Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
LỜI NÓI ĐẦU
Hoà cùng xu thế chung của nền kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt Nam
đang có những bước phát triển đáng kinh ngạc. Các hoạt động trao đổi hàng
hoá, thương mại, dịch vụ không chỉ diễn ra trong phạm vi lãnh thổ mà còn
vươn ra tầm quốc tế. Các hoạt động này càng phát triển thì kéo theo các rủi
ro ngày càng gia tăng, khi mà các giao dịch có sự ngăn cách về không gian,
thời gian, hệ thống pháp lý cũng như các yếu tố về thị trường. Vì vậy, vấn đề
đặt ra là làm sao hạn chế được các rủi ro như trên, một trong các biện pháp
hạn chế tối thiểu khả năng xảy ra rủi ro, đó là yêu cầu bảo lãnh của ngân
hàng. Với vai trò là công cụ bảo đảm, công cụ tài trợ và công cụ đôn đốc các
bên tham gia thực hiện hợp đồng, sự xuất hiện của bảo lãnh ngân hàng góp
phần thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển.
Hiện nay, việc sử dụng bảo lãnh ngân hàng đang bùng nổ mạnh mẽ,
đóng vai trò xúc tác cho các hợp đồng kinh tế được ký kết dễ dàng đồng thời
cũng đem lại thu nhập đáng kể cho các ngân hàng. Có thể chắc chắn rằng các
giao dịch thương mại lớn mà có yếu tố nước ngoài tham gia thì đi kèm với
các hợp đồng kinh tế bắt buộc phải có thêm hợp đồng bảo lãnh của ngân
hàng. Có như vậy mới tạo được sự tin tưởng tuyệt đối của bạn hàng. Trong
nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, thì bảo lãnh của ngân hàng
càng trở nên bức thiết.
Nghiệp vụ bảo lãnh được thực hiện tại ngân hàng TMCP Bắc Á_ chi
nhánh Hàng Đậu ngay từ những năm đầu thành lập. Mặc dù đây là một
nghiệp vụ ngân hàng còn mới mẻ với các NHTM Việt nam, song với uy tín và
tiềm lực tài chính của mình, trong những năm qua, chi nhánh đã đáp ứng tốt
nhu cầu của thị trường, đem lại thu nhập đáng kể và dần đưa hoạt động bảo lãnh
trở thành một trong những hoạt động chính, không thể thiếu của ngân hàng.
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
Được sự giúp đỡ tận tình của ThS. Lê Hương Lan, và các anh, chị tại
Ngân hàng TMCP Bắc Á - chi nhánh Hàng Đậu, em đã quyết định chọn đề
tài: “Nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh ngân hàng TMCP
Bắc Á chi nhánh Hàng Đậu” làm chuyên đề tốt nghiệp cho mình. Bố cục
chuyên đề được chia làm ba phần:
Chương 1: Những vấn đề chung về hoạt động bảo lãnh ngân hàng
Thương Mại
Chương 2:Thực trạng về hiệu quả hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng
TMCP Bắc Á chi nhánh Hàng Đậu
Chương 3:Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh tại Ngân
hàng TMCP Bắc Á chi nhánh Hàng Đậu
Với thời gian thực tập ngắn và kiến thức còn hạn chế, chắc chắn nội
dung chuyên đề của em còn nhiều thiếu sót, em mong nhận được sự góp ý của
thầy cô và các bạn để có được một chuyên đề nghiên cứu hoàn thiện hơn nữa.
Qua đây, em cũng xin chân thành cảm ơn ThS Lê Hương Lan đã giúp em có
những định hướng ban đầu khi lựa chọn đề tài cũng như hướng dẫn em trong
suốt quá trình hoàn thiện chuyên đề này. Cảm ơn các cán bộ phòng tín dụng
chi nhánh Hàng Đậu đã giúp đỡ em rất nhiều trong thời gian tiếp cận kiến
thức thực tế và làm quen với nghiệp vụ chuyên môn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Ngân Hàng Thương mại & vai trò của nó trong nền kinh tế
1.1 Khái niệm và các hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.1 Khái niệm NHTM
NHTM là loại hình tổ chức tín dụng thực hiện các hoạt động kinh
doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền
gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và thực hiện các nghiệp vụ thanh
toán, các nghiệp vụ khác có liên quan.
NHTM là trung gian tài chính, là cầu nối giữa những người thừa vốn và
những người thiếu vốn. Nó chuyển hoá các khoản tiền tạm thời chưa sử dụng
của các chủ thể kinh tế thừa vốn đến các chủ thể kinh tế thiếu vốn tạm thời
đang cấn vay để sản xuất, kinh doanh hoặc tiêu dùng. Các Ngân hàng đã huy
động được những nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế qua việc nhận tiền gửi
hoặc đi vay và cũng chính những đồng vốn đó được Ngân hàng đem cho vay
phục vụ các nhu cầu chi tiêu, hay nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh. Vốn tín
dụng của các ngân hàng đã tạo thuận lợi cho việc thực hiện trôi chảy ở tất cả
các khâu của quá trình tái sản xuất trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp,
thương mại và làm tăng nhịp độ của quá trình tái sản xuất. Chính từ hoạt động
cấp tín dụng mà các ngân hàng đã góp phần đẩy mạnh đầu tư, góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế cũng như góp phần cải thiện đời sống dân cư.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.2.1 Thay đổi tiền dự trữ
Nhằm mục đích có nguồn vốn để cho vay, các NHTM đã phải tìm cách
huy động vốn. Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi của
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
cá nhân hoặc tổ chức. Ngoài ra ngân hàng cũng có các hình thức huy động
vốn khác như phát hành các chứng chỉ vay tiền hoặc vay tiền của các tổ chức
tín dụng khác hoặc vay ngân hàng nhà nước.Ngân hàng trả lãi cho các khoản
tiền gửi và các khoản vay này và cam kết hoàn trả vốn gốc đúng hạn
Khi một NHTM nhận thêm tiền gửi, thì tiền dự trữ tăng thêm đúng
bằng số tiền gửi đó; khi tiền gửi rút ra, nó bị mất một số lượng tiền dự trữ
đúng bằng số tiền gửi rút ra.
1.1.2.2 Tạo lợi nhuận từ việc cho vay
Như chúng ta đã biết lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của các NHTM là
lĩnh vực tài chính, tiền tệ. Cho vay ( Tín dụng) là hoạt động quan trọng nhất,
mang lại lợi nhuận cao nhất cho ngân hàng và nó bù đắp được phần lớn chi
phí liên quan đến hoạt động, quản lý của các ngân hàng như chi phí tiền gửi,
chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, thuế và các chi phí rủi ro đầu tư.
NHTM có rất nhiều hình thức tín dụng khác nhau để phục vụ nhu cầu của
khách hàng. Tuy nhiên có thể chia thành các hình thức tín dụng cơ bản như sau:
* Chiết khấu thương phiếu : Thương phiếu được được hình thành chủ
yếu từ quá trình mua bán chịu hàng hoá và dịch vụ giữa khách hàng với nhau.
Người bán ( hoặc người thụ hưởng) có thể giữ thương phiếu đến hạn để đòi
tiền người mua ( hoặc người phải trả) hoặc mang đến ngân hàng để xin chiết
khấu trước hạn. Khi khách hàng mang thương phiếu đến NHTM xin chiết
khấu. NHTM sẽ giữ thương phiếu mà khách hàng đem đến đồng thời chuyển
cho khách hàng một khoản tiền được tính bằng cách chiết khấu số tiền ghi
trên thương phiếu theo lãi suất chiết khấu. Ngoài ra NHTM còn có thể thu phí
chiết khấu thương phiếu. Thương phiếu NHTM thu được có thể đợi đến khi
đáo hạn thì thu tiền từ người phát hành thương phiếu hoặc đem tái chiết khấu
tại Ngân hàng nhà nước trong trường hợp có nhu cầu thanh khoản.
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
* Cho vay : Khi các khách hàng có nhu cầu vay vốn của NHTM để
phục vụ cho sản xuất kinh doanh. NHTM sẽ tiến hành đánh giá, phân tích và
tiến hành cấp vốn cho những đối tượng đáp ứng các yêu cầu của ngân hàng.
Khách hàng phải cam kết hoàn trả cả vốn và lãi khi đến hạn, sử dụng tín dụng
đúng mục đích, ngân hàng tài trợ dựa trên dự án có hiệu quả tức là đảm bảo
khả năng sinh lời của dự án. Do đó trong các món vay của khách hàng
thường phải có tài sản đảm bảo. Cho vay là nghiệp vụ tín dụng phổ biến nhất
trong ngân hàng
* Cho thuê tài sản : là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản cho khách
hàng thuê theo những thoả thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách
hàng phải trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng.
* Bảo lãnh : là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính
hộ khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra song ngân hàng đã
cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi. Có các hình thức bảo lãnh
như bảo lãnh tham gia dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo đảm thanh
toán, vv…
1.2.Vai trò của ngân hàng Thương Mại
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền
kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng , trong đó NHTM thường
chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản , thị phần và số lượng cac ngân
hàng .
NHTM là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh
tế. Hàng triệu cá nhân , hộ gia đình và các doanh nghiệp ,các tổ chức kinh tế -
xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng . NHTM đóng vai trò là người thủ quỹ cho
toàn xã hội . Thu nhập từ ngân hàng thương mại là nguồn thu nhập quan trọng
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
của nhiều hộ gia đình.NHTM là tổ chức cho vay chủ yếu đối với doanh
nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với Nhà nước (thành phố, tỉnh …).
Đối với các doanh nghiệp, nhân hàng thương mại thường là tổ chức cung cấp
tín dụng để phục vụ cho việc mua hàng hoá dự trữ hoăc xây dựng nhà máy ,
mua sắm trang thiết bị . Khi doanh nghiệp và người tiêu dùng phải thanh toán
cho các khoản mua hàng hoá và dịch vụ, họ thường sử dụng séc, uỷ nhiệm
chi, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử…Và khi họ cần thông tin tài chính hay
lập kế hoạch tài chính , họ thường đến các ngân hàng TM để nhận được lời tư
vấn . Các khoản của ngân hàng cho chính phủ (thông qua mua các chứng
khoán của chính phủ ) là nguồn tài chính quan trọng để đầu tư phát triển .
2.Hoạt Động Bảo Lãnh Của NHTM
2.1.Khái Niệm bảo lãnh ngân hàng
2.1.1.Sự hình thành và phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng
a.Sự cần thiết phải ra đời nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng
Nền kinh tế càng phát triển kéo theo sự phát triển không ngừng các hoạt
động giao lưu trao đổi hàng hoá, dịch vụ, thương mại. Các giao dịch ngày
càng gia tăng về mặt số lượng, giá trị, độ phức tạp và được mở rộng trong
phạm vi toàn thế giới. Đặc biệt,trong thương mại quốc tế, các giao dịch diễn
ra có sự ngăn cách về thời gian, không gian, hệ thống pháp luật, điều kiện thị
trường…làm cho các loại rủi ro càng gia tăng như:rủi ro không thực hiện hợp
đồng, rủi ro thanh toán, rủi ro tín dụng…Để phòng ngừa rủi ro, bên giao hàng
hoá thường yêu cầu bên nhận hàng hoá phải có bảo lãnh của bên thứ 3 ( bên
thứ 3 thường là người có uy tín, có tiềm lực tài chính…) và như thế nghiệp vụ
bảo lãnh ra đời.
Trên thực tế, có nhiều tổ chức tài chính cũng phát hành bảo lãnh như:
chính phủ, công ty bảo hiểm. công ty tài chính, công ty chứng khoán… song
chủ yếu phát triển ở các NHTM. Tại sao lại như vậy? Nguyên nhân xuất phát
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
từ những đặc điểm riêng có của các NHTM đó là:
- NHTM là trung gian tài chính của nền kinh tế với vai trò chủ yếu là
nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân đem cho vay và đầu tư để thu lợi
nhuận. Thông qua quá trình đó, ngân hàng nắm bắt được rất nhiều thông tin
của khách hàng. Biết được khả năng tài chính của khách hàng thông qua tài
khoản tiền gửi của họ tạo cơ sở cho việc phát hành thư bảo lãnh đúng đắn.
-NHTM thường xuyên cung cấp các dịch vụ tài chính cho nền kinh tế,
có tiềm lực tài chính cao( vì lĩnh vực kinh doanh là tiền tệ) nên đã xây dựng
được uy tín, cũng như mối quan hệ gắn bó tin tưởng của khách hàng với ngân
hàng. Uy tín của ngân hàng là yếu tố quan tâm hàng đầu của khách hàng khi
quyết định lựa chọn dịch vụ bảo lãnh của ngân hàng( là đối tượng yêu cầu bảo
lãnh).
Như vậy, sự ra đời của bảo lãnh là một yếu tố khách quan, giúp phòng
ngừa những rủi ro trong giao dịch tài chính và phi tài chính. Và sự phát triển
của bảo lãnh gắn liền với hoạt động của các NHTM, tổ chức có khả năng
cung cấp dịch vụ bảo lãnh tốt nhất.
b.Sự phát triển của hoạt động bảo lãnh ngân hàng.
Bảo lãnh ngân hàng là một nghiệp vụ quốc tế, được sử dụng rộng rãi từ
lâu trên thế giới. Nhiều tài liệu dẫn chứng, trong giao dịch thương mại, bảo
lãnh ngân hàng xuất hiện lần đầu tiên tại Mỹ vào những năm đầu thập kỷ 60
của thế kỷ 20 như là một dạng thư tín dụng dự phòng (standby L/C). Ở thời
điểm này, bảo lãnh ngân hàng bắt đầu thực sự được sử dụng như là một hoạt
động kinh doanh của ngân hàng. Tuy nhiên, phải tới những năm 70, hoạt động
bảo lãnh của ngân hàng mới thực sự được sử dụng trong các giao dịch
TMQT. Nguồn gốc là từ sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp dầu
mỏ khiến cho các quốc gia Trung Đông trở nên giầu có. Họ liên tục ký kết các
hợp đồng kinh tế với các quốc gia phương tây để thực hiện các dự án như: tạo
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
cơ sở hạ tầng, canh tân nông, nông nghiệp, quốc phòng…và để bảo đảm an
toàn cho các hợp đồng này, các công ty dầu mỏ Trung Đông yêu cầu các tập
đoàn Phương Tây phải chứng minh năng lực tài chính của minh thông qua
bảo lãnh ngân hàng. Đó là một yêu cầu tất yếu bởi giao dịch TMQT luôn chứa
đựng nhiều rủi ro. Sau những năm 70, cùng với sự phát triển của TMQT, hoạt
động bảo lãnh phát triển đáng kinh ngạc. Bảo lãnh thực sự trở thành công cụ
phòng ngừa rủi ro quan trọng.
Ngày nay, bảo lãnh đã trở thành một nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng
tại nhiều nước trên thế giới. Quy mô và doanh thu phí bảo lãnh của mỗi ngân
hàng thể hiện uy tín trong nước cũng như quốc tế của ngân hàng đó đối với
ngân hàng đối tác, đối với khách hàng và ngay cả đối với chính phủ. Trong xu
hướng quốc tế hoá, toàn cầu hóa, chu chuyển vốn và giao lưu thương mại
quốc tế hiện nay ngày càng gia tăng với mức độ khổng lồ, nghiệp cụ bảo lãnh
rất được các ngân hàng chú trọng hoàn thiện và phát triển, nhất là trong điều
kiện mua bán chịu trong giao dịch thương mại ngày càng phổ biến, tiết kiệm
vốn cho cả bên bán hàng và bên mua hàng. Đây là nghiệp vụ mang lại thu
nhập lớn cho các ngân hàng, cũng là công cụ tài trợ ngắn hạn cho các doanh
nghiệp. Ngược lại, các doanh nghiệp và các nhà kinh doanh chủ yếu sử dụng
nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn cho công
việc kinh doanh của mình, đồng thời đảm bảo an toàn trong giao dịch trong
kinh doanh.
Tại Việt Nam, từ những năm 80, bảo lãnh đã được đề cập trong các văn
bản pháp luật. Song từ năm 1980 đến năm 1990, bảo lãnh của ngân hàng chỉ
do NHNN thực hiện như một công cụ hỗ trợ kinh doanh cho các doanh
nghiệp nhà nước vay vốn nước ngoài để sản xuất kinh doanh. Sau công cuộc
đổi mới trong hệ thống ngân hàng năm 1998, các NHTM Việt Nam đã có sự
phát triển đáng ghi nhận,là kênh cung cấp vốn quan trọng cho nền kinh tế đất
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
nước. Các nghiệp vụ ngân hàng cũng ngày càng phát triển phong phú và đa
dạng. Tuy nhiên, còn nhiều nghiệp vụ ngân hàng mới chỉ thực hiện ở giai
đoạn bước đầu, trong đó có nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng. Nghiệp vụ này hết
sức phức tạp đòi hỏi phải tuân thủ các tập quán và thông lệ quốc tế. Năm
1994, quy chế bảo lãnh và tái bảo lãnh của thống đốc NHNN được ban hành
và lần đầu tiên áp dụng cho các NHTM Việt Nam. Tuy là một nghiệp vụ ngân
hàng mới và chưa có hành lang pháp lý chặt chẽ song bảo lãnh ngân hàng đã
dần khẳng định vị trí không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường hiện đại. Do
yêu cầu bức thiết của nền kinh tế về hoạt động bảo lãnh ngân hàng, các văn
bản pháp lý về nghiệp vụ mới này lần lượt ra đời như:
1Quyết định 192/QĐ-NH ngày 17/09/1992 của thống đốc NHNN về
bảo lãnh và tái bảo lãnh vay vốn nước ngoài.
2Quyết định 196/QĐ-NH14 ngày 19/09/1994 của thống đốc NHNN về
quy chế nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng. Đây là cơ sở pháp lý đầu tiên về
nghiệp vụ bảo lãnh của các NHTM.
3Quyết định 283/2000/QĐ-NHNN14 ngày 25/08/2000 của thống đốc
NHNN về việc ban hành quy chế bảo lãnh ngân hàng thay thế cho các
quyết định trước đây. Đây chính là một bước hoàn thiện cơ sở pháp lý
đầu tiên cho các hoạt động bảo lãnh ngân hàng.
4Quyết định 386/QĐ-NHNN ngày 11/04/2001 về việc sửa đổi bổ xung
một số điều trong quy chế bảo lãnh ngân hàng.
5Quyết định số 112/2003/QĐ-NHNN về việc sửa đổi bổ xung quy chế
bảo lãnh ngân hàng.
Đến nay, hoạt động bảo lãnh ngân hàng đã phát triển một cách nhanh
chóng, đem lại nguồn thu lớn cho các NHTM. Và trong tương lai, nghiệp vụ
này còn phát triển hơn nữa trước những đòi hỏi bức thiết của nền kinh tế thị
trường và sẽ trở thành một trong những hoạt động chính của các NHTM trong
tiến trình hội nhập.
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
Nghiệp vụ bảo lãnh được thực hiện tại ngân hàng TMCP Bắc Á ngay từ
khi thành lập. Đến nay, trước xu thế hội nhập với kinh tế thế giới, nhu cầu thị
trường và sự cạnh tranh khốc liệt giữa các NHTM, thì hoạt động bảo lãnh
đang trở thành một công cụ cạnh tranh hiệu quả của ngân hàng, và trong
tương lai, hoạt động này còn phát triển hơn nữa.
2.1.2.Khái Niệm nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng
Có rất nhiều cách khái niệm khác nhau về nghiệp vụ bảo lãnh ngân
hàng, song về bản chất và phương thức thực hiện, các khái niệm này đều nêu
bật lên nghĩa vụ của người phát hành bảo lãnh phải thanh toán cho người
nhận bảo lãnh nếu người đó có bằng chứng chứng minh người được bảo lãnh
vi phạm hợp đồng cam kết.
Theo quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14 ngày 28/08/2000 quy định
như sau: “Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của TCTD( bên bảo
lãnh) với bên có quyền( bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ thay
cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng
phải nhận nợ và hoàn trả cho TCTD số tiền đã được trả thay “.
Theo luật các TCTD điều 20 có định nghĩa cụ thể về bảo lãnh của ngân
hàng như sau: “ Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của TCTD với
bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi
khách hàng không thực hiên đúng nghĩa vụ cam kết; khách hàng phải nhận nợ
và hoàn trả cho các TCTD số tiền đã được trả thay”.
Bộ luật dân sự nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam điều 366 có
định nghĩa về bảo lãnh như sau:” Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là người
bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa
vụ thay cho bên có nghĩa vụ ( gọi là bên được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà bên
được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ “ .
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
Hình thức của bảo lãnh ngân hàng là hợp đồng bảo lãnh, hay còn gọi là
thư bảo lãnh. Thư bảo lãnh là văn bản cam kết giữa ngân hàng với khách hàng
về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong việc bảo lãnh và hoàn trả.
Như vậy, bảo lãnh của ngân hàng là cam kết bằng văn bản, là hình thức
cấp tín dụng bằng chữ ký. tại thời điểm tham gia bảo lãnh, ngân hàng không
trực tiép xuất vốn mà chỉ dùng khả năng tài chính và uy tín của mình để đảm
bảo thực hiện nghĩa vụ đã cam kết từ trước.
Từ những định nghĩa trên, ta thấy tham gia vào hoạt động bảo lãnh có ít
nhất là ba chủ thể, đó là:
1Bên bảo lãnh: là các TCTD, là bên đứng ra phát hành thư bảo lãnh
cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh khi bên này
vi phạm nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Theo quy định của
quyết định 283/2000/QĐ-NHNN14, TCTD thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
bao gồm: Các ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng thương mại
cổ phần, ngân hàng đầu tư, ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách,
ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam,
ngân hàng hợp tác, các loại hình ngân hàng khác và các TCTD phi
ngân hàng được thành lập và hoạt động theo luật các TCTD ( gọi chung
là các TCTD); các ngân hàng được Thống đốc ngân hàng nhà nước cho
phép thực hiện thanh toán quốc tế được thực hiện bảo lãnh vay, bảo
lãnh thanh toán và các hình thức bảo lãnh khác mà bên nhận bảo lãnh là
các tổ chức, cá nhân nước ngoài; TCTD thực hiện bảo lãnh hối phiếu,
lệnh phiếu theo quy định của pháp luật về thương phiếu.
2Bên được bảo lãnh: là bên yêu cầu ngân hàng mở thư bảo lãnh. Theo
quy chế bảo lãnh (ban hành kèm theo quyết định 283/2000/QĐ-
NHNN14), bên được bảo lãnh gồm: Các doanh nghiệp nhà nước, các
loại hình doanh nghiệp theo quy định của luật doanh nghiệp, hợp tác
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
xã, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp nước
ngoài tham gia hợp đồng hợp tác liên doanh và các dự án đầu tư tại
Việt Nam hoặc vay vốn để thực hiện các dự án tại Việt Nam, các tổ
chức tín dụng, hộ kinh doanh cá thể và các cá nhân trong nước và nước
ngoài.
3Bên nhận bảo lãnh: là các tổ chức, cá nhân có đủ năng lực pháp luật
dân sự và năng lực hành vi dân sự. Đó là bên thụ hưởng lợi ích từ hợp
đồng bảo lãnh
2.2. Đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng
2.2.1.Bảo lãnh ngân hàng là mối quan hệ đa phương.
Hoạt động bảo lãnh của ngân hàng là mối quan hệ đa phương. Tham
gia vào hoạt động này có ít nhất ba chủ thể, đó là: bên phát hành bảo lãnh
( ngân hàng), bên được bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh. Các chủ thể tham gia có
mối quan hệ với nhau thông qua các hợp đồng: Hợp đồng kinh tế, hợp đồng
bảo lãnh, thư bảo lãnh. Cụ thể như sau:
Trước hết, hoạt động bảo lãnh được phát sinh trong mối quan hệ kinh tế
giữa bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh. Hai chủ thể này thoả thuận và
ký kết hợp đồng kinh tế. Trong đó, bên nhận bảo lãnh yêu cầu phải có bảo
lãnh của ngân hàng. Theo đó, bên được bảo lãnh tới ngân hàng yêu cầu ngân
hàng bảo lãnh và chỉ khi bên được bảo lãnh đáp ứng được yêu cầu của của
ngân hàng thì bảo lãnh mới được xác lập. Lúc này, phát sinh những mối quan
hệ sau:
+ Quan hệ giữa ngân hàng và bên được bảo lãnh thông qua hợp đồng
bảo lãnh ( HĐ2). Đó là mối quan hệ giữa ngân hàng cấp tín dụng và bên
hưởng tín dụng.
+ Quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh thông qua cam kết
bảo lãnh( hay thư bảo lãnh). Thư bảo lãnh do ngân hàng phát hành trao cho
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
bên nhận bảo lãnh trong đó quy định những điều kiện để bên nhận bảo lãnh có
thể nhận được thanh toán của ngân hàng trong trường hợp bên được bảo lãnh
vi phạm nghĩa vụ đã cam kết.
Như vậy, các chủ thể tham gia trong hoạt động bảo lãnh có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau trên cơ sở quyền lợi và nghĩa vụ. Ba hợp đồng trên tuy
độc lập với nhau song nó vẫn có ảnh hường qua lại với nhau. Đó chính là đặc
điểm rất khác biệt của hoạt động bảo lãnh ngân hàng.
2.2.2. Bảo lãnh ngân hàng mang tính độc lập.
Mặc dù quan hệ trong bảo lãnh là mối quan hệ đa phương, tuy nhiên
quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia lại mang tính độc lập tương
đối. Đây chính là một đặc điểm nổi bật của bảo lãnh. Điều này có nghĩa là
việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh không phụ thuộc vào bất cứ giao dịch hay
yếu tố nào ngoài giao dịch bảo lãnh. Ngân hàng phải có trách nhiệm thanh
toán cho bên nhận bảo lãnh khi bên này yêu cầu và có bằng chứng chứng
minh sự vi phạm hợp đồng của bên được bảo lãnh. Ngân hàng không thể viện
vào các lý do thuộc về mối quan hệ giữa ngân hàng với bên được bảo lãnh
như: bên được bảo lãnh còn nợ ngân hàng hay bên được bảo lãnh vi phạm
hợp đồng với ngân hàng…để trì hoãn hoặc không thực hiện thanh toán cho
bên nhận bảo lãnh. Khi có yêu cầu thanh toán, ngân hàng phải thanh toán
ngay cho bên nhận bảo lãnh sau đó mới quay ra thu nợ đối với bên được bảo
lãnh. Lúc đó, hình thức cấp tín dụng bằng chữ ký chuyển sang cấp tín dụng
bằng tiền. Khoản nợ này se được chuyển sang khoản nợ xấu, khó đòi của
ngân hàng, ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro.
Mặc dù vậy, tính độc lập của bảo lãnh chỉ mang tính tương đối. Tuỳ
từng trường hợp mà tính độc lập có thể cao hoặc cũng có thể thập. Tính độc
lập của bảo lãnh phụ thuộc vào các điều kiện đi kèm. Nếu bảo lãnh yêu cầu
kèm theo quyết định của trọng tài hay toà án thì nghĩa vụ bảo lãnh của ngân
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
hàng không chỉ phụ thuộc vào thoả thuận trong thư bảo lãnh mà còn phải phụ
thuộc vào quyết định của người thứ ba là trọng tài hoặc toà án.
Đặc điểm này của bảo lãnh cũng giúp phân biệt bảo lãnh với bảo hiểm,
vì nghĩa vụ thanh toán bảo hiểm của công ty bảo hiểm chỉ được thực hiện khi
người được bảo hiểm có đầy đủ bằng chứng chứng minh tổn thất đã xảy ra
thuộc phạm vi bảo hiểm.
2.2.3. bảo lãnh là hoạt động ngoại bảng
Về bản chất, bảo lãnh là hình thức tài trợ bằng uy tín, qua đó bên được
bảo lãnh có thể tìm kiếm nguồn tài trợ mới, mua được hàng hoá hoặc thực
hiện các phương án sản xuất kinh doanh… nhằm thu lợi. Khi thực hiện
nghiệp vụ bảo lãnh, ngân hàng chưa phải xuất quỹ tiền ngay do đó bảo lãnh
được coi như là một hoạt động ngoại bảng vì hoạt động của nó không làm
thay đổi bảng cân đối kế toán. Tuy nhiên, khi rủi ro xảy ra (khi khách hàng
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng kinh tế đã ký kết với
bên nhận bảo lãnh) thì ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán thay cho
bên nhận bảo lãnh. Đó cũng chính là lúc ngân hàng phải thực sự xuất quỹ tiền
mặt, điều này làm ảnh hưởng đến bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Khoản
chi này được xếp vào khoản tín dung “xấu” , cấu thành nợ quá hạn. Khi đó,
hoạt động bảo lãnh đã được chuyển từ tài sản ngoại bảng vào tài sản nội bảng.
Như vậy, nếu hoạt động bảo lãnh có chất lượng kém không những có
ảnh hưởng xấu tới uy tín của ngân hàng mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới tài sản
của ngân hàng. Vì vậy, cần phải cân nhắc kỹ trước khi đưa ra quyết định bảo
lãnh nhằm tránh những khoản tài trợ “ xấu” này.
Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam ghi nhận bảo lãnh là một nghiệp vụ
tín dụng của ngân hàng, nhưng từ việc phân tích đặc điểm trên, ta thấy bảo
lãnh không phản ánh đúng bản chất của tín dụng là chuyển lượng giá trị (tài
sản) của chủ thể này cho chủ thể khác. Bảo lãnh chỉ trở thành một hoạt động
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
tín dụng khi ngân hàng phải xuất tiền ra thanh toán thay cho khách hàng. Khi
đó, bảo lãnh là một khoản cho vay bắt buộc. Ngoài ra, thu nhập từ hoạt động
tín dụng được hạch toán vào thu nhập từ dịch vụ ngân hàng chứ không dựa
vào chênh lệch lãi suất như hoạt động tín dụng.
2.2.4. Bảo lãnh tiến hành trên cơ sở chứng từ.
Tất cả các hoạt động của ngân hàng đều dựa trên cơ sở chứng từ và
hoạt động bảo lãnh cũng không phải là ngoại lệ. Cam kết bảo lãnh của ngân
hàng cũng là một văn bản mà việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của ngân hàng
dựa trên văn bản đó. Khi bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng đã ký kết,
muốn được ngân hàng thanh toán, bên nhận bảo lãnh cũng phải mang đến
ngân hàng những chứng từ phù hợp với hợp đồng bảo lãnh. Nếu chứng từ
không phù hợp, ngân hàng có quyền từ chối yêu cầu thanh toán.
2.3. Phân loại bảo lãnh ngân hàng.
Bảo lãnh ngân hàng rất phong phú và đa dạng về loại hình, tuỳ theo
phương thức phát hành, mục đích, điều kiện thanh toán, bản chất… mà người
ta phân bảo lãnh thành các loại hình khác nhau.
2.3.1.Căn cứ theo phương thức phát hành bảo lãnh.
Theo phương thức này, bảo lãnh được chia thành: bảo lãnh trực tiếp,
bảo lãnh gián tiếp và đồng bảo lãnh.
*Bảo lãnh trực tiếp ( Direct guarantee) : là một loại bảo lãnh mà trong
đó, ngân hàng phát hành chịu trách nhiệm trực tiếp cho bên được bảo lãnh.
Sau khi thực hiện nghĩa vụ thay, ngân hàng phát hành bảo lãnh có quyền truy
đòi số tiền đã thanh toán thay từ phía người được bảo lãnh.
Loại bảo lãnh này chịu sự chi phối của luật trong nước và khi hết hạn
có thể trực tiếp tất toán với người được bảo lãnh mà không cần có sự hoàn trả
thư bảo lãnh. Ưu điểm của loại bảo lãnh này là người được bảo lãnh không
phải mất thêm chi phí hoa hồng cho ngân hàng đại lý nước ngoài.
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
Trong bảo lãnh trực tiếp, thường có ba chủ thể tham gia, đó là: ngân
hàng bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Trường hợp bên
nhận bảo lãnh là người nước ngoài, có thể còn có sự tham gia của ngân hàng
thông báo ở cùng quốc gia đó.
Người được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh ký kết hợp đồng cơ sở
(hợp đồng kinh tế), làm phát sinh nghĩa vụ cần được bảo lãnh.
Người được bảo lãnh yêu cầu ngân hàng phát hành thư bảo lãnh
Ngân hàng phát hành bảo lãnh phát hành thư bảo lãnh gửi tới người
nhận bảo lãnh
Trường hợp người nhận bảo lãnh ở nước ngoài, ngân hàng phát hành
sẽ đề nghị ngân hàng đại lý của mình có trụ sở tại nước của người nhận bảo
lãnh, thông báo và chuyển nội dung thư bảo lãnh tới người thụ hưởng. Ngân
hàng này được gọi là ngân hàng thông báo (Advising bank).
Ngân hàng thông báo thực hiện việc thông báo và chuyển nội dung thư
bảo lãnh tới người nhận bảo lãnh.
Ngân hàng thông báo sẽ chịu trách nhiệm về tính chính xác, tính chân
thực của bảo lãnh như: chữ ký, mã SWIFT, mã Telex…và không chịu trách
nhiệm về nội dung thư bảo lãnh, trách nhiệm thanh toán và những tranh chấp
phát sinh nếu có.
*Bảo lãnh gián tiếp : là loại bảo lãnh mà trong đó, ngân hàng bảo lãnh
phát hành bảo lãnh theo chỉ thị của một ngân hàng trung gian phục vụ cho
người được bảo lãnh dựa trên yêu cầu của người nhận bảo lãnh.
Khi rủi ro xảy ra, ngân hàng phát hành bảo lãnh sẽ thanh toán theo cam
kết bảo lãnh đã phát hành, sau đó yêu cầu ngân hàng chỉ thị trả khoản tiền mà
mình đã thanh toán thay. Như vậy, trong bảo lãnh gián tiếp, người được bảo
lãnh không bồi hoàn trực tiếp cho ngân hàng phát hành bảo lãnh mà chỉ bồi
hoàn cho ngân hàng chỉ thị, ngân hàng phục vụ người được bảo lãnh. Trách
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
nhiệm bồi hoàn của ngân hàng chỉ thị được thể hiện thông qua một cam kết
gọi là cam kết bảo lãnh đối ứng do chính ngân hàng này đưa ra. Bảo lãnh đối
ứng cũng có đầy đủ các nội dung và điều khoản quy định như trong bảo lãnh
chính, Việc áp ụng bảo lãnh gián tiếp thường do người nhận bảo lãnh yêu cầu
nhằm thuận lợi hơn trong giao dịch đòi tiền sau này.
Trong bảo lãnh đối ứng thường có ít nhất bốn bên tham gia. Đó là:
ngân hàng chỉ thị (ngân hàng phục vụ người được bảo lãnh), ngân hàng phát
hành bảo lãnh, là ngân hàng do người nhận bảo lãnh yêu cầu, người được bảo
lãnh và người nhận bảo lãnh. Nhiều trường hợp, trong bảo lãnh gián tiếp có
rất nhiều các bên tham gia do người nhận bảo lãnh và người được bảo lãnh có
sự ngăn cách quá lớn về vị trí địa lý, khiến cho người nhận bảo lãnh không
yên tâm về khả năng an toàn của các giao dịch mà mình sắp thực hiên.
Bảo lãnh gián tiếp thường xảy ra với những giao dịch kinh tế có yếu tố
nước ngoài tham gia. Khi đó, người nhận bảo lãnh chỉ chấp nhận giao dịch
khi được ngân hàng ở nước họ đứng ra bảo lãnh, và như vậy bảo lãnh gián
tiếp được hình thành.
Người được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh ký hợp đồng cơ sở làm
phát sinh nhu cầu cần bảo lãn của ngân hàng, người nhận bảo lãnh yêu cầu
người được bảo lãnh phải có bảo lãnh của một ngân hàng cụ thể (ngân hàng
phát hành)
Người được bảo lãnh tới ngân hàng phục vụ mình, yêu cầu chỉ thị ngân
hàng phục vụ người nhận bảo lãnh phát hành bảo lãnh.
Ngân hàng phục vụ người được bảo lãnh chỉ thị ngân hàng phục vụ
người nhận bảo lãnh phát hành bảo lãnh thông qua một hợp đồng gọi là bảo
lãnh đối ứng.
Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng phát hành thư bảo lãnh gửi tới
người thụ hưởng.
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
Trong nhiều trường hợp, nếu ngân hàng phát hành bảo lãnh và người
thụ hưởng bảo lãnh cũng có sự ngăn cách về vị trí địa lý, gây khó khăn cho
việc gửi thư bảo lãnh đến người thụ hưởng, lúc đó trong bảo lãnh gián tiếp
còn xuất hiện thêm ngân hàng thông báo có trách nhiệm thông báo nội dung
thư bảo lãnh cho người thụ hưởng.
* Đồng bảo lãnh : là việc nhiều TCTD cùng bảo lãnh cho một nghiệp
vụ bảo lãnh thông qua một TCTD đầu mối. Đồng bảo lãnh thường áp dụng
đối với những thương vụ lớn, khả năng rủi ro cao hoặc do hạn chế trong quy
định của chính phủ mà một ngân hàng riêng lẻ không thực hiện , lúc đó, họ sẽ
kêu gọi các ngân hàng khác cùng tham gia bảo lãnh với mình. Các ngân hàng
trong quan hệ đồng bảo lãnh thường cử ra một ngân hàng đầu mối có trách
nhiệm phát hành thư bảo lãnh, quản lý tài khoản ký quỹ hoặc tài sản đảm bảo
của khách hàng. Ngân hàng đầu mối cũng có nhiệm vụ thu phí bảo lãnh từ
khách hàng sau đó chia cho từng ngân hàng thành viên tuỳ theo tỷ lệ bảo lãnh
của từng ngân hàng. Khi rủi ro xảy ra, người thụ hưởng đến ngân hàng đầu
mối đòi tiền, ngân hàng này sẽ trả tiền ngay cho người thụ hưởng sau đó truy
đòi các ngân hàng thành viên theo tỷ lệ mà các ngân hàng này cam kết. Các
ngân hàng thành viên phải có trách nhiệm thanh toán với ngân hàng đầu mối,
sau đó mới truy đòi từ người được bảo lãnh.
Người được bảo lãnh và người thụ hưởng ký kết hợp đồng cơ sở, người
thụ hưởng yêu cầu có bảo lãnh của ngân hàng.
Người được bảo lãnh làm đơn xin được bảo lãnh gửi tới ngân hàng.
Sau khi phân tích khách hàng, xác định mức độ rủi ro. Ngân hàng đầu
mối tiến hành dàn xếp đồng bảo lãnh với các ngân hàng thành viên, xác định
tỷ lệ tham gia đồng bảo lãnh của từng ngân hàng và ký hợp đồng đồng bảo
lãnh với tưng ngân hàng thành viên.
Ngân hàng đầu mối phát hành thư bảo lãnh gửi tới người thụ hưởng.
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
*Bảo lãnh giáp lưng : Loại bảo lãnh này thường xuất hiện trong các hợp
đồng thi công hay xây dựng. Nhà thầu thứ nhất sau khi ký hợp đồng với chủ
đầu tư, nhưng vì một lý do nào đó, họ không thể thực hiện được, hoặc họ là
người môi giới xây dựng. Lúc đó, họ sẽ tìm kiếm một nhà thầu thứ hai thực
hiện thi công thay họ ( gọi là nhà thầu thi công). Nhà thầu thứ nhất sẽ yêu cầu
nhà thầu thi công phải có bảo lãnh của ngân hàng (đây chính là hợp đồng bảo
lãnh chính). Sau khi có thư bảo lãnh của ngân hàng phục vụ nhà thầu thi công,
nhà thầu thứ nhất mới yêu cầu ngân hàng phục vụ mình phát hành thư bảo
lãnh cho chủ đầu tư. Bảo lãnh này gọi là bảo lãnh giáp lưng.
Thông thường, bảo lãnh giáp lưng có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng hợp
đồng bảo lãnh chính.
*Tái bảo lãnh : là trường hợp đem hợp đồng bảo lãnh đã ký kết cho một
tổ chức khác nhận tái bảo lãnh hợp đồng này trên cơ sở phân chia chi phí bảo
lãnh và trách nhiệm trong bảo lãnh. Tái bảo lãnh được thực hiện trong trường
hợp người yêu cầu bảo lãnh không thực sự tin tưởng vào ngân hàng bảo lãnh
hoặc ngân hàng bảo lãnh muốn chia sẻ bớt rủi ro.
2.3.2.Các loại bảo lãnh phân chia theo mục tiêu.
*Bảo lãnh đảm bảo tham gia dự thầu : Là cam kết của ngân hàng vớí chủ
đầu tư ( hay chủ thầu) về việc trả tiền phạt thay cho bên dự thầu nếu bên dự
thầu vi phạm những quy định trong hợp đồng dự thầu.
Trong hoạt động kinh tế, rất nhiều hoạt động được thực hiện thông qua
đấu thầu như: đấu thầu cung cấp thiết bị, xây dựng, thi công, xây lắp. Để tìm
kiếm các nhà thầu có năng lực và hạn chế những rủi ro khi nhà thầu vi phạm
các điều khoản tham gia dự thầu như: trúng thầu song không thực hiện hợp
đồng, không kê khai đúng các yêu cầu của chủ thầu… Để tránh những rủi ro
như trên, chủ đầu tư thường yêu cầu các bên dự thầu phải ký quỹ (đặt cọc) dự
thầu. Nếu vi phạm, bên dự thầu sẽ mất tiền đặt cọc. Do ký quỹ gây nên nhiều
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
phiền phức cho cả hai bên, đặc biệt là làm cho một lượng vốn ứ đọng trong
quỹ, không có khả năng sinh lời. Mặt khác, tiền ký quỹ thường có giá trị
không lớn do đó nhiều nhà thầu sau khi ký kết hợp đồng nếu họ tìm được dự
án mới sinh lời cao, họ vẫn “ bỏ” dự án của chủ đầu tư và chấp nhận mất
khoản tiền đã ký quỹ. Như vậy, mặc dù đã ký quỹ nhưng rủi ro vẫn xảy ra,
nhà đầu tư lại tốn kém hơn khi đi tìm nhà thầu mới. Do có những hạn chế khi
xử dụng phương pháp ký quỹ, nhiều chủ đầu tư đã quay sang yêu cầu phải có
cam kết bảo lãnh của ngân hàng. Bằng phương thức này, nhà thầu không cần
ký quỹ mà vẫn có một sự đảm bảo chắc chắn cho các chủ đầu tư.
Trong thời gian vừa qua, các dự án trong các lĩnh vực giao thông, nhà
ở, cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất, bến cảng, sân bay, dầu khí,
bưu điện…được triển khai rộng khắp từ trung ương đến địa phương, từ quy
mô nhỏ đến quy mô lớn. Do vậy, nhu cầu bảo lãnh ngân hàng trong ngành
xây dựng ngày càng cao. Do đó loại bảo lãnh này ngày càng chiếm vị trí quan
trọng trong hoạt động bảo lãnh của ngân hàng cũng như là một loại bảo lãnh
chứa đựng nhiều rủi ro nhất đòi hỏi ngân hàng phải phân tích kĩ khách hàng
trước khi ra quyết định bảo lãnh.
Bảo lãnh dự thầu sẽ tự động mất hiệu lực trong trường hợp người được
bảo lãnh không trúng thầu.
*Bảo lãnh thực hiện hợp đồng : Là cam kết của ngân hàng về việc chi trả
tổn thất thay cho khách hàng nếu khách hàng không thực hiện đầy đủ hợp
đồng như đã cam kết, gây tổn thất cho bên thứ ba.
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng được sử dụng để thay thế cho yêu cầu ký
quỹ mà người đặt hàng đề nghị đối với người cung ứng để đảm bảo bồi
thường vi phạm hợp đồng. Loại bảo lãnh này nhằm chống đỡ rủi ro cho người
thụ hưởng, giá trị bảo lãnh của loại hợp đồng này tương đương với mức bồi
thường. Số tiền và thời hạn bảo lãnh của ngân hàng là số tiền và thời hạn ghi
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
trong thư bảo lãnh khớp đúng với đề nghị của bên được bảo lãnh, phù hợp với
hợp đồng thực hiện nhưng không trái với quy định chung.
Các hợp đồng được bảo lãnh như: hợp đồng cung cấp hàng hoá, xây
dựng, thiết kế… Việc khách hàng vi phạm hợp đồng như cung cấp không
đúng hạn, không đúng chất lượng như đã cam kết…đều có thể gây tổn thất
cho bên thứ ba. Bảo lãnh của ngân hàng một mặt bù đắp một phần tổn thất
cho bên thứ ba, mặt khác thúc đẩy khách hàng nghiêm chỉnh thực hiện hợp
đồng vì bảo lãnh đã tạo nên mối liên kết tài chính và san sẻ rủi ro.
Bảo lãnh này hết hiệu lực khi người được bảo lãnh đã hoàn tất nghĩa vụ
theo đúng hợp đồng kinh tế đã ký kết.
*Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả tiền ứng trước : Nhiều người cung cấp yêu
cầu khách hàng ( người mua hàng hoá, dịch vụ) phải đặt trước một phần tiền
trong giá trị hợp đồng cung cấp. Số tiền đặt cọc này vừa giúp bên cung cấp có
một phần vốn để sản xuất kinh doanh, vừa có tác dụng ràng buộc người mua
phải mua hàng đã đặt. Tuy nhiên, để đề phòng người cung cấp không cung
cấp hàng đã đặt đồng thời cũng không trả số tiền đặt cọc, bên mua yêu cầu
phải có bảo lãnh của ngân hàng về số tiền đã ứng trước.
Vậy bảo lãnh bảo đảm hoàn trả tiền ứng trước là cam kết của ngân hàng
về việc hoàn trả tiền ứng trước cho người mua ( chính là người thụ hưởng bảo
lãnh) nếu người bán (người được bảo lãnh) không trả.
Giá trị bảo lãnh thường tương đương với toàn bộ số tiền đã ứng trước.
*Bảo lãnh vay vốn (bảo lãnh đảm bảo hoàn trả vốn) : là cam kết của
ngân hàng đối với người cho vay (tổ chức tín dụng, các cá nhân..) về việc
hoàn trả gốc và lãi đúng hạn nếu khách hàng (người đi vay) không trả được.
Loại bảo lãnh này thường phát sinh trong trường hợp các doanh nghiệp,
tổ chức tín dụng có nhu cầu vay vốn bằng cách phát hành trái phiếu (thời hạn
vay dài, quy mô khoản vay lớn) song uy tín của người vay trên thị trường
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
không cao nên việc phát hành sẽ gặp khó khăn (khó bán). Do đó để có thể vay
vốn trên thị trường, gạt bỏ những khó khăn khi phát hành trái phiếu, tổ chức
phát hành thường yêu cầu ngân hàng bảo lãnh cho mình khi vay vốn trên thị
trường. Mặt khác, nhu cầu bảo lãnh vay vốn của ngân hàng còn phát sinh đối
với những khoản vay nợ nước ngoài. Lúc đó bên cho vay nước ngoài yêu cầu
phải có bảo lãnh của ngân hàng.
*Bảo lãnh đảm bảo thanh toán : Là cam kết của ngân hàng về việc sẽ
thanh toán tiền đúng hợp đồng thanh toán cho người thụ hưởng nếu khách
hàng của ngân hàng không thanh toán đủ.
Mục đích của loại bảo lãnh này là để bảo vệ người bán trước rủi ro
không thanh toán đầy đủ và đúng hạn của người mua.
*Bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm (performance guarantee) : là
một bảo lãnh ngân hàng do TCTD phát hàng cho bên nhận bảo lãnh với việc
đảm bảo cho khách hàng thực hiện đúng các thoả thuận về chất lượng sản
phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng
bị phạt tiền do không thực hiện đúng các thoả thuận trong hợp đồng về chất
lượng sản phẩm mà không nộp hoặc nộp không đầy đủ tiền phạt cho bên nhận
bảo lãnh, TCTD sẽ thực hiện nghĩa vụ đã cam kết.
2.3.3. Một số loại hình bảo lãnh khác.
* Bảo lãnh nghĩa vụ tài chính đối với các cơ quan công quyền như
thuế, phí, lệ phí.Bên thụ hưởng chính là cơ quan thuế quan, hải quan, toà án…
của nhà nước. Nhờ có loại bảo lãnh này mà các doanh nghiệp tránh được
những khó khăn tạm thời về mặt ngân quỹ.
*Bảo lãnh phát hành chứng khoán: Khi một công ty muốn phát hành
chứng khoán của mình ra thị trường thì công ty đó phải được thị trường đánh
giá cao.Hay nói cách khác, công ty đó phải có uy tín trên thị trường thì việc
bán chứng khoán mới được dễ dàng. Đối với những công ty mới thành lập, uy
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
tín trên thị trường chưa cao, việc phát hành chứng khoán của công ty sẽ gặp
rất nhiều khó khăn. Để khắc phục tình trạng này, nhiều công ty đã yêu cầu
một ngân hàng lớn đứng ra bảo lãnh cho số cổ phiếu mà họ sẽ phát hành.
Ngân hàng sẽ căn cứ vào mục đích của đợt phát hành cổ phiếu, khả năng tài
chính, hiệu quả sử dụng vốn, loại hàng hoá dự định sản xuất, quan hệ của
công ty với ngân hàng để quyết định có bảo lãnh hay không. Khi cổ phiếu của
công ty đã được ngân hàng đứng ra bảo lãnh thì các nhà đầu tư trên thị trường
sẽ yên tâm và dễ dàng chấp thuận mua cổ phiếu của công ty.
* Bảo lãnh thuế quan: Trong trường hợp hàng hoá được nhập khẩu vào
một nước nào đó nhằm mục đích trưng bày triển lãm, hay tham dự hội trợ
trong một khoảng thời gian xác định rồi sẽ tái xuất hay trong trường hợp một
công ty thi công cần nhập khẩu máy móc vào một nước nào đó để thi công
nhưng sau khi thi công xong lại xuất máy móc đó về nước. Những hàng hoá,
máy móc đó không phải nộp thuế nhập khẩu. Do vậy hải quan của nước mà
hàng hoá tạm nhập sẽ yêu cầu chủ hàng phải có bảo lãnh của ngân hàng để
đảm bảo rằng số hàng hoá đó sẽ được tái xuất. Nếu hàng hoá, thiết bị thực tế
không tái xuất thì hải quan sẽ rút tiền thanh toán từ thư bảo lãnh coi như một
khoản nộp tiền thuế nhập khẩu và tiền phạt.
* Bảo lãnh hối phiếu: Đây là cam kết của ngân hàng trả tiền cho bên
thụ hưởng khi hối phiếu đến hạn thanh toán đến hạn thanh toán mà bên được
bảo lãnh không thực hiện đúng trách nhiệm tài chính như đã định. Với hình
thức bảo lãnh này, bên bảo lãnh phải ghi rõ nội dung kèm theo chữ ký của
người đại diện bên đứng ra bảo lãnh. Ngân hàng chịu trách nhiệm tương ứng
với trách nhiệm của người được bảo lãnh đối với bên thụ hưởng trừ khi ngân
hàng có quy định trên hối phiếu.
Tóm lại, nếu phân loại bảo lãnh theo mục đích, thì bảo lãnh có thể phân
thành rất nhiều loại khác nhau, trong đó mỗi loại bảo lãnh nhằm đối phó với
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
một loại rủi ro nhất định.
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
2.3.4.Theo điều kiện thanh toán.
*Bảo lãnh vô điều kiện ( bảo lãnh theo yêu cầu) : Đối với loại bảo lãnh
này, khi rủi ro xảy ra người thụ hưởng chỉ cần nộp vào ngân hàng văn bản đề
nghị thanh toán mà không phải nộp kèm các chứng từ chứng minh mức độ
thiệt hại do người được bảo lãnh gây ra. Khi nhận được yêu cầu thanh toán
này, ngân hàng cũng không được đòi hỏi bất cứ một chứng từ nào mà phải
thanh toán cho người thụ hưởng một cách vô điều kiện
Bảo lãnh vô điều kiện thể hiện tính độc lập cao giữa việc bảo lãnh và
hợp đồng gốc. Nói một cách khác, ngân hàng không được từ chối thanh toán.
Loại bảo lãnh này rất có lợi cho người thụ hưởng vì họ không mất thời gian
trong việc đòi bồi thường từ phía ngân hàng. Nhưng loại bảo lãnh này cũng
gây bất lợi cho người được bảo lãnh do việc lập yêu cầu thanh toán hoàn toàn
dựa trên nhận định chủ quan của người nhận bảo lãnh.
*Bảo lãnh kèm chứng từ ( bảo lãnh có điều kiện) : Đối với bảo lãnh này,
khi rủi ro xảy ra, để được thanh toán từ ngân hàng, người thụ hưởng phải nộp
kèm với văn bản yêu cầu thanh toán là chứng từ xác nhận của bên thứ ba
(thường là bên thứ ba độc lập có đủ tư cách chuyên môn hoặc phán quyết của
toà án) chứng minh bên được bảo lãnh đã vi phạm trong quá trình thực hiện
hợp đồng. Chứng từ có thể được xuất trình theo một trong hai cách sau:
Người thụ hưởng xuất trình các chứng từ xác nhận hành vi vi phạm
nghĩa vụ của người được bảo lãnh. Những chứng từ này phải do bên thứ ba có
tư cách độc lập phát hành.
Người thụ hưởng xuất trình yêu cầu thanh toán, ngoài ra không cần
phải xuất trình bất kỳ một loại chứng từ nào khác. Tuy nhiên, quyền thanh
toán của người này sẽ bị dừng lại nếu bên được bảo lãnh xuất trình những
chứng từ chứng minh họ hoàn thành đúng hợp đồng. Những chứng từ này
cũng phải do bên thứ ba có tư cách độc lập phát hành.
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q