Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh NHNo&PTNT Diễn Châu.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.86 KB, 71 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của chuyên đề
Ở Việt Nam cũng như ở các nước trên toàn thế giới, các doanh nghiệp vừa
và nhỏ ( DNV&N) đang ngày càng khẳng định vai trò của mình đối với nền kinh tế
- xã hội. Theo thống kê, các DNV&N chiếm tới 96% tổng số doanh nghiệp trong
cả nước, đóng góp hơn 28% GDP và thu hút được một lực lượng lao động đáng kể,
tạo nhiều việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khai thác những tiềm
năng trong dân cư. Mặc dù vậy, các doanh nghiẹp này vẫn phải đối mặt với nhiều
khó khăn, vướng mắc cần giả quyết, mà trong đó một vấn đề nổi trội là nguồn vốn
để các DNV&N phát triển. Khi các doanh nghiệp này cần vốn, họ thường huy động
từ các nguồn như các cá nhân, doanh nghiệp khác, gia đình, bạn bè và một nguồn
rât quan trọng là từ các NHTM. Các NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc đáp
ứng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp. Nhưng bên cạnh đó, việc ngân hàng
cho các doanh nghiệp vay vốn ngày càng tăng cũng cần đòi hỏi nâng cao hiệu quả
của hoạt động cho vay để hoạt động kinh doanh của ngân hàng phát triển bền
vững.
Nhận thức được vai trò quan trọng của hoạt động cho vay ngân hàng đối với
các DNV&N cũng như qua khảo sát thực tế về tình hình cho vay tại chi nhánh
NHNo&PTNT Diễn Châu trong thời gian thực tập, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài cho
chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình là: “Nâng cao hiệu quả hoạt động cho
vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh NHNo&PTNT Diễn
Châu”.
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
2. Mục đích của chuyên đề
Đảm bảo hiệu quả hoạt động cho vay nói chung và hoạt động cho vay đối
với DNV&N nhỏ riêng là một yêu cầu mang tính chất tất yếu, khách quan của các
NHTM. Tuy nhiên, trong thời gian thực tập tại chi nhánh NHNo&PTNT Diễn
Châu, tôi nhận thấy bên cạnh những kết quả thu được thì hoạt động này vẫn còn
bộc lộ nhiều hạn chế. Vì vậy, qua nghiên cứu đề tài này, tôi muốn tìm hiểu về mặt


lý thuyết hiệu quả hoạt động cho vay đối với các DNV&N của các NHTM, đồng
thời làm rõ thực trạng của hoạt động này tại chi nhánh NHNo&PTNT Diễn Châu.
Từ đó, đề xuất một số giải pháp mà tôi cho là khả thi để hoàn thiện chuyên đề này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: hoạt động cho vay đối với DNV&N tại chi nhánh NHNo&PTNT
Diễn Châu.
Phạm vi: Từ năm 2004 đến năm 2006.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, thống kê, so sánh…
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động cho vay của
NHTM đối với DNV&N
1.1. Khái quát về DNV&N
1.1.1. Khái niệm về DNV&N
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều quan điểm cũng như tiêu thức khác
nhau để xác định DNV&N. Trong đó có 2 tiêu thức được sử dụng phổ biến nhất là:
Tổng số vốn SXKD và số lượng lao động của DN.
Đối với Việt Nam, văn bản pháp luật đầu tiên quy định thống nhất tiêu chí,
xác định DNV&N là công văn số 681/CP-KTN ban hành ngày 20/06/1998. Theo
đó, DNV&N tạm thời được quy định là những doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5
tỷ đồng và có số lao động trung bình hàng năm dưới 200 người.
Tiêu chí phân loại của công văn 681/CP-KTN được đưa ra với mục tiêu xây
dựng một bức tranh toàn cảnh về các DNV&N ở Việt Nam. Tuy nhiên, cùng với sự
phát triển chung của nền kinh tế của cả nước thì số lượng doanh nghiệp ngày một
tăng, có không ít số doanh nghiệp có số vốn vượt quá 5 tỷ đồng nhưng chưa đủ
mạnh để được xem là doanh nghiệp lớn. Vì vậy, sau một thời gian khảo sát và điều
tra các doanh nghiệp, căn cứ vào hoàn cảnh thực tế của Việt Nam, có tính tới đến
xu hướng phát triển của thời gian tới, kết hợp với nghiên cứu kinh nghiệm thực tế
các nước, ngày 23/11/2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định 90/NĐ-CP quy định

lại tiêu chí để xác định DNV&N, cụ thể là:
“ Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã
đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10
tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không vượt quá 300 người ”.
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Dựa vào tình hình thực tế về điều kiện kinh tế - xã hội của ngành, địa
phương trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể áp
dụng đồng thời cả 2 chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên.
1.1.2. Những đặc điểm chủ yếu của DNV&N:
a. DNV&N có quy mô hoạt động SXKD doanh nhỏ bé
Phần lớn các DNV&N đều có quy mô nhỏ bé. Thực chất thì đặc điểm này do
chính tiêu chí phân loại DNV&N của Nghị định 90/NĐ-CP quy định, đó là các
doanh nghiệp có vốn đăng ký kinh doanh không quá 10 tỷ đồng và lao động trung
bình hàng năm không quá 300 người. Như vậy thì chính quy mô về nguồn vốn và
lao động kéo theo khó khăn về mặt bằng sản xuất kinh doanh, trình độ công nghệ
và năng lực quản lý hạn chế, thiếu thông tin gây ra nhiều yếu kém trong sản xuất
mà trong đó thiếu vốn là đặc điểm nổi bật.
b. Quản lý, điều hành hoạt động SXKD của DNV&N thấp
Hầu hết các DNV&N được thành lập có nguồn vốn dựa vào nguồn vốn tích
lũy cá nhân cộng với tích lũy của gia đình. Do đó, những người điều hành doanh
nghiệp hầu hết có thế mạnh về vốn nhiều hơn là có thế mạnh về năng lực quản lý.
Còn các DNV&N của nhà nước thì lại có nhiều nhà quản lý yếu kém về trình độ
điều hành nên cũng chưa đáp ứng được nhu cầu quản lý doanh nghiệp trong môi
trường cạnh tranh gay gắt của cơ chế thị trường như hiện nay, gây khó khăn trong
việc đảm bảo cho doanh nghiệp đứng vững và phát triển bền vững.
Bên cạnh đó, số người của DNV&N có trình độ, được đào tạo còn ít. Khó
khăn của các doanh nghiệp này là không thu hút được nhiều các cán bộ kỹ thuật
cũng như các nhà quản lý giỏi, những công nhân có tay nghề cao. Từ đó, dẫn đến
năng suất lao động thấp, hiệu quả sử dụng vốn kém ảnh hưởng đến khả năng hoàn

trả vốn vay và bảo toàn vốn thấp. Chính điều này sẽ dẫn tới khả năng tiếp cận vốn
của các ngân hàng của các doanh nghiệp này bị hạn chế.
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
c. Sức cạnh tranh của DNV&N còn thấp
Do các DNV&N là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ, vốn đầu tư cho hoạt
động sản xuất kinh doanh còn ít làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh gặp nhiều
khó khăn, ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm như: chất lượng chưa cao, sức cạnh
tranh của hàng hóa dịch vụ còn yếu… do đó không mở rộng được thị trường, ngày
càng khó tiêu thụ hàng hóa. Chính điều này sẽ dẫn đến doanh thu thấp và lợi nhuận
cũng thấp, cản trở việc sản xuất kinh doanh, dễ có những hành vi gian lận thương
mại, kinh doanh trái với quy định của pháp luật.
d. Môi trường kinh doanh bên ngoài có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của
DNV&N
Chính những đặc trưng về quy mô nguồn vốn và lực lượng lao động đã phần
nào nói lên sự phụ thuộc của các DNV&N vào môi trường kinh doanh. Các tác
động từ bên ngoài tới doanh nghiệp cũng đã gây ra không ít khó khăn cho các
doanh nghiệp này. Trước hết, sự tác động quản lý của nhà nước về hoàn thiện Luật
doanh nghiệp, các chính sách thuế, chính sách tín dụng, thương mại, chính sách
khoa học công nghệ, lao động và việc làm… có nhiều bất cập. Tác động quản lý
của nhà nước đối với doanh nghiệp trong khâu tổ chức còn nhiều bức xúc. Sự thiếu
hụt và rối loạn thị trường như: thị trường vốn, thị trường thông tin, thị trường dịch
vụ và nạn hàng giả, hàng lậu tràn lan gây nhiều khó khăn cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của DNV&N.
1.1.3. Vai trò của DNV&N đối với nền kinh tế
a. Đóng góp to lớn vào thu nhập quốc dân, và đẩy mạnh tăng trưởng
kinh tế
Bằng việc khai thác và đưa vào sử dụng các nguồn lực kinh tế tiềm ẩn trong
dân cư ( từ nguồn lực vốn, lao động đến các nguồn lực trí tuệ hay bí quyết ngành
nghề truyền thống…), các DNV&N đã góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng

kinh tế. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và đầu tư, mỗi năm các DNV&N đã tạo ra
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
khoảng 28% GDP của cả nước, 32% giá trị sản lượng công nghiệp, 64% tổng khối
lượng luân chuyển hàng hóa. Bên cạnh đó, các DNV&N còn có vai trò quan trong
trong việc giữ gìn và bảo tồn các làng nghề truyền thống, phát huy các giá trị văn
hóa dân tộc trong tăng trưởng kinh tế, tạo nên một thế mạnh cho đất nước ta trong
quá trình hội nhập vào khu vực và thế giới.
b. Tạo việc làm và thu nhập cho người lao động
Có thể thấy rằng, vai trò to lớn nhất của các DNV&N là tạo việc làm cho một
số lượng lớn người lao động trong cả nước, giả quyết tình trạng thất nghiệp. Do có
sự phân bố rộng khắp và khá đa dạng trong ngành nghề kinh doanh, hơn nữa lại
không đòi hỏi trình độ quá cao, nên DNV&N đã và đang thu hút được rất nhiều lao
động ở cả thành thị và nông thôn. Đây cũng chính là cơ sở để góp phần quan trọng
nâng cao thu nhập cho người lao động, cải thiện đời sống, đồng thời hạn chế các tệ
nạn xã hội.
Ở Việt Nam, các doanh nghiệp này tiếp nhận khoảng 10 triệu người, chiếm 25-
27% lực lượng lao động cả nước. Ý nghĩa to lớn của các DNV&N trong vấn đề tạo
việc làm còn thể hiện ở triển vọng thu hút thêm lao động làm việc trong các
DNV&N trong tương lai do hiệu suất đầu tư cho một lao động làm việc tại đây
thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp lớn. Đồng thời đây cũng là điều kiện thuận
lợi nhất để tiếp nhận lực lượng lao động dư thừa từ nông thôn đang không ngừng
tăng thêm mỗi năm. Rõ ràng, giả quyết việc làm là một thế mạnh của các DNV&N,
và là nguyên nhân để chúng ta phải quan tâm đặc biệt tới lạo hình doanh nghiệp
này.
c. Thu hút được các nguồn vốn trong dân cư
Hiện nay tiềm lực tài chính trong dân cư còn khá lớn, tuy nhiên lại không tập
trung mà chỉ rải rác với tính chất nhỏ bé, dễ phân tán. Do đặc trưng quy mô nhỏ,
linh hoạt, phân tán ở mọi nơi nên các DNV&N sẽ có tác dụng rất lớn trong việc thu
hút các nguồn vốn này. Mặc dù mỗi nguồn vốn thường có quy mô nhỏ nhưng do

6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nguồn tiền nhàn rỗi được nhiều người nắm giữ nên nguồn vốn của các DNV&N
thu hút được cũng không phải là nhỏ. Chính vì vậy, DNV&N sẽ giúp nền kinh tế
sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính trong dân cư, hạn chế nguồn tiền nhàn rỗi
không sinh lợi cho nền kinh tế.
d. Góp phần tạo sự năng động, hiệu quả cho nền kinh tế trong cơ chế thị
trường, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH
Với ưu thế về tính linh hoạt và lượng vốn yêu cầu tương đối nhỏ, các DNV&N
có khả năng nhanh chóng thay đổi mặt hàng, chuyển hướng sản xuất, đổi mới công
nghệ… cho phù hợp với sự biến động của môi trường kinh doanh. Vì vậy, các
DNV&N làm cho nền kinh tế năng động hơn. Thực tế cho thấy, tốc độ gia tăng của
các DNV&N lớn hơn nhiều so với các doanh nghiệp lớn và sự gia tăng này đã làm
tăng tính cạnh tranh trên thị trường, thu hút được nhiều nguồn lực tiềm tàng trong
xã hội và trong các tầng lớp dân cư. Nói cách khác, các DNV&N đã giúp nền kinh
tế thị trường hoạt động hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó, sự phát triển của các DNV&N đã và đang tạo ra những chuyển biến
hết sức quan trọng về cơ cấu của nền kinh tế: từ nền kinh tế chủ yếu là sản xuất
nhỏ dựa trên nông nghiệp chuyển sang nền kinh tế sản xuất lớn mà chủ yếu là trên
lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ.
1.2. Hoạt động cho vay của NHTM đối với DNV&N
1.2.1. Các phương thức cho vay của NHTM đối với DNV&N
1.2.1.1. Phân loại theo thời gian
Cách phân chia này có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên
quan mật thiết đến mục đích sử dụng, tính an toàn và tính sinh lợi của ngân hàng
cũng như khả năng hoàn trả vốn vay của khách hàng. Thông thường phân loại cho
vay theo thời gian thành 3 loại:
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn từ 12 tháng trở xuống và

được sử dụng để bổ sung sự thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của doanh nghiệp.
Đối với hoạt động tín dụng thì cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao nhất, và đây
cũng là loại tín dụng có ít rủi ro cho ngân hàng vì trong thời gian ngắn ít có biến
động xảy ra và nếu có biến động xảy ra thì ngân hàng vẫn có thể dự tính được.
- Cho vay trung hạn: là hình thức cho vay có thời hạn từ 1 năm đến dưới 5
năm, chủ yếu là được sử dụng để mua sắm TSCĐ, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở
rộng sản xuất… Loại tín dụng này có mức độ rủi ro không cao vì ngân hàng có khả
năng dự đoán được những biến động có thể xảy ra.
- Cho vay dài hạn: là hình thức cho vay có thời hạn trên 5 năm, được sử
dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các cơ sở sản xuất mới…
Loại tín dụng này có mức độ ruuir ro lớn vì trong thời gian dài có nhiều biến động
xảy ra và khó lường trước được.
1.2.1.2. Phân loại theo cách thức cho vay
Nghiệp vụ cho vay có thể thực hiện theo các phương thức sau:
- Cho vay thấu chi: Ngân hàng cho phép khách hàng được chi trội trên số dư
tiền gửi thanh toán của mình đến một thời hạn nhất định trong một khoảng thời
gian nhất định.
- Cho vay trực tiếp từng lần: Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của
các NHTM đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, mỗi lần
khách hàng phải làm đơn trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Mỗi món
vay được tách biệt thành các hồ sơ ( khế ước nhận nợ) khác nhau.
- Cho vay hạn mức tín dụng: Ngân hàng cấp cho khách hàng một hạn mức
tín dụng cả kỳ hoặc cuối kỳ. Trường hợp hạn mức trong cả kỳ thì khách hàng có
thể vay trả nhiều lần nhưng dư nợ không vượt quá mức tín dụng. Đối với hạn mức
tín dụng cuối kỳ thì trong kỳ dư nợ tín dụng có thể lớn hơn hạn mức tín dụng
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhưng đến thời điểm cuối kỳ khách hàng bắt buộc phải trả hết nợ sao cho dư nợ
cuối kỳ không vượt quá hạn mức tín dụng.
- Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển hàng

hóa. DN khi mua hàng vê có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho vay để mua hàng
và sẽ thu nợ khi DN bán hàng. Đầu năm hoặc đầu quý, người vay phải lam đơn xin
vay luân chuyển. Ngân hàng và khách hàng thỏa thuận với nhau về phương thức
vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hóa và khả năng tiêu thụ.
1.1.2.3. Phân loại theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
( phân loại theo tài sản đảm bảo)
Tài sản đảm bảo các khoản cho vay cho phép ngân hàng có được nguồn thu
nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất ( từ quá trình sản
xuất kinh doanh) không hoàn trả hay không hoàn trả đủ. Theo cách phân chia này
thì cho vay được phân làm 2 loại:
- Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế
chấp, cầm cố, hoặc có sự bảo lãnh của người thứ 3. Ngân hàng nắm giữ tài sản của
người vay để xử lý, thu hồi nợ khi người vay không thực hiện các nghĩa vụ đã cam
kết trong hợp đồng tín dụng. Hình thức này áp dụng đối với những khách hàng
không có hoặc chưa có uy tín cao đối với ngân hàng. Mặc dù là có tài sản bảo đảm
hình thức cho vay này vẫn có độ rủi ro vì tài sản có thể bị mất giá hay người bảo
lãnh không thực hiện nghĩa vụ của mình.
- Cho vay không có bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản cầm cố, thế
chấp, hoặc không có sự bảo lãnh của người thứ 3. Việc cấp tín dụng chỉ dựa vào uy
tín của bản thân khách hàng. Muốn vậy, ngân hàng phải đánh giá hiệu quả sử dụng
tiền vay của khách hàng. Hình thức này áp dụng với những khách hàng có uy tín
lớn và có khả năng trả nợ cao. Do đó, mặc dù không có tài sản đảm bảo nhưng đay
là loại cho vay ít rủi ro cho ngân hàng.
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.1.2.4. Phân loại theo đồng tiền cho vay
- Cho vay bằng đồng bản tệ: là loại cho vay mà ngân hàng cấp tiền cho
khách hàng bằng đồng tiền của nước mình. Nước ta quy định cho vay để thanh
toán trong nước thì chỉ được bằng VND.
- Cho vay bằng ngoại tệ: là loại cho vay mà ngân hàng cấp tiền cho khách

hàng bằng đồng ngoại tệ. Nước ta quy định cho vay bằng ngoại tệ chỉ phục vụ cho
nhập khẩu.
1.2.1.5. Phân loại theo phương pháp hoàn trả
- Cho vay trả góp: là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi
theo định kỳ.
- Cho vay kỳ hạn: là loại cho vay được thanh toán 1 lần theo kỳ hạn đã thỏa
thuận.
- Cho vay hoàn trả theo yêu cầu: là loại cho vay mà người vay có thể hoàn trả
bất cứ khi nào có thu nhập.
1.2.2. Vai trò của vốn vay NHTM đối với DNV&N
Có thể nói, nguồn vốn ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng
nhất không chỉ đối với các DNV&N mà đối với mọi doanh nghiệp và toàn bộ nền
kinh tế. Các NHTM là một tổ chức tài chính trung gian với khả năng huy động vốn
từ nhiều nguồn nhỏ lẻ khác nhau thành một nguồn vốn tập trung, do đó các ngân
hàng luôn có đủ khả năng cung cấp các nguồn tài trở cho doanh nghiệp. Trong các
hình thức tài trở cho doanh nghiệp thì hoạt động cho vay ngân hàng với những ưu
điểm của mình vẫn là nguồn cung cấp vốn cho doanh nghiệp quan trọng nhất. Vấn
đề đặt ra không phải là khả năng cho vay của các NHTM mà chính là khả năng tiếp
cận nguồn vốn này của các DNV&N:
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Thứ nhất: Vốn vay NHTM là một kênh cung cấp vốn quan trọng đối với
DNV&N
Có thể thấy rằng, trong các nguồn huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của các DNV&N thì nguồn vốn ngân hàng đóng vai trò quan trọng nhất do
những ưu điểm của nó. Phần lớn DNV&N là thiếu vốn, trình độ sản xuất công
nghệ thường yếu kém… nên nhu cầu đối với nguồn vốn vay ngân hàng để đầu tư
sản xuất theo chiều sâu hay mở rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh càng
bức thiết. Muốn đầu tư vào chiều sâu doanh nghiệp dựa trên nguồn tích lũy nội bộ
thì thường cần một thời gian lâu dài, trong khi đây là những yêu cầu bức thiết đặt

ra cho mỗi doanh nghiệp trong môi trường kinh tế cạnh tranh mạnh mẽ như hiện
nay.
Bên cạnh đó, nhu cầu vay vốn để doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất
kinh doanh như: mua mới trang thiết bị, mở rộng nhà xưởng, tăng số lượng lao
động… là rất lớn so với khả năng tài chính của doanh nghiệp. Và nhu cầu này có
thể được thỏa mãn bằng cách sử dụng nguồn vốn vay ngân hàng.
- Thứ hai: Vốn vay NHTM làm tăng khả năng cạnh tranh và uy tín của các
DNV&N
Trong nền kinh tế thị trường, khả năng cạnh tranh mang tính chất sống còn
đối với mỗi doanh nghiệp. Đặc biệt với các DNV&N thì ngoài việc phải cạnh tranh
với các doanh nghiệp cùng mức thì nó còn phải chịu một áp lực cạnh tranh rất lớn
từ phía các công ty lớn, các tổng công ty hay các tập đoàn trong và ngoài nước. Vì
vậy, bài toán về khả năng cạnh tranh và đứng vững trên thị trường luôn là vấn đề
bức thiết đối với các DNV&N. Doanh nghiệp phải cạnh tranh cả về chất lượng sản
phẩm, giá cả hàng hóa, công nghệ… Tất cả đều nhằm mục tiêu tạo ưu thế về sản
phẩm dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp ra thị trường.
Bên cạnh đó, DNV&N tại Việt Nam còn phải đối mặt với sự cạnh tranh từ
một số lượng không nhỏ hàng nhập lậu, hàng giả, hàng nhái… Các mặt hàng nhập
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
lậu, hàng giả thường có giá cả thấp hơn khá nhiều so với hàng trong nước cũng
như hàng hóa nhập qua hải quan cho nên nó tạo ra một sự cạnh tranh gay gắt về
mặt giá cả đối với các doanh nghiệp. Chính những lý do này đòi hỏi các DNV&N
phải luôn khẳng định chỗ đứng của mình thông qua việc nâng cao chất lượng sản
phẩm, đổi mới công nghệ, giảm giá thành sản phẩm, quảng bá thương hiệu… Với
nguồn vốn vay từ ngân hàng, các doanh nghiệp có thể sử dụng một cách linh hoạt
để thực hiện các dự án đầu tư vào máy móc công nghệ, đào tạo nâng cao tay nghề
công nhân… để từ đó tăng năng suất lao động, hạ giá thành sẩn phẩm, tạo sức cạnh
tranh cho doanh nghiệp. Hàng hóa được thị trường, người tiêu dùng chấp nhận tạo
cho doanh nghiệp chỗ đứng và khẳng định uy tín của doanh nghiệp đó trên thị

trường.
Uy tín của doanh nghiệp cón thể hiện thông qua mối quan hệ với ngân hàng.
Các NHTM thường muốn có các khách hàng trung thành, và ngược lại các doanh
nghiệp cũng muốn là khách hàng lâu dài, thường xuyên của ngân hàng. Điều này
không những giúp doanh nghiệp được hưởng những chính sách ưu đãi khi vay vốn
cũng như sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng mà còn giúp nâng cao uy tín của
doanh nghiệp trong mắt của ngân hàng, các tổ chức tín dụng, các khách hàng làm
ăn của doanh nghiệp đó. Uy tín của doanh nghiệp sẽ bị giảm sút nếu như không
hoàn trả, hoàn trả không đầy đủ, trả chậm các khoản vay vốn. Có thể nói uy tín của
doanh nghiệp gắn liền với quan hệ này.
- Thứ ba: Vốn vay NHTM giúp doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn
Cho vay ngân hàng không chỉ đáp ứng cho nhu cầu về vốn trong hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà nó còn là điều kiện để các doanh nghiệp
tìm cho mình các biện pháp để sử dụng nguồn vốn một cách hiệu quả nhất. Một
nguyên tắc có tính chất cơ bản của việc cho vay ngân hàng đó là nguyên tắc hoàn
trẩ đầy đủ cả gốc và lãi vốn vay trong thời gian thỏa thuận. Xuất phát từ đặc điểm
này đòi hỏi các doanh nghiệp phải tính toán để làm ăn có lãi, đảm bảo tỷ suất lợi
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhuận phải lớn hơn lãi suất ngân hàng thì doanh nghiệp mới có khả năng trả nợ và
tích lũy nguồn vốn. Mỗi đồng vốn vay mà doanh nghiệp vay từ ngân hàng đều
chứa đựng những chí phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để sử dụng. Điều này buộc
doanh nghiệp phải sử dụng đồng vốn hiệu quả, tiết kiệm, quản lý chặt chẽ hơn nữa.
Bên cạnh đó, hoạt động cho vay của ngân hàng với quy trình kiểm tra trước,
trong và sau khi cho vay, giám sát chặt chẽ tiến độ mà mục đích sử dụng vốn vay
của doanh nghiệp. Ngân hàng chỉ cấp tín dụng cho những doanh nghiệp có phương
án làm ăn hiệu quả nên ngay từ khâu thẩm định, các doanh nghiệp phải chứng tỏ
phương án sử dụng nguồn vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Cũng
như vậy, trong quá trình sử dụng vốn vay, các doanh nghiệp luôn phải bảo đảm
nguồn vốn đúng mục đích và có hiệu quả, thể hiện một phần thông qua các báo cáo

tài chính doanh nghiệp. Tất cả điều đó sẽ giúp doanh nghiệp đi đúng hướng, quản
lý, sử dụng nguồn vốn chặt chẽ và làm ăn có hiệu quả hơn.
1.2.3. Hiệu quả hoạt động cho vay của NHTM đối với DNV&N
1.2.3.1. Quan điểm về hiệu quả cho vay của NHTM đối với DNV&N
Hiệu quả hoạt động cho vay các DNV&N của các NHTM gắn liền với hiệu
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đó. Đây có thể xem là
một quan điểm có tính chất định hướng cho toàn bộ hoạt động cho vay bởi vì mục
tiêu của hoạt động này là thu được đủ vốn cả gốc và lãi theo đúng thời hạn trong
hợp đồng tín dụng. Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả
là nền tảng đảm bảo cho nguồn trả nợ cho ngân hàng. Nếu doanh nghiệp làm ăn
thua lỗ thì sẽ không có khả năng tài chính để bảo đảm là sẽ trả nợ được cho ngân
hàng. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng là hoạt động tìm kiếm lợi nhuận, do đó
mục tiêu của các NHTM khi cho các DNV&N vay vốn là không những thu hồi vốn
gốc mà còn phải đảm bảo thu cả lãi để có nguồn lợi nhuận. Vì vậy, hiệu quả hoạt
động cho vay của ngân hàng phải gắn liền với hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Bên cạnh đó, hiệu quả của nó còn được thể hiện ở việc tạo ra sức hút trong
hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp này. Khi các doanh nghiệp hoàn
thành nghĩa vụ tín dụng đối với ngân hàng thì liệu họ có trở lại với ngân hàng đó
tiếp hay không. Điều đó thể hiện trong các chính sách thu hút như chính sách về lãi
suất, hạn mức tín dụng… cho các DNV&N. Khi đó, hiệu quả được đánh giá ở đây
là mức độ trung thành của các khách hàng cũ cũng như sức hút đối với các khách
hàng mới.
Như vậy, hiệu quả hoạt động cho vay đối với các DNV&N được các NHTM
định hướng trên hai góc độ là hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp và mức độ thu hút của hoạt động này đối với các doanh nghiệp.
1.2.3.2. Các chỉ tiêu đo lường hiệu quả cho vay đối với DNV&N
Hoạt động cho vay của ngân hàng là hoạt động chủ yếu tạo ra lợi nhuận cho

mỗi ngân hàng, tuy nhiên nó cũng là hoạt động chứa đựng rủi ro nhất. Do đó, để
đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng an toàn và phát triển bền vững
thì việc kiểm tra giám sát và đánh giá các hoạt động cho vay là cần thiết. Hiệu quả
cho vay có thể được đánh giá thông qua các chỉ tiêu sau:
a. Doanh số cho vay
Đây là chỉ tiêu phản ánh quy mô cấp tín dụng của ngân hàng đối với nền
kinh tế, là chỉ tiêu phản ánh chính xác tuyệt đối về hoạt động cho vay trong một
thời gian dài, cho thấy được khả năng hoạt động cho vay qua các thời kỳ. Do đó,
nếu kết hợp doanh số cho vay của các thời kỳ liên tiếp thì có thể thấy được xu
hướng hoạt động tín dụng của NHTM.
b. Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này cũng tương tự như chỉ tiêu doanh số cho vay, tuy nhiên nó là chỉ
tiêu phản ánh khối lượng tiền cấp cho nền kinh tế tại một thời điểm nhất định.
Tổng dư nợ bao gồm: cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Tổng dư nợ thấp
chứng tỏ ngân hàng không có khả năng mở rộng được mạng lưới khách hàng, hoạt
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
động tín dụng yếu kém, khả năng tiếp thị khách hàng kém, không sử dụng được
nguồn lực sẵn có… Tuy nhiên, điều đó cũng không có nghĩa là tỷ lệ này càng cao
thì chất lượng hoạt động cho vay càng tốt bởi vì ngân hàng cho vay vượt mức giới
hạn cũng là lúc ngân hàng bắt đầu chấp nhận những rủi ro về cho vay.
Thực tế, chỉ tiêu tổng dư nợ phản ánh quy mô cho vay của ngân hàng, đồng
thời đây cũng là chỉ tiêu phản ánh uy tín của ngân hàng. Khi so sánh tổng dư nợ
của ngân hàng với thị phần tín dụng của ngân hàng sẽ cho ta biết được dư nợ của
ngân hàng là cao hay thấp.
c. Thu nhập từ hoạt động cho vay
Đối với chỉ tiêu này, ngân hàng thường xem xét thông qua công thức:
Tỷ trọng thu nhập Thu nhập từ hoạt động tín dụng

hoạt động tín dụng Tổng thu nhập

Hoạt động cho vay tuy chứa đựng nhiều rủi ro nhưng là hoạt động mang lại
thu nhập chính cho ngân hàng. Do vậy, hiệu quả hoạt động cho vay chỉ thực sự có
ý nghĩa khi nó góp phần nâng cao khả năng sinh lời của ngân hàng. Thu nhập từ
hoạt động cho vay là chỉ tiêu cần thiết để đo lường khả năng sinh lời của ngân
hàng do hoạt động cho vay mang lại. Chính vì thế, ngoài việc giảm tỷ lệ nợ quá
hạn thì ngân hàng còn phải tăng được thu nhập từ hoạt động cho vay.
d. Hiệu suất sử dụng vốn
Chỉ tiêu này phản ánh tỷ lệ vốn cho vay trong tổng nguồn vốn huy động, nó
xem xét, đánh giá tỷ trọng cho vay đã phù hợp với khả năng đáp ứng về vốn của
bản thân ngân hàng cũng như của nền kinh tế hay chưa.
Chỉ tiêu này được biểu thị bằng công thức:

15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Hiệu suất Tổng dư nợ
sử dụng vốn ═
Tổng vốn huy động
Tỷ lệ này trên thực tế giao động từ 30% đến 100%. Thông thương vào
khoảng trên dưới 80% là tốt, còn nếu dưới hoặc trên mức đó, thậm chí xấp xỉ
100% cũng có thể gây ảnh hưởng không tốt cho ngân hàng. Lúc đó tính thanh
khoản của ngân hàng sẽ bị đe dọa do khối lượng dự trữ không được đảm bảo. Tuy
vậy, để xác định một tỷ lệ như thế nào là phù hợp còn phụ thuộc vào kết cấu của
nguồn vốn huy động, lĩnh vực ngân hàng tập trung tài trợ và nhiều nhân tố khác.
e. Thời hạn hoàn vốn và vòng quay vốn vay
- Thời hạn hoàn vốn: là khoảng thời gian được tính từ lúc cho vay đến khi
ngân hàng thu hết nợ. Việc xác định chính xác thời hạn cho vay có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc đảm bảo các nguyên tắc cho vay. Nếu thời hạn hoàn vốn lớn hơn
tốc độ luân chuyển vốn thì nười sử dụng vốn vay sẽ sử dụng vốn vay để thực hiện
mục đích khác, gây khó khăn trong việc thu nợ của ngân hàng, đồng thời nó cũng
chứa đựng nhiều rủi ro tiềm tàng cho ngân hàng. Ngược lại, nếu thời hạn cho vay

ngắn thì sẽ tạo áp lực về thời gian đối với khách hàng dẫn đến khách hàng khó trả
nợ cho ngân hàng đúng thời hạn. Do đó, ngân hàng phải xác đinh chính xác thời
gian cho vay hợp lý, tọa điều kiện thuận lợi cho khách hàng và chính ban thân
ngân hàng.
- Vòng quay vốn vay: Đây là chỉ tiêu thường được các NHTM tính toán hàng
năm để đánh giá khả năng tổ chức, quản lý vốn vay và hiệu quả cho vay trong việc
đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Vòng quay vốn Doanh số thu nợ trong kỳ

tín dụng Dư nợ bình quân
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Hệ số này phản ánh số vồn chu chuyển của vốn vay, phản ánh tốc độ luân
chuyển vốn nhanh hay chậm. Vòng quay của vốn càng cao chứng tỏ nguồn vay
ngân hàng luân chuyển càng nhanh, tham gia càng nhiều vào chu kỳ sản xuất và
lưu thông hàng hóa. Đồng thời, hệ số này càng tăng phản ánh tình hnh quản lý vốn
vay càng tốt, hiệu quả cho vay càng cao. Chỉ số này cao trước hết thể hiện khả
năng thu nợ tốt và hiệu quả cho vay của ngân hàng. Một đồng vốn khi cho vay
được nhiều lần sẽ đem lại nhiều lợi nhuận hơn. Tuy nhiên, cần xét đến yếu tố quan
trọng là dư nợ bình quân. Khi dư nợ bình quân thấp sẽ làm cho vòng quay lớn
nhưng lại không phản ánh chất lượng của khoản vay đó là cao bởi thực tế nó thể
hiện khả năng cho vay kém của ngân hàng. Đồng thời, nếu tốc độ vòng quay quá
nhanh cũng thể hiện cơ cấu cho vay chưa hợp lý.
f. Tỷ lệ nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ Nợ quá hạn

quá hạn Tổng dư nợ
- Đây là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của NHTM ở một
thòi điểm nhất định, thương là cuối tháng, cuối quý hoặc cuối năm. Tỷ lệ nợ quá

hạn phát sinh khi khách hàng không hoàn trả khoản vay đúng thời hạn ghi trên hợp
đồng tín dụng.
- Tỷ lệ nợ quá hạn là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả của hoạt động
cho vay của một NHTM. Tỷ lệ nợ quá hạn thấp biểu hiện hoạt động cho vay tại
ngân hàng có độ an toàn cao tức là mức độ rủi ro thấp. Tuy vậy, trên thực tế để
đánh giá chính xác hơn hiệu quả của hoạt động cho vay của một ngân hàng thì
người ta chia tỷ lệ nợ quá hạn thành hai loại, đó là:
- Tỷ lệ nợ quá hạn có khả năng thu hồi
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Tỷ lệ nợ quá hạn không có khả năng thu hồi
Ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn cao nhưng trong đó có bao phần trăm là nợ có
khả năng thu hồi và bao nhiêu phần trăm là nợ không có khả năng thu hồi, khi đó
ta mới có thể đánh giá chính xác được hiệu quả của hoạt động cho vay của ngân
hàng.
1.2.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay đối với DNV&N
a. Các nhân tố thuộc về phía NHTM
- Thứ nhất : Chiến lược kinh doanh của NHTM
Trong nền kinh tế thị trường, các DNV&N cũng như các NHTM muốn tồn
tại và kinh doanh có lãi phải xây dựng được cho mình một chiến lược kinh doanh
hiệu quả. Một chiến lược kinh doanh có hiệu quả sẽ giúp ngân hàng có một
phương hướng phát triển nhất quán, khai thác tốt nhất năng lực hiện có của đơn vị
và đồng thời cũng giúp cho ngân hàng có thể thích ứng một cách nhanh chóng
những biến đổi trong môi trường kinh doanh của mình. Chính vì vậy, công tác lập
chiến lược kinh doanh hiện được các ngân hàng hết sức coi trọng và nó ảnh hưởng
lớn tới hiệu quả của hoạt động cho vay.
- Thứ hai: Chính sách tín dụng của Ngân hàng
Một ngân hàng trong từng thời kỳ sẽ có những chính sách tín dụng riêng của
mình để nhằm đạt các mục tiêu đề ra. Chính sách tín dụng này sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến quy mô, tính chất của các khoản tín dụng cũng như phương thức hoạt

động tín dụng của ngân hàng.Chính sách này bao gồm các quy định của ngân hàng
như: quy định mức giới hạn cho vay đối với một khách hàng, kỳ hạn của khoản
vay, lãi suất cho vay và mức lệ phí, các hình thức cho vay, hướng dẫn giải quyết
các khoản nợ có vấn đề… Có thể nói chính sách tín dụng là “ người dẫn đường”
cho các cán bộ tín dụng thực hiện cho vay theo đúng yêu cầu và chiến lược của
ngân hàng. Như vậy, việc đưa ra một chính sách tín dụng hợp lý, mang tính linh
hoạt cao để hoạt động của ngân hàng đạt hiệu quả hơn.
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Thứ ba: Chất lượng của công tác thẩm định dự án
Thẩm định dự án giúp ngân hàng xem xét một cách toàn diện các mặt của dự
án để xác định tính khả thi của dự án, trên cơ sở đó sẽ ra quyết định khách hàng
này có đủ điều kiện để cấp vốn cho vay hay không. Cũng thong qua công tác thẩm
định, ngân hàng với những kinh nghiệm vốn có của mình có thể tư vấn, giúp đỡ
các chủ đầu tư sửa chữa những điểm không hợp lý trong dự án để dự án có tính khả
thi hơn và đồng thời cũng giúp cho ngân hàng có thể mở rộng hoạt động tín dụng
của mình.
Thẩm định là công việc đòi hỏi nhiều thời gian và kỹ thuật tính toán phức
tạp. Do đó công việc này là cơ sở quyết định có cấp vốn cho vay hay không nên
chất lượng của công tác này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của hoạt động cho
vay. Nếu chất lượng của công tác thẩm định không cao, tức là cán bộ tín dụng
không xác định thực chất dự án có hiệu quả hay không thì những khoản tín dụng
mà ngân hàng đã cấp sẽ gặp những rắc rối trong việc thu hồi các món nợ của mình.
Chính vì vậy, công tác thẩm định đòi hỏi các cán bộ thẩm định có trình độ cao và
sự kết hợp một cách có hiệu quả giữa các phòng ban trong ngân hàng.
- Thứ tư: Trình độ của đội ngũ cán bộ ngân hàng
Yếu tố mang ý nghĩa quyết định đến việc nâng cao hay suy giảm hiệu quả
hoạt động cho vay lại chính là nguồn nhân lực của ngân hàng vì suy cho đến cùng
các quyết định cung cấp tín dụng của ngân hàng là những quyết định mang tính
chất chủ quan. Một ngân hàng với đội ngũ lãnh đạo tốt sẽ đưa ra những chính sách

họp lý và phương hướng phát triển phù hợp với khuynh hướng phát triển của nền
kinh tế. Một đội ngũ cán bộ tín dụng giỏi sẽ giúp cho ngân hàng có được các khoản
cho vay với chất lượng cao. Các cán bộ của các phòng ban, các bộ phận chức năng
khác sẽ giúp cho ngân hàng mở rộng các hoạt động kinh doanh của mình, tạo dấu
ấn của ngân hàng trên thị trường.
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Thứ năm: Thông tin tín dụng
Đây là một yếu tố không thể thiếu trong công tác quản lý nói cung và trong
hoạt động cho vay nói riêng. Thông tin tín dụng là yếu tố cơ bản trong quản lý tín
dụng của ngân hàng. Trên cơ sở những thông tin đã thu thập được, người quản lý
có thể đưa ra những quyết định đúng đắn về việc cấp vốn cho vay hoặc biện pháp
cần thiết liên quan đến việc theo dõi, quản lý thu hồi nợ. Nguồn cung cấp thông tin
có thể từ nhiều nguồn khác nhau, từ bên trong và bên ngoài hệ thống. Nhưng muốn
có thông tin nhanh, chính xác và toàn diện thì phải có bộ phận tổng hợp và xử lý
thông tin, loại trừ những thông tin nhiễu. Chất lượng của thông tin ảnh hưởng trực
tiếp đến khoản cho vay nên chất lượng thông tin càng cao thì khả năng phòng ngừa
rủi ro trong hoạt động kinh doanh càng cao.
Trong nhiều trường hợp, do điều tra không tốt nên thông tin sai lệch hoặ
không đầy đủ đã đi các quyết định cho vay sai lầm, ảnh hưởng đến hiệu quả cho
vay. Ở nước ta hiện nay chưa có các hãng kinh doanh thông tin tín dụng. Trung
tâm thông tin của ngân hàng nhà nước hoạt động không mấy hiệu quả nên việc hỗ
trở cho các NHTM còn kém. Hiện tượng một khách hàng đi vay nhiều ngân hàng
với nhiều dự án khác nhau là khá phổ biến, nhưng các ngân hàng do không có
thông tin đầy đủ nên sau khi sự việc vỡ lở hay khách hàng mất khả năng thanh toán
mới nhận ra.
- Thứ sáu: Mở rộng tín dụng vượt khả năng kiểm soát của ngân hàng
Hoạt động của NHTM với mục đích lợi nhuận, nhưng lợi nhuận lại đồng
nghĩa với rủi ro. Có ngân hàng khi đi tìm lợi nhuận đã bất chấp những khoản vay
không lành mạnh, thiếu sự an toàn. Trong điều hành, nhiều ngân hàng đã thực hiện

cơ chế khoán doanh thu, đây là vấn đề chứa đựng nhiều yếu tố mất an toàn, một
động lực là đảy cán bộ ngân hàng vào tình thế “ bằng mọi giá để cho vay”.
Bên cạnh đó, việc mở rộng tín dụng một cách thái quá, thiếu cơ sở khoa học
và thực tiễn đã dẫn đến tình trạng dư nợ cao, vượt quá khả năng quản lý của cán bộ
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ngân hàng. Việc kiểm tra, theo dõi sự vận động của vốn vay không thường xuyên,
không nắm bắt được tình hình hoạt động của doanh nghiệp cũng làm ảnh hưởng
đến hiệu quả hoạt động cho vay.
b. Các nhân tố từ phía khách hàng
- Thứ nhất: Vốn tự có
Đây là nhân tố quan trọng nhằm bù đắp những rủi ro trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của DNV&N. Một DNV&N có vốn tự có quá bé sẽ ít có khả năng
chống chọi với những biến động lớn của thị trường. Vốn đi vay chỉ là để bổ sung,
hỗ trở cho vốn tự có để doanh nghiệp không bị bế tăc vì thiếu vốn. Nếu vốn đi vay
nhiều, tiền lãi vay lớn, chi phí cao là một nguyên nhân dẫn đến kinh doanh thua lỗ,
không có khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng.
- Thứ hai: Năng lực sản xuất của DN
Năng lực sản xuất của DNV&N biểu hiện giá trị công cụ lao động, chủ yếu
là tài sản cố định, biểu hiện cụ thể là quá trình sản xuất sản phẩm, công nghệ sản
xuất… Cơ cấu và việc làm chủ giá thành sản phẩm. Tiêu thụ sản phẩm tốt nhưng
giá thành lớn hơn giá bán là không tốt. Việc nghiên cứu giá thành và năng lực sản
xuất cho thấy tính cấp thiết và quy mô của đầu tư mới.
- Thứ 3: Năng lực tài chính của DN
Năng lực tài chính của các DNV&N thể hiện ở khối lượng vốn tự có và tỷ
trọng vốn tự có trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp đang sử dụng. Điều kiện
tín dụng quy định một tỷ lệ cụ thể tối thiểu của vốn tự có trong tổng nguồn vốn
hoạt động hay tỷ lệ vốn tự có tương ứng với khối lượng vốn vay, tỷ lệ vốn tự có
tham gia vào dự án vay vốn. Năng lực tài chính của doanh nghiệp còn thể hiện ở
khả năng thanh toán của doanh nghiệp, tính lỏng của tài sản. Năng lực tài chính

của doanh nghiệp càng cao, khả năng đáp ứng các điều kiện tín dụng càng lớn thì
càng góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay của ngân hàng.
21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Thứ tư: Năng lực thị trường của DN
Năng lực thị trường của doanh nghiệp biểu hiện ở khối lượng sản phẩm tiêu
thụ, chất lượng sản phẩm có đáp ứng được yêu cầu của thị trường hay không; vị trí
của doanh nghiệp trên thị trường ra sao hệ thống mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp, mối quan hệ với các bạn hàng, đối tác. Năng lực thị trường còn
được lượng hóa qua tiêu thức cơ bản là sự gia tăng của doanh số tiêu thụ sản phẩm.
Năng lực thị trường càng cao, nhu cầu đầu tư càng lớn, rủi ro thị trường của doanh
nghiệp càng nhỏ là một nhân tố đảm bảo cho doanh nghiệp đó có khả năng hoàn
trả nợ cho ngân hàng.
- Thứ năm: Năng lực quản lý của DN.
Năng lực quản lý thể hiện ở tổ chức hệ thống hạch toán kế toán và quản lý tài
chính phù hợp với các quy định của pháp luật. Hệ thống tài chính kế toán thống kê
giúp cho doanh nghiệp và ngân hàng thông qua việc cung cấp các thông tin về hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
c. Các nhân tố từ môi trường bên ngoài
- Thứ nhất: Nhân tố kinh tế - xã hội:
Hoạt động của các NHTM chịu ảnh hưởng rất lớn từ môi trường kinh tế- xã
hội. Một ngân hàng dù có cố gắng đến mấy trong hoạt động kinh doanh của mình
nhưng nếu môi trường kinh tế- xã hội không ổn định thì cũng khó mà thành công.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu môi trường kinh doanh là hoạt động thường xuyên
của mỗi NHTM. Bất kỳ một sự biến động nào của nền kinh tế cũng gây ảnh hưởng
hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế. Lĩnh vực ngân hàng cũng vậy, là chủ
thể trung gian trong nền kinh tế hoạt động ngân hàng chịu ảnh hưởng trực tiếp khi
nền kinh tế có biến động đặc biệt là hoạt động tín dụng. Một nền kinh tế ổn định,
lạm phát ở mức vừa phải sẽ tạo điều kiện cho các khoản tín dụng có chất lượng cao
và ngược lại. Ngoài ra, chu kỳ phát triển kinh tế cũng có tác động không nhỏ, trong

22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thời kỳ suy thoái, lạm phát kéo dài khi đó hoạt động tín dụng sẽ gặp nhiều khó
khăn do nhu cầu vay giảm. Ngược lại, trong thời kỳ hưng thịnh, nhu cầu vốn vay
tăng, rủi ro tín dụng giảm.
Hơn nữa, bên cạnh môi trường kinh tế là môi trường xã hội, do quan hệ tín
dụng được thực hiện trên cơ sở lòng tin – đó là lòng tin được thiết lập giữa ngân
hàng và khách hàng. Một môi trường xã hội ổn định và phát triển với những khách
hàng có phẩm chất đạo đức, có trình độ dân trí cao, có hiểu biết về các hoạt động
của ngân hàng, những khách hàng đó sẽ thực hiện hoạt động kinh doanh có hiệu
quả, do vậy sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay của ngân hàng.
Như vậy, một môi trường chính trị - xã hội ổn định và phát triến sẽ tạo điều
kiện thúc đẩy các hoạt động kinh doanh có hiệu quả, kinh tế đất nước sẽ phát triển
và do vậy chất lượng tín dụng của ngân hàng cũng được đảm bảo và nâng cao.
- Thứ hai: Môi trường pháp lý:
Các Ngân hàng hoạt động không chỉ chịu sự giám sát của pháp luật mà còn
chịu sự giám sát, điều hành của luật ngân hàng và luật các tổ chức tín dụng. Do đó,
nếu hệ thống pháp luật không đồng bộ sẽ làm cho hoạt động kinh doanh gặp phải
nhiều khó khăn, gây bất lợi cho ngân hàng. Ngược lại, nếu pháp luật tạo môi
trường pháp lý cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành thuận lợi và đạt
hiệu quả cao là cơ sở pháp lý để giải quyết các vấn đè khiếu nại khi có tranh chấp
xẩy ra. Bởi thế, chỉ trong điều kiện các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng tuân thủ
pháp luật một cách nghiêm ngặt và đồng thời có một môi trường pháp lý đồng bộ
thì quan hệ tín dụng mới đem lại lợi ích cho cả hai và khi đó hiệu quả của họat
động cho vay mới được đảm bảo.
- Thứ ba: Môi trường tự nhiên :
Đây là nhân tố ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh. Những biến
động bất khả kháng xẩy ra trong môi trương tự nhiên như thiên tai, động đất, hạn
hán, lũ lụt, hỏa hoạn… đều làm ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của
23

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
khách hàng, đặc biệt là các khách hàng trong các ngành nông, lâm, nghư nghiệp –
là những ngành có hoạt động sản xuất kinh doanh chụi ảnh hưởng rất lớn từ môi
trường khí hậu tự nhiên. Vì vậy, khi môi trường tự nhiên không thuận lợi, thì các
cá nhân, tổ chức và các doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh
và lưu thông hàng hóa, tức là nó gián tiếp tác động tới hoạt động kinh doanh của
ngân hàng. Do đó có thể làm giảm hiệu quả hoạt động cho vay của các NHTM.
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay đối với
DNV&N tại chi nhánh NHNo&PTNT Diễn Châu
2.1. Giới thiệu về chi nhánh NHNo&PTNT Diễn Châu
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của chi nhánh NHNo&PTNT
Diễn Châu
Ngày 26 tháng 3 năm 1988, Hội đồng bộ trưởng ban hành nghị định số
53/HĐBT về việc tổ chức lại bộ máy Ngân hàng nhà nước Việt Nam, theo đó, mô
hình tổ chức hệ thống ngân hàng Việt Nam được phân thành 2 cấp: Ngân hàng Nhà
nước thực hiện chức năng quản lý Nhà nước các hoạt động tiền tệ, tín dụng, ngân
hàng, và các ngân hàng kinh doanh thực hiện chức năng kinh doanh trên lĩnh vực
tiền tệ, tín dụng, ngân hàng. Theo nghị định 53/HĐBT, Ngân hàng phát triển nông
nghiệp được hình thành trên cơ sở tiếp nhận số cán bộ nòng cốt từ vụ tín dụng
nông nghiệp NHNN, các chi nhánh ngân hàng nhà nước cấp huyện, phòng tín dụng
nông nghiệp các chi nhánh Ngân hàng nhà nước tỉnh, thành phố. Sau nghị định
53/HĐBT ngân hàng nhà nước huyện Diễn Châu được bàn giao về ngân hàng phát
triển nông nghiệp .
Theo quyết định số 403/ NH- QĐ ngày 24/9/1988, Ngân hàng phát triển nông
nghiệp Nghệ Tĩnh đã chính thức hoạt động kể từ ngày 01/10/1988 có trụ sở chính ở
Thành phố Vinh và 25 chi nhánh trực thuộc trong đó có chi nhánh NHNNo &
PTNT huyện Diễn Châu. Ngày 10/9/1991 theo quyết định số 168/NH–QĐ tách
Ngân hàng nông nghiệp Nghệ Tĩnh thành hai chi nhánh: Ngân hàng nông nghiệp

Nghệ An và Ngân hàng nông nghiệp Nghệ Tĩnh. Sau khi tách, Ngân hàng nông
nghiệp Nghệ An còn 17 đơn vị chi nhánh trực thuộc và các chi nhánh được sắp xếp
lại mô hình theo quyết định số 02/NHQĐ, ngày 08/01/1991 của Tổng giám đốc
25

×