Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Mở rộng hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh ngân hàng TMCP Bắc Á chi nhánh Hàng Đậu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481.29 KB, 105 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
LỜI NÓI ĐẦU
Hoà cùng xu thế chung của nền kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt Nam
đang có những bước phát triển đáng kinh ngạc. Các hoạt động trao đổi hàng
hoá,thương mại, dịch vụ không chỉ diễn ra trong phạm vi lãnh thổ mà còn
vươn ra tầm quốc tế. Các hoạt động này càng phát triển thì kéo theo các rủi
ro ngày càng ra tăng, khi mà các giao dịch có sự ngăn cách về không gian,
thời gian, hệ thống pháp lý cũng như các yếu tố về thị trường. Vì vậy, vấn đề
đặt ra là làm sao hạn chế được các rủi ro như trên, làm sao cho 2 người hoàn
toàn không hiểu biết về nhau, thậm trí không biết mặt nhau mà vẫn có thể trao
đổi, giao lưu hàng hoá với nhau. Có như vậy mới thúc đẩy sản xuất và lưu
thông hàng hoá giữa các quốc gia phát triển. Một trong các biện pháp hạn chế
tối thiểu khả năng xảy ra rủi ro, đó là yêu cầu bảo lãnh của ngân hàng. Với vai
trò là công cụ bảo đảm, công cụ tài trợ và công cụ đôn đốc các bên tham gia
thực hiện hợp đồng, sự xuất hiện của bảo lãnh ngân hàng góp phần thúc đẩy
thương mại quốc tế phát triển.
Hiện nay, việc sử dụng bảo lãnh ngân hàng đang bùng nổ mạnh mẽ,
đóng vai trò xúc tác cho các hợp đồng kinh tế được ký kết dễ dàng đồng thời
cũng đem lại thu nhập đáng kể cho các ngân hàng. Có thể chắc chắn rằng các
giao dịch thương mại lớn mà có yếu tố nước ngoài tham gia thì đi kèm với
các hợp đồng kinh tế bắt buộc phải có thêm hợp đồng bảo lãnh của ngân
hàng. Có như vậy mới tạo được sự tin tưởng tuyệt đối của bạn hàng. Trong
nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, thì bảo lãnh của ngân hàng
càng trở nên bức thiết.
Nghiệp vụ bảo lãnh được thực hiện ngân hàng TMCP Bắc Á_ chi
nhánh Hàng Đậu ngay từ những năm đầu thành lập. Mặc dù đây là một
nghiệp vụ ngân hàng còn mới mẻ với các NHTM Việt nam, song với uy tín và
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
tiềm lực tài chính của mình, trong những năm qua, chi nhánh đã đáp ứng tốt


nhu cầu của thị trường, đem lại thu nhập đáng kể và dần đưa hoạt động bảo
lãnh trở thành một trong những hoạt động chính, không thể thiếu của ngân
hàng.
Được sự giúp đỡ tận tình của ThS. Lê Hương Lan, và các anh, chị tại
Ngân hàng TMCP Bắc Á_ chi nhánh Hàng Đậu, em đã quyết định chọn đề
tài: “Mở rộng hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh ngân hàng TMCP Bắc Á chi
nhánh Hàng Đậu” làm chuyên đề tốt nghiệp cho mình. Bố cục chuyên đề
được chia làm ba phần:
- Chương 1: Những vấn đề chung về hoạt động bảo lãnh ngân hàng
- Chương 2:Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng TMCP Bắc Á
chi nhánh Hàng Đậu
- Chương 3:Giải pháp mở rộng hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng
TMCP Bắc Á chi nhánh Hàng Đậu
Với thời gian thực tập ngắn và kiến thức còn hạn chế, chắc chắn nội
dung chuyên đề của em còn nhiều thiếu sót, em mong nhận được sự góp ý của
thầy cô và các bạn để có được một chuyên đề nghiên cứu hoàn thiện hơn nữa.
Qua đây, em cũng xin chân thành cảm ơn ThS Lê Hương Lan đã giúp em có
những định hướng ban đầu khi lựa chọn đề tài cũng như hướng dẫn em trong
suốt quá trình hoàn thiện chuyên đề này. Cảm ơn các cán bộ phòng tín dụng
chi nhánh Hàng Đậu đã giúp đỡ em rất nhiều trong thời gian tiếp cận kiến
thức thực tế và làm quen với nghiệp vụ chuyên môn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH
NGÂN HÀNG
1.1.Khái Niệm bảo lãnh ngân hàng
1.1.1.Sự hình thành và phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng

1.1.1.1.Sự cần thiết phải ra đời nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng
Nền kinh tế càng phát triển kéo theo sự phát triển không ngừng các
hoạt động giao lưu trao đổi hàng hoá, dịch vụ, thương mại. Các giao dịch
ngày càng gia tăng về mặt số lượng, giá trị, độ phức tạp và được mở rộng
trong phạm vi toàn thế giới. Đặc biệt,trong thương mại quốc tế, các giao dịch
diễn ra có sự ngăn cách về thời gian, không gian, hệ thống pháp luật, điều
kiện thị trường…làm cho các loại rủi ro càng gia tăng như:rủi ro không thực
hiện hợp đồng, rủi ro thanh toán, rủi ro tín dụng…Để phòng ngừa rủi ro, bên
giao hàng hoá thường yêu cầu bên nhận hàng hoá phải có bảo lãnh của bên
thứ 3 ( bên thứ 3 thường là người có uy tín, có tiềm lực tài chính…) và như
thế nghiệp vụ bảo lãnh ra đời.
Trên thực tế, có nhiều tổ chức tài chính cũng phát hành bảo lãnh như:
chính phủ, công ty bảo hiểm. công ty tài chính, công ty chứng khoán… song
chủ yếu phát triển ở các NHTM. Tại sao lại như vậy? Nguyên nhân xuất phát
từ những đặc điểm riêng có của các NHTM đó là:
- NHTM là trung gian tài chính của nền kinh tế với vai trò chủ yếu là
nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân đem cho vay và đầu tư để thu lợi
nhuận. Thông qua quá trình đó, ngân hàng nắm bắt được rất nhiều thông tin
của khách hàng. Biết được khả năng tài chính của khách hàng thông qua tài
khoản tiền gửi của họ tạo cơ sở cho việc phát hành thư bảo lãnh đúng đắn.
-NHTM thường xuyên cung cấp các dịch vụ tài chính cho nền kinh tế,
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
có tiềm lực tài chính cao( vì lĩnh vực kinh doanh là tiền tệ) nên đã xây dựng
được uy tín, cũng như mối quan hệ gắn bó tin tưởng của khách hàng với ngân
hàng. Uy tín của ngân hàng là yếu tố quan tâm hàng đầu của khách hàng khi
quyết định lựa chọn dịch vụ bảo lãnh của ngân hàng( là đối tượng yêu cầu bảo
lãnh).
Như vậy, sự ra đời của bảo lãnh là một yếu tố khách quan, giúp phòng

ngừa những rủi ro trong giao dịch tài chính và phi tài chính. Và sự phát triển
của bảo lãnh gắn liền với hoạt động của các NHTM, tổ chức có khả năng
cung cấp dịch vụ bảo lãnh tốt nhất.
1.1.1.2.Sự phát triển của hoạt động bảo lãnh ngân hàng.
Bảo lãnh ngân hàng là một nghiệp vụ quốc tế, được sử dụng rộng rãi từ
lâu trên thế giới. Nhiều tài liệu dẫn chứng, trong giao dịch thương mại, bảo
lãnh ngân hàng xuất hiện lần đầu tiên tại Mỹ vào những năm đầu thập kỷ 60
của thế kỷ 20 như là một dạng thư tín dụng dự phòng (standby L/C). Ở thời
điểm này, bảo lãnh ngân hàng bắt đầu thực sự được sử dụng như là một hoạt
động kinh doanh của ngân hàng. Tuy nhiên, phải tới những năm 70, hoạt động
bảo lãnh của ngân hàng mới thực sự được sử dụng trong các giao dịch
TMQT. Nguồn gốc là từ sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp dầu
mỏ khiến cho các quốc gia Trung Đông trở nên giầu có. Họ liên tục ký kết các
hợp đồng kinh tế với các quốc gia phương tây để thực hiện các dự án như: tạo
cơ sở hạ tầng, canh tân nông, nông nghiệp, quốc phòng…và để bảo đảm an
toàn cho các hợp đồng này, các công ty dầu mỏ Trung Đông yêu cầu các tập
đoàn Phương Tây phải chứng minh năng lực tài chính của minh thông qua
bảo lãnh ngân hàng. Đó là một yêu cầu tất yếu bởi giao dịch TMQT luôn chứa
đựng nhiều rủi ro. Sau những năm 70, cùng với sự phát triển của TMQT, hoạt
động bảo lãnh phát triển đáng kinh ngạc. Bảo lãnh thực sự trở thành công cụ
phòng ngừa rủi ro quan trọng.
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
Ngày nay, bảo lãnh đã trở thành một nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng
tại nhiều nước trên thế giới. Quy mô và doanh thu phí bảo lãnh của mỗi ngân
hàng thể hiện uy tín trong nước cũng như quốc tế của ngân hàng đó đối với
ngân hàng đối tác, đối với khách hàng và ngay cả đối với chính phủ. Trong xu
hướng quốc tế hoá, toàn cầu hóa, chu chuyển vốn và giao lưu thương mại
quốc tế hiện nay ngày càng gia tăng với mức độ khổng lồ, nghiệp cụ bảo lãnh

rất được các ngân hàng chú trọng hoàn thiện và phát triển, nhất là trong điều
kiện mua bán chịu trong giao dịch thương mại ngày càng phổ biến, tiết kiệm
vốn cho cả bên bán hàng và bên mua hàng. Đây là nghiệp vụ mang lại thu
nhập lớn cho các ngân hàng, cũng là công cụ tài trợ ngắn hạn cho các doanh
nghiệp. Ngược lại, các doanh nghiệp và các nhà kinh doanh chủ yếu sử dụng
nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn cho công
việc kinh doanh của mình, đồng thời đảm bảo an toàn trong giao dịch trong
kinh doanh.
Tại Việt Nam, từ những năm 80, bảo lãnh đã được đề cập trong các văn
bản pháp luật. Song từ năm 1980 đến năm 1990, bảo lãnh của ngân hàng chỉ
do NHNN thực hiện như một công cụ hỗ trợ kinh doanh cho các doanh
nghiệp nhà nước vay vốn nước ngoài để sản xuất kinh doanh. Sau công cuộc
đổi mới trong hệ thống ngân hàng năm 1998, các NHTM Việt Nam đã có sụ
phát triển đáng ghi nhận,là kênh cung cấp vốn quan trọng cho nền kinh tế đất
nước. Các nghiệp vụ ngân hàng cũng ngày càng phát triển phong phú và đa
dạng. Tuy nhiên, còn nhiều nghiệp vụ ngân hàng mới chỉ thực hiện ở giai
đoạn bước đầu, trong đó có nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng. Nghiệp vụ này hết
sức phức tạp đòi hỏi phải tuân thủ các tập quán và thông lệ quốc tế. Năm
1994, quy chế bảo lãnh và tái bảo lãnh của thống đốc NHNN được ban hành
và lần đầu tiên áp dụng cho các NHTM Việt Nam. Tuy là một nghiệp vụ ngân
hàng mới và chưa có hành lang pháp lý chặt chẽ song bảo lãnh ngân hàng đã
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
dần khẳng định vị trí không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường hiện đại. Do
yêu cầu bức thiết của nền kinh tế về hoạt động bảo lãnh ngân hàng, các văn
bản pháp lý về nghiệp vụ mới này lần lượt ra đời như:
1Quyết định 192/QĐ-NH ngày 17/09/1992 của thống đốc NHNN về
bảo lãnh và tái bảo lãnh vay vốn nước ngoài.
2Quyết định 196/QĐ-NH14 ngày 19/09/1994 của thống đốc NHNN về

quy chế nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng. Đây là cơ sở pháp lý đầu tiên về
nghiệp vụ bảo lãnh của các NHTM.
3Quyết định 283/2000/QĐ-NHNN14 ngày 25/08/2000 của thống đốc
NHNN về việc ban hành quy chế bảo lãnh ngân hàng thay thế cho các
quyết định trước đây. Đây chính là một bước hoàn thiện cơ sở pháp lý
đầu tiên cho các hoạt động bảo lãnh ngân hàng.
4Quyết định 386/QĐ-NHNN ngày 11/04/2001 về việc sửa đổi bổ xung
một số điều trong quy chế bảo lãnh ngân hàng.
5Quyết định số 112/2003/QĐ-NHNN về việc sửa đổi bổ xung quy chế
bảo lãnh ngân hàng.
Đến nay, hoạt động bảo lãnh ngân hàng đã phát triển một cách nhanh
chóng, đem lại nguồn thu lớn cho các NHTM. Và trong tương lai, nghiệp vụ
này còn phát triển hơn nữa trước những đòi hỏi bức thiết của nền kinh tế thị
trường và sẽ trở thành một trong những hoạt động chính của các NHTM trong
tiến trình hội nhập.
Nghiệp vụ bảo lãnh được thực hiện tại ngân hàng TMCP Bắc Á ngay từ
khi thành lập. Đến nay, trước xu thế hội nhập với kinh tế thế giới, nhu cầu thị
trường và sự cạnh tranh khốc liệt giữa các NHTM, thì hoạt động bảo lãnh
đang trở thành một công cụ cạnh tranh hiệu quả của ngân hàng, và trong
tương lai, hoạt động này còn phát triển hơn nữa.
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
1.1.2.Khái Niệm nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng
Có rất nhiều cách khái niệm khác nhau về nghiệp vụ bảo lãnh ngân
hàng, song về bản chất và phương thức thực hiện, các khái niệm này đều nêu
bật lên nghĩa vụ của người phát hành bảo lãnh phải thanh toán cho người
nhận bảo lãnh nếu người đó có bằng chứng chứng minh người được bảo lãnh
vi phạm hợp đồng cam kết.
Theo quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14 ngày 28/08/2000 quy định

như sau: “Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của TCTD( bên bảo
lãnh) với bên có quyền( bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ thay
cho khách hàng( bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng
phải nhận nợ và hoàn trả cho TCTD số tiền đã được trả thay “.
Theo luật các TCTD điều 20 có định nghĩa cụ thể về bảo lãnh của ngân
hàng như sau: “ Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của TCTD với
bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi
khách hàng không thực hiên đúng nghĩa vụ cam kết; khách hàng phải nhận nợ
và hoàn trả cho các TCTD số tiền đã được trả thay”.
Bộ luật dân sự nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam điều 366 có
định nghĩa về bảo lãnh như sau:” Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là người
bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện
nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ ( gọi là bên được bảo lãnh) nếu khi đến thời
hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa
vụ “ .
Hình thức của bảo lãnh ngân hàng là hợp đồng bảo lãnh, hay còn gọi là
thư bảo lãnh. Thư bảo lãnh là văn bản cam kết giữa ngân hàng với khách hàng
về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong việc bảo lãnh và hoàn trả.
Như vậy, bảo lãnh của ngân hàng là cam kết bằng văn bản, là hình thức
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
cấp tín dụng bằng chữ ký. tại thời điểm tham gia bảo lãnh, ngân hàng không
trực tiép xuất vốn mà chỉ dùng khả năng tài chính và uy tín của mình để đảm
bảo thực hiện nghĩa vụ đã cam kết từ trước.
Từ những định nghĩa trên, ta thấy tham gia vào hoạt động bảo lãnh có ít
nhất là ba chủ thể, đó là:
1Bên bảo lãnh: là các TCTD, là bên đứng ra phát hành thư bảo lãnh
cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh khi bên này

vi phạm nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Theo quy định của
quyết định 283/2000/QĐ-NHNN14, TCTD thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
bao gồm: Các ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng thương mại
cổ phần, ngân hàng đầu tư, ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách,
ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam,
ngân hàng hợp tác, các loại hình ngân hàng khác và các TCTD phi
ngân hàng được thành lập và hoạt động theo luật các TCTD ( gọi chung
là các TCTD); các ngân hàng được Thống đốc ngân hàng nhà nước cho
phép thực hiện thanh toán quốc tế được thực hiện bảo lãnh vay, bảo
lãnh thanh toán và các hình thức bảo lãnh khác mà bên nhận bảo lãnh là
các tổ chức, cá nhân nước ngoài; TCTD thực hiện bảo lãnh hối phiếu,
lệnh phiếu theo quy định của pháp luật về thương phiếu.
2Bên được bảo lãnh: là bên yêu cầu ngân hàng mở thư bảo lãnh. Theo
quy chế bảo lãnh (ban hành kèm theo quyết định 283/2000/QĐ-
NHNN14), bên được bảo lãnh gồm: Các doanh nghiệp nhà nước, các
loại hình doanh nghiệp theo quy định của luật doanh nghiệp, hợp tác
xã, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp nước
ngoài tham gia hợp đồng hợp tác liên doanh và các dự án đầu tư tại
Việt Nam hoặc vay vốn để thực hiện các dự án tại Việt Nam, các tổ
chức tín dụng, hộ kinh doanh cá thể và các cá nhân trong nước và nước
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
ngoài.
3Bên nhận bảo lãnh: là các tổ chức, cá nhân có đủ năng lực pháp luật
dân sự và năng lực hành vi dân sự. Đó là bên thụ hưởng lợi ích từ hợp
đồng bảo lãnh
1.1.3. Đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng
1.1.3.1.Bảo lãnh ngân hàng là mối quan hệ đa phương.
Hoạt động bảo lãnh của ngân hàng là mối quan hệ đa phương. Tham

gia vào hoạt động này có ít nhất ba chủ thể, đó là: bên phát hành bảo lãnh
( ngân hàng), bên được bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh. Các chủ thể tham gia có
mối quan hệ với nhau thông qua các hợp đồng: Hợp đồng kinh tế, hợp đồng
bảo lãnh, thư bảo lãnh. Cụ thể như sau:
Trước hết, hoạt động bảo lãnh được phát sinh trong mối quan hệ kinh tế
giữa bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh. Hai chủ thể này thoả thuận và
ký kết hợp đồng kinh tế. Trong đó, bên nhận bảo lãnh yêu cầu phải có bảo
lãnh của ngân hàng. Theo đó, bên được bảo lãnh tới ngân hàng yêu cầu ngân
hàng bảo lãnh và chỉ khi bên được bảo lãnh đáp ứng được yêu cầu của của
ngân hàng thì bảo lãnh mới được xác lập. Lúc này, phát sinh những mối quan
hệ sau:
+ Quan hệ giữa ngân hàng và bên được bảo lãnh thông qua hợp đồng
bảo lãnh ( HĐ2). Đó là mối quan hệ giữa ngân hàng cấp tín dụng và bên
hưởng tín dụng.
+ Quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh thông qua cam kết
bảo lãnh( hay thư bảo lãnh). Thư bảo lãnh do ngân hàng phát hành trao cho
bên nhận bảo lãnh trong đó quy định những điều kiện để bên nhận bảo lãnh có
thể nhận được thanh toán của ngân hàng trong trường hợp bên được bảo lãnh
vi phạm nghĩa vụ đã cam kết.
Như vậy, các chủ thể tham gia trong hoạt động bảo lãnh có mối quan
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
hệ chặt chẽ với nhau trên cơ sở quyền lợi và nghĩa vụ. Ba hợp đồng trên tuy
độc lập với nhau song nó vẫn có ảnh hường qua lại với nhau. Đó chính là đặc
điểm rất khác biệt của hoạt động bảo lãnh ngân hàng.
1.1.3.2. Bảo lãnh ngân hàng mang tính độc lập.
Mặc dù quan hệ trong bảo lãnh là mối quan hệ đa phương, tuy nhiên
quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia lại mang tính độc lập tương
đối. Đây chính là một đặc điểm nổi bật của bảo lãnh. Điều này có nghĩa là

việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh không phụ thuộc vào bất cứ giao dịch hay
yếu tố nào ngoài giao dịch bảo lãnh. Ngân hàng phải có trách nhiệm thanh
toán cho bên nhận bảo lãnh khi bên này yêu cầu và có bằng chứng chứng
minh sự vi phạm hợp đồng của bên được bảo lãnh. Ngân hàng không thể viện
vào các lý do thuộc về mối quan hệ giữa ngân hàng với bên được bảo lãnh
như: bên được bảo lãnh còn nợ ngân hàng hay bên được bảo lãnh vi phạm
hợp đồng với ngân hàng…để trì hoãn hoặc không thực hiện thanh toán cho
bên nhận bảo lãnh. Khi có yêu cầu thanh toán, ngân hàng phải thanh toán
ngay cho bên nhận bảo lãnh sau đó mới quay ra thu nợ đối với bên được bảo
lãnh. Lúc đó, hình thức cấp tín dụng bằng chữ ký chuyển sang cấp tín dụng
bằng tiền. Khoản nợ này se được chuyển sang khoản nợ xấu, khó đòi của
ngân hàng, ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro.
Mặc dù vậy, tính độc lập của bảo lãnh chỉ mang tính tương đối. Tuỳ
từng trường hợp mà tính độc lập có thể cao hoặc cũng có thể thập. Tính độc
lập của bảo lãnh phụ thuộc vào các điều kiện đi kèm. Nếu bảo lãnh yêu cầu
kèm theo quyết định của trọng tài hay toà án thì nghĩa vụ bảo lãnh của ngân
hàng không chỉ phụ thuộc vào thoả thuận trong thư bảo lãnh mà còn phải phụ
thuộc vào quyết định của người thứ ba là trọng tài hoặc toà án.
Đặc điểm này của bảo lãnh cũng giúp phân biệt bảo lãnh với bảo hiểm,
vì nghĩa vụ thanh toán bảo hiểm của công ty bảo hiểm chỉ được thực hiện khi
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
người được bảo hiểm có đầy đủ bằng chứng chứng minh tổn thất đã xảy ra
thuộc phạm vi bảo hiểm.
1.1.3.3. bảo lãnh là hoạt động ngoại bảng
Về bản chất, bảo lãnh là hình thức tài trợ bằng uy tín, qua đó bên được
bảo lãnh có thể tìm kiếm nguồn tài trợ mới, mua được hàng hoá hoặc thực
hiện các phương án sản xuất kinh doanh… nhằm thu lợi. Khi thực hiện
nghiệp vụ bảo lãnh, ngân hàng chưa phải xuất quỹ tiền ngay do đó bảo lãnh

được coi như là một hoạt động ngoại bảng vì hoạt động của nó không làm
thay đổi bảng cân đối kế toán. Tuy nhiên, khi rủi ro xảy ra ( khi khách hàng
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng kinh tế đã ký kết với
bên nhânj bảo lãnh) thì ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán thay
cho bên nhận bảo lãnh. Đó cũng chính là lúc ngân hàng phải thực sự xuất quỹ
tiền mặt, điều này làm ảnh hưởng đến bảng cân đối kế toán của ngân hàng.
Khoản chi này được xếp vào khoản tín dung “xấu” , cấu thành nợ quá hạn.
Khi đó, hoạt động bảo lãnh đã được chuyển từ tài sản ngoại bảng vào tài sản
nội bảng.
Như vậy, nếu hoạt động bảo lãnh có chất lượng kém không những có
ảnh hưởng xấu tới uy tín của ngân hàng mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới tài sản
của ngân hàng. Vì vậy, cần phải cân nhắc kỹ trước khi đưa ra quyết định bảo
lãnh nhằm tránh những khoản tài trợ “ xấu” này.
Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam ghi nhận bảo lãnh là một nghiệp vụ
tín dụng của ngân hàng, nhưng từ việc phân tích đặc điểm trên, ta thấy bảo
lãnh không phản ánh đúng bản chất của tín dụng là chuyển lượng giá trị (tài
sản) của chủ thể này cho chủ thể khác. Bảo lãnh chỉ trở thành một hoạt động
tín dụng khi ngân hàng phải xuất tiền ra thanh toán thay cho khách hàng. Khi
đó, bảo lãnh là một khoản cho vay bắt buộc. Ngoài ra, thu nhập từ hoạt động
tín dụng được hạch toán vào thu nhập từ dịch vụ ngân hàng chứ không dựa
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
vào chênh lệch lãi suất như hoạt động tín dụng.
1.1.3.4. Bảo lãnh tiến hành trên cơ sở chứng từ.
Tất cả các hoạt động của ngân hàng đều dựa trên cơ sở chứng từ và
hoạt động bảo lãnh cũng không phải là ngoại lệ. Cam kết bảo lãnh của ngân
hàng cũng là một văn bản mà việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của ngân hàng
dựa trên văn bản đó. Khi bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng đã ký kết,
muốn được ngân hàng thanh toán, bên nhận bảo lãnh cũng phải mang đến

ngân hàng những chứng từ phù hợp với hợp đồng bảo lãnh. Nếu chứng từ
không phù hợp, ngân hàng có quyền từ chối yêu cầu thanh toán.
1.1.4.Vai trò của ngân hàng khi thực hiện hoạt động bảo lãnh
1.1.4.1.Cung cấp công cụ đảm bảo cho khách hàng
Bằng việc cam kết sẽ thanh toán cho bên nhận bảo lãnh khi bên được
bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trong hợp
đồng kinh tế, bảo lãnh đã tạo niềm tin với bên nhận bảo lãnh. Và như thế, hợp
đồng kinh tế được hình thành một cách dễ dàng.
Với chức năng này, bảo lãnh thực sự trở thành chất xúc tác giúp cho
các hợp đồng thương mại, xây dựng, giao dịch hàng hoá trong nước và quốc
tế được ký kết một các xuôn sẻ.
1.1.4.2. Đôn đốc khách hàng thực hiện hợp đồng
Bảo lãnh không chỉ là một công cụ đảm bảo mà còn là công cụ thúc
đẩy việc thực hiện hợp đồng. Bằng những giàng buộc về tài chính, ngân hàng
buộc bên được bảo lãnh trong hợp đồng kinh tế đã ký kết, ngân hàng đã tạo ra
áp lực thực hiện đúng hợp đồng, làm giảm thiểu những vi phạm từ phía người
được bảo lãnh. Ngoài ra, ngân hàng còn thường xuyên kiểm tra, giám sát tăng
tính hiệu quả cho việc thực hiện hợp đồng đã ký kết
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
1.1.5.Phân biệt bảo lãnh với một số hình thức bảo đảm khác
1.1.5.1.phân biệt bảo lãnh với thư tín dụng (L/C)
- Nghiệp vụ bảo lãnh có chức năng đảm bảo quyền lợi cho người thụ
hưởng khi rủi ro xảy ra, còn thư tín dụng có chức năng đảm bảo thanh toán
cho người thụ hưởng khi người thụ hưởng giao hàng theo đúng hợp đồng đã
ký kết. Như vậy, bảo lãnh mang tính dự phòng, còn thư tín dụng mang tính
thực hiện.
- Bảo lãnh bảo vệ quyền lợi của bên thứ ba, người yêu cầu ngân hàng
phát hành thư bảo lãnh phải chịu phí bảo lãnh, còn thư tín dụng bảo vệ quyền

lợi của cả hai bên, phí phát hành thư tín dụng được phân bổ đều cho cả hai
bên.
- Bảo lãnh và thư tín dụng chịu sự điều chỉnh của các hệ thống pháp
luật khác nhau, kể cả hệ thống pháp luật quốc gia và hệ thống pháp luật quốc
tế.
Tóm lại, điểm khác nhau căn bản giữa thư tín dụng (L/C) và bảo lãnh
là: bảo lãnh là một công cụ bảo đảm còn thư tín dụng là một công cụ thanh
toán.
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
1.1.5.2.Phân biệt bảo lãnh với bảo hiểm.
Bảo lãnh ngân hàng Bảo hiểm
- Do ngân hàng thực hiện
- Phí trả một lần khi ký kết hợp đồng
bảo lãnh
- Khách hàng phải ký quỹ hoặc có tài
sản đảm bảo
- Thông thường là ngắn hạn
- Khi rủi ro xảy ra, ngân hàng thanh
toán cho bên thụ hưởng, đồng thời
truy đòi bên được bảo lãnh
- Ngân hàng trả tiền ngay khi bên thụ
hưởng có đầy đủ chứng từ chứng
minh sự vi phạm hợp đồng của bên
được bảo lãnh.
- Do công ty bảo hiểm thực hịên
- Phí trả nhiều lần, tuỳ từng loại hình
bảo hiểm
- Khách hàng không cần ký quỹ, không

cần có tài sản đảm bảo
- Thường là trung và dài hạn
- Khi rủi ro xảy ra, công ty bảo hiểm
thanh toán cho người thụ hường số tiền
trích từ quỹ bảo hiểm dưới hình thức
san sẻ rủi ro từ những người đóng phí
bảo hiểm.
- Khi rủi ro xảy ra, công ty bảo hiểm
không trả ngay tiền bảo hiểm mà phải
thu thập bằng chứng và xác định mức
độ thiệt hại
1.1.6.Phân loại bảo lãnh ngân hàng.
Bảo lãnh ngân hàng rất phong phú và đa dạng về loại hình, tuỳ theo
phương thức phát hành, mục đích, điều kiện thanh toán, bản chất… mà người
ta phân bảo lãnh thành các loại hình khác nhau.
1.1.6.1.Căn cứ theo phương thức phát hành bảo lãnh.
Theo phương thức này, bảo lãnh được chia thành: bảo lãnh trực tiếp,
bảo lãnh gián tiếp và đồng bảo lãnh.
Bảo lãnh trực tiếp ( Direct guarantee).
Bảo lãnh trực tiếp là một loại bảo lãnh mà trong đó, ngân hàng
phát hành chịu trách nhiệm trực tiếp cho bên được bảo lãnh. Sau khi thực hiện
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
nghĩa vụ thay, ngân hàng phát hành bảo lãnh có quyền truy đòi số tiền đã
thanh toán thay từ phía người được bảo lãnh.
Loại bảo lãnh này chịu sự chi phối của luật trong nước và khi hết hạn
có thể trực tiếp tất toán với người được bảo lãnh mà không cần có sự hoàn trả
thư bảo lãnh. Ưu điểm của loại bảo lãnh này là người được bảo lãnh không
phải mất thêm chi phí hoa hồng cho ngân hàng đại lý nước ngoài.

Trong bảo lãnh trực tiếp, thường có ba chủ thể tham gia, đó là: ngân
hàng bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Trường hợp bên
nhận bảo lãnh là người nước ngoài, có thể còn có sự tham gia của ngân hàng
thông báo ở cùng quốc gia đó.
Người được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh ký kết hợp đồng cơ sở
( hợp đồng kinh tế), làm phát sinh nghĩa vụ cần được bảo lãnh.
Người được bảo lãnh yêu cầu ngân hàng phát hành thư bảo lãnh
(3.1) Ngân hàng phát hành bảo lãnh phát hành thư bảo lãnh gửi tới
người nhận bảo lãnh
(3.2) Trường hợp người nhận bảo lãnh ở nước ngoài, ngân hàng phát
hành sẽ đề nghị ngân hàng đại lý của mình có trụ sở tại nước của người nhận
bảo lãnh, thông báo và chuyển nội dung thư bảo lãnh tới người thụ hưởng.
Ngân hàng này được gọi là ngân hàng thông báo ( Advising bank).
(4) Ngân hàng thông báo thực hiện việc thông báo và chuyển nội dung
thư bảo lãnh tới người nhận bảo lãnh.
Ngân hàng thông báo sẽ chịu trách nhiệm về tính chính xác, tính chân
thực của bảo lãnh như: chữ ký, mã SWIFT, mã Telex…và không chịu trách
nhiệm về nội dung thư bảo lãnh, trách nhiệm thanh toán và những tranh chấp
phát sinh nếu có.
Bảo lãnh gián tiếp
Đây là loại bảo lãnh mà trong đó, ngân hàng bảo lãnh phát hành bảo
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
lãnh theo chỉ thị của một ngân hàng trung gian phục vụ cho người được bảo
lãnh dựa trên yêu cầu của người nhận bảo lãnh.
Khi rủi ro xảy ra, ngân hàng phát hành bảo lãnh sẽ thanh toán theo cam
kết bảo lãnh đã phát hành, sau đó yêu cầu ngân hàng chỉ thị trả khoản tiền mà
mình đã thanh toán thay. Như vậy, trong bảo lãnh gián tiếp, người được bảo
lãnh không bồi hoàn trực tiếp cho ngân hàng phát hành bảo lãnh mà chỉ bồi

hoàn cho ngân hàng chỉ thị, ngân hàng phục vụ người được bảo lãnh. Trách
nhiệm bồi hoàn của ngân hàng chỉ thị được thể hiện thông qua một cam kết
gọi là cam kết bảo lãnh đối ứng do chính ngân hàng này đưa ra. Bảo lãnh đối
ứng cũng có đầy đủ các nội dung và điều khoản quy định như trong bảo lãnh
chính, Việc áp ụng bảo lãnh gián tiếp thường do người nhận bảo lãnh yêu cầu
nhằm thuận lợi hơn trong giao dịch đòi tiền sau này.
Trong bảo lãnh đối ứng thường có ít nhất bốn bên tham gia. Đó là:
ngân hàng chỉ thị ( ngân hàng phục vụ người được bảo lãnh), ngân hàng phát
hành bảo lãnh, là ngân hàng do người nhận bảo lãnh yêu cầu, người được bảo
lãnh và người nhận bảo lãnh. Nhiều trường hợp, trong bảo lãnh gián tiếp có
rất nhiều các bên tham gia do người nhận bảo lãnh và người được bảo lãnh có
sự ngăn cách quá lớn về vị trí địa lý, khiến cho người nhận bảo lãnh không
yên tâm về khả năng an toàn của các giao dịch mà mình sắp thực hiên.
Bảo lãnh gián tiếp thường xảy ra với những giao dịch kinh tế có yếu tố
nước ngoài tham gia. Khi đó, người nhận bảo lãnh chỉ chấp nhận giao dịch
khi được ngân hàng ở nước họ đứng ra bảo lãnh, và như vậy bảo lãnh gián
tiếp được hình thành.
Người được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh ký hợp đồng cơ sở làm
phát sinh nhu cầu cần bảo lãn của ngân hàng, người nhận bảo lãnh yêu cầu
người được bảo lãnh phải có bảo lãnh của một ngân hàng cụ thể (ngân hàng
phát hành)
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
Người được bảo lãnh tới ngân hàng phục vụ mình, yêu cầu chỉ thị ngân
hàng phục vụ người nhận bảo lãnh phát hành bảo lãnh.
Ngân hàng phục vụ người được bảo lãnh chỉ thị ngân hàng phục vụ
người nhận bảo lãnh phát hành bảo lãnh thông qua một hợp đồng gọi là bảo
lãnh đối ứng.
Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng phát hành thư bảo lãnh gửi tới

người thụ hưởng.
Trong nhiều trường hợp, nếu ngân hàng phát hành bảo lãnh và người
thụ hưởng bảo lãnh cũng có sự ngăn cách về vị trí địa lý, gây khó khăn cho
việc gửi thư bảo lãnh đến người thụ hưởng, lúc đó trong bảo lãnh gián tiếp
còn xuất hiện thêm ngân hàng thông báo có trách nhiệm thông báo nội dung
thư bảo lãnh cho người thụ hưởng.
Đồng bảo lãnh.
Đồng bảo lãnh là việc nhiều TCTD cùng bảo lãnh cho một nghiệp vụ
bảo lãnh thông qua một TCTD đầu mối. Đồng bảo lãnh thường áp dụng đối
với những thương vụ lớn, khả năng rủi ro cao hoặc do hạn chế trong quy định
của chính phủ mà một ngân hàng riêng lẻ không thực hiện , lúc đó, họ sẽ kêu
gọi các ngân hàng khác cùng tham gia bảo lãnh với mình. Các ngân hàng
trong quan hệ đồng bảo lãnh thường cử ra một ngân hàng đầu mối có trách
nhiệm phát hành thư bảo lãnh, quản lý tài khoản ký quỹ hoặc tài sản đảm bảo
của khách hàng. Ngân hàng đầu mối cũng có nhiệm vụ thu phí bảo lãnh từ
khách hàng sau đó chia cho từng ngân hàng thành viên tuỳ theo tỷ lệ bảo lãnh
của từng ngân hàng. Khi rủi ro xảy ra, người thụ hưởng đến ngân hàng đầu
mối đòi tiền, ngân hàng này sẽ trả tiền ngay cho người thụ hưởng sau đó truy
đòi các ngân hàng thành viên theo tỷ lệ mà các ngân hàng này cam kết. Các
ngân hàng thành viên phải có trách nhiệm thanh toán với ngân hàng đầu mối,
sau đó mới truy đòi từ người được bảo lãnh.
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
Người được bảo lãnh và người thụ hưởng ký kết hợp đồng cơ sở, người
thụ hưởng yêu cầu có bảo lãnh của ngân hàng.
Người được bảo lãnh làm đơn xin được bảo lãnh gửi tới ngân hàng.
Sau khi phân tích khách hàng, xác định mức độ rủi ro. Ngân hàng đầu
mối tiến hành dàn xếp đồng bảo lãnh với các ngân hàng thành viên, xác định
tỷ lệ tham gia đồng bảo lãnh của từng ngân hàng và ký hợp đồng đồng bảo

lãnh với tưng ngân hàng thành viên( 3a,3b,3c).
Ngân hàng đầu mối phát hành thư bảo lãnh gửi tới người thụ hưởng.
Bảo lãnh giáp lưng
Loại bảo lãnh này thường xuất hiện trong các hợp đồng thi công hay
xây dựng. Nhà thầu thứ nhất sau khi ký hợp đồng với chủ đầu tư, nhưng vì
một lý do nào đó, họ không thể thực hiện được, hoặc họ là người môi giới xây
dựng. Lúc đó, họ sẽ tìm kiếm một nhà thầu thứ hai thực hiện thi công thay họ
( gọi là nhà thầu thi công). Nhà thầu thứ nhất sẽ yêu cầu nhà thầu thi công
phải có bảo lãnh của ngân hàng (đây chính là hợp đồng bảo lãnh chính). Sau
khi có thư bảo lãnh của ngân hàng phục vụ nhà thầu thi công, nhà thầu thứ
nhất mới yêu cầu ngân hàng phục vụ mình phát hành thư bảo lãnh cho chủ
đầu tư. Bảo lãnh này gọi là bảo lãnh giáp lưng.
Thông thường, bảo lãnh giáp lưng có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng hợp
đồng bảo lãnh chính.
Tái bảo lãnh
Tái bảo lãnh là trường hợp đem hợp đồng bảo lãnh đã ký kết cho một tổ
chức khác nhận tái bảo lãnh hợp đồng này trên cơ sở phân chia chi phí bảo
lãnh và trách nhiệm trong bảo lãnh. Tái bảo lãnh được thực hiện trong trường
hợp người yêu cầu bảo lãnh không thực sự tin tưởng vào ngân hàng bảo lãnh
hoặc ngân hàng bảo lãnh muốn chia sẻ bớt rủi ro.
1.1.6.2.Các loại bảo lãnh phân chia theo mục tiêu.
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
Bảo lãnh đảm bảo tham gia dự thầu.
Là cam kết của ngân hàng vớí chủ đầu tư ( hay chủ thầu) về việc trả
tiền phạt thay cho bên dự thầu nếu bên dự thầu vi phạm những quy định trong
hợp đồng dự thầu.
Trong hoạt động kinh tế, rất nhiều hoạt động được thực hiện thông qua
đấu thầu như: đấu thầu cung cấp thiết bị, xây dựng, thi công, xây lắp. Để tìm

kiếm các nhà thầu có năng lực và hạn chế những rủi ro khi nhà thầu vi phạm
các điều khoản tham gia dự thầu như: trúng thầu song không thực hiện hợp
đồng, không kê khai đúng các yêu cầu của chủ thầu… Để tránh những rủi ro
như trên, chủ đầu tư thường yêu cầu các bên dự thầu phải ký quỹ (đặt cọc) dự
thầu. Nếu vi phạm, bên dự thầu sẽ mất tiền đặt cọc. Do ký quỹ gây nên nhiều
phiền phức cho cả hai bên, đặc biệt là làm cho một lượng vốn ứ đọng trong
quỹ, không có khả năng sinh lời. Mặt khác, tiền ký quỹ thường có giá trị
không lớn do đó nhiều nhà thầu sau khi ký kết hợp đồng nếu họ tìm được dự
án mới sinh lời cao, họ vẫn “ bỏ” dự án của chủ đầu tư và chấp nhận mất
khoản tiền đã ký quỹ. Như vậy, mặc dù đã ký quỹ nhưng rủi ro vẫn xảy ra,
nhà đầu tư lại tốn kém hơn khi đi tìm nhà thầu mới. Do có những hạn chế khi
xử dụng phương pháp ký quỹ, nhiều chủ đầu tư đã quay sang yêu cầu phải có
cam kết bảo lãnh của ngân hàng. Bằng phương thức này, nhà thầu không cần
ký quỹ mà vẫn có một sự đảm bảo chắc chắn cho các chủ đầu tư.
Trong thời gian vừa qua, các dự án trong các lĩnh vực giao thông, nhà
ở, cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất, bến cảng, sân bay, dầu khí,
bưu điện…được triển khai rộng khắp từ trung ương đến địa phương, từ quy
mô nhỏ đến quy mô lớn. Do vậy, nhu cầu bảo lãnh ngân hàng trong ngành
xây dựng ngày càng cao. Do đó loại bảo lãnh này ngày càng chiếm vị trí quan
trọng trong hoạt động bảo lãnh của ngân hàng cũng như là một loại bảo lãnh
chứa đựng nhiều rủi ro nhất đòi hỏi ngân hàng phải phân tích kĩ khách hàng
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
trước khi ra quyết định bảo lãnh.
Bảo lãnh dự thầu sẽ tự động mất hiệu lực trong trường hợp người được
bảo lãnh không trúng thầu.
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng.
Là cam kết của ngân hàng về việc chi trả tổn thất thay cho khách hàng
nếu khách hàng không thực hiện đầy đủ hợp đồng như đã cam kết, gây tổn

thất cho bên thứ ba.
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng được sử dụng để thay thế cho yêu cầu ký
quỹ mà người đặt hàng đề nghị đối với người cung ứng để đảm bảo bồi
thường vi phạm hợp đồng. Loại bảo lãnh này nhằm chống đỡ rủi ro cho người
thụ hưởng, giá trị bảo lãnh của loại hợp đồng này tương đương với mức bồi
thường. Số tiền và thời hạn bảo lãnh của ngân hàng là số tiền và thời hạn ghi
trong thư bảo lãnh khớp đúng với đề nghị của bên được bảo lãnh, phù hợp với
hợp đồng thực hiện nhưng không trái với quy định chung.
Các hợp đồng được bảo lãnh như: hợp đồng cung cấp hàng hoá, xây
dựng, thiết kế… Việc khách hàng vi phạm hợp đồng như cung cấp không
đúng hạn, không đúng chất lượng như đã cam kết…đều có thể gây tổn thất
cho bên thứ ba. Bảo lãnh của ngân hàng một mặt bù đắp một phần tổn thất
cho bên thứ ba, mặt khác thúc đẩy khách hàng nghiêm chỉnh thực hiện hợp
đồng vì bảo lãnh đã tạo nên mối liên kết tài chính và san sẻ rủi ro.
Bảo lãnh này hết hiệu lực khi người được bảo lãnh đã hoàn tất nghĩa vụ
theo đúng hợp đồng kinh tế đã ký kết.
Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả tiền ứng trước.
Nhiều người cung cấp yêu cầu khách hàng ( người mua hàng hoá, dịch
vụ) phải đặt trước một phần tiền trong giá trị hợp đồng cung cấp. Số tiền đặt
cọc này vừa giúp bên cung cấp có một phần vốn để sản xuất kinh doanh, vừa
có tác dụng ràng buộc người mua phải mua hàng đã đặt. Tuy nhiên, để đề
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
phòng người cung cấp không cung cấp hàng đã đặt đồng thời cũng không trả
số tiền đặt cọc, bên mua yêu cầu phải có bảo lãnh của ngân hàng về số tiền đã
ứng trước.
Vậy bảo lãnh bảo đảm hoàn trả tiền ứng trước là cam kết của ngân hàng
về việc hoàn trả tiền ứng trước cho người mua ( chính là người thụ hưởng bảo
lãnh) nếu người bán ( người được bảo lãnh) không trả.

Giá trị bảo lãnh thường tương đương với toàn bộ số tiền đã ứng trước.
Bảo lãnh vay vốn ( bảo lãnh đảm bảo hoàn trả vốn).
Bảo lãnh vay vốn chính là cam kết của ngân hàng đối với người cho
vay ( tổ chức tín dụng, các cá nhân..) về việc hoàn trả gốc và lãi đúng hạn nếu
khách hàng ( người đi vay) không trả được.
loại bảo lãnh này thường phát sinh trong trường hợp các doanh nghiệp,
tổ chức tín dụng có nhu cầu vay vốn bằng cách phát hành trái phiếu ( thời hạn
vay dài, quy mô khoản vay lớn) song uy tín của người vay trên thị trường
không cao nên việc phát hành sẽ gặp khó khăn ( khó bán ). Do đó để có thể
vay vốn trên thị trường, gạt bỏ những khó khăn khi phát hành trái phiếu, tổ
chức phát hành thường yêu cầu ngân hàng bảo lãnh cho mình khi vay vốn trên
thị trường. Mặt khác, nhu cầu bảo lãnh vay vốn của ngân hàng còn phát sinh
đối với những khoản vay nợ nước ngoài. Lúc đó bên cho vay nước ngoài yêu
cầu phải có bảo lãnh của ngân hàng.
Bảo lãnh đảm bảo thanh toán.
Là cam kết của ngân hàng về việc sẽ thanh toán tiền đúng hợp đồng
thanh toán cho người thụ hưởng nếu khách hàng của ngân hàng không thanh
toán đủ.
Mục đích của loại bảo lãnh này là để bảo vệ người bán trước rủi ro
không thanh toán đầy đủ và đúng hạn của người mua.
Bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm (performance guarantee).
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
Đây là một bảo lãnh ngân hàng do TCTD phát hàng cho bên nhận bảo
lãnh với việc đảm bảo cho khách hàng thực hiện đúng các thoả thuận về chất
lượng sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp
khách hàng bị phạt tiền do không thực hiện đúng các thoả thuận trong hợp
đồng về chất lượng sản phẩm mà không nộp hoặc nộp không đầy đủ tiền phạt
cho bên nhận bảo lãnh, TCTD sẽ thực hiện nghĩa vụ đã cam kết.

Một số loại hình bảo lãnh khác.
 Bảo lãnh nghĩa vụ tài chính đối với các cơ quan công quyền như
thuế, phí, lệ phí.Bên thụ hưởng chính là cơ quan thuế quan, hải quan, toà án…
của nhà nước. Nhờ có loại bảo lãnh này mà các doanh nghiệp tránh được
những khó khăn tạm thời về mặt ngân quỹ.
 Bảo lãnh phát hành chứng khoán: Khi một công ty muốn phát
hành chứng khoán của mình ra thị trường thì công ty đó phải được thị trường
đánh giá cao.Hay nói cách khác, công ty đó phải có uy tín trên thị trường thì
việc bán chứng khoán mới được dễ dàng. Đối với những công ty mới thành
lập, uy tín trên thị trường chưa cao, việc phát hành chứng khoán của công ty
sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Để khắc phục tình trạng này, nhiều công ty đã yêu
cầu một ngân hàng lớn đứng ra bảo lãnh cho số cổ phiếu mà họ sẽ phát hành.
Ngân hàng sẽ căn cứ vào mục đích của đợt phát hành cổ phiếu, khả năng tài
chính, hiệu quả sử dụng vốn, loại hàng hoá dự định sản xuất, quan hệ của
công ty với ngân hàng để quyết định có bảo lãnh hay không. Khi cổ phiếu của
công ty đã được ngân hàng đứng ra bảo lãnh thì các nhà đầu tư trên thị trường
sẽ yên tâm và dễ dàng chấp thuận mua cổ phiếu của công ty.
Các loại thoả thuận giữa ngân hàng và nhà phát hành chứng khoán:
Cam kết làm hết sức (best effort): Trong đó ngân hàng sẽ làm đại lý
phát hành chứng khoán cho công ty phát hành chứng khoán nhưng ngân hàng
không cam kết bán hết số chứng khoán đã phát hành mà chỉ cam kết cố gắng
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
hết sức để bán chứng khoán cho nhà phát hành.
Bảo lãnh theo phương thức tất cả hoặc không (all or nothing): Trong
phương thức này, tổ chức phát hành yêu cầu bên bảo lãnh bán một số lượng
chứng khoán nhất định, nếu không phân phối được hết sẽ huỷ toàn bộ đợt
phát hành. Tổ chức bảo lãnh phải trả toàn bộ số tiền cho nhà đầu tư mua
chứng khoán.

Bảo lãnh cam kết chắc chắn (firm commitment underwriting): Đó là
phương thức bảo lãnh trong đó tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ mua toàn bộ số
chứng khoán phát hành cho dù có phân phối hết hay không. Đối với loại bảo
lãnh này, tổ chức bảo lãnh se mua chứng khoán của tổ chức phát hành với giá
chiết khấu và bán chứng khoán theo giá chào bán ra công chúng và hưởng
chênh lệch giá. Hoặc, tổ chức bảo lãnh sẽ trả toàn bộ số chứng khoán theo giá
chào bán sau khi trừ đi phần phí và hoa hồng. Tổ chức bảo lãnh sẽ chịu toàn
bộ rủi ro chênh lệch giá trên thị trường.
 Bảo lãnh thuế quan: Trong trường hợp hàng hoá được nhập khẩu
vào một nước nào đó nhằm mục đích trưng bày triển lãm, hay tham dự hội trợ
trong một khoảng thời gian xác định rồi sẽ tái xuất hay trong trường hợp một
công ty thi công cần nhập khẩu máy móc vào một nước nào đó để thi công
nhưng sau khi thi công xong lại xuất máy móc đó về nước. Những hàng hoá,
máy móc đó không phải nộp thuế nhập khẩu. Do vậy hải quan của nước mà
hàng hoá tạm nhập sẽ yêu cầu chủ hàng phải có bảo lãnh của ngân hàng để
đảm bảo rằng số hàng hoá đó sẽ được tái xuất. Nếu hàng hoá, thiết bị thực tế
không tái xuất thì hải quan sẽ rút tiền thanh toán từ thư bảo lãnh coi như một
khoản nộp tiền thuế nhập khẩu và tiền phạt.
 Bảo lãnh hối phiếu: Đây là cam kết của ngân hàng trả tiền cho
bên thụ hưởng khi hối phiếu đến hạn thanh toán đến hạn thanh toán mà bên
được bảo lãnh không thực hiện đúng trách nhiệm tài chính như đã định. Với
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
hình thức bảo lãnh này, bên bảo lãnh phải ghi rõ nội dung kèm theo chữ ký
của người đại diện bên đứng ra bảo lãnh. Ngân hàng chịu trách nhiệm tương
ứng với trách nhiệm của người được bảo lãnh đối với bên thụ hưởng trừ khi
ngân hàng có quy định trên hối phiếu.
Tóm lại, nếu phân loại bảo lãnh theo mục đích, thì bảo lãnh có thể phân
thành rất nhiều loại khác nhau, trong đó mỗi loại bảo lãnh nhằm đối phó với

một loại rủi ro nhất định.
1.1.6.3.Theo điều kiện thanh toán.
Bảo lãnh vô điều kiện ( bảo lãnh theo yêu cầu)
Đối với loại bảo lãnh này, khi rủi ro xảy ra người thụ hưởng chỉ cần
nộp vào ngân hàng văn bản đề nghị thanh toán mà không phải nộp kèm các
chứng từ chứng minh mức độ thiệt hại do người được bảo lãnh gây ra. Khi
nhận được yêu cầu thanh toán này, ngân hàng cũng không được đòi hỏi bất cứ
một chứng từ nào mà phải thanh toán cho người thụ hưởng một cách vô điều
kiện
Bảo lãnh vô điều kiện thể hiện tính độc lập cao giữa việc bảo lãnh và
hợp đồng gốc. Nói một cách khác, ngân hàng không được từ chối thanh toán.
Loại bảo lãnh này rất có lợi cho người thụ hưởng vì họ không mất thời gian
trong việc đòi bồi thường từ phía ngân hàng. Nhưng loại bảo lãnh này cũng
gây bất lợi cho người được bảo lãnh do việc lập yêu cầu thanh toán hoàn toàn
dựa trên nhận định chủ quan của người nhận bảo lãnh.
Bảo lãnh kèm chứng từ ( bảo lãnh có điều kiện).
Đối với bảo lãnh này, khi rủi ro xảy ra, để được thanh toán từ ngân
hàng, người thụ hưởng phải nộp kèm với văn bản yêu cầu thanh toán là chứng
từ xác nhận của bên thứ ba ( thường là bên thứ ba độc lập có đủ tư cách
chuyên môn hoặc phán quyết của toà án) chứng minh bên được bảo lãnh đã vi
phạm trong quá trình thực hiện hợp đồng. Chứng từ có thể được xuất trình
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S. Lê Hương Lan
theo một trong hai cách sau:
Người thụ hưởng xuất trình các chứng từ xác nhận hành vi vi phạm
nghĩa vụ của người được bảo lãnh. Những chứng từ này phải do bên thứ ba có
tư cách độc lập phát hành.
Người thụ hưởng xuất trình yêu cầu thanh toán, ngoài ra không cần
phải xuất trình bất kỳ một loại chứng từ nào khác. Tuy nhiên, quyền thanh

toán của người này sẽ bị dừng lại nếu bên được bảo lãnh xuất trình những
chứng từ chứng minh họ hoàn thành đúng hợp đồng. Những chứng từ này
cũng phải do bên thứ ba có tư cách độc lập phát hành.
Loại bảo lãnh này đã bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người được bảo lãnh
do đòi hỏi điều kiện thanh toán thắt chặt hơn. Về phía ngân hàng, loại bảo
lãnh này yêu cầu ngân hàng phải kiểm tra chứng từ rất phức tạp.
1.1.6.4.Theo bản chất của bảo lãnh.
Bảo lãnh đồng nghĩa vụ.
Là nghiệp vụ bảo lãnh xuất hiện đầu tiên, trong đó bên được bảo lãnh
và ngân hàng được coi là đồng nghĩa vụ. Tuy nhiên, nghĩa vụ của ngân hàng
được coi là nghĩa vụ bổ xung, nghĩa vụ của bên được bảo lãnh được coi là
nghĩa vụ đầu tiên. Nghĩa vụ bổ xung chỉ được thực hiện khi có bằng chứng cụ
thể chứng minh nghĩa vụ đầu tiên bị vi phạm.
Bảo lãnh độc lập
Được coi là một loại bảo lãnh ngân hàng hiện đại, ra đời từ yêu cầu
thực tiễn, bảo lãnh độc lập hoạt động dựa trên hai nguyên tắc:
+ Nguyên tắc độc lập: nghĩa vụ của ngân hàng hoàn toàn tách rời với
nghĩa vụ của người được bảo lãnh.
+ Nguyên tắc phù hợp: Việc thực hiện thanh toán chỉ căn cứ vào điều
kiện đã quy định trong nội dung của thư bảo lãnh.
Khác với bảo lãnh đồng nghĩa vụ đòi hỏi rất nhiều ràng buộc giữa các
Nguyễn Công Sáng Lớp: Ngân hàng 46Q
25

×