Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Phát triển hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (485.38 KB, 88 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá, nền kinh tế
Việt Nam nói chung và ngành ngân hàng nói riêng đang đứng trước những
vận hội và thách thức mới. Để có thể tồn tại và phát triển, ngành ngân hàng
Việt Nam đang tiến hành một cuộc cải tổ toàn diện nhằm đa dạng hoá sản
phẩm, đổi mới các loại hình nghiệp vụ, nâng cao tiềm lực tài chính và khả
năng chống đỡ rủi ro.
Nghiệp vụ bảo lãnh bắt đầu được sử dụng rộng rãi trên thế giới từ đầu
thập niên 70 và ngày càng phát triển, khẳng định vị thế quan trọng trong
giao dịch kinh tế toàn cầu, đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập
khẩu và thương mại quốc tế. Tuy nhiên, đây là một nghiệp vụ phức tạp,
hàm chứa nhiều rủi ro, đòi hỏi các ngân hàng phải không ngừng đổi mới
công nghệ, đa dạng hoá loại hình và nâng cao chất lượng nghiệp vụ.
Nhận thức được điều này, trong những năm qua, nghiệp vụ bảo lãnh
đã được Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm quan tâm phát
triển. Tuy nhiên, trong thời gian thực tập tại chi nhánh, tôi nhận thấy các
loại hình bảo lãnh vẫn còn đơn điệu, doanh thu từ hoạt động bảo lãnh hiện
nay chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng doanh thu hoạt động kinh
doanh của ngân hàng. Điều đó cho thấy hoạt động bảo lãnh ngân hàng
thương mại chưa thực sự được mở rộng và phát triển tương xứng với tiềm
năng của ngân hàng cũng như chưa đáp ứng được nhu cầu bảo lãnh ngày
càng đa dạng của nền kinh tế trong thời mở cửa và hội nhập.
Chính vì lí do đó tôi quyết định lựa chọn đề tài “Phát triển hoạt
động bảo lãnh tại Chi nhánh ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm” để
làm chuyên đề thực tập.
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nội dung của chuyên đề gồm có 3 chương:
Chương I : Khái quát về nghiệp vụ bảo lãnh tại ngân hàng thương mại
Chương II : Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại Chi Nhánh Ngân hàng


Công thương Hoàn Kiếm
Chương II : Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh Chi nhánh Ngân
hàng Công thương Hoàn Kiếm
Trong quá trình hoàn thành chuyên đề này, em đã nhận được sự chỉ
bảo tận tình của GS.TS. Cao Cự Bội cùng tập thể cán bộ Phòng khách hàng
2 (Phòng khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ) Ngân hàng Công thương
Hoàn Kiếm. Em xin chân thành cảm ơn!
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chương 1: Khái quát về nghiệp vụ bảo lãnh tại ngân hàng thương
mại
1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại
Nền kinh tế là một tổng thể các hoạt động tạo ra của cải, phân phối,
tiêu dùng trong một cộng đồng xã hội. Nhìn chung, mỗi nền kinh tế đều
bao gồm bốn thành phần: Chính phủ, Khu vực tài chính, Khu vực phi tài
chính và Các hộ gia đình. Trong đó, khu vực tài chính đóng vai trò quyết
định trong việc biến tiết kiệm của hộ gia đình thành đầu tư của khu vực phi
tài chính, và do đó, tác động tới tăng trưởng kinh tế dài hạn.
Sơ đồ 1.1: Hệ thống kinh tế
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế. Ngân hàng gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh
tế nói chung và của hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng
thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và
số lượng các ngân hàng. Theo Luật các tổ chức tín dụng của Nước Cộng
Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt nam đã định nghĩa : “Ngân hàng thương mại
là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt chủ yếu và thường xuyên là nhận
3
K/v Phi
tài chính
Hộ

gia đình
Chính phủ
Khu vực
Tài chính
Tiết kiệm Đầu tư
Chi tiêu
Thuế-Trợ cấp
tr
Thuế-Trợ cấp
Chi tiêu
Lao động
& đất đai
Tiền lương, lợi
nhuận & địa tô
Hàng hoá & dịch vụ
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để
cho vay , thực hiện nghĩa vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.”
Sau đây là các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại:
Huy động vốn:
Tiền gửi luôn là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM. Lịch
sử cho thấy, NHTM được hình thành và phát triển xuất phát từ nhu cầu cất
trữ hộ tiền của những người giàu có. Dần dần, ngân hàng thực hiện nghiệp
vụ huy động vốn thông qua các hoạt động chủ yếu như: huy động tiền gửi
gồm có tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền gửi có kì hạn
của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, tiền gửi của các ngân hàng khác,
ngân hàng cũng huy động vốn thông qua huy động tiền vay gồm có tiền
vay Ngân hàng nhà nước, vay các tổ chức tín dụng khác và vay trên thị
trường vốn...
 Nghiệp vụ tín dụng:

Song song với nghiệp vụ huy động vốn, nghiệp vụ tín dụng không
những mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng mà còn đóng vai trò quan
trọng tài trợ cho hoạt động chi tiêu của doanh nghiệp, cá nhân và các cơ
quan Chính phủ, thúc đẩy tăng trưởng và đầu tư trong nền kinh tế. Ngân
hàng thương mại cung cấp các hình thức tín dụng đa dạng từ cho vay ngắn
hạn, trung và dài hạn cho đến cho vay tiêu dùng, tài trợ dự án, bảo lãnh,
leasing (thuê mua). Nghiệp vụ huy động vốn và nghiệp vụ tín dụng đã giúp
ngân hàng thực hiện được chức năng trung gian tài chính, đáp ứng nhu cầu
luân chuyển vốn trong nền kinh tế.
 Nghiệp vụ thanh toán:
Nghiệp vụ thanh toán là nghiệp vụ đặc trưng phân biệt ngân hàng với
các trung gian tài chính khác. Thanh toán không dùng tiền mặt làm tăng
khả năng tạo tiền của các NHTM, đồng thời góp phần làm cho hoạt động
thanh toán trong nền kinh tế diễn ra một cách nhanh chóng hơn, tiện lợi
hơn, an toàn hơn và với chi phí thấp hơn. Các công cụ thanh toán không
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
dùng tiền mặt gồm có séc, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, L/C (Letter of
credit), hối phiếu, tín dụng chứng từ...
Ngoài những nghiệp vụ truyền thống kể trên, ngân hàng hiện đại ngày
nay đang mở rộng phạm vi hoạt động của mình sang các lĩnh vực như kinh
doanh ngoại tệ, quản lý ngân quỹ, uỷ thác đầu tư và môi giới chứng
khoán…
Nghiệp vụ bảo lãnh được coi là một hình thức cấp tín dụng, tuy nhiên
nó có những đặc điểm và tính chất riêng biệt. Bảo lãnh được coi là một
phương thức tài trợ đặc biệt dựa trên khả năng tài chính và uy tín của
NHTM xuất phát từ nhu cầu đảm bảo sự tin cậy trong kinh tế. Sự phát triển
của hoạt động bảo lãnh là một tất yếu gắn liền với sự phức tạp và đa dạng
hoá của các quan hệ kinh tế. Bởi vậy, ngày nay bảo lãnh là lĩnh vực đầy
tiềm năng mà bất kỳ một ngân hàng hiện đại nào cũng muốn hướng tới. Mở

rộng các loại hình bảo lãnh, phương thức bảo lãnh cũng nằm trong chiến
lược đa dạng hoá nhằm giảm thiểu rủi ro của ngân hàng. Vậy, thế nào là
hoạt động bảo lãnh ngân hàng
1.2. Nghiệp vụ bảo lãnh tại ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm bảo lãnh
Nền kinh tế càng phát triển, mối quan hệ giữa các thức thể của nó
càng trở nên đa dạng và phức tạp. Quan hệ kinh tế được xác lập trên cơ sở
hợp đồng kinh tế và lợi ích của các bên gắn chặt với việc thực hiện các cam
kết trong hợp đồng đó. Trên thực tế, do nhiều nguyên nhân cả chủ quan lẫn
khách quan dẫn đến cam kết trong hợp đồng không được thực hiện. Để
phòng tránh và hạn chế tổn thất phát sinh do vi phạm hợp đồng, người ta sử
dụng nhiều công cụ khác nhau như quy định thêm các điều khoản pháp lý
về giải quyết tranh chấp, sử dụng phương thức thanh toán bằng tín dụng
chứng từ (L/C) hoặc tín dụng dự phòng (Standby L/C)… Bảo lãnh là
phương thức hạn chế tổn thất hiệu quả trên cơ sở có sự đảm bảo bằng uy tín
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
và khả năng tài chính của một tổ chức trung gian. Các NHTM – với uy tín
và tiềm lực tài chính mạnh mẽ, lại chiếm ưu thế trong việc khai thác và
phân tích thông tin khách hàng – là những nhà bảo lãnh đáng tin cậy trong
các hợp đồng kinh tế. Hoạt động bảo lãnh sơ khai đã có từ rất sớm vào thời
kỳ Trung cổ Hy lạp trong những giao dịch thương mại nhỏ lẻ. Nhưng phải
đến những năm 60 của thế kỷ XX, bảo lãnh thư mới được áp dụng ở thị
trường Hoa Kỳ. Sau đó, vào đầu những năm 70 của thế kỷ XX, bảo lãnh
bắt đầu được sử dụng trong các thương mại quốc tế. Vào thời gian này, các
quốc gia mau chóng thịnh vượng nhờ sản xuất dầu lửa ở Trung Đông, liên
tục ký những hợp đồng kinh tế lớn với các nước phương Tây để thực hiện
các dự án cải tạo cơ sở hạ tầng kỹ thuật, dự án canh tân nông nghiệp, quốc
phòng giá trị rất lớn của các hợp đồng và thế mạnh về tài chính của các
quốc gia Trung Đông đã cho phép họ phải có một sự đảm bảo chắc chắn về

phía đối tác khi tham gia vào các thương vụ giao dịch. Những bảo lãnh độc
lập do ngân hàng của các nước phương Tây phát hành đã thực sự đáp ứng
được yêu cầu về sự thuận lợi và an toàn cho các quốc gia nhập khẩu. Kể từ
đó tới nay, với khả năng cung ứng rộng rãi trong các giao dịch, vị trí của
bảo lãnh ngân hàng ngày càng được củng cố một các chắc chắn.
Tại Việt Nam, hoạt động bảo lãnh được biết đến vào đầu những năm
90 - khi nền kinh tế bắt đầu hội nhập với khu vực và thế giới. Tuy nhiên,
phải đến 5 năm trở lại đây hoạt động bảo lãnh mới thực sự tăng trưởng về
số lượng và chất lượng, ngày càng là một trong những trọng tâm phát triển
của các ngân hàng.
Bảo lãnh ngân hàng là một hình thức tín dụng chữ ký – là hoạt động
không dùng đến vốn của ngân hàng. Bảo lãnh ngân hàng là sự cam kết đền
bù của ngân hàng đối với bên hưởng (bên được hưởng bảo lãnh) khi nhận
được yêu cầu (bên yêu cầu bảo lãnh) trong trường hợp bên yêu cầu bảo
lãnh không thực hiện được các nghĩa vụ và trách nhiệm của mình, làm hại
đến quyền lợi của bên kia.
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tại Việt Nam, Điều 2 Quy chế Bảo lãnh ngân hàng ban hành kem
theo Quyết định số 26/2006/QĐ – NHNN ngày 26/6/2006 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước, bảo lãnh ngân hàng được định nghĩa như sau:
Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng
(bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện
nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên
nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng
số tiền đã được trả thay.
Sơ đồ 1.2: Bảo lãnh ngân hàng
Một nghiệp vụ bảo lãnh bao gồm ít nhất ba bên: bên bảo lãnh, bên
được bảo lãnh, bên thụ hưởng bảo lãnh:

Bên bảo lãnh: là bên phát hành bảo lãnh như Ngân hàng Nhà nước,
ngân hàng thương mại và các TCTD khác theo quy định của pháp luật. Sau
đây, ta sẽ chỉ nghiên cứu tới bảo lãnh do các NHTM phát hành.
Bên được bảo lãnh: là bên yêu cầu được bảo lãnh, có thể là các
TCTD khác, các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh họp pháp tại Việt
Nam, hộ kinh doanh cá thể, các tổ chức kinh tế nước ngoài tham gia các
hợp đồng hợp tác liên doanh và tham gia đấu thầu các dự án tại Việt Nam
hoặc vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư tại Việt nam.
7
Ngân hàng
(Bên bảo lãnh)
Bên thụ hưởng
bảo lãnh
Bên được bảo
lãnh
Hợp đồng cung cấp
hàng hoá - dịch vụ
Hợp đồng
bảo lãnh
Cam kết
bảo lãnh
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Bện thụ hưởng bảo lãnh hay bên nhận bảo lãnh: là các tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước có quyền thụ hưởng cam kết bảo lãnh của bên
bảo lãnh.
1.2.2. Đặc điểm nghiệp vụ bảo lãnh
Thứ nhất, trong một nghiệp vụ bảo lãnh, tồn tại mối quan hệ đa
phương.
Trong một nghiệp vụ bảo lãnh, tồn tại mối quan hệ giữa ba bên ngân
hàng, bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Quan hệ giữa bên được bảo

lãnh và bên thụ hưởng bảo lãnh là mối quan thương mại – mối quan hệ gốc
– cơ sở phát sinh yêu cầu bảo lãnh. Do đó, hợp đồng bảo lãnh và cam kết
bảo lãnh phải được lập trên cơ sở các điều khoản của hợp đồng thương mại.
Quan hệ giữa ngân hàng bảo lãnh và bên được bảo lãnh là mối quan hệ
giữa bên cấp tín dụng và khách hàng nhận tín dụng. Quan hệ giữa ngân
hàng bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh là mối quan hệ đảm bảo bằng uy tín
và khả năng tài chính. Nghĩa vụ tài chính của ngân hàng đối với bên nhận
bảo lãnh chỉ phát sinh khi có sự vi phạm hợp đồng thương mại của bên
được bảo lãnh. Trong một số trường hợp, hoạt động bảo lãnh ngân hàng
còn phức tạp hơn với sự tham gia của một số bên trung gian như ngân hàng
thông báo, ngân hàng xác nhận bảo lãnh…
Thứ hai, bảo lãnh ngân hàng mang tính độc lập.
Một đặc tính hết sức quan trọng của nghiệp vụ bảo lãnh là tính độc lập
tương đối với hợp đồng chính. Mặc dù có quan hệ chặt chẽ với hợp đồng
thương mại ký kết giữa bên thụ hưởng và bên được bảo lãnh, cam kết bảo
lãnh có hiệu lực độc lập với các văn bản khác. Điều đó có nghĩa là, nghĩa
vụ tài chính của ngân hàng đối với bên thụ hưởng chỉ phát sinh khi hành
động vi phạm hợp đồng của bên được bảo lãnh là một trong các điều khoản
của cam kết bảo lãnh. Theo UCP 845 của ICC, “về bản chất bảo lãnh là
giao dịch tách rời khỏi hợp đồng cơ sở hay các điều kiện dự thầu mà bảo
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
lãnh lấy làm căn cứ và bên nhận bảo lãnh không hề quan tâm hay bị ràng
buộc bởi hợp đồng và các điều kiện dự thầu đó, dù có trích tham chiếu đến
chúng trong bảo lãnh.”
Tính độc lập của bảo lãnh phụ thuộc vào chính các điều kiện của bảo
lãnh. Nếu bảo lãnh quy định việc thanh toán là theo yêu cầu của người thụ
hưởng thì người thụ hưởng có quyền lập yêu cầu thanh toán mà không cần
thiết phải chứng minh việc vi phạm của người được bảo lãnh. Ngược lại,
nếu cam kết bảo lãnh yêu cầu kèm chứng từ thì người thụ hưởng phải xuất

trình đầy đủ bộ chứng từ theo quy định đến ngân hàng phát hành thì mới
nhận được thanh toán.
Tính độc lập còn được thể hiện ở chỗ ngân hàng có quyền truy đòi
khoản tiền bảo lãnh đã trả thay cho khách hàng sau khi đã trả thay cho
khách hàng ngay sau khi ngân hàng thực hiện yêu cầu thanh toán từ bên
nhận bảo lãnh mà không hề bị ảnh hưởng bởi các điều khoản của hợp đồng
gốc.
Thứ ba, bảo lãnh ngân hàng là một hoạt động ngoại bảng nhưng lại
được quản lý như một nghiệp vụ tín dụng.
Bản chất của bảo lãnh là một hình thức tài trợ thông qua uy tín. Khi
phát hành một cam kết bảo lãnh, bảng cân đối tài sản của ngân hàng không
hề bị thay đổi. Do vậy, nghiệp vụ bảo lãnh được coi là một hoạt động ngoại
bảng. Tuy nhiên, trong trường hợp bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng
theo các điều khoản được nghi trong cam kết bảo lãnh, ngân hàng buộc
phải sử dụng nguồn vốn của mình để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với
bên nhận bảo lãnh. Nếu bên được bảo lãnh chưa hoàn trả ngay cho ngân
hàng, ngân hàng sẽ cấp một khoản tín dụng bắt buộc cho bên được bảo
lãnh. Khi đó, nghiệp vụ bảo lãnh sẽ tác động đến bảng cân đối tài sản của
ngân hàng, ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản và các chỉ tiêu tài chính
của ngân hàng. Bởi vây, tuy là một hoạt động ngoại bảng, bảo lãnh vẫn
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
phải được giám sát và quản lý một cách chặt chẽ như các hình thức cấp tín
dụng khác.
So sánh bảo lãnh với thư tín dụng dự phòng và thư bồi hoàn
 Với thư tín dụng dự phòng (Standby L/C):
- Bảo lãnh ngân hàng và thư tín dụng dự phòng đều là phương tiện
bảo lãnh, không phải là phương tiện thanh toán, mục đích đều nhằm bảo
đảm cho một rủi ro nào đó có thể phát sinh như: rủi ro không thanh toán,
rủi ro không thực hiện hợp đồng, rủi ro không hoàn trả tiền ứng trước…

- Bảo lãnh ngân hàng và thư tín dụng dự phòng đều có tính chất chứng
từ: ngân hàng phát hành chỉ thanh toán dựa vào việc người thụ hưởng xuất
trình những chứng từ phù hợp với những điều khoản và điều kiện ghi trong
hợp đồng bảo lãnh hay tín dụng thư mà không xem xét đến hàng hoá hay
những sự kiện thực sự phát sinh liên quan đến quan hệ hợp đồng hay quan
hệ giữa bên yêu cầu mở và ngân hàng phát hành.
 Với thư bồi hoàn (Letter of Indenminity):
Thư bồi hoàn là một cam kết đơn phương của người phát hành nhằm
bảo đảm bồi thường những thiệt hại, mất mát xảy ra cho người được bồi
hoàn.
- Giống nhau: cả hai đều là cam kết của một người phát hành chịu
trách nhiệm trả nợ thay cho một người khác gọi là người được bảo lãnh.
- Khác nhau: trách nhiệm thanh toán của người phát hành thư bồi hoàn
là trách nhiệm đầu tiên và không phụ thuộc vào việc vi phạm hợp đồng
hay không của người được bảo lãnh.Thư bồi hoàn là thư của người phát
hành gửi người thụ hưởng , còn bảo lãnh là cam kết của người phát hành
bảo lãnh đảm bảo thực hiện những nghĩa vụ đã cam kết của một bên thứ ba.
Người phát hành thư bồi hoàn thường có mối liên quan hay lợi ích trực
tiếp với người được bảo lãnh và người thụ hưởng.
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.2.3. Vai trò của nghiệp vụ bảo lãnh
 Vai trò của bảo lãnh đối với ngân hàng bảo lãnh
- Tăng doanh thu: bảo lãnh là một dịch vụ của NHTM đem lại thu
nhập thông qua phí bảo lãnh. Đó là hoa hồng phần trăm tính trên doanh số
bảo lãnh. Bên cạnh đó, ngân hàng còn sử dụng khoản tiền ký quỹ bảo lãnh
để cho vay thu lãi coi như một nguồn vốn khá ổn định của ngân hàng.
- Đa dạng hoá dịch vụ: nghiệp vụ bảo lãnh với nhiều phương thức
phát hành và mục đích tài trợ khác nhau đã góp phần vào việc thực hiện
chiến lược đa dạng hoá nhằm giảm thiểu rủi ro của ngân hàng. Ngày nay xu

hướng của các NHTM hiện đại là tăng tỷ trọng thu nhập từ các hoạt động
dịch vụ trong tổng thu nhập của ngân hàng.
- Tăng cường vị thế và uy tín, mở rộng quan hệ đại lý: cung cấp
những dịch vụ bảo lãnh đa dạng và chất lượng sẽ giúp các NHTM tăng
cường uy tín của mình trên thị trường tài chính trong nước và quốc tế, tạo
điều kiện mở rộng mối quan hệ với các ngân hàng đại lý. Bên cạnh đó, phát
triển hoạt động bảo lãnh giúp NHTM mở rộng đối tượng khách hàng,
không ngừng củng cố và xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng.
 Vai trò của bảo lãnh đối với khách hàng
- Với bên được bảo lãnh:
Thực hiện chức năng tài trợ, bảo lãnh ngân hàng đã góp phần tháo gỡ
khó khăn về vốn cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực
hiện tái sản xuất mở rộng.
Bảo lãnh ngân hàng có giá trị như một phương thức quảng bá hữu
hiệu trong việc tìm kiếm đối tác và tạo dựng uy tín trên thị trường.
- Với bên nhận bảo lãnh:
Bảo lãnh ngân hàng có vai trò như một thước đo uy tín, từ đó giúp
doanh nghiệp tiết kiệm thời gian và chi phí trong việc lựa chọn đối tác.
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trong trường hợp doanh nghiệp bị vi phạm hợp đồng, bảo lãnh ngân
hàng đảm bảo bù đắp thiệt hại nhanh nhất.
 Vai trò của bảo lãnh đối với nền kinh tế
- Đáp ứng nhu cầu vay vốn trong nền kinh tế: với chức năng tài trợ,
bảo lãnh ngân hàng đóng vai trò như một tài sản đảm bảo hiệu quả và kinh
tế hơn so với cầm cố - thế chấp. Nó đặc biệt có ý nghĩa đối với những dự
án cần thu hút vốn từ các TCTD ở nước ngoài. Bên cạnh đó, bảo lãnh ngân
hàng còn giúp doanh nghiệp có được những khoản tín dụng thương mại
quan trong phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh như các khoản tiền
ứng trước…

- Thúc đẩy việc ký kết các hợp đồng kinh tế: Với chức năng hạn chế
thông tin không cân xứng, đôn đốc thực hiện hợp đồng và hạn chế tổn thất
phát sinh do vi phạm hợp đồng, bảo lãnh góp phần thúc đẩy việc ký kết các
hợp đồng kinh tế, đặc biệt là những giao dịch thương mại quốc tế.
- Định hướng phát triển kinh tế: giống với các hình thức cấp tín dụng
khác, chính sách phí bảo lãnh và điều kiện bảo lãnh sẽ có tác dụng định
hướng phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn hay làm chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo chiến lược phát triển của quốc gia.
1.2.4. Phân loại nghiệp vụ bảo lãnh
1.2.4.1. Theo phương thức phát hành
 Bảo lãnh trực tiếp

Bảo lãnh trực tiếp là bảo lãnh mà trong đó ngân hàng phát hành bảo
lãnh chịu trách nhiệm trực tiếp cho bên được bảo lãnh. Người được bảo
lãnh sẽ chịu trách nhiệm bồi hoàn trực tiếp cho ngân hàng phát hành bảo
lãnh.
Bảo lãnh trực tiếp thông thường có ba bên tham gia: ngân hàng phát
hành bảo lãnh, người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh. Trường
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hợp người thụ hưởng là người nước ngoài có thể có thêm ngân hàng ở cùng
quốc gia với người thụ hưởng bảo lãnh trong vai trò ngân hàng thông báo.
Sơ đồ 1.3:Sơ đồ bảo lãnh trực tiếp

(3)
(2) (5) (4)
(1)
Các mối quan hệ trong sơ đồ:
(1) Người được bảo lãnh và người thụ hưởng thoả thuận hợp đồng
chính (hợp đồng thương mại).

(2) Người được bảo lãnh đề nghị ngân hàng mình phát hành bảo lãnh
cho người thụ hưởng.
(3) Ngân hàng bảo lãnh phát hành bảo lãnh cho ngân hàng thông báo.
(4) Ngân hàng thông báo thông báo cho người thụ hưởng về bảo lãnh
của ngân hàng phục vụ người mua.
(5) Trường hợp ngân hàng bảo lãnh phát hành bảo lãnh trực tiếp đến
người thụ hưởng không thông qua ngân hàng thông báo.
Quan hệ giữa người được bảo lãnh và ngân hàng phát hành bảo lãnh làm
phát sinh hợp đồng bảo lãnh, trong đó người được bảo lãnh chỉ thị cho
ngân hàng phát hành bảo lãnh cho người thụ hưởng với những điều khoản
và điều kiện đã quy định đồng thời cam kết bồi hoàn cho ngân hàng phát
hành. Nếu ngân hàng đồng ý phát hành thì nó có nhiệm vụ phát hành bảo
lãnh và thanh toán bảo lãnh theo những điều khoản và điều kiện bảo lãnh,
13
Ngân hàng
phát hành
Người thụ
hưởng
Người được
bảo lãnh
Ngân hàng
thông báo
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ngân hàng phát hành sau khi thanh toán cho người thụ hưởng có quyền yêu
cầu người được bảo lãnh bồi hoàn.
Quan hệ giữa ngân hàng phát hành và ngân hàng thông báo là quan hệ
đại lý giữa các ngân hàng. Ngân hàng phát hành có thể phát hành trực tiếp
bảo lãnh cho người thụ hưởng mà không cần thông qua ngân hàng thông
báo.
Quan hệ giữa ngân hàng phát hành và người thụ hưởng: Mối quan hệ

này phát sinh khi ngân hàng phát hành phát hành bảo lãnh cam kết cho
người thụ hưởng, và được người thụ hưởng chấp nhận. Trách nhiệm của
ngân hàng phát hành là phải kiểm tra chứng từ và thực hiện thanh toán khi
người thụ hưởng yêu cầu, còn người thụ hưởng phải chuẩn bị những chứng
từ phù hợp với các điều khoản và điều kiện đã ghi trong hợp đồng bảo
lãnh.
Bảo lãnh gián tiếp
Bảo lãnh gián tiếp hay còn gọi là bảo lãnh đối ứng là loại bảo lãnh
trong đó ngân hàng bảo lãnh đã phát hành bảo lãnh theo chỉ thị của một
ngân hàng trung gian phục vụ cho người được bảo lãnh dựa trên một bảo
lãnh khác gọi là bảo lãnh đối ứng. Người được bảo lãnh không chịu trách
nhiệm bồi hoàn trực tiếp cho ngân hàng phát hành mà chính ngân hàng
trung gian chịu trách nhiệm bồi hoàn.Bảo lãnh gián tiếp thường được dùng
trong trường hợp người thụ hưởng yêu cầu ngân hàng phát hành bảo lãnh là
ngân hàng mà người được bảo lãnh không có quan hệ với ngân hàng của
người thụ hưởng.
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Sơ đồ 1.4 : Sơ đồ bảo lãnh gián tiếp
(4)
(3)
(6)
(5)
(2)
(1)
(1) Người được bảo lãnh và người thụ hưởng thoả thuận hợp đồng
chính.
(2) Người được bảo lãnh đề nghị ngân hàng phục vụ mình (ngân
hàng thứ nhất) phát hành bảo lãnh đối ứng cho ngân hàng phát
hành (ngân hàng thứ hai).

(3) Ngân hàng thứ nhất phát hành bảo lãnh đối ứng cho ngân hàng
thứ hai.
(4) Ngân hàng thứ hai phát hành bảo lãnh cho người thụ hưởng
thông qua ngân hàng thông báo.
(5) Ngân hàng thông báo thông báo cho người thụ hưởng về bảo
lãnh của ngân hàng thứ hai.
(6) Ngân hàng thứ hai có thể phát hành bảo lãnh trực tiếp đến người
thụ hưởng, không thông qua ngân hàng thông báo.
Như vậy trong bảo lãnh gián tiếp có ít nhất bốn bên tham gia: Ngân
hàng phát hành bảo lãnh, ngân hàng chỉ thị, người được bảo lãnh và người
thụ hưởng bảo lãnh. Một số trường hợp có thể có một ngân hàng giữ vai trò
thông báo như trong bảo lãnh trực tiếp.
15
Ngân hàng phát hành
Ngân hàng yêu cầu
bảo lãnh
Ngân hàng thứ nhất
Ngân hàng thụ
hưởng
Ngân hàng thông báo
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Bảo lãnh gián tiếp xảy ra khi ngân hàng phục vụ người mua không
có quan hệ đại lý với ngân hàng phục vụ người bán. Vì vậy, ngân hàng
phục vụ người bán không chấp nhận bảo lãnh của ngân hàng phục vụ người
mua. Vì vậy, trên cơ sở đề nghị của người được bảo lãnh, ngân hàng phục
vụ người mua phải đề nghị một ngân hàng khác (ngân hàng thứ hai) thay
mặt mình phát hành bảo lãnh theo mẫu hoặc những điều khoản nhất định.
Ngân hàng thứ nhất xem xét phát hành bảo lãnh đối ứng cho ngân hàng thứ
hai cũng tương tự như xem xét phát hành bảo lãnh trực tiếp. Những cam
kết thoả thuận của người được bảo lãnh đối với ngân hàng thứ nhất cũng

tương tự như trường hợp ngân hàng thứ nhất phát hành bảo lãnh trực tiếp
(ngân hàng thứ nhất và ngân hàng thứ hai phải có quan hệ đại lý với nhau).
Quan hệ giữa ngân hàng thứ nhất và ngân hàng thứ hai được thể hiện
ở hai khía cạnh:
- Văn bản của ngân hàng thứ nhất đề nghị ngân hàng thứ hai phát
hành bảo lãnh.
- Văn bản của ngân hàng thứ nhất cam kết bồi hoàn cho ngân hàng
thứ hai nếu ngân hàng thứ hai thanh toán bảo lãnh và được thể hiện bằng
một văn bản bảo lãnh đối ứng. Bảo lãnh đối ứng ghi rõ số tiền thanh toán
bảo lãnh tối đa và số tiền này tương ứng với số tiền bảo lãnh tối đa của bảo
lãnh của ngân hàng thứ hai. Vì vậy, ngân hàng phát hành chỉ có thể đòi
ngân hàng thứ nhất số tiền tối đa bằng số tiền mà họ đã thanh toán cho
người thụ hưởng.
Quan hệ giữa ngân hàng thứ hai, ngân hàng thông báo, người thụ
hưởng trong quan hệ bảo lãnh đối ứng cũng giông như quan hệ giữa ngân
hàng phát hành, người thụ hưởng, ngân hàng thông báo trong quan hệ bảo
lãnh trực tiếp.
 Bảo lãnh được xác nhận
Bảo lãnh được xác nhận là việc xác nhận của một ngân hàng đối với
một bảo lãnh do một ngân hàng khác phát hành để xác nhận lại tính bảo
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đảm của bảo lãnh. Bảo lãnh được xác nhận thường phát sinh trong trường
hợp người thụ hưởng muốn một ngân hàng khác trong nước xác nhận bảo
lãnh do một ngân hàng nước ngoài phát hành.
Như vậy, người thụ hưởng có thể xuất trình những chứng từ theo yêu
cầu của bảo lãnh đến ngân hàng xác nhận và nhận thanh toán nếu người
được bảo lãnh không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình.
Trong bảo lãnh này ngoài ngân hàng phát hành, người thụ hưởng,
người được bảo lãnh còn có thêm ngân hàng xác nhận bảo lãnh, được

người thụ hưởng bảo lãnh do không tin tưởng vào khả năng tài chính của
ngân hàng phát hành đã chỉ định xác nhận bảo lãnh. Trách nhiệm thanh
toán trực tiếp cho người thụ hưởng sẽ thuộc về ngân hàng xác nhận. Nhưng
hình thức này không phổ biến vì nếu không tin tưởng ngân hàng phát hành,
người thụ hưởng thường yêu cầu thực hiện nghiệp vụ tái bảo lãnh.
Sơ đồ 1.5: Sơ đồ bảo lãnh được xác nhận
Bảo lãnh
Chỉ thị
phát hành Thông
báo &
bảo lãnh xác
nhận
Hợp đồng
17
Ngân hàng phát
hành
Người thụ hưởng
Người được bảo
lãnh
Ngân hàng xác
nhận
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Đồng bảo lãnh
Đồng bảo lãnh thường được áp dụng trong trường hợp có thương vụ
lớn, khả năng rủi ro cao, một ngân hàng không thể thực hiện được vì các
quy định về pháp lý của chính phủ. Do vậy, để phân tán rủi ro ngân hàng
đó sẽ thực hiện một nghiệp vụ đồng bảo lãnh. Khi một nghiệp vụ đồng bảo
lãnh phát sinh, sẽ có một ngân hàng đứng ra bảo lãnh chính trong số các
thành viên tham gia đồng bảo lãnh. Trách nhiệm của ngân hàng này là phát
hành thư bảo lãnh cho toàn bộ số tiền bảo lãnh, giữ các chứng từ thế chấp

cầm cố, thu phí bảo lãnh từ người được bảo lãnh và chia lại cho các ngân
hàng thành viên theo tỷ lệ. Trách nhiệm thanh toán bảo lãnh của ngân hàng
chính với người thụ hưởng là trách nhiệm trực tiếp. Sau khi đã thực hiện
thanh toán, ngân hàng chính sẽ đòi từ các ngân hàng thành viên số tiền đã
chia theo tỷ lệ.
Sơ đồ 1.6: đồng bảo lãnh

(3) (4b)
(2)
(1)
18
Ngân hàng phát
hành
Người đựoc
bảo lãnh
Người thụ
hưởng bảo lãnh
NH1
NH2
NH3
Ngân hàng thông
báo
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
(1) Hợp đồng gốc
(2) Người được bảo lãnh yêu cầu phát hành bảo lãnh
(3) Ngân hàng chính dàn xếp bảo lãnh cùng với các ngân hàng đồng
minh
(4a), (4b) Ngân hàng chính phát hành bảo lãnh cho người thụ hưởng,
chuyển trực tiếp hoặc qua ngân hàng thông báo.
Ngoài những loại bảo lãnh trên đây dựa theo phương thức phát hành

còn có một số loại bảo lãnh khác như: Bảo lãnh giáp lưng, bảo lãnh xác
nhận, bảo lãnh phụ… được sử dụng chủ yếu trong các quan hệ quốc tế.
1.2.4.2. Phân loại theo mục đích
 Bảo lãnh vay vốn
Bảo lãnh vay vốn là hình thức thức bảo lãnh thông dụng hiện
nay.Bảo lãnh vay vốn là cam kết của ngân hàng thực hiện trách nhiệm tài
chính thay cho khách hàng nếu khách hàng vi phạm hợp đồng, không thanh
toán khoản vay mà ngân hàng đã đứng ra bảo lãnh. Bảo lãnh vay vốn là
một dạng nhỏ của bảo lãnh thanh toán. Đây là một nghiệp vụ bảo lãnh hàm
chứa nhiều rủi ro, do vậy các ngân hàng rất thận trọng khi thực hiện bảo
lãnh vay vốn, phải tiến hành phân tích tài chính khách hàng đầy đủ, thẩm
định hiệu quả dự án đầu tư, đồng thời yêu cầu tài sản đảm bảo để hạn chế
những rủi ro về việc phải thanh toán thay cho khách hàng như một nghiệp
vụ cho vay khách hàng. Bảo lãnh vay vốn có thể là bảo lãnh vay vốn trong
nước hoặc vay vốn nước ngoài.
Thời hạn bảo lãnh bắt đầu có hiệu lực kể từ khi người được bảo lãnh
nhận được vốn vay và kết thúc khi thanh toán hết khoản vay. mức phí
thường tính theo tỷ lệ phần trăm theo khoản vay. Các ngân hàng sẽ tuỳ theo
mức độ rủi ro cũng như mối quan hệ của khách hàng với ngân hàng mà quy
định mức phí cụ thể. Thường không vượt quá 2% giá trị của khoản vay.
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
 Bảo lãnh dự thầu
Bảo lãnh dự thầu là cam kết của ngân hàng phát hành với chủ đầu tư
(hay chủ thầu) về việc trả tiền phạt thay cho bên dự thầu nếu bên dự thầu vi
phạm các quy định trong hợp đồng dự thầu. Mục đích của bảo lãnh dự thầu
là bảo đảm cho việc người dự thầu không rút lui, không kí hợp đồng hay
thay đổi ý định khi đã được trúng thầu gây ra thiệt hại cho người thụ
hưởng. Do vậy, khi tổ chức đấu thầu, người chủ đầu tư sẽ yêu cầu những
người đăng kí tham gia đấu thầu phải cung cấp một bảo lãnh ngân hàng gọi

là bảo lãnh dự thầu, thông thường có giá trị từ một đến năm phần trăm trị
giá hợp đồng đấu thầu. Bảo lãnh này sẽ tự động hết hiệu lực nếu những
người dự thầu không trúng được thầu.
Bảo lãnh dự thầu thực chất là phương tiện thay thế cho việc ký quỹ
của người tham gia dự thầu, nên giá trị của bảo lãnh này được quy định
theo mức ký quỹ chuẩn do người tổ chức đấu thầu đưa ra. Thông thường
giá trị bảo lãnh dự thầu là từ 1% đến 5% giá trị của hợp đồng thầu
 Bảo lãnh thực hiện hợp đồng
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng là cam kết của ngân hàng phát hành về
việc chi trả tổn thất thay cho khách hàng nếu khách không thực hiện đầy đủ
hợp đồng như đã cam kết, gây tổn thất cho bên thứ ba. Loại bảo lãnh này
rất thường được sử dụng để cung cấp cho người thụ hưởng một bảo đảm về
việc thực hiện hợp đồng của người được bảo lãnh. Bảo lãnh này thông
thường được sử dụng kèm với phương thức thanh toán khác, giá trị hợp
đồng bảo lãnh này tuỳ theo giá trị hợp đồng và tuỳ tính chất của mỗi
thương vụ. Tuy nhiên, giá trị bảo lãnh thường từ khoảng 5% đến 10% giá
trị hợp đồng.
 Bảo lãnh thanh toán
Bảo lãnh thanh toán là cam kết của ngân hàng phát hành về việc
thanh toán tiền đúng hợp đồng thanh toán cho người thụ hưởng nếu khách
hàng của ngân hàng không thanh toán đủ. Bảo lãnh thanh toán hoàn toàn có
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thể được sử dụng như một phương tiện bảo đảm trong hợp đồng mua bán,
hợp đồng thuế mua tài chính, hợp đồng đại lý, hợp đồng xây dựng...Đối với
loại bảo lãnh này, về mục đích giống như tín dụng thư thương mại thông
thường là bảo đảm cho nghĩa vụ thanh toán.
Tuy nhiên, nó hoàn toàn khác về bản chất và phương thức truy đòi
tiền, trong bảo lãnh thanh toán, trách nhiệm thanh toán của ngân hàng phát
hành là trách nhiệm thứ yếu, nghĩa là, ngân hàng chỉ chịu thanh toán khi

người được bảo lãnh không thanh toán và vi phạm hợp đồng. Còn thư tín
dụng thương mại, trách nhiệm thanh toán của ngân hàng là đầu tiên, đại
diện cho người mua thanh toán tiền cho người bán khi người bán đã thực
hiện đúng hợp đồng thương mại, mọi phát sinh từ hợp đồng thương mại
đều ảnh hưởng tới quyết định thanh toán của ngân hàng.
1.2.4.3.Căn cứ vào điều kiện phát hành
Bảo lãnh theo yêu cầu
Bảo lãnh theo yêu cầu là một bảo lãnh có điều kiện thanh toán như
sau: Người thụ hưởng chỉ cần xuất trình một văn bản yêu cầu thanh toán
mà không yêu cầu một chứng từ nào khác, người thụ hưởng không cần đưa
ra những chứng từ hay chứng cứ gì để chứng minh việc vi phạm của người
được bảo lãnh cũng như sự thiệt hại về phần mình. Do vậy, người thụ
hưởng luôn có thể yêu cầu ngân hàng phát hành thanh toán bảo lãnh bất cứ
lúc nào nếu Người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng mà không cần phải
xuất trình chứng từ chứng minh và mô tả mức độ thiệt hại do việc vi phạm
hợp đồng của người được bảo lãnh gây ra. Và trách nhiệm của Ngân hàng
phát hành là thực hiện thanh toán ngay khi có yêu cầu của Người thụ
hưởng mà không được quyền đòi hỏi những chứng từ đã đề cập ở trên.
Yêu cầu thanh toán có thể ở hai dạng: Thứ nhất là một văn bản yêu
cầu thanh toán của Người thụ hưởng.Thứ hai là một văn bản tuyên bố sự vi
phạm hợp đồng của người được bảo lãnh do người thụ hưởng lập.
21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Từ điều kiện thanh toán cho thấy bảo lãnh theo yêu cầu mang lại một
lợi thế rất lớn cho người thụ hưởng, vì họ luôn ở một tư thế chủ động trong
việc yêu cầu thanh toán bảo lãnh. Bảo lãnh theo yêu cầu đáp ứng nhu cầu
thanh khoản nhanh và mang tính bảo đảm cao cho người thụ hưởng.
Tuy nhiên, đối với người được bảo lãnh theo yêu cầu mang lại một
bất lợi khá lớn vì tạo ra một áp lực mạnh, đốc thúc người được bảo lãnh
hoàn tất những nghĩa vụ hợp đồng của mình và luôn phải phòng vệ trường

hợp lừa đảo của người thụ hưởng. Rủi ro đối với ngân hàng cũng rất lớn,
chủ yếu là rủi ro đạo đức do trách nhiệm phải thanh toán ngay khi có yêu
cầu của người thụ hưởng.
Bảo lãnh kèm chứng từ
Đây là hình thức bảo lãnh trong đó nó yêu cầu chứng từ của một bên
thứ ba. Chứng từ của bên thứ ba có thể gồm hai loại: loại thứ nhất là chứng
từ do người thụ hưởng xuất trình nhưng phải có xác nhận của một bên thứ
ba(một kiểm soát viên độc lập được chỉ định trước), lại thứ hai là một bảo
lãnh theo yêu cầu của Người thụ hưởng nhưng có điều kiện là trừ khi
Người được bảo lãnh xuất trình chứng từ của một bên thứ phát hành xác
nhận Người được bảo lãnh đã hoàn tất nghĩa vụ. Nghĩa là Người thụ hưởng
không trung thực và có hành vi lừa đảo, như vậy ngân hàng sẽ không thực
hiện thanh toán cho người thụ hưởng. Tuy nhiên, những chứng từ mà người
thụ hưởng phải chuẩn bị là những chứng từ được yêu cầu trong thư bảo
lãnh mà không cần những chứng từ chứng minh hay mô tả việc vi phạm
của Người được bảo lãnh. Khuyết điểm của bảo lãnh kèm chứng từ là sẽ
kéo dài thời gian thanh toán cho Người thụ hưởng ngay khi có hành vi vi
phạm của người được bảo lãnh do phải đợi bên thứ ba lập chứng từ xác
nhận nên người thụ hưởng không thể kiểm soát được.
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Bảo lãnh kèm theo phán quyết của toà án hoặc trọng tài
Đây là một hình thức của bảo lãnh chứng từ, theo đó Người thụ
hưởng phải xuất trình quyết định của trọng tài hay phán quyết của toà án
xác nhận sự vi phạm của người được bảo lãnh. Loại bảo lãnh này đã phá bỏ
một đặc tính quan trọng của bảo lãnh, đó là tính độc lập trong bảo lãnh, vì
sau khi Người thụ hưởng nhận thấy sự vi phạm của người được bảo lãnh,
người thụ hưởng sẽ phải đưa vụ việc ra toà hay trọng tài nhờ xét xử. Bảo
lãnh kèm theo phán quyết của toà án hay trọng tài được thực hiện để đảm
bảo tính hiện thực, công bằng của sự kiện. Tuy nhiên, nó không được sử

dụng rộng rãi, đặc biệt là trong thương mại quốc tế do thời gian chờ phán
xử và phán quyết của trọng tài rất dài, cũng như vấn đề lựa chọn trọng tài,
luật và toà án nước nào rất là khó, luôn đem lại nhiều tranh chấp.
1.3. Phát triển nghiệp vụ bảo lãnh của Ngân hàng thương mại
1.3.1. Điều kiện phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại ngân hàng thương
mại
Nghiệp vụ bảo lãnh trong những năm gần đây đã được các ngân
hàng thương mại (NHTM) Việt Nam thực hiện, nhưng nghiệp vụ này chưa
thực sự phát triển. Điều này thể hiện ở các loại hình bảo lãnh chưa đa dạng,
doanh số bảo lãnh chưa cao, chất lượng bảo lãnh còn thấp. Đối với Ngân
hàng Nhà nước, việc ban hành văn bản hướng dẫn, quản lý còn chưa đồng
bộ, hoạt động thanh tra còn bị động. Đối với các NHTM, sự yếu kém về
tiềm lực tài chính, trình độ quản lý và kinh doanh của nhiều cán bộ còn
nhiều hạn chế, sự an toàn và tính bền vững chưa cao (thể hiện qua các chỉ
số tài chính của ngân hàng)… dẫn đến sức cạnh tranh của các ngân hàng
còn kém, uy tín đối với khách hàng trong và ngoài nước chưa cao. Các
ngân hàng thương mại chưa thực sự đủ điều kiện để phát triển nghiệp vụ
bảo lãnh và đây là một trong những nguyên nhân cơ bản hạn chế sự phát
triển của nghiệp vụ mới này.
23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Để phát triển nghiệp vụ bảo lãnh các NHTM cần đảm bảo được các
điều kiện cơ bản sau:
Một là, đối với Ngân hàng Nhà nước
Văn bản của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn, quản lý của Ngân
hàng Nhà nước đối với nghiệp vụ bảo lãnh phải đồng bộ, phải tạo ra sự
bình đẳng đối với mọi thành phần kinh tế, thích ứng kịp thời yêu cầu của
kinh tế thị trường.
Trong thời gian qua các văn bản của Ngân hàng Nhà nước đã được
điều chỉnh để tạo điều kiện cho các NHTM trong thực hiện nghiệp vụ bảo

lãnh. Mới đây nhất là Quyết định số 26/2006/QĐ- NHNN của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành quy chế bảo lãnh ngân hàng. Tuy
nhiên, các văn bản không chỉ dừng lại ở việc hướng dẫn quy trình pháp luật
mà còn can thiệp chi tiết vào cả quy trình nghiệp vụ của NHTM, điều này
đã làm hạn chế tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các ngân hàng.
Công tác thanh tra và giám sát đối với nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng
phải kịp thời và có hiệu quả.
Hoạt động thanh tra của NHNN còn trùng lặp, thiếu tính độc lập.
Đặc biệt là thanh tra thường xuyên tại các chi nhánh NHTM đã làm giảm
trách nhiệm và hiệu lực của các cơ quan kiểm soát, kiểm toán nội bộ cũng
như hội đồng quản trị và ban điều hành của các NHTM.
Hai là, đối với các NHTM
- Đảm bảo năng lực tài chính đủ mạnh để thực hiện nghiệp vụ bảo
lãnh.
Vốn tự có là nhân tố tài chính quyết định sức mạnh của các ngân hàng,
là cơ sở để các NHTM mở rộng tín dụng.Các NHTM Việt Nam vốn tự có
thấp hơn nhiều so với vốn tự có của các ngân hàng trong cùng khu vực.
Nếu thực hiện theo quy định về bảo lãnh đối với một khách hàng không
vượt quá 15% vốn tự có thì các ngân hàng không đủ khả năng bảo lãnh cho
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
các dự án lớn, đặc biệt là dự án của ngành điện lực, hàng không, bưu điện
viễn thông…
- Các NHTM cần có quan hệ đại lý với nhiều nước trên thế giới để
thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh đối với khách hàng có nhu cầu giao dịch kinh
tế với các khách hàng nước ngoài.
- Các NHTM phải có chiến lược kinh doanh có hiệu quả và bền vững,
xây dựng quy trình bảo lãnh hợp lý, tạo sự bình đẳng, tạo sự cạnh tranh
lành mạnh để đáp ứng nhu cầu hợp lý cho khách hàng bảo lãnh .
- Trình độ lãnh đạo, cán bộ thực hiện nghiệp vụ phải đáp ứng được

nhu cầu đa dạng của khách hàng đó là giỏi về nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin
học, kiến thức thị trường…
- Các NHTM phải phát triển được công nghệ ngân hàng, nâng cao
năng lực giám sát và quản lý, nâng cao kỹ năng nghiệp vụ của ngân hàng
ngang tầm khu vực và thế giới.
1.3.2. Tiêu chí phản ánh sự phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh Ngân
hàng thương mại
a) Các tiêu chí định lượng:
 Sự đa dạng của các loại hình bảo lãnh:
Nghiệp vụ bảo lãnh được coi là phát triển khi nó được thực hiện
thường xuyên và đa dạng. Theo như phân loại ở trên, nghiệp vụ bảo lãnh
của ngân hàng có thể được chia thành rất nhiều loại. Mỗi loại bảo lãnh khác
nhau có mục đích sử dụng và có tác dụng riêng. Tuy nhiên, trong nhiều
trường hợp do khả năng hạn chế, nhiều ngân hàng chỉ tập trung một số loại
bảo lãnh mà có nhu cầu lớn và bỏ qua các loại bảo lãnh khác. Điều đó nói
lên rằng nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng đó chỉ trong giai đoạn khởi đầu,
chưa phát triển. Nếu một ngân hàng có thể thực hiện đa dạng hoá danh mục
bảo lãnh thực hiện, chứng tỏ ngân hàng đó có uy tín lớn và thực sự phát
triển về nghiệp vụ bảo lãnh. Vì vậy, đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh là
25

×