhân dân và tính dân tộc của nhà nước trong tư tưởng Hồ Chí
Minh là thống nhất, hòa quyện với nhau, bắt nguồn từ sự thống nhất lợi ích của giai cấp cơng
nhân với lợi ích của nhân dân lao động và dân tộc.
f. Nhà nước kết hợp hài hòa giữa pháp luật và đạo đức trong trong quản lý xã hội
Theo Hồ Chí Minh, pháp luật không chỉ thể hiện quyền lợi công dân đơn thuần mà cịn
nhằm mục đích xây dựng một nền đạo đức xã hội đảm bảo cho mọi người có cuộc sống lương
thiện, hạnh phúc, kẻ ác phải bị trừng phạt. Theo tác giả Vũ Đình Hịe, ở Hồ Chí Minh, đạo đức
là gốc, pháp luật là chuẩn. Đạo đức và pháp luật hỗ trợ, bổ sung cho nhau để hạn chế cái ác,

hướng tới cái thiện. Đạo đức, đối với Hồ Chí Minh, khơng những là cơ sở của pháp luật, của
quyền lực của pháp luật, mà còn song hành với việc thực hiện pháp luật. Người thực hiện pháp
luật cũng phải là người có đạo đức. Người chủ trương quản lý xã hội bằng pháp luật kết hợp với
đạo đức, có lý, có tình. Tư tưởng của Người là: "khơng dùng xử phạt là khơng đúng, song chút
gì cũng dùng đến hình phạt cũng khơng đúng". Thực hành kết hợp "đức trị" với "pháp trị" dựa
trên cơ sở đạo đức và cụ thể hóa ở các quy định pháp luật là tư tưởng xuyên suốt của Người. Tư
tưởng Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, thực hành nghiêm chỉnh pháp trị là ta đã đạt tới trình độ cao của
đức trị. Đức trị là biểu hiện ở sự bình đẳng, pháp trị cũng biểu hiện ở sự bình đẳng. Đây là chỗ
gặp nhau giữa đức trị và pháp trị.
h. Tổ chức quyền lực nhà nước hợp lý và khoa học, đảm bảo chủ quyền của nhân dân; xây dựng
chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ nhân dân, thống nhất
thuộc về một chủ thể duy nhất là nhân dân. Trong quá trình tổ chức và thực thi quyền lực phải
có sự phơng cơng, phân quyền rõ ràng, nhằm phịng tránh sự chun quyền, độc đốn; góp phần
phát huy dân chủ và nêu cao tinh thần trách nhiệm của các cơ quan nhà nước. Nguyên tắc chung
trong xây dựng bộ máy nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh đó là:
Thứ nhất: Xây dựng Quốc hội (Nghị viện nhân dân) là cơ quan quyền lực cao nhất, cơ
quan đại diện cao nhất cho ý chí, nguyện vọng và lợi ích của tồn thể nhân dân Việt Nam.
Thứ hai: Xây dựng Chính phủ trong sạch, mạnh mẽ, hiệu lực, hiệu quả và dám chịu trách
nhiệm trước nhân dân về những hoạt động của mình.
Thứ ba: Về tổ chức chính quyền địa phương, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cao vai trị
quan trọng và khơng thể thay thế của chính quyền địa phương trong tổng thể bộ máy nhà nước ở
địa phương, Hội đồng nhân dân được xem như là một cơ quan "tự quản" của nhân dân, một cơ
quan quyết định về những vấn đề có tính địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra và chịu
trách nhiệm trước nhân dân địa phương.
9


lOMoARcPSD|10162138


Thứ tư: Trong xây dựng, thiết kế tổ chức bộ máy nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln
nhất qn nguyên tắc đảm bảo cho Tòa án được độc lập trong tổ chức và hoạt động. Thẩm phán
chỉ trọng pháp luật và công lý, các nhánh quyền lực khác không được can thiệp. Khi xét xử
thẩm phán chỉ theo pháp luật và lương tâm của mình, khơng một quyền lực nào được can thiệp
trực tiếp hay gián tiếp vào việc xét xử.
Như vậy, tư tưởng trọng dân, luôn đặt nhân dân ở vị trí trung tâm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh trước hết khởi nguồn từ lịng u nước thương nịi, từ những trải nghiệm của chính Người
trong những năm tháng cần lao vô sản, từ niềm tự hào, kế thừa và phát triển truyền thống quý
báu về tập hợp sức mạnh quần chúng nhân dân được hun đúc qua suốt chiều dài lịch sử dựng
nước và giữ nước của dân tộc, kết hợp với sự vận dụng sáng tạo giá trị lý luận thời đại của chủ
nghĩa Mác - Lênin về công tác vận động quần chúng: “Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng”. Một chữ “dân” được Người sử dụng gắn với sự nhấn mạnh “vì dân”, “của dân”, “do
dân cử ra”, “do dân tổ chức nên” hàm chứa giá trị biểu đạt rất phong phú về quốc dân đồng
bào, về nòi giống Rồng Tiên, về dân tộc Việt Nam, các giai tầng xã hội, các thế hệ, các giới, các
cơ quan, tổ chức, đoàn thể, cộng đồng... Dân chính là tập hợp lực lượng cách mạng của những
người chung lòng yêu nước, cùng gánh vác sứ mệnh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đồng thời, luận điểm này của chủ tịch Hồ Chí Minh cịn thể hiện quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân, đặc biệt chữ “dân” được Người nhắc đến nhiều lần trong từng câu, đó là
nguyên lý cơ bản để xây dựng những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng ta đối với sự
nghiệp cách mạng Việt Nam và nguyên tắc hoạt động của chính quyền cách mạng - tiền thân
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự
lãnh đạo của Đảng hiện nay. Vì vậy mà qua luận điểm này Bác muốn đề cao về vai trò của nhân
dân, bản chất dân chủ của Nhà nước ta đối với bối cảnh lịch sử bấy giờ. Nước ta là một nước
dân chủ, do đó mọi quyền hành và lực lượng đều là của nhân dân, từ nhân dân mà ra.
Bên cạnh đó, qua luận điểm này Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn nhấn mạnh tình cảm khăng
khít giữa dân với Đảng và Nhà nước. Dân là gốc của nước, của cách mạng, Đảng và Nhà nước
là từ dân mà ra từ “Trung ương đến xã”. Với Hồ Chí Minh, nhân dân là chủ thể tích cực của
lịch sử, là giá trị quý báu nhất, cao nhất. Tài dân, sức dân là nguồn lực quan trọng nhất của phát
triển. Muốn phát huy được nguồn lực quan trọng này để phục vụ sự nghiệp cách mạng địi hỏi
Đảng phải "hịa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng

nghe ý kiến của quần chúng", phải hiểu dân, phải học từ nhân dân, phải nêu cao tinh thần gương
mẫu, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phụng vụ nhân dân. Cả Đảng và nhân dân đều phải đồng cam
cộng khổ, cùng chung sức để làm nên chiến thắng dân tộc.
Cách mạng được coi là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân; vấn đề cốt tử là làm sao để
nhân dân thực sự làm chủ vận mệnh của đất nước. Để quyền làm chủ của nhân dân được bảo
đảm và thực thi trong cuộc sống, cần xây dựng và hoàn thiện thể chế, phương thức, cơ chế thực
10


lOMoARcPSD|10162138

hiện. Người chỉ rõ, phải xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, trong đó nhân dân thực hiện
quyền làm chủ của mình bằng Nhà nước pháp quyền và các tổ chức xã hội do chính họ lập ra và
quản lý. Theo đó, nhân dân vừa là người cử ra chính quyền các cấp, vừa là người quản lý, kiểm
tra, kiểm sốt tồn bộ hoạt động của bộ máy quyền lực đó. Quan điểm về quyền làm chủ đất
nước và xã hội của nhân dân được Lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng ta đề cập hết sức đầy đủ và
sâu sắc; được thể chế hóa trong các bản Hiến pháp.
III.

Giá trị/ý nghĩa của luận điểm

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ vai trò của dân chủ, coi dân chủ là nhân tố động
lực của sự phát triển; thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn.
Trong suốt chiều dài lịch sử, nhân dân ta chịu biết bao hy sinh, gian khổ làm cách mạng,
giành lấy chính quyền cũng chính vì lợi ích của bản thân, gia đình, cộng đồng và dân tộc nhằm
thốt khỏi kiếp sống nơ lệ, có được độc lập, tự do. Đảng ta và Bác Hồ thấu hiểu được chân lý
đó, đã giương cao lá cờ đại đoàn kết toàn dân tộc, làm nên Cách mạng Tháng Tám thành công,
dựng lên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một nhà nước kiểu mới, nhà nước dân chủ, nghĩa
là mọi hoạt động của nhà nước dân chủ do nhân dân lập lên phải quán triệt sâu sắc “Bao nhiêu
lợi ích đều vì dân”, chứ khơng vì bất cứ mục tiêu nào khác. Nhà nước ta đã tập hợp và phát huy

sức mạnh ngày càng đông đảo nhân dân trong việc mưu cầu hạnh phúc cho dân, xây dựng và
bảo vệ Nhà nước ngày càng vững mạnh. “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân” mang ý nghĩa trước hết
là phép thử quan trọng nhất để phân biệt bản chất các loại nhà nước. Dù với bất kỳ danh hiệu gì,
nhưng nếu nhà nước đó khơng lấy mục tiêu phục vụ nhân dân làm hàng đầu, không giành mọi
thuận lợi cho dân thì khơng thể nói đó là nhà nước của nhân dân, nhà nước dân chủ. Ngoài ra
quan niệm này cũng là phương hướng tu dưỡng rèn luyện tư tưởng quan trọng nhất của mỗi cán
bộ, đảng viên và công chức. Bác Hồ hết sức coi trọng điểm này trong việc giáo dục đạo đức
cách mạng cho cán bộ, đảng viên, cơng chức; bản thân Bác tự mình làm gương bằng cả cuộc đời
hết lòng phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân của mình.
Nói đến nhà nước là nói đến quyền hành, quyền lực, quyền hạn. Nhà nước quản lý và tổ
chức xã hội bằng “quyền” của mình, thông qua luật pháp. Bác Hồ sử dụng khái niệm “quyền
hạn”, đây là cách dùng từ rất thích hợp, vì nói lên quyền lực, quyền hành về bản chất là của ai
trong chính quyền nhân dân. Nhân dân làm cách mạng giành được chính quyền thì “quyền
hành”, “quyền lực” phải thuộc về nhân dân hay như Bác từng nói “Bao nhiêu quyền hạn đều
của dân”. Nghĩa là nhân dân “ủy quyền” cho nhà nước một phần quyền hành, quyền lực của
mình theo Hiến pháp, pháp luật để nhà nước thực hành phận sự trước nhân dân. Ngay cả quyền
lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng là do sự ủy quyền của nhân dân. Nhân dân theo
dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn của mình có đúng, có tn thủ đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật
khơng. Lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước trong các phát biểu gần đây đều nhấn mạnh,
11

Downloaded by Quang Tran ()


lOMoARcPSD|10162138

coi trọng việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân và được nhân dân đồng tình, đón nhận.
Thực tiễn nhiều năm thực hiện cơ chế quản lý tập trung bao cấp trước thời kỳ đổi mới, do hoàn
cảnh lịch sử của thời kỳ đó, quyền làm chủ của nhân dân chưa thực sự được phát huy, việc huy

động sự đóng góp và sức dân vẫn cịn nặng nề, mệnh lệnh hành chính. Xuất phát từ thực tiễn đó,
trong nhiệm kỳ Đại hội lần thứ V của Đảng (1981 - 1986), Đảng ta đã đề ra chủ trương “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, đây là một trong những nội dung đặc biệt nhấn mạnh về
tầm quan trọng của cơng tác vận động quần chúng. Có thể nói, lần đầu tiên, phương châm “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” được Đảng ta chính thức đề ra, trở thành một chủ trương
lớn, một phương châm hành động cụ thể. Trong nhiều cuộc họp của Ban Chấp hành Trung ương
các khóa tiếp theo, quyền làm chủ của nhân dân luôn được đề cao, phát huy. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII đã bổ sung nội dung “dân giám sát”, "dân thụ hưởng” vào nội dung
phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Đây là sự phát triển tư duy lý luận,
hoàn thiện chủ trương của Đảng về dân chủ. Sự phát triển, hoàn thiện đó có ý nghĩa thiết thực,
quan trọng trong xây dựng và phát huy nguồn lực con người, là động lực, yếu tố sống cịn, có ý
nghĩa quyết định đối với công cuộc xây dựng, phát triển đất nước giai đoạn tiếp theo.
Tuy nhiên, không chỉ nhấn mạnh phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân. Thực
tế cịn có mặt thứ hai là chấp hành pháp luật, thực hiện kỷ cương không nghiêm. Không nên
“đánh đổ đồng” cả 2 mặt này rồi đổ lỗi cho ta vừa qua quá nhấn mạnh dân chủ hoặc do “trình
độ dân trí” thấp; ngược lại, nhiều khi lại do chính mặt yếu thứ nhất gây ra. Nhưng dù thế nào
thì việc tăng cường vận động giáo dục, thực hành nghiêm pháp luật, kỷ cương lúc này cũng hết
sức quan trọng và cấp bách, không chỉ trong nhân dân mà cả trong hệ thống chính trị, nhằm xây
dựng một xã hội thượng tơn pháp luật. Có như vậy xã hội ta mới tiến lên được.
Bác Hồ nói rất nhiều về lực lượng vĩ đại của nhân dân, của dân tộc Việt Nam ta. Ơng cha
ta đã từng khẳng định: “Chúng chí thành thành” (Trần Quốc Tuấn), “Chở thuyền là dân, lật
thuyền là dân” (Nguyễn Trãi)… Khi nói về nhân dân, con mắt của Bác thường bao quát toàn bộ
dân tộc, nhấn mạnh “Tất cả lực lượng của mọi người dân, không bỏ sót một người dân nào”;
Đảng phải coi đại đồn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược cơ bản, lâu dài; đoàn kết phải
chân thành, triệt để, rộng khắp. “Tất cả lực lượng của mọi người dân…” thì “tất cả” có nghĩa
khơng chỉ là lực lượng vật chất mà còn bao gồm cả lực lượng tinh thần. Đảng phải biết cách
khai thác sức mạnh trí tuệ của nhân dân, nhất là trong những khúc quanh của lịch sử. Nhân dân
ta khơng những có lịng u nước nồng nàn mà cịn rất thơng minh, sáng tạo. Bác Hồ đã từng
nói: Có những việc cấp trên nghĩ mãi khơng ra nhưng dân chúng đã có sẵn lời giải. Trong nhân
dân có câu mà Bác thường nhắc: “Khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Theo Chủ tịch Hồ Chí

Minh, phải tin ở dân, gần gũi với dân, kính trọng dân và biết dựa vào dân, phải nhận thức rõ:
“Dân chúng rất khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng. Vì vậy, chúng ta phải học dân chúng,
phải hỏi dân chúng, phải hiểu dân chúng”; “có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn
mấy làm cũng được. Khơng có, thì việc gì làm cũng khơng xong. Dân chúng biết giải quyết
12

Downloaded by Quang Tran ()


lOMoARcPSD|10162138

nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể
to lớn, nghĩ mãi không ra”.
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân : Kháng chiến là công việc hệ
trọng, được đặt lên hàng đầu khi đất nước bị thực dân, đế quốc xâm lược. Nhưng cùng với
kháng chiến là phải tích cực thực hiện cơng cuộc kiến thiết đất nước, củng cố chính quyền cách
mạng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng chế độ mới trong những vùng chiến tranh
chưa lan tới, vùng căn cứ rộng lớn dưới sự kiểm sốt của chính quyền cách mạng. Có chủ động
kiến thiết, xây dựng chế độ mới về mọi mặt, thì mới xóa bỏ được tàn tích của chế độ thực dân,
phong kiến, củng cố chính quyền Nhà nước, phát huy được quyền làm chủ và sức mạnh của
nhân dân để đẩy mạnh kháng chiến. Đồng thời, kiến thiết, xây dựng còn tạo tiền đề để đưa sự
nghiệp cách mạng tiếp tục tiến lên sau khi kháng chiến thắng lợi. Vừa kháng chiến, vừa kiến
quốc - hai nhiệm vụ này được gắn kết chặt chẽ với nhau trong suốt quá trình chống chiến tranh
xâm lược.
Để đẩy mạnh sự nghiệp kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở
đồng bào và chiến sĩ ta phải ra sức lao động sản xuất, thực hiện “thực túc, binh cường”. Người
kêu gọi: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa!… Đó là cách
thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do, độc lập”. Người nêu rõ mối quan hệ khăng
khít giữa kháng chiến và kiến quốc: “Vì cứu quốc, các chiến sĩ đấu tranh ở ngồi mặt trận, vì
kiến quốc, nhà nơng phấn đấu ngồi đồng ruộng. Chiến sĩ ra sức giữ gìn nước non. Nhà nơng

ra sức giúp đỡ chiến sĩ. Hai bên công việc khác nhau, nhưng thật ra là hợp tác. Cho nên hai
bên đều có cơng với dân tộc, đều là anh hùng”. Tư tưởng của Bác về kháng chiến đi đôi với
kiến quốc trở thành quan điểm chỉ đạo chiến lược của Đảng ta là vừa tích cực đánh giặc ngồi
mặt trận, vừa tích cực tăng gia sản xuất, xây dựng chế độ mới ở hậu phương - căn cứ địa vững
chắc, tạo cơ sở cho kháng chiến lâu dài giành thắng lợi. Có kháng chiến làm thất bại từng bước,
tiến tới đánh bại hoàn toàn bọn thực dân xâm lược và tay sai của chúng, thì chúng ta mới bảo vệ
được thành quả cách mạng, hồn thành sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra: Nhân dân là chủ thể của
quyền lực chính trị - xã hội, thể chế chính trị dân chủ phải bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về
nhân dân, nhân dân là người có quyền quyết định vận mệnh của quốc gia - dân tộc . Do đó, nhân
dân phải có trách nhiệm và nghĩa vụ xây dựng, củng cố và thực hành quyền lực của mình thơng
qua hệ thống chính trị và thể chế chính trị dân chủ, xây dựng và củng cố bộ máy quản lý nhà
nước nhằm hướng tới phục vụ lợi ích của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng ta
phải hiểu rằng, các cơ quan Chính phủ từ tồn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của
dân... Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại đến dân, ta phải hết sức tránh.
Chúng ta phải u dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Nhà nước của dân là nhà nước
mà ở đó tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước. Nhân
13

Downloaded by Quang Tran ()


lOMoARcPSD|10162138

dân là gốc, là chủ của quyền lực nhà nước, bao nhiêu quyền hạn của Nhà nước đều là của nhân
dân. Vì thế đội ngũ cán bộ của chính quyền các cấp là đầy tớ trung thành của nhân dân, là công
bộc của nhân dân, chứ không phải là cha mẹ dân, cai trị dân như nhà nước của chế độ bóc lột
trước đây.
Nhìn chung, luận điểm này khơng chỉ là mục tiêu mà còn là động lực để khơi dậy sức

mạnh và nguồn lực nhân dân trong quá trình hiện thực hóa chủ trương, chính sách, pháp luật của
Đảng, Nhà nước vào cuộc sống. Đó cũng chính là động lực quan trọng để hiện thực hóa định
hướng và tầm nhìn trong giai đoạn mới, hiện thực hóa khát vọng đưa đất nước phát triển phồn
vinh, hạnh phúc, đồng thời đó cũng là mục tiêu hướng tới của CNXH mà Bác Hồ, Đảng và nhân
dân ta lựa chọn, xây dựng, phát triển đất nước “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”.

IV.

Liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, quan điểm xuyên suốt của Đảng ta, đó là: “Dân chủ
xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
đất nước”. Để đáp ứng yêu cầu mở rộng dân chủ, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ
trương, chính sách phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Đại hội VI của Đảng mở đầu công cuộc đổi mới đã đề ra phương châm "Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra" và đúc kết bài học kinh nghiệm: "Trong tồn bộ hoạt động của
mình, Đảng phải qn triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc", xây dựng và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân lao động".
Trải qua những sự thay đổi từ chủ trương, chính sách qua các Đại hội nhằm đưa ra quan
điểm rõ ràng về quyền làm chủ của nhân dân thì Nghị quyết Đại hội XII của Đảng tiếp tục nêu
rõ: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất
phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý
kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định
liên quan đến lợi ích, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình
thực hiện. Tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ
của nhân dân”,“Thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra”.

Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và việc bảo đảm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước
ta hiện nay không chỉ được khẳng định trong chủ trương, đường lối của Đảng mà còn được thể
14

Downloaded by Quang Tran ()


lOMoARcPSD|10162138

chế hóa và bảo đảm thực hiện thơng qua Hiến pháp và hệ thống pháp luật của Nhà nước. Trên
phương diện xây dựng, hồn thiện thể chế chính sách, pháp luật về thực hiện dân chủ, Đại hội
XII đánh giá: “Đảng và Nhà nước tiếp tục ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật
nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được xác định đầy đủ hơn trong Hiến
pháp năm 2013 và trong hệ thống pháp luật mới được ban hành và sửa đổi. Khẳng định rõ các
quyền con người, quyền cơng dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được cơng nhận,
tơn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và
trách nhiệm đối với xã hội”.
Minh chứng sống động cho đánh giá trên của Đảng là nguyên tắc hiến định về thực hành,
phát huy dân chủ được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, như: “1. Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân,
vì Nhân dân; 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức” (Điều 2);“Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của
Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh, mọi người đều có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” (Điều 3); “Nhân dân thực hiện
quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội
đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”(Điều 6)... Quyền dân chủ của
nhân dân còn được ghi nhận tại Chương II Hiến pháp năm 2013 (quy định về quyền con người,

quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân) cũng như trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật
khác, như: Luâ ̣t ban hành văn bản quy phạm pháp luâ ̣t, Luật trưng cầu dân ý, Luật đất đai, Bộ
luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tổ chức Quốc hội, Luâ ̣t tổ chức Chính phủ,
Luâ ̣t tổ chức Chính quyền địa phương, Luâ ̣t tiếp câ ̣n thơng tin, Luật báo chí, Luật phổ biến, giáo
dục pháp luật, Bộ luật lao động, Luật bảo hiểm y tế…
Ngoài ra, trong gần 35 năm đổi mới, tư tưởng dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục
được vận dụng sáng tạo để củng cố mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân trong bối cảnh phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế. Vấn đề thực hành dân chủ, tăng cường mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân
dân trong thời kỳ đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã đạt được một số kết quả quan trọng.
Thứ nhất, thể chế hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, bảo đảm sự gắn bó mật thiết giữa Nhà
nước với nhân dân từng bước được tiến hành một cách đồng bộ, toàn diện. Điều 69 Hiến pháp
năm 2013 quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực
cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.” Theo đó, nhân dân thực hiện quyền
lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, hội đồng nhân dân
các cấp và các cơ quan khác của Nhà nước. Chính phủ với tư cách là cơ quan “thực hiện quyền
15

Downloaded by Quang Tran ()


lOMoARcPSD|10162138

hành pháp”, cơ quan hành chính cao nhất và là cơ quan chấp hành của Quốc hội đã chú trọng
đề cao tính dân chủ và tính pháp quyền trong điều hành, hướng đến xây dựng nền hành chính
thống nhất, thơng suốt, trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực và hiệu quả. Thứ hai, sự tham gia
của nhân dân vào đời sống chính trị và quản lý nhà nước ngày càng gia tăng. Trên cơ sở triển
khai thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội đã tổ chức vận động nhân dân tham gia tích cực vào việc thực hiện Hiến pháp

và pháp luật; đồng thời, không ngừng đổi mới phương thức, nội dung giám sát, phản biện xã
hội, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước. Thứ ba, việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức có sự phát triển đồng bộ cả về năng lực và phẩm chất, góp phần quan trọng vào xây dựng
Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ là cái gốc của mọi cơng
việc. Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức có đủ năng lực và phẩm chất tham
gia vào bộ máy quản lý nhà nước trong thời kỳ đổi mới đã được Đảng và Nhà nước ta hết sức
quan tâm.
Bên cạnh việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng thì vẫn cịn những vấn đề cần
phải giải quyết như:
Nhận thức về vai trò, địa vị của nhân dân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn
cịn chưa đầy đủ và tồn diện. Quyền tiếp cận thơng tin của nhân dân được luật hóa; tuy nhiên,
trong nhiều lĩnh vực hoạt động cũng như ở một số cơ quan nhà nước, kể cả ở Trung ương và địa
phương, vấn đề minh bạch hóa thơng tin, nhất là trong công tác tổ chức cán bộ, thi tuyển, bổ
nhiệm cán bộ, cơng khai hóa các dự án để đấu thầu, minh bạch hóa tài sản và thu nhập cá nhân,
quản lý tài nguyên, môi trường, quản lý tài chính cơng vẫn cịn hạn chế. Trách nhiệm giải trình
và xử lý sau giải trình thơng qua các kỳ họp Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp cho thấy
hiệu quả chưa cao, chưa đồng bộ. Vai trò kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước của Quốc hội,
hội đồng nhân dân các cấp và vai trò phản biện, giám sát xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức thành viên chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Các phương thức thực hiện quyền làm
chủ trực tiếp còn hạn chế. Vấn đề “bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá
trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân” còn bất cập. Hơn
nữa, vấn đề quan tâm đến việc hưởng thụ các thành quả lao động sáng tạo của nhân dân còn bộc
lộ nhiều thiếu sót, dẫn đến tình trạng phân hóa xã hội, lợi ích nhóm gia tăng, nguy cơ nghèo và
tái nghèo tiềm ẩn cao.

KẾT LUẬN

16

Downloaded by Quang Tran ()



lOMoARcPSD|10162138

Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ là tài sản quý báu mà Đảng ta đã, đang kế thừa
để phát huy nhằm xây dựng đất nước. Trải qua hơn 60 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng ta
đã vận dụng một cách sáng tạo những quan điểm của Hồ Chí Minh vào xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
Trong giai đoạn hiện nay, có khơng ít những cá nhân và thế lực phản động vẫn tiếp tục
thực hiện âm mưu "diễn biến hịa bình" gây bạo loạn lật đổ chính quyền. Đặc biệt với tình hình
đất nước đang phải đối mặt với dịch covid 19 hoành hành cũng sẽ có những cá nhân và thế lực
xấu sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" hòng gây mất ổn định chính trị, phá hoại
chế độ dân chủ nhân dân. Trong khi đó, quyền dân chủ của nhân dân ở một số nơi bị vi phạm
trên một số lĩnh vực. Việc thực hành dân chủ còn mang tính hình thức, có tình trạng lợi dụng
dân chủ gây chia rẽ làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối ảnh hưởng đến trật tự an tồn xã hội. Tình
trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí cịn rất nghiêm trọng với những biểu hiện tinh vi, phức
tạp chưa được ngăn chặn gây bức xúc cho xã hội. Tình hình trên cho thấy cần phải phát huy hơn
nữa dân chủ xã hội chủ nghĩa bằng cách vận dụng một cách sáng tạo những quan điểm dân chủ
của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam. Dân chủ chỉ có được khi đảm bảo
tất cả các quyền lực thuộc về nhân dân, mọi đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân. Cán bộ cơng chức phải hồn thành tốt chức trách
được giao, tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, đồng thời phải tạo điều kiện để nhân
dân thực hiện quyền dân chủ của mình. Có như vậy thì mới thực hiện thắng lợi mục tiêu của
Đảng và Nhà nước ta về xây dựng một nước Việt Nam: độc lập dân tộc, xã hội công bằng, dân
chủ văn minh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đại học Kinh tế Quốc dân.
2.Vũ Thị Hiên (2020), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân”, báo Dân vận, xem tại: Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và phát huy

quyền làm chủ của nhân dân | Ban Dân vận Trung ương (danvan.vn)
17

Downloaded by Quang Tran ()


lOMoARcPSD|10162138

3.Cổng thông tin điện tử tỉnh Tuyên Quang (2021),“Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” và vấn đề đặt ra trong công tác bảo vệ an ninh, trật
tự hiện nay”, xem tại “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ
hưởng” và vấn đề đặt ra trong công tác bảo vệ an ninh, trật tự hiện nay
(tuyenquang.gov.vn)
4.Dân vận (2019), “Luận điểm cơ bản về xây dựng Nhà nước ta trong bài báo “Dân vận”
của Bác Hồ”, xem tại: Luận điểm cơ bản về xây dựng Nhà nước ta trong bài báo “Dân
vận” của Bác Hồ | Ban Dân vận Trung ương (danvan.vn)
5.Tạp chí Tuyên giáo (2020), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và yêu cầu củng cố mối
quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân trong giai đoạn hiện nay”, xem tại: Tư tưởng Hồ
Chí Minh về dân chủ và yêu cầu củng cố mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân trong
giai đoạn hiện nay (tuyengiao.vn)
6. Liên đoàn Lao động tỉnh Quảng Trị (2021), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, xem tại: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
(congdoan.quangtri.gov.vn)

18

Downloaded by Quang Tran ()




×