Tải bản đầy đủ (.docx) (194 trang)

Năng lực sư phạm của giảng viên trẻ khoa học xã hội và nhân văn ở các trường sĩ quan quân đội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (946.01 KB, 194 trang )

BỘ QUỐC PHỊNG

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN HỮU TUẤN

NĂNG LỰC SƯ PHẠM CỦA GIẢNG VIÊN TRẺ KHOA
HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Ở CÁC TRƯỜNG SĨ QUAN
QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2022


BỘ QUỐC PHỊNG

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN HỮU TUẤN

NĂNG LỰC SƯ PHẠM CỦA GIẢNG VIÊN TRẺ KHOA
HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Ở CÁC TRƯỜNG SĨ QUAN
QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
Mã số

: 922 90 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS. TS Trần Hậu Tân
2. PGS. TS Bùi Mạnh Hùng

HÀ NỘI - NĂM 2022


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực có
xuất xứ rõ ràng
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Hữu Tuấn


MỤC LỤC
TRANG BÌA PHỤ LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1.

1.2.
Chương 2


2.1.
2.2.
Chương 3

3.1.
3.2.
Chương 4

4.1.

Những cơng trình khoa học tiêu biểu liên quan đến đề tài
luận án
Giá trị của các cơng trình khoa học đã tổng quan đối với đề
tài luận án và những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC SƯ
PHẠM CỦA GIẢNG VIÊN TRẺ KHOA HỌC XÃ
HỘI VÀ NHÂN VĂN Ở CÁC TRƯỜNG SĨ QUAN
QUÂN ĐỘI

Quan niệm năng lực sư phạm của giảng viên khoa học xã
hội và nhân văn và năng lực sư phạm của giảng viên trẻ
khoa học xã hội và nhân văn ở các trường sĩ quan quân đội
Những nhân tố cơ bản quy định năng lực sư phạm của giảng
viên trẻ khoa học xã hội và nhân văn ở các trường sĩ quan
quân đội

THỰC TRẠNG NĂNG LỰC SƯ PHẠM VÀ MỘT
SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI NÂNG CAO NĂNG
LỰC SƯ PHẠM CỦA GIẢNG VIÊN TRẺ KHOA
HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Ở CÁC TRƯỜNG SĨ

QUAN QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

Trang

5
10
10
26

32
32
54

72
Thực trạng năng lực sư phạm của giảng viên trẻ khoa học xã
hội và nhân văn ở các trường sĩ quan quân đội hiện nay
72
Một số vấn đề đặt ra đối với nâng cao năng lực sư phạm của
giảng viên trẻ khoa học xã hội và nhân văn ở các trường sĩ
quan quân đội hiện nay
102
GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO NĂNG LỰC SƯ PHẠM
CỦA GIẢNG VIÊN TRẺ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN
VĂN Ở CÁC TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI HIỆN NAY 113

Nâng cao chất lượng đào tạo giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn và chất lượng bồi dưỡng, rèn luyện năng lực sư
phạm cho giảng viên trẻ khoa học xã hội và nhân văn ở các
nhà trường quân đội hiện nay
113

4.2.
Xây dựng môi trường sư phạm ở các trường sĩ quan quân
đội nhằm nâng cao năng lực sư phạm của giảng viên trẻ
khoa học xã hội và nhân văn
131
4.3.
Phát huy nhân tố chủ quan của giảng viên trẻ khoa học xã
hội và nhân văn ở các trường sĩ quan quân đội trong tự nâng
cao năng lực sư phạm
143
KẾT LUẬN
155
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ
ĐƯỢC CƠNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
157
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
158

PHỤ LỤC

173


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Quán triệt quan điểm của Đảng về đổi mới giáo dục, đào tạo, Đại hội Đảng bộ
Quân đội lần thứ XI xác định: “Xây dựng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục có
trình độ tương xứng với cơng việc, với ngành đào tạo; thực hiện tốt bồi dưỡng, rèn
luyện đội ngũ nhà giáo” [98, tr.15]. Theo đó, xây dựng đội ngũ nhà giáo, trong đó có đội
ngũ giảng viên trẻ khoa học xã hội và nhân văn (KHXH&NV) ở các trường sĩ quan

quân đội là việc đang được tổ chức thực hiện nghiêm túc.
Giảng viên trẻ KHXH&NV ở các trường sĩ quan quân đội là một bộ phận của
đội ngũ giảng viên KHXH&NV trong quân đội, là nguồn kế cận đội ngũ nhà giáo,
nhà khoa học của các nhà trường, trực tiếp góp phần quyết định chất lượng giáo dục,
đào tạo, nghiên cứu khoa học và đấu tranh tư tưởng, lý luận của các trường sĩ quan
quân đội. Giảng viên trẻ KHXH&NV ở các trường sĩ quan quân đội có cả những điều
kiện thuận lợi để phát triển, hồn thiện nhưng cũng gặp khơng ít khó khăn, thách
thức và cịn hạn chế nhất định trong q trình hoạt động. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ và yêu cầu chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo họ cần được nâng cao phẩm chất và năng
lực sư phạm.
Năng lực sư phạm trực tiếp quyết định đến hiệu quả hoạt động sư phạm, giúp
giảng viên trẻ KHXH&NV hồn thành nhiệm vụ, góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học, đấu tranh tư tưởng, lý luận, xây dựng các
tổ chức và các khoa giáo viên ở các nhà trường vững mạnh. Nhận thức rõ vị trí, vai
trị, đặc điểm của giảng viên trẻ KHXH&NV những năm qua các trường sĩ quan
quân đội đã thực hiện nhiều giải pháp nâng cao năng lực sư phạm cho lực lượng
này. Theo đó, năng lực sư phạm của giảng viên trẻ KHXH&NV đã được nâng lên,
đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Tuy nhiên, do chất lượng đào tạo giảng viên
KHXH&NV, chất lượng bồi dưỡng, rèn luyện năng lực sư phạm cho giảng viên trẻ
KHXH&NV, xây dựng môi trường sư phạm và phát huy nhân tố chủ quan của một
bộ phận giảng viên trẻ KHXH&NV cịn có mặt chưa tốt nên năng lực sư phạm của
họ vẫn tồn tại những hạn chế nhất định biểu hiện ở cả trình độ tri thức, tư chất sư
5


phạm, kỹ năng sư phạm, thái độ sư phạm và kết quả hoạt động sư phạm. Do vậy,
giảng viên trẻ KHXH&NV ở các trường sĩ quan quân đội cần được tiếp tục bồi
dưỡng, rèn luyện, nâng cao năng lực sư phạm.
Hiện nay, tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, xu thế hội nhập,
tồn cầu hóa, sự chống phá của các thế lực thù địch; nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng

của Đảng, chống “phi chính trị hóa quân đội” và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc có sự phát
triển mới. Đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục, đào tạo trong các nhà trường quân đội
nhằm phát triển đội ngũ cán bộ đáp ứng nhu cầu xây dựng quân đội “cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng,
lực lượng” [34, tr. 149] đã trở nên cấp thiết. Trong đó, nghiên cứu năng lực sư phạm của
giảng viên trẻ KHXH&NV ở các trường sĩ quan quân đội, làm rõ lý luận, đánh giá thực
trạng và đề xuất những giải pháp đồng bộ, khả thi nâng cao năng lực sư phạm của lực
lượng này là một trong những vấn đề quan trọng.
Thực tế, đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu năng lực sư phạm của
giảng viên trẻ KHXH&NV ở các trường sĩ quan quân đội với các góc độ khác nhau.
Song, chưa có cơng trình nào nghiên cứu trực tiếp năng lực sư phạm của giảng viên
trẻ KHXH&NV ở các trường sĩ quan quân đội hiện nay dưới góc độ triết học. Do
đó, việc lựa chọn vấn đề “Năng lực sư phạm của giảng viên trẻ khoa học xã hội và
nhân văn ở các trường sĩ quan quân đội hiện nay” làm đề tài luận án có ý nghĩa cấp
thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Luận giải làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn về năng lực sư phạm của giảng
viên trẻ KHXH&NV ở các trường sĩ quan quân đội; từ đó, đề xuất giải pháp cơ bản nâng
cao năng lực sư phạm của giảng viên trẻ KHXH&NV ở các trường sĩ quan quân đội hiện
nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án, khái qt giá trị
của các cơng trình đã tổng quan đối với đề tài luận án và xác định những vấn đề đặt ra
luận án tiếp tục nghiên cứu.
Làm rõ thực chất và những nhân tố cơ bản quy định năng lực sư phạm của giảng
viên trẻ KHXH&NV ở các trường sĩ quan quân đội.
6



Đánh giá thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân thực trạng năng lực sư phạm của giảng
viên trẻ KHXH&NV; phân tích một số vấn đề đặt ra đối với nâng cao năng lực sư phạm
của giảng viên trẻ KHXH&NV ở các trường sĩ quan quân đội hiện nay.
Đề xuất giải pháp cơ bản nâng cao năng lực sư phạm của giảng viên trẻ
KHXH&NV ở các trường sĩ quan quân đội hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Năng lực sư phạm của giảng viên trẻ KHXH&NV ở các trường sĩ quan quân đội.
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận án nghiên cứu các vấn đề lý luận, thực tiễn về năng lực sư phạm
của giảng viên trẻ KHXH&NV ở các trường sĩ quan quân đội, chủ yếu trong hoạt động
giảng dạy, giáo dục hình thành, phát triển nhân cách học viên.
Về không gian: Luận án nghiên cứu, khảo sát tại các trường sĩ quan quân đội: Trường
Sĩ quan Chính trị, Trường Sĩ quan Lục quân 1, Trường Sĩ quan Lục quân 2, Trường Sĩ quan
Pháo binh, Trường Sĩ quan Cơng binh, Trường Sĩ quan Phịng hóa, Trường Sĩ quan Đặc
công, Trường Sĩ quan Thông tin, Trường Sĩ quan Tăng - Thiết giáp; sử dụng số liệu của một
số trường sĩ quan để tham chiếu.
Về thời gian: Các tư liệu, số liệu sử dụng trong luận án chủ yếu được giới hạn từ
năm 2016 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về năng lực, giáo
dục, đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ, giáo viên; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về giáo dục, đào tạo, xây dựng đội ngũ nhà giáo và phẩm chất, năng lực của đội ngũ
nhà giáo.
Cơ sở thực tiễn
Dựa vào những đánh giá, những số liệu trong các báo cáo tổng kết của Quân ủy Trung
ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị, Bộ Tổng Tham mưu, các trường sĩ quan quân đội;
số liệu báo cáo sơ kết, tổng kết của các khoa giáo viên, các cơ quan ở các trường sĩ quan quân
đội và kết quả điều tra xã hội học, khảo sát thực tế của tác giả ở các trường sĩ quan quân đội.

Phương pháp nghiên cứu
7


Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phân tích và tổng hợp; trừu tượng
hóa; khái qt hóa; hệ thống và cấu trúc; lịch sử và lơgíc; quan sát; thống kê; so sánh; điều
tra xã hội học; thu thập, xử lý thông tin và phương pháp chuyên gia để làm sáng tỏ vấn đề
nghiên cứu.
5. Những đóng góp mới của luận án
Đưa ra quan niệm năng lực sư phạm của giảng viên trẻ KHXH&NV ở các trường
sĩ quan quân đội.
Xác định một số nhân tố cơ bản quy định năng lực sư phạm của giảng viên trẻ
KHXH&NV ở các trường sĩ quan quân đội.
Đề xuất một số giải pháp cơ bản, khả thi nâng cao năng lực sư phạm của giảng
viên trẻ KHXH&NV ở các trường sĩ quan quân đội hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về năng lực
sư phạm của giảng viên trẻ KHXH&NV ở các trường sĩ quan quân đội.
Ý nghĩa thực tiễn
Góp phần cung cấp những luận cứ khoa học đáp ứng yêu cầu cấp thiết nâng
cao năng lực sư phạm của giảng viên trẻ KHXH&NV ở các trường sĩ quan quân đội
hiện nay. Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy, nghiên
cứu khoa học và trong đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên.
7. Kết cấu của luận án
Kết cấu của luận án gồm: Mở đầu, 4 chương (09 tiết), kết luận, danh mục các
cơng trình khoa học của tác giả đã cơng bố liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.


8


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Những cơng trình khoa học tiêu biểu liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Những cơng trình khoa học tiêu biểu liên quan đến năng lực và năng lực
sư phạm của giảng viên
Một là, những cơng trình khoa học tiêu biểu liên quan đến năng lực
John Burke (2005), Competency based education and training (Giáo dục và đào
tạo dựa trên năng lực) [154], đã chỉ rõ năng lực được hình thành và phát triển thơng qua
giáo dục, đào tạo tại các nhà trường. Theo tác giả năng lực bao gồm các thành tố: Kiến
thức, hiểu biết, kỹ năng, kinh nghiệm. Chất lượng, hiệu quả công việc phụ thuộc rất lớn
vào năng lực và được thể hiện trên thực tế. Để đo được năng lực phải thông qua việc
đánh giá dựa trên những tiêu chuẩn cụ thể, phù hợp với đối tượng và điều kiện thực tiễn.
Hoàng Hải Bằng (Chủ biên, 2006), Bản lĩnh chính trị với năng lực của cán bộ
lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị nước ta hiện nay [4], cho rằng: Năng lực thể
hiện ở hiệu quả hoạt động. Năng lực của người cán bộ lãnh đạo, quản lý là năng lực tổ
chức và năng lực tổ chức khơng thể có ở người chưa hề quản lý, điều hành một công
việc cụ thể. Khi xem xét, đánh giá năng lực của một người cán bộ, hiệu quả cơng việc là
một tiêu chí quan trọng, đồng thời cũng cần biết được trình độ học vấn và q trình
cơng tác của họ. Mặc dù chưa đưa ra quan niệm đầy đủ về năng lực các tác giả đã chỉ ra
một số tiêu chí cơ bản nhất trong xem xét, đánh giá năng lực của một người cán bộ đó là
hiệu quả cơng việc trong q trình cơng tác và trình độ học vấn.
United nations development progamme UNDP (2008), Capacity development
pratice note (Lưu ý thực tế phát triển năng lực) [156] - Chương trình phát triển của Liên
Hợp quốc đã đưa ra khái niệm năng lực cho tất cả cá nhân, tổ chức và xã hội. Theo đó,
năng lực là khả năng của cá nhân, tổ chức và xã hội để thực hiện chức năng, giải quyết
vấn đề, thiết lập và đạt được những mục tiêu một cách bền vững và “phát triển năng lực

là quá trình mà thơng qua đó, các năng lực của của con người được hình thành, được
tăng cường, thích nghi và duy trì theo thời gian” [156].
9


Nguyễn Văn Huy (2013), Nâng cao năng lực thực tiễn của người chính trị viên
trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay [62], đã chỉ ra, năng lực không phải là một
thuộc tính mà là tổng thể những thuộc tính hợp thành khả năng nhận thức và hoạt động
của con người trên những nhiệm vụ xác định, đạt hiệu quả cao. Năng lực tồn tại dưới
dạng tiềm năng vừa bộc lộ qua những hoạt động cụ thể; năng lực ln mang tính cụ thể,
xác định, của một cộng đồng, một tổ chức hay một con người cụ thể; có hai loại cơ bản:
Năng lực nhận thức và năng lực hoạt động thực tiễn. Theo đó, “năng lực thực tiễn là
tổng thể những yếu tố hợp thành khả năng hoạt động vật chất có hiệu quả của chủ thể,
trên những nhiệm vụ xác định; đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội trong giai đoạn
lịch sử nhất định” [62, tr. 23].
Trần Hậu Tân (2016), Kết hợp nâng cao năng lực tư duy lý luận với năng lực
thực tiễn của chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay [107], đã
khẳng định: Năng lực của con người do yếu tố tự nhiên và yếu tố xã hội tạo thành. Yếu
tố tự nhiên thuộc về bẩm sinh, gen di truyền là tiền đề quan trọng không thể thiếu
trong sự hình thành, phát triển năng lực. Yếu tố xã hội là kết quả của quá trình giáo
dục, đào tạo, rèn luyện và tự giáo dục, tự rèn luyện của mỗi người mang tính quyết
định đến sự hình thành và phát triển năng lực. Tác giả đã đưa ra quan niệm: “Năng lực
là tổng hòa khả năng của chủ thể trong những điều kiện nhất định, được biểu hiện ra
trong hoạt động, giúp chủ thể nhận thức và giải quyết có hiệu quả cơng việc trong
những lĩnh vực cụ thể” [107, tr. 29].
Nguyễn Văn Quyền (2016), Phát triển năng lực giáo dục chính trị của chính trị viên
đại đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay [101], đã đưa ra quan niệm: Năng lực
giáo dục chính trị của chính trị viên đại đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam là “tổng hợp
những yếu tố tri thức, kỹ xảo, kỹ năng và phương pháp giáo dục chính trị, tạo thành khả năng
tổ chức và tiến hành giáo dục chính trị đạt hiệu quả cao, được biểu hiện tập trung ở việc thực

hiện nhiệm vụ giáo dục chính trị theo cương vị, chức trách được giao” [101, tr. 34]. Tác giả đã
chỉ ra những vấn đề có tính quy luật trong phát triển năng lực giáo dục chính trị của chính trị
viên đại đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam: Phát triển năng lực giáo dục chính trị của
chính trị viên đại đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam phụ thuộc vào chất lượng đào tạo ở
10


các nhà trường và bồi dưỡng ở các đơn vị cơ sở; phụ thuộc vào môi trường hoạt động ở đơn vị
cơ sở và phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của họ.
Ngô Thị Nụ (2018), Vấn đề phát triển năng lực cá nhân con người Việt Nam
trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay [89], đã quan niệm năng lực cá nhân là tổng
hợp các thuộc tính riêng có, tương đối ổn định của cá nhân tạo thành khả năng đáp ứng
yêu cầu của hoạt động nhất định, bảo đảm cho hoạt động đó đạt kết quả tối ưu nhất.
Theo tác giả, phát triển năng lực cá nhân con người là q trình tích cực, chủ
động, sáng tạo của các chủ thể làm chuyển hóa về chất các năng lực, làm cho năng
lực của mỗi cá nhân chuyển từ trình độ thấp lên cao, từ chưa phù hợp đến phù hợp
hơn với yêu cầu thực tiễn nhằm giúp mỗi cá nhân đạt kết quả tối ưu nhất trong các
hoạt động của mình [89, tr. 44].
Phạm Thành Nghị (2008), “Tiếp cận năng lực trong phát triển con người” [87],
đã khẳng định năng lực là tổ hợp khả năng thực hiện được các chức năng, sự phát triển
của con người chính là sự phát triển của năng lực. Sự phát triển của năng lực chính là
sự mở rộng tự do, mở rộng cơ hội lựa chọn của con người. Do đó, năng lực là cơng cụ
giúp con người đạt được sự lựa chọn và chính năng lực sẽ mở rộng sự lựa chọn của
con người.
Hồng Hịa Bình (2015), “Năng lực và đánh giá theo năng lực” [5], đã đưa ra quan
niệm: “Năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và q
trình học tập, rèn luyện, cho phép con người thực hiện thành công một loại hoạt động nhất
định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể” [5, tr. 25]. Năng lực có hai đặc
trưng cơ bản: (1) bộc lộ, thể hiện qua hoạt động; (2) bảo đảm hoạt động có hiệu quả, kết
quả mong muốn. Về cấu trúc năng lực theo bề mặt gồm các yếu tố tri thức, kỹ năng và thái

độ tạo thành; theo chiều sâu tổng hịa các yếu tố đó tạo thành năng lực hiểu, năng lực hoạt
động và năng lực ứng xử. Gắn với mỗi loại hoạt động tương ứng có một loại năng lực cụ
thể. Từ đó, có thể phân chia thành các loại năng lực khác nhau.
Hai là, những cơng trình khoa học tiêu biểu liên quan đến năng lực
sư phạm của giảng viên
Mary, Louise Kearney (2006), Higher education staff development for the 21st
century (Phát triển đội ngũ cán bộ, giáo viên ở đại học cho thế kỷ 21) [154], đã đưa ra
11


quan điểm, phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên ở đại học là vấn đề rất
quan trọng cho nguồn nhân lực giáo dục đại học. Nội dung phát triển chất lượng đội ngũ
cán bộ quản lý giáo dục và đội ngũ giáo viên gồm phong cách làm việc, kiến thức, kỹ
năng chuyên môn về giáo dục, kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông
trong giáo dục, kỹ năng giao tiếp. Do đó, các nhà trường cần có kế hoạch tổng thể và sự
đầu tư thích đáng cho việc phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên.
Chris Kyriacou (2007), Essential teaching skills (Những kỹ năng giảng dạy thiết
yếu) [150], đã chỉ ra bản chất của việc giảng dạy hiệu quả là phải thúc đẩy được người
học. Để thực hiện được điều đó cần có biện pháp rèn luyện nhằm phát triển kỹ năng
giảng dạy. Tuy nhiên, điều kiện là giảng viên cũng cần phải có kiến thức nền tảng và kỹ
năng tốt. Phát triển kỹ năng giảng dạy phải thông qua việc quan sát, tham gia vào các
hoạt động đó để có kỹ năng và mở rộng kiến thức của mỗi giảng viên.
Lương Vị Hùng, Khổng Khang Hoa (2008), Triết học giáo dục hiện đại [61], đã
đi sâu vào các vấn đề triết lý giáo dục hiện đại, khẳng định vị trí, vai trị quan trọng của
nhà giáo dục, “khơng có người giáo dục, thì khơng thể có hoạt động giáo dục” [61, tr.
217]. Từ đó, địi hỏi họ phải đáp ứng hai vấn đề: (1) sự cố gắng, nỗ lực chủ quan của
bản thân; (2) có cơ cấu nhận thức và cơ cấu năng lực phù hợp. Theo đó, “cơ cấu nhận
thức phải bao gồm hai mặt: (1) tri thức chuyên môn tinh thông sâu sắc; (2) tri thức nền
tảng văn hóa rộng rãi. Cơ cấu năng lực phải do năng lực tổ chức, quản lý, năng lực nắm
bắt và xử lý tài liệu, năng lực biểu đạt ngôn ngữ và năng lực điều khiển, khống chế bản

thân tạo nên” [61, tr. 224].
Trần Bá Hoành (2010), Vấn đề giáo viên những nghiên cứu lý luận và thực tiễn
[56], nhấn mạnh vai trò quan trọng của giáo viên trước thềm thế kỷ XXI và đưa ra
cách tiếp cận, các thành tố chất lượng giáo viên, chỉ ra nhân tố ảnh hưởng và giải pháp
nâng cao chất lượng giáo viên. Theo đó, năng lực sư phạm là, “khả năng thực hiện các
hoạt động giảng dạy, giáo dục với chất lượng cao” [56, tr. 20]. Năng lực sư phạm gồm
hai nhóm giảng dạy và giáo dục (nghĩa hẹp). Năng lực sư phạm được tạo lên từ nhiều
năng lực thành phần như năng lực chuẩn đoán nhu cầu và đặc điểm của đối tượng,
năng lực thiết kế kế hoạch, năng lực tổ chức thực hiện kế hoạch, năng lực giám sát,
đánh giá kết quả hoạt động, năng lực giải quyết vấn đề nảy sinh trong thực tiễn. Tác
12


giả chỉ ra ba nhân tố quy định chất lượng giáo viên là đào tạo, sử dụng, bồi dưỡng giáo
viên, hoàn cảnh, điều kiện lao động sư phạm và ý chí, thói quen, năng lực tự học của
họ.
Đinh Xn Kh (2010), Quan hệ giữa nâng cao năng lực giảng dạy và năng lực
nghiên cứu khoa học của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các trường đại học
quân sự hiện nay [64], đã khái quát quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về năng lực. Từ đó, đưa ra quan niệm: “Năng lực sư phạm là một loại năng lực
chuyên biệt, là tổng hợp những phẩm chất tâm lý và sinh lý của nhà sư phạm đáp ứng yêu
cầu của hoạt động sư phạm và bảo đảm cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao” [64, tr. 16].
Biểu hiện của năng lực sư phạm ở trình độ tri thức sâu rộng, có kỹ năng thiết kế sư phạm,
kỹ năng tổ chức các hoạt động thực tiễn sư phạm, kỹ năng huấn luyện giáo dục, kỹ năng
sử dụng ngôn ngữ và kỹ năng nghiên cứu khoa học.
James M. Cooper (2011), Classroom teaching skills (Những kỹ năng giảng dạy lớp
học) [153], đã chỉ ra những kỹ năng giảng dạy cần thiết của giảng viên, miêu tả tính cách
của người dạy, sự phản xạ đi đến quyết định và chứng minh những nhân tố tác động đến
quyết định truyền thụ kiến thức hoặc giải thích là rất quan trọng. Mặt khác, các tác giả
cũng chỉ ra những kỹ năng và phẩm chất cụ thể khác của giảng viên là: Kỹ năng hợp tác;

kỹ năng ứng xử và trách nhiệm trong quản lý lớp học.
Ngô Văn Hà (2013), Tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy và việc xây dựng đội
ngũ giảng viên đại học hiện nay [51], đã làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ
Chí Minh về người thầy. Đặc biệt, tác giả đã đưa ra quan điểm của Hồ Chí Minh về năng
lực sư phạm và phương pháp giảng dạy của người thầy. Đó là, phải giỏi về lĩnh vực
chuyên mơn mà mình đảm nhận giảng dạy “Muốn huấn luyện thợ rèn, thợ nguội thì
người huấn luyện phải thạo nghề rèn, nghề nguội”; phải được trang bị lý luận giáo dục;
nắm chắc quan điểm, đường lối giáo dục của Đảng; có kiến thức liên ngành để bổ trợ;
phải có sự thuần thục phương pháp giảng dạy. Từ đó, tác giả đã đánh giá thực trạng đội
ngũ giảng viên đại học, chỉ ra những nguyên tắc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
người thầy trong việc xây dựng đội ngũ giảng viên đại học và đưa ra các giải pháp thực
hiện.
13


Nguyễn Đắc Hưng (2017), Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và vấn đề
đặt ra với giáo dục Việt Nam [63], đã chỉ ra sự phát triển của cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, vấn đề đặt ra và giải pháp cho giáo dục Việt Nam. Theo đó: “Vai trò
của giáo viên trong thế kỷ XXI càng trở nên quan trọng hơn trong một thế giới thay
đổi mạnh mẽ nơi mà tri thức hầu như vô tận và biến đổi liên tục [63, tr. 314]. Giáo
viên phải giảm bớt công việc đứng lớp tăng cường định hướng, dẫn dắt sinh viên biết
cách học tập. “Giáo viên trước hết phải đạt chuẩn trình độ đào tạo, có khả năng sáng
tạo, ham hiểu biết và tạo được động cơ học tập của học trò” [63, tr. 314, 315], phát
triển tư duy phê phán, óc sáng tạo, nhiệt tình trong cơng việc, là tấm gương tự học và
tự đổi mới suốt đời.
Đoàn Khắc Mạnh (2018), Nâng cao năng lực giảng dạy chính trị của đội ngũ
chính trị viên ở các trung đoàn bộ binh trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
[75], đã đưa ra các yếu tố cơ bản cấu thành năng lực giảng dạy chính trị của chính trị
viên ở các trung đoàn bộ binh: Hệ thống tri thức lý luận, kinh nghiệm, thực tiễn sư
phạm và tiến hành cơng tác giáo dục chính trị (tri thức lý luận chính trị và lý luận sư

phạm, kinh nghiệm hoạt động sư phạm và tiến hành giáo dục chính trị, kinh nghiệm
thực tiễn giảng dạy chính trị); kỹ năng, kỹ xảo giảng dạy chính trị; tư chất, năng
khiếu. Từ những vấn đề trên tác giả đưa ra quan niệm và giải pháp nâng cao năng lực
giảng dạy chính trị của chính trị viên ở các trung đồn bộ binh trong Quân đội nhân
dân Việt Nam.
Trần Thị Minh Tuyết (2018), “Triết lý giáo dục Hồ Chí Minh - cơ sở lý luận
của công cuộc cải cách giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay” [143], đã khẳng định
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất coi trọng đội ngũ nhà giáo và đưa ra tiêu chí về phẩm
chất, năng lực - đức, tài của họ: Khơng chỉ có tri thức khoa học, người thầy cịn có
trách nhiệm truyền đến người học cảm hứng học tập, ý thức, kỹ năng tự học và
phẩm chất làm người. Dạy người mới là điều khó nhất nên người xưa đã đúc kết:
“Kinh sư dĩ đắc, nhân sư nan tầm”. Muốn làm được điều đó thì bản thân người giáo
viên, người huấn luyện viên “phải là kiểu mẫu về mọi mặt. Đặc biệt, họ phải có ý

14


thức không ngừng vươn lên, “người huấn luyện nào tự cho mình đã biết đủ cả rồi
thì người đó là dốt nhất” [143, tr. 14].
Đinh Ngọc Thạch, Nguyễn Thị Luyện (2018), “Tư tưởng cải cách giáo dục theo
định hướng dân chủ trong triết học John Dewey” [110], đã chỉ ra những cải cách giáo
dục đột phá của John Dewey - nhà triết học thực dụng lớn người Mỹ. Với quan niệm
“giáo dục là một quá trình của cuộc sống chứ không phải là sự chuẩn bị cho cuộc sống”
đã đưa ra các khái niệm kích thích năng lực tự nhiên của người học, giáo dục hướng tới
cái mới, hướng tới xã hội học tập, học tập suốt đời. Theo đó, người thầy phải hiểu tâm
lý của người học, giúp người học phát triển tính cách, phẩm chất và giúp họ nhận thức
ra cái tơi của mình; thúc đẩy được đam mê, sự u thích cuộc sống, mơn học, thúc đẩy
tính tò mò, dám thử nghiệm khoa học và nghiên cứu, dám mắc sai lầm và dám sống
thật; họ không được áp đặt, không được phán xét đẳng cấp cao thấp: “Giáo viên khơng
được áp đặt đặc điểm đó cho học sinh, mà trái lại, cần tạo nên một môi trường xã hội

thu nhỏ giúp học sinh nhận được trách nhiệm sống theo đạo đức dân chủ” [110, tr. 57].
1.1.2. Những cơng trình khoa học tiêu biểu liên quan đến
giảng viên trẻ khoa học xã hội và nhân văn và năng lực sư
phạm của giảng viên trẻ khoa học xã hội và nhân văn ở các
trường sĩ quan quân đội
Một là, những cơng trình khoa học tiêu biểu liên quan đến giảng viên trẻ
KHXH&NV ở các trường sĩ quan quân đội
Nguyễn Văn Giới (2016), Xây dựng đội ngũ nhà giáo trong các nhà trường
quân đội theo tinh thần Đại hội XII của Đảng [50], cho rằng: Quán triệt tinh thần Đại
hội XII của Đảng về “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo”, “nâng cao nguồn
nhân lực” đặt ra yêu cầu đối với các nhà trường quân đội phải tiếp tục thực hiện đồng
bộ, hiệu quả nhiệm vụ xây dựng đội ngũ nhà giáo. Theo tác giả, đội ngũ nhà giáo quân
đội đang bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu, do đó, phải: “Nâng cao chất lượng
đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục” [50, tr. 15], với các giải pháp: (1) nâng
cao chất lượng, hiệu quả xây dựng đội ngũ nhà giáo trong các nhà trường quân đội về
phẩm chất nhân cách và trình độ chun mơn, tay nghề sư phạm; (2) chú trọng hoàn
15


thiện hệ thống chuẩn mực trong mơ hình nhân cách người giảng viên, giáo viên ở từng
học viện, nhà trường.
Vũ Văn Ban (2017), Một số vấn đề về nâng cao năng lực tư duy lý luận của giảng
viên trẻ trong các học viện, trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay [2], đã
đưa ra quan niệm:
Năng lực tư duy lý luận của giảng viên trẻ trong các học viện, trường sĩ quan
Quân đội nhân dân Việt Nam là tổng hợp những phẩm chất của chủ thể như tư
chất trí tuệ, phẩm chất sáng tạo, tri thức khoa học, kinh nghiệm thực tiễn,
phương pháp tư duy khoa học tạo cho họ khả năng nhận thức ở trình độ lý luận
và vận dụng tri thức lý luận vào thực tiễn giảng dạy, nghiên cứu khoa học đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ của các học viện, trường sĩ quan quân đội [2, tr. 30].

Chỉ ra bốn yếu tố tác động đến năng lực tư duy lý luận của giảng viên trẻ: (1)
chất lượng đào tạo nguồn giảng viên trẻ; (2) mơi trường hoạt động sư phạm qn sự;
(3) tính chất, nhiệm vụ chuyên môn của giảng viên trẻ; (4) yếu tố bẩm sinh di truyền
và sự nỗ lực, tích cực học tập, rèn luyện của bản thân giảng viên trẻ. Từ đó, đưa ra 3
nhóm giải pháp cơ bản nâng cao năng lực tư duy lý luận của giảng viên trẻ trong các
học viện, trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đặng Sỹ Lộc (Chủ biên, 2017), Xây dựng đội ngũ giảng viên trẻ khoa học xã hội
và nhân văn trong các nhà trường quân đội hiện nay [69], đã đưa ra quan niệm, đặc điểm
đội ngũ giảng viên trẻ KHXH&NV trong các nhà trường quân đội. Theo đó, giảng viên
trẻ KHXH&NV là giảng viên “mới bước vào nghề sư phạm”, đang trong quá trình phấn
đấu để khẳng định vị thế, uy tín, phẩm chất, trình độ, năng lực; “đang khởi nghề, khởi
nghiệp, quân hàm từ thiếu úy đến thiếu tá, tuổi quân từ 5 đến 15 năm”. Do đó, giảng viên
trẻ KHXH&NV: “Cần phải có trình độ trí tuệ cao, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ giỏi,
phương pháp sư phạm tốt, sắc bén về lý luận, vận dụng tốt các phương pháp giảng dạy,
phát huy được tính tích cực của người học” [69, tr. 36].
Lê Quý Trịnh (2017), Phát triển năng lực trí tuệ của sĩ quan trẻ Quân đội nhân dân
Việt Nam [123], đã làm rõ quan niệm, đặc điểm, một số vấn đề có tính quy luật trong phát
triển năng lực trí tuệ của sĩ quan trẻ. Theo đó, năng lực trí tuệ là một bộ phận cấu thành của
16


năng lực người, đặc trưng cho sức mạnh lý tính và điều kiện hoạt động sáng tạo về tinh
thần cũng như mọi hoạt động của con người. Nó là năng lực nhận thức sáng tạo của con
người. Trên cơ sở bản chất, quy luật, thực trạng và yêu cầu, tác giả đưa ra ba nhóm giải
pháp phát triển năng lực trí tuệ của sĩ quan trẻ: (1) bồi dưỡng tri thức và tư duy khoa học
cho sĩ quan trẻ; (2) tổ chức một cách khoa học hoạt động rèn luyện và tự rèn luyện trong
thực tiễn cho sĩ quan trẻ; (3) thực hiện chính sách đào tạo, sử dụng, đãi ngộ sĩ quan theo
hướng khuyến khích phát triển tài năng.
Nguyễn Văn Thủy (2020), Tư duy chính trị của giảng viên trẻ khoa học xã hội và
nhân văn ở các trường sĩ quan quân đội hiện nay [115], đã tập trung khảo sát giảng viên

trẻ KHXH&NV ở các trường sĩ quan quân đội, theo đó giảng viên trẻ KHXH&NV chiếm
23,06 % tổng số giảng viên với hai nhóm: Văn bằng 2, Học viện Chính trị trải qua cán bộ
chính trị cấp phân đội được lựa chọn đi tạo nguồn giảng viên; Giảng viên được đào tạo
giáo viên KHXH&NV cấp phân đội ở Học viện Chính trị và ở Trường Sĩ quan Chính trị.
Từ đó, đã đưa ra quan niệm: “Giảng viên trẻ KHXH&NV ở các trường sĩ quan quân đội
là những giảng viên được đào tạo cơ bản về chuyên ngành sư phạm, mới vào nghề, có
tuổi đời dưới 30, được biên chế ở khoa chuyên ngành và đảm nhiệm nghiên cứu, giảng
dạy các môn KHXH&NV, là nguồn kế cận, kế tiếp của đội ngũ cán bộ, giảng viên chuyên
ngành trong tương lai” [115, tr. 38].
Bùi Ngọc Quân (2021), Tư duy phản biện của giảng viên trẻ khoa học xã hội
nhân văn trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay [93], đã đưa ra quan niệm:
Tư duy phản biện của giảng viên trẻ khoa học xã hội nhân văn trong Qn đội
nhân dân Việt Nam là tổng hịa trình độ tri thức khoa học; phương pháp, kỹ năng,
thái độ phản biện và tư chất cá nhân được huy động trong thẩm định, đánh giá, kết
luận vấn đề có liên quan theo tiêu chí khoa học, phù hợp với quy luật logic và thực
tiễn, đáp ứng yêu cầu giảng dạy, nghiên cứu khoa học, đấu tranh tư tưởng, lý luận
[93, tr. 45].
Dựa trên cơ sở lý luận tác giả đã khảo sát, đánh giá thực tiễn và đề ra bốn giải pháp
cơ bản phát triển tư duy phản biện của giảng viên trẻ khoa học xã hội nhân văn trong Quân
đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
17


Hai là, những cơng trình khoa học tiêu biểu liên quan đến năng lực
sư phạm của giảng viên trẻ khoa học xã hội và nhân văn ở các trường sĩ quan
quân đội
Nguyễn Xuân Trường (Chủ nhiệm, 2007), Bồi dưỡng năng lực giảng dạy của đội
ngũ giảng viên trẻ khoa học xã hội và nhân văn ở Học viện Chính trị quân sự hiện nay
[140], đã cho rằng đội ngũ giảng viên trẻ KHXH&NV là những giảng viên được đào tạo cơ
bản ở các trường trong và ngoài quân đội, song là những người mới khởi nghề, khởi

nghiệp, bản lĩnh, năng lực sư phạm, kinh nghiệm, sự từng trải cịn ít. Do đó, cần phải tăng
cường bồi dưỡng năng lực giảng dạy của đội ngũ giảng viên trẻ KHXH&NV. Từ việc phân
tích đặc điểm, u cầu, nhóm tác giả đã đưa ra kiến nghị về đổi mới nội dung bồi dưỡng
năng lực giảng dạy của đội ngũ giảng viên trẻ KHXH&NV theo hướng tăng cường tri thức,
kỹ năng và kinh nghiệm giảng dạy.
Nguyễn Văn Tháp (2009), Xây dựng đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân
văn trong các trường đào tạo sĩ quan quân đội [112], đã tập trung nghiên cứu, luận giải
vị trí, vai trị, đặc điểm và những nhân tố tác động đến xây dựng đội ngũ giảng viên
KHXH&NV ở các trường sĩ quan quân đội. Từ đó, đã đưa ra năm giải pháp cơ bản để
tiếp tục xây dựng đội ngũ giảng viên KHXH&NV. Theo tác giả, vấn đề có ý nghĩa cốt
lõi là: “Phát huy vai trò tự đào tạo, bồi dưỡng của đội ngũ giảng viên KHXH&NV”
[112, tr. 128].
Lê Minh Vụ (2009), Quy trình đánh giá năng lực sư phạm quân sự của đối tượng
tuyển chọn đào tạo giảng viên ở Học viện Chính trị quân sự hiện nay [145], đã đưa ra hai
cách tiếp cận năng lực sư phạm quân sự. Theo cấu trúc, năng lực sư phạm quân sự là sự
hòa quyện giữa tri thức, kỹ năng và thái độ của người giảng viên trong nhà trường quân sự.
Theo hoạt động, năng lực sư phạm quân sự là tổng hòa các năng lực hoạt động của người
giảng viên ở nhà trường quân sự. Năng lực sư phạm quân sự là “sự tương thích giữa thuộc
tính tâm, sinh lý của cá nhân với những yêu cầu do nghề nghiệp sư phạm đặt ra” [145, tr.
11]. Năng lực sư phạm quân sự bị quy định bởi: Thuộc tính tâm, sinh lý của cá nhân,
trình độ đào tạo và quá trình trải nghiệm thực tiễn nghề nghiệp sư phạm. Trên cơ sở
lý luận, thực tiễn, tác giả đã đưa ra bốn giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện quy
18


trình đánh giá năng lực sư phạm quân sự của đối tượng tuyển chọn đào tạo giảng viên ở
Học viện Chính trị quân sự.
Lương Thanh Hân (2011), Phát triển bản lĩnh chính trị và tri thức khoa học của
giảng viên trẻ khoa học xã hội và nhân văn ở các trường sĩ quan Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay [52], đã làm rõ quan niệm, đặc điểm của giảng viên trẻ

KHXH&NV ở các trường sĩ quan quân đội và phân giảng viên trẻ KHXH&NV thành
hai nhóm. Nhóm tốt nghiệp ở các trường sĩ quan quân đội và nhóm tốt nghiệp ở các
trường ngoài quân đội với những đặc điểm riêng. Từ đó, đã chỉ ra thực chất, mối
quan hệ, vai trị quan trọng của bản lĩnh chính trị và tri thức khoa học. Tác giả đã đề
xuất ba giải pháp cơ bản để nâng cao bản lĩnh chính trị và tri thức khoa học của
giảng viên trẻ KHXH&NV ở các trường sĩ quan quân đội. Trong đó, một yêu cầu
quan trọng mà luận án đặt ra là: “Giảng viên trẻ KHXH&NV cần tự tu dưỡng, rèn
luyện kết hợp giữa nâng cao đạo đức cách mạng, đạo đức nhà giáo với phẩm chất chính
trị và trình độ tri thức khoa học” [52, tr. 168].
Học viện Chính trị (2012), Đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn ở Học viện Chính trị thời kỳ mới [57], đã đưa ra quan
niệm, những nhân tố chi phối, thực trạng, yêu cầu, giải pháp đổi mới, nâng cao chất
lượng đào tạo giảng viên KHXH&NV ở Học viện Chính trị. Một trong những giải
pháp quan trọng là, tiếp tục xác định rõ hơn mục tiêu, mơ hình đào tạo giảng viên
KHXH&NV trong thời kỳ mới. Trong đó, về năng lực sư phạm, “giảng viên phải có
kiến thức nền tảng rộng, kiến thức chuyên sâu về chuyên ngành được đào tạo; có kỹ
năng giảng dạy, tổ chức hoạt động sư phạm, năng lực nghiên cứu khoa học và đấu
tranh tư tưởng, lý luận” [57, tr. 94]; có trình độ toàn diện về lý luận cơ bản chủ nghĩa
Mác - Lênin, nắm vững đường lối chính trị, đường lối quân sự của Đảng, có kiến thức
về lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, nghệ thuật quân sự, công tác đảng, cơng tác chính trị
trong lực lượng vũ trang, có kiến thức chun sâu, làm chủ bộ mơn mình chun trách,
có trình độ hiểu biết cơ bản về tâm lý học quân sự và giáo dục học quân sự để có thể
đi sâu vào bản chất, quy luật của các quá trình giáo dục, nắm được cơ sở khoa học của
hệ phương pháp cũng như quy trình của cơng nghệ giảng dạy.
19


Cao Văn Trọng (2017), Nâng cao năng lực đấu tranh tư tưởng của giảng viên
lý luận chính trị ở các nhà trường quân đội hiện nay [124], đã đưa ra quan niệm:
“Năng lực là tổng hợp những yếu tố chủ quan của chủ thể tạo thành khả năng thực

hiện một công việc cụ thể xác định” [124, tr. 10]. Tác giả đã phân tích thực chất và
những vấn đề có tính quy luật nâng cao năng lực đấu tranh tư tưởng của giảng viên
lý luận chính trị ở các nhà trường quân đội. Trong đánh giá thực trạng nâng cao
năng lực đấu tranh tư tưởng của giảng viên lý luận chính trị, tác giả đã chỉ ra những
hạn chế trong nhận thức của một số chủ thể được biểu hiện rõ trong thực tiễn “tình
trạng dạy và học có tính xi chiều, ít đối thoại, ít có tính huống về tư tưởng chính
trị cần xử lý, lý luận chưa gắn thật sát với thực tiễn đấu tranh tư tưởng. Trong các
cơng trình nghiên cứu của cả thầy và trị, tính chiến đấu chưa được đề cao ” [124, tr.
83]. Ngoài ra, tác giả cũng cho rằng một số giảng viên lý luận chính trị cịn thiếu nỗ
lực trong tự học tập, tự rèn luyện, sử dụng ngôn ngữ, luận chứng trong giảng dạy
cịn thiếu chặt chẽ, lơgíc, thiếu thuyết phục đối với người học. Từ đó, tác giả đã đưa
ra những giải pháp cơ bản nâng cao năng lực đấu tranh tư tưởng của lực lượng này.
Trần Hậu Tân (Chủ biên, 2017), Nâng cao năng lực sư phạm của đội ngũ giảng viên
trẻ trong các nhà trường quân đội hiện nay [108], đã khẳng định: “Năng lực sư phạm của
đội ngũ giảng viên trẻ ở các nhà trường quân đội là tổng hợp yếu tố tri thức, kỹ xảo, kỹ
năng, thiết kế, tổ chức, giao tiếp, hợp thành khả năng của họ, thể hiện trong hoạt động
giảng dạy, nghiên cứu khoa học và giải quyết các tình huống sư phạm” [108, tr. 15]. Tác
giả đã chỉ rõ những nhân tố cơ bản quy định nâng cao năng lực sư phạm của giảng viên trẻ
ở các nhà trường quân đội: (1) vai trò lãnh đạo, chỉ đạo và tinh thần, trách nhiệm của các
chủ thể tham gia vào quá trình đào tạo, bồi dưỡng; (2) môi trường sư phạm, nghiên cứu
khoa học ở các nhà trường quân đội; (3) nỗ lực chủ quan của giảng viên trẻ. Từ thực trạng
tác giả đã đề ra năm giải pháp nâng cao năng lực sư phạm của giảng viên trẻ ở các nhà
trường quân đội. Trong đó, theo tác giả giải pháp: “Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của đội ngũ giảng viên trẻ trong tự nâng cao năng lực sư phạm” [108, tr. 109] mang tính
quyết định.
20


Hoàng Văn Nhân (2021), Bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học của giảng
viên trẻ ngành khoa học xã hội và nhân văn ở học viện, trường sĩ quan quân đội

hiện nay [88], đã đưa ra quan niệm, những yếu tố cấu thành, con đường hình thành,
phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của giảng viên trẻ KHXH&NV ở các học
viện, trường sĩ quan quân đội. Trên cơ sở lý luận tác giả đã đánh giá thực trạng, chỉ
ra nguyên nhân, một số kinh nghiệm và đề ra những giải pháp bồi dưỡng năng lực
nghiên cứu khoa học của giảng viên trẻ KHXH&NV ở các học viện, trường sĩ quan
quân đội. Tác giả cho rằng giải pháp “Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của đội ngũ giảng viên trẻ KHXH&NV ở các học viện, trường sĩ quan quân đội
trong tự học tập, bồi dưỡng nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học” [88, tr. 144]
có vai trị trực tiếp quyết định.
Bùi Văn Mạnh (Chủ biên, 2021), Quan hệ khách quan và chủ quan trong phát
triển năng lực sư phạm của giảng viên lý luận chính trị các nhà trường quân đội
hiện nay [74], đã khẳng định năng lực sư phạm của giảng viên lý luận chính trị của
các nhà trường quân đội là một loại năng lực nghề nghiệp chuyên biệt trong thực
hiện nhiệm vụ giảng dạy đối với các đối tượng khác nhau theo mục tiêu, yêu cầu giáo
dục, đào tạo của các nhà trường quân đội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định. Tác giả
quan niệm:
Năng lực sư phạm của giảng viên lý luận chính trị của các nhà trường qn
đội là tổng hịa các yếu tố về tư chất, vốn tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và phẩm
chất nhân cách của nhà sư phạm, hợp thành khả năng, điều kiện bên trong
bảo đảm cho hoạt động sư phạm đạt hiệu quả cao, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu
nhiệm vụ giáo dục và đào tạo của nhà trường nơi họ công tác [74, tr. 20].
Từ đó, tác giả chỉ ra cấu trúc, biểu hiện năng lực sư phạm của giảng viên lý luận
chính trị của các nhà trường quân đội, chỉ ra quan hệ và giải pháp giải quyết quan hệ
khách quan và chủ quan trong phát triển năng lực sư phạm của giảng viên lý luận
chính trị các nhà trường quân đội hiện nay.
Nguyễn Văn Sơn (2015), “Biện pháp bồi dưỡng đội ngũ giảng viên trẻ các
môn khoa học xã hội và nhân văn ở các nhà trường quân đội” [104], đã chỉ ra
21



những nét đặc thù trong thực hiện nhiệm vụ giảng dạy của đội ngũ giảng viên trẻ
KHXH&NV ở các nhà trường quân đội. Theo đó, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên trẻ
KHXH&NV đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo trong tình hình mới là nhiệm vụ hết
sức quan trọng đối với các nhà trường quân đội. Nội dung bồi dưỡng cần toàn diện
cả phẩm chất, năng lực sư phạm và phương pháp, tác phong công tác. Bồi dưỡng
cần tập trung thực hiện đa dạng các hình thức và giải pháp trong đó: “Thường xuyên
giáo dục, bồi dưỡng nâng cao bản lĩnh chính trị, thế giới quan khoa học, phẩm chất đạo
đức, lối sống cho giảng viên trẻ KHXH&NV” [104, tr. 75] là một trong những giải
pháp chủ yếu.
Nguyễn Hoàng Sáu (2018), “Nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học xã hội và
nhân văn của đội ngũ giảng viên trẻ ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện
nay” [103], đã cho rằng nâng cao năng lực nghiên cứu KHXH&NV của giảng viên
trẻ có ý nghĩa quyết định đến chất lượng, hiệu quả nghiên cứu KHXH&NV ở các học
viện, trường sĩ quan quân đội. Từ thực trạng, tác giả chỉ rõ tính tất yếu phải đổi mới
và nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học của giảng viên trẻ và đưa ra các nhóm
giải pháp cơ bản: (1) phát huy vai trò của các chủ thể đối với nâng cao năng lực
nghiên cứu KHXH&NV cho đội ngũ giảng viên trẻ; (2) tăng cường đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ tri thức của đội ngũ giảng viên trẻ ở các học viện, trường sĩ
quan; (3) tạo môi trường và điều kiện thuận lợi góp phần nâng cao năng lực nghiên
cứu KHXH&NV của đội ngũ giảng viên trẻ; (4) phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của đội ngũ giảng viên trẻ trong nghiên cứu khoa học.
1.2. Giá trị của các cơng trình khoa học đã tổng quan đối với đề tài luận án và
những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu
1.2.1. Giá trị của các cơng trình khoa học đã tổng quan đối với
đề tài luận án
Một là, khi bàn về năng lực các tác giả trong nước và ngoài nước đã cho rằng
năng lực là tổng hòa những yếu tố tự nhiên (sinh học) và xã hội của chủ thể tạo thành
khả năng của chủ thể nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan của hoạt động nhất định, bảo
đảm cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao. Sự đa dạng của các loại năng lực là do các yếu
tố chủ quan không giống nhau gắn với từng hoạt động cụ thể và chủ thể xác định. Theo

22


các tác giả năng lực cấu thành từ yếu tố tự nhiên và xã hội của chủ thể, yếu tố tự nhiên
(tư chất) là điều kiện, tiền đề, nền tảng khơng thể thiếu để hình thành, phát triển năng
lực; yếu tố xã hội (tri thức, kỹ xảo, kỹ năng, thái độ, phương pháp, kinh nghiệm,...)
mang tính quyết định đến sự hình thành và phát triển năng lực. Năng lực tồn tại dưới
dạng khả năng và hiện thực, biểu hiện qua thực tiễn, nhất là ở kết quả, hiệu quả hoạt
động. Năng lực được hình thành, phát triển thơng qua giáo dục đào tạo ở các nhà
trường, tư chất, môi trường và sự học tập, rèn luyện của cá nhân. Ngoài những nội dung
trên, các tác giả đã tập trung nghiên cứu những loại năng lực cụ thể, đưa ra quan niệm,
vai trị, đặc điểm, xác định những vấn đề có tính quy luật, khảo sát, đánh giá thực trạng,
xác định những yêu cầu và giải pháp nâng cao, phát triển từng loại năng lực đó.
Hai là, nghiên cứu năng lực sư phạm của giảng viên các tác giả đã khẳng định,
năng lực sư phạm là một loại năng lực nghề nghiệp chuyên biệt, là sự tổng hòa các yếu tố
tự nhiên và xã hội của người giảng viên nhằm đáp ứng yêu cầu hoạt động sư phạm. Tuy
có cách tiếp cận khác nhau song các tác giả đã chỉ ra những yếu tố cơ bản cấu thành năng
lực sư phạm của người giảng viên là tri thức, tư chất, kỹ năng (chuẩn đoán nhu cầu, đặc
điểm đối tượng; thiết kế, tổ chức; huấn luyện, giáo dục; sử dụng ngôn ngữ; nghiên cứu
khoa học...), thái độ sư phạm,… và có sự thâm nhập của một số phẩm chất. Năng lực sư
phạm phụ thuộc vào việc đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng giảng viên; hoàn cảnh, điều kiện
lao động sư phạm; ý chí, thói quen và năng lực tự học của giảng viên. Các tác giả ở trong
nước đã chỉ ra những nhân tố chi phối, ảnh hưởng đến năng lực sư phạm, đánh giá thực
trạng năng lực sư phạm của đội ngũ giảng viên trước yêu cầu phát triển đất nước, hội
nhập quốc tế có sự tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chỉ ra những
yêu cầu mới về tính sáng tạo, tinh thần ham hiểu biết, khả năng dẫn dắt, định hướng
người học đối với giảng viên; chỉ ra những thách thức, những vấn đề cần thay đổi đối với
việc đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giảng viên và đưa ra những định hướng lớn trong phát
triển năng lực sư phạm của giảng viên.
Ba là, nghiên cứu giảng viên trẻ KHXH&NV ở các trường sĩ quan quân đội,

các tác giả đã đưa ra quan niệm, khái quát đặc điểm đội ngũ giảng viên trẻ
KHXH&NV ở các trường sĩ quan quân đội. Tuy có những điểm khác nhau nhưng các
23


tác giả đều cho rằng, giảng viên trẻ KHXH&NV ở các trường sĩ quan quân đội được
đào tạo cơ bản, trẻ cả về tuổi đời, tuổi nghề và thiếu tri thức thực tiễn. Từ đó, các tác
giả đã chỉ ra vị trí, vai trị, u cầu phẩm chất, năng lực của giảng viên trẻ
KHXH&NV ở các trường sĩ quan quân đội trước địi hỏi đổi mới căn bản, tồn diện
giáo dục, đào tạo trong điều kiện hội nhập, có sự tác động của cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư. Các tác giả đã tập trung đánh giá toàn diện những ưu điểm, hạn chế,
chỉ ra nguyên nhân về phẩm chất, năng lực của đội ngũ giảng viên trẻ KHXH&NV và
đưa ra hệ thống những giải pháp cơ bản nâng cao, phát triển phẩm chất và năng lực của
đội ngũ này.
Bốn là, khi bàn về năng lực sư phạm của giảng viên trẻ KHXH&NV ở các trường sĩ
quan quân đội, các tác giả đã đưa ra quan niệm, chỉ ra được một số yếu tố cấu thành năng
lực sư phạm của giảng viên trẻ KHXH&NV ở các trường sĩ quan quân đội. Nhiều tác giả
đã đi sâu nghiên cứu một loại năng lực thành phần của năng lực sư phạm của giảng viên trẻ
KHXH&NV, luận giải tính tất yếu, sự cần thiết phải nâng cao, phát triển loại năng lực
thành phần đó. Các tác giả đã nghiên cứu vấn đề nâng cao chất lượng đào tạo, thực hiện
quy trình tuyển chọn nguồn, đổi mới chương trình, nội dung đào tạo giảng viên trẻ
KHXH&NV. Từ đó, đã khảo sát thực trạng, chỉ ra những nguyên nhân, đề ra giải pháp cơ
bản nâng cao chất lượng thực hiện quy trình tuyển chọn, đổi mới chương trình, nội dung
đào tạo và nâng cao năng lực sư phạm của giảng viên trẻ KHXH&NV ở các trường sĩ quan
quân đội. Một trong những giải pháp cơ bản trong nâng cao năng lực sư phạm của giảng
viên trẻ KHXH&NV mà các tác giả cùng đưa ra là, phát huy vai trò tự đào tạo, tự bồi
dưỡng của giảng viên trẻ KHXH&NV kết hợp với nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối
sống của họ.
1.2.2. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu
Một là, về lý luận, đưa ra quan niệm năng lực sư phạm và những nhân tố cơ bản

quy định năng lực sư phạm của giảng viên trẻ KHXH&NV ở các trường sĩ quan quân
đội
Vấn đề năng lực sư phạm có nhiều phương pháp tiếp cận và quan niệm khác nhau,
song chưa có cơng trình khoa học nào tiếp cận năng lực sư phạm của giảng viên trẻ
24


KHXH&NV ở các trường sĩ quan quân đội một cách hệ thống dưới góc độ triết học. Tiếp
cận dưới góc độ triết học, vận dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể để luận giải, chỉ rõ những
yếu tố cơ bản và mối quan hệ giữa các yếu tố cơ bản cấu thành năng lực sư phạm của
giảng viên trẻ KHXH&NV ở các trường sĩ quan quân đội. Trên cơ sở kế thừa tri thức
của các khoa học, trực tiếp là tri thức triết học Mác - Lênin, xây dựng các khái niệm
công cụ và đưa ra quan niệm năng lực sư phạm của giảng viên trẻ KHXH&NV ở các
trường sĩ quan quân đội.
Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về năng lực sư phạm của giảng viên trẻ
KHXH&NV ở các trường sĩ quan quân đội trong mối liên hệ giữa cái chung với cái riêng,
giữa nguyên nhân, điều kiện, tiền đề với kết quả trong sự hình thành, vận động, phát triển
năng lực sư phạm. Từ đó, đi sâu luận giải làm rõ những nhân tố cơ bản quy định năng lực
sư phạm của giảng viên trẻ KHXH&NV ở các trường sĩ quan quân đội. Giải quyết những
vấn đề trên là cơ sở lý luận để đánh giá thực trạng, chỉ ra nguyên nhân, khái quát một số
vấn đề đặt ra và đề ra những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực sư phạm của giảng
viên trẻ KHXH&NV ở các trường sĩ quan quân đội hiện nay.
Hai là, về thực tiễn, khảo sát, đánh giá toàn diện thực trạng
năng lực sư phạm, chỉ ra nguyên nhân thực trạng và một số vấn đề đặt
ra đối với nâng cao năng lực sư phạm của giảng viên trẻ KHXH&NV ở
các trường sĩ quan qn đội hiện nay
Các cơng trình khoa học trong tổng quan với mục đích nghiên cứu và cách tiếp
cận khác nhau đã khảo sát, đánh giá thực trạng nâng cao, phát triển phẩm chất, năng
lực đội ngũ giảng viên trẻ nói chung, giảng viên trẻ KHXH&NV ở các trường sĩ quan

qn đội nói riêng. Trong đó, chưa có cơng trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu,
khảo sát thực trạng năng lực sư phạm của giảng viên trẻ KHXH&NV ở các trường sĩ
quan quân đội trước sự phát triển của thực tiễn hiện nay dưới góc độ triết học. Trên
cơ sở cấu trúc năng lực sư phạm của giảng viên trẻ KHXH&NV và các nhân tố cơ
bản quy định năng lực sư phạm của giảng viên trẻ KHXH&NV ở các trường sĩ quan
quân đội luận án khảo sát, đánh giá một cách toàn diện thực trạng năng lực sư phạm
25


×