Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Phân tích chiến lược Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (553.58 KB, 45 trang )

BÀI THẢO LUẬN
Môn: Quản trị chiến lược
Đề tài: Phân tích chiến lược Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB)
I.Lý luận chung về đề tài
1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại và các chức năng của ngân hàng thương
mại.
1.1.1Khái niệm ngân hàng thương mại
-Ngân hàng thương mại là một định chế tài chính trung gian tiêu biểu ,đóng một
vai trò quan trọng trong việc khai thông các nguồn vốn tiết kiệm đáp ứng nhu cầu
đầu tư của các chủ thể nền kinh tế ,đồng thời nó cũng giữ vai trò quan trọng trong
việc đảm bảo cho nền kinh tế vận hành nhịp nhàng hữu hiệu.
-Ở Việt Nam ,theo điều 20 khoản 2 và 7 Luật các tổ chức tín dụng ( 12 /12 /
1997 ):Ngân hàng thương mại là một tổ chức tín dụng thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan .Hoạt động ngân hàng là
hoạt động kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ ngân hàng với nội dung chính chủ yếu
và thường xuyên là nhận gửi tiền ,sử dụng số tiền này để cấp tín dụng ,cung cấp các
dịch vụ thanh toán .
1.1.2 .Chức năng của ngân hàng thương mại
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường ,ngân hàng thương mại thực hiện các
chức năng cơ bản sau :
a. Chức năng trung gian tín dụng :
Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa những người có vốn dư thừa và những
người có nhu cầu về vốn .Thông qua việc huy động khai thác các khoản vốn tiền tệ
tạm thời nhàn dỗi trong nền kinh tế ,ngân hàng hình thành nên quỹ cho vay cấp tín
dụng cho nền kinh tế .Với chức năng này ,ngân hàng vừa đóng vai trò là chủ thể đi
vay vừa đóng vai trò là chủ thể cho vay .
b. Chức năng trung gian thanh toán
Ngân hàng thương mại làm trung gian thanh toán khi nó thực hiện thanh toán theo
yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản của họ để thanh toán tiền hàng
hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và
các khoản thu khác theo lệnh của họ


Ngân hàng thực hiện chức năng trung gian thanh toán làm cho nó trở thành thủ quỹ
cho khách hàng .
c. Chức năng tạo tiền
Việc kết hợp chức năng trung gian tín dụng và chức năng trung gian thanh toán tạo
cho ngân hàng thương mại khả năng tạo ra tiền tín dụng (hay tiền ghi sổ)thể hiện
trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng thương mại .Từ
một lượng tiền gửi ban đầu ,qua nghiệp vụ cho vay dưới hình thức chuyển khoản
,dã làm cho số dư trên tài khoản tiền gửi trong hệ thống ngân hàng thương mại tăng
lên .
=> Như vậy ,các chức năng của ngân hàng thương mại có mối quan hệ mật
thiết với nhau ,bổ sung ,hỗ trợ cho nhau ,trong đó chức năng trung gian tín dụng là
chức năng cơ bản ,tạo cơ sở cho việc thực hiện các chức năng sau .Đồng thời ,việc
ngân hàng thực hiện tốt chức năng trung gian thanh toán lại góp phần làm tăng
nguồn vốn tín dụng mở rộng quy mô hoạt đông của ngân hàng
1.2. Khái niệm chiến lược và quản trị chiến lược .
1.2.1 Khái niệm chiến lược :
Có nhiều định nghĩa về chiến lược là gì , mỗi định nghĩa có ít nhiều điểm khác
nhau tùy thuộc vào quan điểm của mỗi tác giả .Theo Jonhson và Scholes định nghĩa
chiến lược trong điều kiện môi trường có rất nhiều những thay đổi nhanh chóng :
Chiến lược là định hướng và phạm vi của một tổ chức về dài hạn nhằm giành lợi
thế cạnh tranh cho tổ chức thông qua việc định dạng các nguồn lực của nó trong
môi trường thay đổi , để đáp ứng nhu cầu thị trường và thỏa mãn mong đợi của các
bên liên quan .
1.2.2 Khái niệm quản trị chiến lược :
Quản trị chiến lược là nhiệm vụ hàng đầu của bất kỳ quản trị viên cấp cao nào đôi
khi được giao phó không chỉ cho một cá nhân mà cho cả một tập thể lãnh đạo trong
tổ chức , doanh nghiệp . Thuật ngữ này tuy thường xuyên được sử dụng và bàn luận
nhưng không phải nhà quản trị nào cũng hiểu về nó một cách đúng đắn , dẫn đến
khi thực hiện thường mắc những sai lầm có khi phải trả giá bằng cả sự sống còn
của tổ chức , doanh nghiệp.

Quản trị chiến lược được định nghĩa là một tập hợp các quyết định và hành động
được thể hiện thông qua kết quả của việc hoạch định , thực thi và đánh giá các
chiến lược , được thiết kế nhằm đạt được các mục tiêu dài hạn của tổ chức
1.3 Vai trò của quản trị chiến lược :
-Thiết lập chiến lược hiệu quả hơn thông qua việc sử dụng phương pháp tiếp cận
hệ thống hơn, logic hơn đến sự lựa chọn chiến lược .
Quá trình quản trị chiến lược như là một hướng đi, một hướng đi giúp các tổ chức
này vượt qua sóng gió thương trường vươn tới một tương lai bằng chính sức lực và
khả năng của nó . Đây là kết quả của sự nghiên cứu khoa học trên cơ sở thực tiễn
kinh doanh của rất nhiều công ty . Nó thực sự là sản phẩm của khoa học quản lý
bởi lẽ nếu các tổ chức xây dựng được một quá trình quản trị tốt , họ sẽ có một chỗ
dựa tốt để tiến lên phía trước . Tuy vậy mức độ thành công còn phụ thuộc vào nỗ
lực triển khai
-Đạt tới mục tiêu của tổ chức bằng và thông qua con người :
Quá trình quản trị chiến lược tạo cho mỗi người những nhận thức hết sức quan
trọng . Mục tiêu chủ yếu của quá trình này chính là đạt được sự thấu hiểu và cam
kết thực hiện cả trong ban giám đốc cũng như trong đội ngũ người lao động . Vì lẽ
đó , lợi ích quan trọng nhất mà quản trị chiến lược đem lại chính là sự hiếu thấu đáo
và kế đó là sự cam kết thực hiện . Một khi mọi người trong doanh nghiệp hiểu rằng
doanh nghiệp đó đang làm gì và tại sao lại như vậy họ sẽ cảm thấy họ là một phần
của doanh nghiệp . Họ sẽ tự cam kết ủng hộ nó . Người lao động và ban giám đốc
sẽ trở nên năng động lạ thường và họ hiểu , ủng hộ những việc , sứ mệnh , những
mục tiêu , chiến lược của doanh nghiệp giúp cho mọi người tăng thêm sức lực và
nhờ đó họ phát huy hết năng lực , phẩm chất cá nhân của mình đóng góp cho sự
phát triển của doanh nghiệp .
-Quan tâm một cách rộng lớn tới các đối tượng liên quan đến doanh nghiệp :
Quản trị chiến lược giúp cho một tổ chức có thể chủ động hơn thay vì bị động trong
việc vạch rõ tương lai của mình . Nó cho phép một tổ chức có thể tiên phong và
gây ảnh hưởng trong môi trường nó hoạt động ( thay vì chỉ phản ứng lại một cách
yếu ớt ) và vì vậy , vận dụng hết khả năng của nó để kiểm soát môi trường , ngăn

chặn những nguy cơ có thể đến từ các đối thủ cạnh tranh hay từ các yếu tố thuộc
môi trường bên ngoài doanh nghiệp ..đồng thời nhận diện được các cơ hội.
-Gắn sự phát triển ngắn hạn trong dài hạn :
Quản trị chiến lược giúp công ty thành công hơn trong tương lai , có tầm nhìn xa
hơn trong tương lai .Tuy nhiên muốn đạt được các mục tiêu dài hạn thì các mục
tiêu trong ngắn hạn phải thực hiện tốt .Các mục tiêu ngắn hạn thường biến động do
ảnh hưởng của các yếu tố môi trường vì vậy khi thực hiện các mục tiêu ngắn hạn
phải linh động ,có những sự thay đổi thích hợp , nhưng vẫn phải theo định hướng
của mục tiêu dài hạn .
-Quan tâm tới cả hiệu suất và hiệu quả .
1.4 Các giai đoạn của quản trị chiến lược :
a. Hoạch định chiến lược :
Hoạch định chiến lược là quá trình đề ra các công việc cần thực hiện của công ty ,
tổ chức những nghiên cứu để chỉ rõ những nhân tố chính của môi trường bên ngoài
và bên trong doanh nghiệp ,xây dựng các mục tiêu dài hạn
Nội dung quy trình hoạch định chiến lược :
- Sáng tạo tầm nhìn chiến lược
- Hoạch định sứ mạng kinh doanh
- Thiết lập các mục tiêu chiến lược
- Phân tích môi trường bên ngoài
- Phân tích môi trường bên trong
- Lựa chọn và ra quyết định chiến lược
b. Thực thi chiến lược :
Quá trình quản trị chiến lược không dừng lại khi công ty đã đề ra được chiến lược
theo đuổi. Bắt buộc phải có một sự chuyển đổi từ những ý đồ chiến lược sang việc
làm chiến lược. Một khi những người lao động, ban giám đốc của công ty hiểu
được về nhiệm vụ và hiểu rằng họ là một phần của công ty quá trình chuyển đổi đó
sẽ dễ dàng hơn rất nhiều và sự đồng thuận trong việc thực hiện quá trình đó sẽ giúp
cho công ty đạt tới thành công
Thực thi chiến lược thường được gọi là giai đoạn hành động của quản trị chiến lược

.Thực thi có nghĩa là động viên những ngườ lao động và ban giám đốc để biến
những chiến lược hoạch định thành hành động cụ thể .
Nội dung quy trình thực thi chiến lược :
- Thiết lập các mục tiêu chiến lược ngắn hạn
- Triển khai các chính sách bộ phận
- Phân bổ nguồn lực
- Phát triển cấu trúc tổ chức thực thi chiến lược
- Phát triển văn hóa và lãnh đạo chiến lược
c. Kiểm tra và đánh giá chiến lược :
Đây là giai đoạn cuối cùng trong quản trị chiến lược vì những nhân tố của môi
trường bên trong và ngoài doanh nghiệp luôn biến động nên mọi chiến lược đều có
thể bị thay đổi trong tương lai .
Nội dung quy trình kiểm tra và đánh giá chiến lược :
- Rà soát lại môi trường bên ngoài
- Rà soát lại môi trường bên trong
- Đo lường kết quả thực thi chiến lược
- Tiến hành các hoạt động điều chỉnh
II.Phân tích môi trường kinh doanh của NHTM ACB
2.1 Giới thiệu về NHTM ACB
 Logo:
 Tên pháp định : Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Á Châu
 Tên quốc tế : Asia Commercial Bank
 Tên viết tắt : ACB
 Trụ sở chính : 442 Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 3, Tp. HCM
 Điện thoại : : 84.8.3929 0999
 Fax : 84.8.3839 9885
 Webside : www.acb.com.vn
 Email :
 Ngân hàng TMCP Á Châu đã được thành lập theo Giấy phép số 0032/NH-GP
do NHNNVN cấp ngày 24/04/1993, Giấy phép số 533/GP-UB do Ủy ban Nhân

dân TP. Hồ Chí Minh cấp ngày 13/05/1993. Ngày 04/06/1993, ACB chính thức
đi vào hoạt động. Với ngành nghề kinh doanh chính:
Huy động vốn ngắn, trung và dài hạn theo các hình thức tiền gửi tiết kiệm, tiền
gửi thanh toán, chứng chỉ tiền gửi; tiếp nhận vốn ủy thác đầu tư; nhận vốn từ các tổ
chức tín dụng trong và ngoài nước; Cho vay ngắn, trungvà dài hạn; chiết khấu
thương phiếu, công trái và giấy tờ có giá; đầu tư vào chứng khoán và các tổ chức
kinh tế;
Làm dịch vụ thanh toán giữa các khách hàng;
Kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc;
Thanh toán quốc tế, bao thanh toán;
Môi giới và đầu tư chứng khoán; lưu ký, tư vấn tài chính doanh nghiệp và bào
lãnh phát hành;
Cung cấp các dịch vụ về đầu tư, quản lý nợ và khai thác tài sản, cho thuê tài
chính và các dịch vụ ngân hàng khác.
 Tầm nhìn chiến lược:
- Ngay từ ngày đầu hoạt động, ACB đã xác định tầm nhìn là trở thành ngân
hàng thương mại cổ phần bán lẻ hàng đầu Việt Nam. Trong bối cảnh kinh
tế xã hội Việt Nam vào thời điểm đó “Ngân hàng bán lẻ với khách hàng mục
tiêu là cá nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ” là một định hướng rất mới đối với
ngân hàng Việt Nam, nhất là một ngân hàng mới thành lập như ACB.
-
ACB đã hình dung Tầm nhìn 2015, theo đó ACB sẽ phấn đấu trở thành một
trong ba tập đoàn tài chính- ngân hàng hàng đầu và hoạt động có hiệu quả ở
Việt Nam , với hai trụ cột kinh doanh là ngân hàng thương mại và ngân hàng
đầu tư.
 Kết quả hoạt động kinh doanh của ACB:
(Đơn vị tính : tỷ đồng)
Chỉ tiêu
2008 2009 30/9/2010
Vốn điều lệ

6.356 7.814 9.377(từ
11/11/2010)
Tổng tài sản
105.306 168.000 177.944
Tổng vốn huy động
75.113 108.992 123.963
Tổng dư nợ
34.833 62.358 80.481
Lợi nhuận trước thuế
2.561 2.838 2.000
Lợi nhuận sau thuế
2.210 2201 1.488
ROE(LN trước thuế/Vốn
CSH bình quân)
36,7% 31,8%
ROA( LN trước
thuế/TTS bình quân)
2,6% 2,1%
(Nguồn : Báo cáo tài chính hợp nhất ACB năm 2008,2009,và đến 30/9/2010)
Nhận xét: Qua kết quả hoạt động của ACB trong 3 năm, ta thấy ACB có sự phát
triển bùng nổ, vượt bậc qua từng năm :
 Năm 2009:
Vốn điều lệ tăng : 22,9% so với năm 2008
Tổng tài sản tăng : 59,5% so với năm 2008
Tổng vốn huy động tăng : 45,1% so với năm 2008
Tổng dư nợ tăng : 79% so với năm 2008
Tổng lợi nhuận trước thuế tăng : 10,8% so với năm 2008
 9 tháng đầu năm 2010
 Vốn điều lệ tăng : 20% so với cả năm 2009
Tổng tài sản tăng : 5,9% so với cả năm 2009

Tổng vốn huy động tăng : 13,7% so với cả năm 2009
Tổng dư nợ tăng : 29% so với cả năm 2009
2.2 Phân tích môi trường bên ngoài :
2.2.1 Ngành kinh doanh của ACB
Năm 2006, 2007 tốc độ tăng trưởng của các ngân hàng thương mại đang trong giai
đoạn phát triển với tốc độ cao thì khủng hoảng kinh tế xảy ra, nên năm 2008, 2009
các ngân hàng đều gặp khó khăn lớn.
Hai mảng hoạt động chính là tín dụng và huy động vốn của ngành ngân hàng tăng
trưởng mạnh mẽ, thể hiện qua tốc độ tăng trưởng tín dụng và tiền gửi cao hơn
nhiều so với tốc độ tăng GDP thực tế.
Năm 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Tăng trưởng TD 22 28 42 32 25 54 22 38
Tăng trg tiền gửi 19 26 32 32 37 50 26 29
Tăng trg GDP 7.08 7.34 7.79 8.44 8.23 8.46 6.23 5.2
(Nguồn IMF, NHNN)
Ngoài hai mảng hoạt động truyền thống là tín dụng và huy động vốn, mảng hoạt
động dịch vụ cũng có sự phát triển mạnh.
Dù quy mô hoạt động tăng trưởng mạnh mẽ nhưng theo một số kết quả thống kê,
các chỉ tiêu tín dụng/GDP, huy động/GDP của Việt Nam vẫn thấp hơn các nước
trong khu vực, điều này cho thấy khả năng còn tiếp tục tăng trưởng trong tương lai
của ngành ngân hàng.
Kết luận: Dựa trên tốc độ phát triển của ngành ngân hàng hiện tại, chúng ta có thể
nhận thấy đây là một ngành kinh doanh khá hấp dẫn, đang có nhu cầu phát triển rất
nhanh, thu hút sự chú ý của doanh nghiệp.
2.2.2 Tác động của môi trường vĩ mô
Nhân tố kinh tế :
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới tiếp tục được thực hiện toàn diện
và sâu sắc hơn. Kinh tế tăng trưởng nhanh, năm năm qua GDP tăng bình quân
7.5%, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm năm tới đã được Quốc hội thông qua,
phấn đấu sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển. Về kinh tế, dự kiến

tốc độ tăng GDP trung bình giai đoạn 2011-2015 là 7 - 7.5%/ năm. Với tốc độ tăng
trưởng đó, tới năm 2015 GDP bình quân trên đầu người của Việt nam sẽ đạt gần
2.000 USD, tăng 1,7 lần năm 2010. Khi đó nước ta sẽ vượt qua ngưỡng nước đang
phát triển có thu nhập thấp để ghi tên mình vào nhóm nước có thu nhập trung bình.
Với GDP đầu người đó nước ta đồng thời đã taọ được điều kiện để bước vào giai
đoạn “cất cánh” – giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Lạm phát tăng cao trong những tháng đầu năm 2008 đã tác động đến tất cả các lĩnh
vực kinh tế - xã hội, trong đó có hoạt động của các Ngân hàng thương mại
(NHTM). Đối với các NHTM, kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, lạm phát tăng cao,
sức mua đồng tiền giảm xuống, đã ảnh hưởng xấu đến hoạt động huy động vốn,
cho vay, đầu tư và thực hiện các dich vụ ngân hàng.
Việt Nam hiện vẫn còn là một nền kinh tế có quy mô không lớn. Tỷ lệ tiết kiệm
trong thu nhập còn thấp. Nhu cầu vốn đầu tư phát triển lớn trong khi khả năng cung
tiền vẫn hạn chế từ hoạt động tiền gửi, 75% số tiền gửi đều ngắn hạn trong khi số
còn lại có thời gian chỉ từ 1-5 năm. Điều này tạo nên sự phụ thuộc vào nguồn cung
tiền của ngân hàng nhà nước và quy mô của bản thân ngân hàng. Như vậy để tăng
khả năng chủ động và đảm bảo khả năng phát triển đòi hỏi ngân hàng phải lựa chọn
giữa các chính sách như ra tăng quy mô thông qua các đợt tăng vốn hay tập trung
thu hút nguồn tiền gửi bằng việc tăng cường dịch vụ khách hàng.
Cho đến nay thị trường tài chính hiện vẫn chưa hoàn thiện. Quá trình mở cửa tạo ra
những phân khúc thị trường mới, những dịch vụ và sản phẩm tài chính mới nhưng
cùng lúc đó thì vẫn thiếu các chế tài và luật lệ chi tiết khiến sự kiểm soát của chính
phủ trong ngành trở nên hạn chế. Điều này làm ra tăng rủi ro thị trường và gây ảnh
hưởng không tốt đến sự phát triển lành mạnh của các ngân hàng
Nhân tố công nghệ :
Tính chất toàn cầu của ngân hàng đặt ra nhu cầu về chia sẻ thông tin cô cùng phức
tạp. Đầu tư và hỗ trợ về công nghệ thông tin là đòi hỏi tất yếu để ngân hàng có thể
liên kết được mạng lưới rộng lớn của mình và đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách
hàng. Vì thế, các ngân hàng phải luôn đầu tư, phát triển các công nghệ mới nhất để
đáp ứng kịp với nền kinh tế ngày một phát triển.

Đối mặt với chi phí hoạt động cao hơn, từ nhiều năm gần đây các ngân hàng đã và
đang chuyển đổi sang sử dụng hệ thống hoạt động tự động và điện tử thay thế cho
hệ thống dựa trên lao động thủ công, đặc biệt là trong việc nhận tiền gửi, thanh toán
bù trừ và cấp tín dụng. Những ví dụ nổi bật nhất bao gồm các máy rút riền tự động
ATM, cho phép khách hàng truy nhập tài khoản tiền gửi của họ 24/24 giờ. Máy
thánh toán tiền POS được lắp đặt ở các bách hoá và trung tâm bán hàng thay thế
cho các phương tiện thanh toán hàng hoá dịch vụ bằng giấy, và hệ thống máy vi
tính hiện đại xử lý hàng ngàn giao dịch một cách nhanh chóng trên toàn thế giới.
Công nghệ thông tin đã mang đến cho hệ thống ngân hàng những giải pháp kinh
doanh mềm dẻo. Các ngân hàng đua nhau đưa ra các dịch vụ hiện đại, thân thiện,
tạo ra những lợi ích nhỏ nhất để giữ khách hàng. Trước đây, 85 – 90% lãi của ngân
hàng là từ tín dụng, chủ yếu là từ tín dụng ngắn hạn. Nhưng hiện nay, tín dụng dài
hạn chiếm tỷ trọng cao trong các khoản tín dụng nên sẽ ảnh hưởng nhiều hơn đến
thu nhập của ngân hàng. Tình thế này buộc ngân hàng phải thu phí từ các dịch vụ,
làm sao để khách hàng trả tiền nhưng không thấy tiếc. Trước đây, người tiêu dùng
phải đến ngân hàng để giao dịch, giờ thì chỉ cần một chiếc điện thoại là có thể
thanh toán và nhận kết quả từ ngân hàng
Nhân tố luật pháp – chính trị :
Các yếu tố thể chế - luật pháp là yếu tố có ảnh hưởng tới tất cả các ngành kinh
doanh. Các yếu tố thể chế, luật phápcó thể uy hiếp đến khả năng tồn tại và phát
triển của bất cứ ngành nào. Như vậy, ngành ngân hàng Việt Nam, tất nhiên, sẽ phải
bắt buộc tuân theo chế độ luật pháp tại Việt Nam. Nó sẽ phải tuân theo chính sách
thuế, các đạo luật liên quan và đặt biệt chịu sự điều tiết trực tiếp của NHNN Việt
Nam.
Việc Việt Nam gia nhập, ký hết các hiệp định với WTO, đã tạo ra không ít những
cơ hội và thách thức to lớn cho các ngân hàng. Hội nhập quốc tế sẽ nâng cao tính
cạnh tranh và kỷ luật thị trường trong hoạt động ngân hàng sẽ khuyến khích tạo ra
những ngân hàng có quy mô lớn, tài chính lành mạnh và kinh doanh hiệu quả, các
ngân hàng kinh doanh yếu kém sẽ bị đào thải hoặc phải vươn lên, nếu muốn tồn tại.
Hội nhập cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng trong nước thâm nhập vào

thị trường quốc tế, mở cơ hội cho ngành ngân hàng thực hiện các cuộc trao đổi, hợp
tác quốc tế trong các lĩnh vực hoạch định chính sách tiền tệ, quản lý ngoại hối,
thanh tra, giám sát phòng ngừa rủi ro, lĩnh vực thanh toán và phát triển các sản
phẩm dịch vụ ngân hàng mới. Vì thế uy tín và vị thế của hệ thống NHVN sẽ được
nâng lên, ít nhất là trên thị trường khu vực. Điều này thực sự tạo cho hệ thống
NHVN nói chung và các NHTMCP nói riêng nhiều cơ hội để từng bước nâng cao
hiệu quả điều hành và phát triển vững mạnh.
Có thể nói, hệ thống NHVN đang ở mức độ thấp về công nghệ, trình độ tổ chức
chuyên môn nghiệp vụ. Bên cạnh đó thị trường tài chính chưa thực sự phát triển, cơ
chế quản lý giám sát chưa hoàn thiện, chưa có chính sách thống nhất để quản lý
hiệu quả hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng, trong khi hoạt động của
các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại thị trường Việt Nam hậu WTO sẽ ngày
càng mở rộng và phát triển. Các ngân hàng nước ngoài có năng lực tài chính mạnh,
có kinh nghiệm quản trị rủi ro tốt và đặc biệt có quy trình nghiệp vụ chuẩn mực
tiên tiến, công nghệ hiện đại hơn hẳn các NHTMVN sẽ là thách thức lớn đối với
các NHVN trong việc giữ vững thị trường hoạt động trong nước và mở rộng thị
trường ra nước ngoài.
Nhân tố văn hoá – xã hộ i: .
Mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ đều có những giá trị văn hoá và các yếu tố xã hội đặc
trưng, và những yếu tố này là đặc điểm cho người tiêu dùng tại cá khu vực đó. Các
doanh nghiệp phải hiểu rõ các đặc điểm này để khai thác và sử dụng phù hợp các
vấn đề văn hoá - xã hội, về các nhóm khách hàng, quy mô, tỷ lệ tăng dân số, cấu
trúc độ tuổi, tôn giáo và ngôn ngữ… của quốc gia đó trong các chiến lược kinh
doanh doanh của công ty.
Về văn hóa, Việt Nam có một nền văn hóa rất đa dạng, phong phú và giàu bản sắc
bởi đó là sự giao thoa văn hóa của 54 sắc tộc cùng tồn tại trên lãnh thổ. Bên cạnh
đó, văn hóa Việt Nam còn chịu nhiều ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc cùng
với nền văn minh lúa nước của người dân Đông Nam Á.
Việt Nam là một nước có nhiều tôn giáo, theo thống kê của Ban Tôn giáo chính
phủ Việt Nam năm 2005, hiện có gần 10 triệu tín đồ Phật giáo, 5,5 triệu tín đồ

Công giáo, 2,4 triệu tín đồ đạo Cao Đài, 1,3 triệu tín đồ đạo Hòa Hảo, 1 triệu tín đồ
Tin Lành và 60.000 tín đồ Hồi giáo. Ngoài ra, một số người Chăm ở Nam Trung
Bộ có theo đạo Bà la môn.
Tuy nhiên chúng ta cũng không thể phủ nhận những giao thoa văn hoá của các nền
văn hoá khác vào quốc gia. Sự giao thoa này sẽ thay đổi tâm lý tiêu dùng, lối sống,
và tạo ra triển vọng phat triển với ngành. Từ đó các NHTM có thể tận dụng để phát
triển các sản phẩm, dịch vụ mới để thu hút, lôi kéo các khách hàng.
Điều kiện văn hóa – xã hội có nhiều thuận lợi cho ngành ngân hàng phát triển.
Về dân số, Việt Nam hiện có hơn 85 triệu người, trong đó hơn 75% là dân số trẻ.
Lớp trẻ đóng vai trò chủ đạo trong việc hình thành thị trường ngân hàng bán lẻ, tuy
nhỏ bé nhưng đang rất phát triển tại Việt Nam. So với thế hệ trước, người trẻ tuổi
không ngại vay tiền ngân hàng và có xu hướng thích sử dụng kênh phân phối sản
phẩm theo kiểu điều khiển từ xa. Theo kết quản nghiên cứu 13.000 khách hàng của
các ngân hàng trong khu vực thì khoảng cách về sở thích và thói quen tiêu dùng
giữa 2 thế hệ ở Việt Nam có độ khác biệt rõ ràng hơn hẳn so với 11 nước châu Á
khác.
Tuy nhiên, thói quen sử dụng tiền mặt của đại bộ phận dân cư Việt Nam là rào cản
lớn cho việc phát triển dịch vụ và sản phẩm ngân hàng. Các ngân hàng cần phải
vượt qua thách thức này để mở rộng, phát triển các hoạt động của mình.
2.2.4 Đánh giá cường độ cạnh tranh.
Nguy cơ từ các ngân hàng mới
Đây là đe doạ cho các doanh nghiệp hiên tại. Các doanh nghiệp hiện tại cố gắng
ngăn cản các đối thủ tiềm ẩn muốn gia nhập ngành bởi vì càng nhiều doanh nghiệp
trong cùng một ngành kinh doanh thì cạnh tranh càng khốc liệt hơn, thị trường và
lợi nhuận sẽ bị chia sẻ, vị trí của doanh nghiệp sẽ thay đổi.Mức độ thuận lợi và khó
khăn cho việc gia nhập ngành của các đối thủ cạnh trạnh tiềm ẩn phụ thuộc phẩn
lớn vào hàng rào lối vào một ngành kinh doanh.Nếu các ngân hàng mới gia nhập
thị trường thì mức độ cạnh tranh sẽ càng lúc càng gia tăng.
Theo cam kết WTO thì lộ trình mở cửa ngành ngân hàng là 7 năm. Và tất yếu là
ngành ngân hàng sẽ có sự thay đổi cơ bản khi mà các tổ chức tài chính nước ngoài

có thể nắm giữ cổ phần của các ngân hàng Việt Nam hay sự xuất hiện của các ngân
hàng 100% vốn nước ngoài. Với những lợi thế như cơ sở hạ tầng dịch vụ hơn hẳn,
dịch vụ khách hàng chuyên nghiệp, công nghệ tốt hơn, có mạng lưới rộng khắp
toàn cầu và có nhiều lựa chọn hơn do được làm từ đầu các ngân hàng này sẽ tạo ra
một áp lực lớn đến với các ngân hàng trong nước. Trong khi đó theo đánh giá thì
các ngân hàng Việt Nam chưa tạo được điểm khác biệt về chiến lược sản phẩm,
dịch vụ. Như vậy sự thâm nhập của các ngân hàng mới trong tương lai có thể gây
ảnh hưởng lớn tới bản thân các ngân hàng hiện tại nếu không có một chính sách
phù hợp.
Còn theo các cam kết trong khuôn khổ Hiệp định chung về hợp tác thương mại
dịch vụ (AFAS) của Hiệp hội các nước ASEAN, Việt Nam phải gỡ bỏ hoàn toàn
các quy định về khống chế tỷ lệ tham gia góp vốn, dịch vụ, giá trị giao dịch của các
ngân hàng nước ngoài từ năm 2008.
Tính đến nay, mạng lưới hệ thống NHVN gồm có 43 NHTM nội địa (trong đó có 4
NH thuộc 100% vốn sở hữu nhà nước, VCB và Vietinbank do Nhà nước chiếm đa
số vốn), hiện có năm ngân hàng 100% vốn nước ngoài đựoc cấp phép thành lập tại
Việt Nam, 47 chi nhánh NH nước ngoài, 5 NH liên doanh. Tuy nhiên khi nhìn vào
con số các ngân hàng nước ngoài có văn phòng đại diện tại Việt Nam và các ngân
hàng nước ngoài có vốn cổ phần trong các ngân hàng thương mại nội địa, số ngân
hàng 100% vốn nước ngoài nhất định sẽ còn tăng lên trong tương lai.
Các ngân hàng nước ngoài là vậy, rào cản cho sự xuất hiện của cá ngân hàng có
nguồn gốc nội địa đang được nâng cao lên sau khi Chính phủ tạm ngừng cấp phép
thành lập ngân hàng mới từ tháng 8 – 2008. Ngoài các quy định về vốn điều lệ,
quãng thời gian phải liên tục có lãi, các ngân hàng mới thành lập còn bị giám sát
chặt bởi Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên điều đó sẽ không thể ngăn cản những
doanh nghiệp, có đủ điều kiện, tham gia vào ngành ngân hàng một khi Chính phủ
cho phép thành lập ngân hàng trở lại.
Rào cản gia nhập còn được thể hiện qua các phân khúc thị trường, thị trường mục
tiêu mà các ngân hàng hiện tại đang nhắm đến, giá trị thương hiệu cũng như cơ sở
khách hàng, lòng trung thành của khách hàng mà các ngân hàng đã xây dựng được.

Những điều này đặc biệt quan trọng bởi vì nó sẽ quyết định khả năng tồn tại của
một ngân hàng đang muốn gia nhập vào thị trường Việt Nam.
Một khi các ngân hàng hiện tại đã xây dựng được cho mình một thương hiệu bền
vững, với những sản phẩm, dịch vụ tài chính hiệu quả và khác biệt cộng với một cơ
sở khách hàng đông đảo và trung thành, chi phí chuyển đổi (switching cost) để lôi
kéo khách hàng của ngân hàng mới thành lập sẽ cực kỳ cao và do đó họu bắt buộc
phải cân nhắc thật kỹ khi quyết định gia nhập thị trường hay không. Thực tế trên thị
trường ngành ngân hàng Việt Nam cho thấy chi phí chuyển đổi nhìn chung không
cao do các ngân hàng chưa thật sự tạo được điểm khác biệt về chiến lược sản phẩm,
dịch vụ.
Một yếu tố có thể làm tăng chi phí chuyển đổi lên một chút và tạo một lợi thế cạnh
tranh cho các ngân hàng đang hoạt động là hệ thống phân phối. Các ngân hàng
thành lập sau này sẽ gặp khá nhiều rắc rối trong việc tìm một địa điểm ưng ý để đặt
văn phòng chính cũng như các chi nhánh văn phong giao dịch bởi vì các vị trí đẹp
và tiện lợi đều đã bị các ngân hàng đang hoạt động giành mất. Tuy vậy, các ngân
hàng thành lập sau này vẫn có thể dựa vào lợi thế công nghệ để phát triển hệ thống
kinh doanh của mình thông qua Internet banking hoặc hệ thống ATM.
Nhìn vào ngành ngân hàng Việt Nam cũng như thế giới đang bị bao trùm bởi
khủng hoảng kinh tế, rào cản gia nhập khá cao khiến cho nguy cơ xuất hiện ngân
hàng mới trong tương lai gần là khá thấp. Nhưng một khi kinh tế thế giưới hồi phục
cộng với sự mở cửa của ngành ngân hàng theo cam kết với WTO và các tổ chức
khác, sự xuất hiện của các ngân hàng mới là một điều gần như chắc chẵn.
Đe dọa từ các sản phẩm thay thế
Đối với khách hàng doanh nghiệp, nguy cơ ngân hàng bị thay thế không cao lắm do
đối tượng khách hàng này cần sự rõ ràng các chứng từ, hoá đơn trong các gói sản
phẩm và dịch vụ của ngân hàng. Nếu có phiền hà xảy ra trong quá trình sử dụng
sản phẩm, dịch vụ thì đối tượng khách hang này thường chuyển sang ngân hàng
khác vì những lý do trên thay vì tìm tới các dịch vụ ngoài ngân hàng.
Đối với khách hàng tiêu dùng thì lại khác, thói quen sử dụng tiền mặt tại nhà hoặc
nếu có tài khoản thì khi có tiền lại rút hết ra để sử dụng. Các cơ quan chính phủ và

doanh nghiệp trả lương qua tài khoản ngân hàng nhằm thúc đẩy các phương thức
thanh toán không dùng tiền mặt, góp phần làm minh bạch tài chính cho mỗi người
dân. Nhưng các địa điểm chấp nhận thanh toán bằng thẻ lại đa số là các nhà hàng,
khu mua sắm sang trọng, những nơi không phải người dân nào cũng tới mua sắm.
Ngoài hình thức gửi tiết kiệm ở ngân hàng, người tiêu dùng Việt Nam còn có khá
nhiều sự lựa chọn khác như giữ ngoại tệ, đầu tư vào chứng khoán, các hình thức
bảo hiểm, đàu tư vào kim loại quý (vàng, kim cương…) hoặc đầu tư vào nhà đất.
Đó là chưa kể các hình thức không hợp pháp như “chơi hụi”. Không phải lúc nào
lãi suất ngân hàng cũng hấp dẫn người tiêu dùng. Chẳng hạn như thời điểm này, giá
vàng đang sốt, tăng giảm đột biến trong ngày, trong khi đo la Mỹ ở thị trường tự do
cũng biến động thì lãi suất tiết kiệm của đa số các ngân hàng chỉ ở mức 7–8 % một
năm.
Việc đầu tư chứng khoán, mang lại lơi nhuận rất cao cho người đầu tư trong thời
gian ngắn, nhưng khả năng sinh lợi thu được cũng đi đôi với tỷ lệ rủi ro mà nhà đầu
tư chấp nhận. Tuy nhiên, nó luôn là nơi hấp dẫn nhà đầu tư, với tỷ lệ thanh khoản
cao.
Thêm vào đó, hiện nay thị trường bất động sản cũng là nơi thu hút đông đảo các
nhà đầu tư dài hạn. Kênh đầu tư bất động sản vẫn luôn đem lại nguồn lợi nhuận
cao, và đầu tư an toàn nếu nhà đầu tư khôn ngoan trong quyết định đầu tư của
mình.
Quyền lực của các nhà cung cấp.
Nhà cung cấp trong ngành ngân hàng khá đa dạng. Họ có thể là những khách hàng
đầu tư cho ngân hàng hoạt động, hoặc là những công ty chịu trách nhiệm về hệ
thống hoặc bảo trì máy ATM. Hiện tại ở Việt Nam, các ngân hàng thường tự đầu tư
trang thiết bị và chọn cho mình những nhà cung cấp riêng tuỳ theo điều kiện. Điều
này góp phần giảm quyền lực của nhà cung cấp thiết bị khi họ không thể cung cấp
cho cả một thị trường lớn mà phải cạnh tranh với các nhà cung cấp khác. Tuy nhiên
khi đã tốn một khoản chi phí khá lớn vào đầu tư hệ thống, ngân hàng sẽ không
muốn thay đổi nhà cung cấp vì quá tốn kém, điều này lại làm tăng quyền lực của
nhà cung cấp thiết bị đã trúng thầu.

Quyền lực của các khách hàng trong ngành ngân hàng: Khách hàng là những cá
nhân có quyền lực thương lượng tương đối thấp. Còn khách hàng là các tổ chức,
các quỹ có nguồn đầu tư tương đối lớn, ảnh hưởng mạnh đến doanh thu của ngân
hàng, dĩ nhiên họ nắm trong tay quyền lực thương lượng tương đối cao với ngân
hàng đã đàu tư.
Quyền lực của khách hàng.
Sự kiện nổi bật gần đây nhất liên quan đến quyền lực của khách hàng có lẽ là việc
các ngân hàng quyết định thu phí sử dụng ATM trong khi người tiêu dùng không
đồng thuận. Trong vụ việc này, ngân hàng và khách hàng ai cũng có lý lẽ của mình
nhưng rõ ràng nó đã ảnh hưởng không ít đến mức độ hài lòng và lòng tin của khách
hàng. Nhưng ta có thể thấy được quyền lực thương lượng của khách hàng trong đó
tương đối thấp, quyết định của ngân hàng chịu ảnh hưởng rất ít.
Việc sống còn của các ngân hàng dựa trên đồng vốn huy động được của khách
hàng. Nếu không còn thu hút được dòng vốn của khách hàng thì ngân hàng tất
nhiên sẽ bị đào thảỉ. Trong khi đó nguy cơ thay thế của ngân hàng ở Việt Nam, đối
với khách hàng tiêu dùng, là khá cao. Với chi phí chuyển đổi thấp, khách hàng gần
như không mất mát gì nếu muốn chuyển nguồn vốn của mình ra khỏi ngân hàng và
đầu tư ở mọt nơi khác.
Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hiện tại trong ngành
Để đánh giá áp lực cạnh tranh giữa các ngân hàng hiện hữu, thì ta cần xem xét
nhiều yếu tố trong đó gồm: quy mô giữa các ngân hàng, xem xét các ngân hàng có
quy mô tương đối ngang nhau hay không; vấn đề tăng trưởng của nền kinh tế, nền
kinh tế tăng trưởng thấp gây áp lực cạnh tranh giành giật thị phần..v.v…
Sau gần 20 năm hoạt động, số lượng và quy mô các ngân hàng thương mại đã tăng
lên đáng kể, mạng lưới chi nhánh các ngân hàng rộng khắp đất nước. Cuộc chậy
đua giành thị phần huy động và thị phần tín dụng diễn ra bao năm nay với ưu thế
vẫn thuộc về khối ngân hàng TMQD. Tuy nhiên, xét về hiệu quả hoạt động, các
ngân hàng TMQD chưa thể bì kịp các đối thủ NH TMCP. Cuối năm 2008, ROE
trung bình các NH TMCP ở khoảng 20%,
ROA 2% trong khi các NH TMQD có

ROA thường dưới 1% và ROE 8 – 15 %.
(Nguồn: theo MHBS).
Về tổng tài sản và vốn điều lệ (như hình
vẽ)
Theo Nghị định số 141/2006/NĐ-CP,
cuối năm 2008 là để hạn các NH TMQD
nâng vốn điều lệ lên 3000 tỷ đồng và NH
TMCP hoàn thành mức vốn điều lệ tối
thiểu 1000 tỷ đồng.
Hơn nữa đến cuối năm 2010 các NH
TMCP phải đạt mức vốn điều lệ tối thiểu
3000 tỷ đồng.
Nhìn vào hình vẽ ta thấy khối các NH
TMQD chiếm ưu thế rõ rệt về tổng tài
sản và mức vốn điều lệ. Cuối năm 2008, tổng tài sản của các NH TMQD và Nh
TMCP Việt Nam là hơn 1.700 ngàn tỷ đồng. Trong đó 4 ngân hàng lớn nhất có
tổng tài sản 1.063 ngàn tỷ đồng, chiếm hơn 60% tổng tài sản cả khối, là NH TMQD
(AGB, BIDV) và tiền thân là NH TMQD (VCB- NH Ngoại Thương Việt Nam: cổ
phần hoá năm 2008, CTG- NH TMCP Công Thương Việt Nam: cổ phần hoá năm
2009). Tổng vốn điều lệ của 4 ngân hàng này cũng chiếm tỷ trọng 40% tổng vốn
điều lệ của cả khối (40.000 tỷ đồng/101.000 tỷ đồng). Nhà nước đang nắm giữ 91%
vốn điều lệ của VCB và 89% vốn điều lệ CTG do vậy có thể tạm xem như 2 ngân
hàng này là 2 NH TMQD.(Nguồn: Theo MHBS)
Về thị phần tiền gửi và cho vay
Từ việc xem xét thị phần tiền gửi, cho vay cũng như quy mô tổng tài sản, vốn điều
lệ, ta thấy số lượng các ngân hàng là khá lớn song có sự chênh lệch rõ ràng về quy
mô giữa các ngân hàng, có thể nhận định một điều rằng: áp lực cạnh tranh giữa các
ngân hàng hiện hữu là ổn định, song có xu hướng gia tăng giữa khối NH TMQD và
Nh TMCP. Các ngân hàng TMCP với khả năng tạo ra tỷ suất sinh lợi cao hơn sẽ
ngày càng chiếm lĩnh thị phần hoạt động của ngành ngân hàng.

Mặt khác, áp lực cạnh tranh trên thị trường tài hính tăng lên khi các ngân hàng con
100% vốn nước ngoài đã và đang đẩy mạnh chiến lược phát triển tại Việt Nam.
Việc thu hút nguồn tiền nhàn rỗi vào ngân hàng là không dẽ dàng, chi phí huy động
vốn nhiều khả năng sẽ gia tăng. Các yều tố này sẽ gây áp lực cho những ngân hàng
đặt chỉ tiêu lợi nhuận cao.
Theo NHNN, kể từ khi Việt Nam mở cửa trong lĩnh vực ngân hàng đến nay có 45
chi nhánh ngân hàng nước ngoài được cấp phép hoạt động tại Việt Nam. Trong số
này, một số ngân hàng nước ngoài có hai chi nhánh độc lập, năm ngân hàng liên
doanh với hơn 20 chi nhánh phụ thuộc.
Ngoài ra, thực hiện các cam kết với WTO, NHNN đã cấp giấy phép thành lập và
hoạt động cho năm ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam, gồm: ngân hàng
HSBC, Standard Chartered, ANZ, Shinhan và Hong Leong.
Các ngân hàng VIệt Nam có ưu thế về số lượng trên thị trường, mạng lưới chi
nhánh và phòng giao dịch nằm rải rác khắp mọi miền đất nước. Đồng thời, các
ngân hàng Việt Nam hiểu rõ được các đặc tính về kinh doanh, sản xuất, tiêu dùng,
thị hiếu, tâm lý,… của người Việt Nam. Trong khi đó, ngân hàng 100% vốn nước
ngoài mới chỉ được phép thành lập từ tháng 04/2007, số lượng còn ít, mạng lưới chỉ
tập trung ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Do đó các ngân hàng trong nước có
thể tận dụng ưu thế này để nhanh chóng chiếm lấy thị phần của mình trên khắp địa
bàn đất nước trước khi thị trường bão hoà.Song, các ngân hàng nước ngoài lại có
tiềm lực tài chính mạnh mẽ, kinh nghiệm lâu đời cùng cơ chế quản trị tốt.
 Đánh giá:
Hiện nay Việt Nam đang có quá nhiều ngân hàng nhưng chưa có một ngân hàng
thực sự mạnh tầm cỡ quốc tế. Nhìn chung, các ngân hàng đã đua nhau mở rộng quy
mô mạng lưới để huy động nhiều vốn (phát triển theo chiều rộng). Việc này dẫn
đến tình trạngcác ngân hàng đang cạnh tranh quyết liệt với nhâu trong hoạt động tín
dụng mà quên mất các sản phẩm và dịch vụ tiện ích kèm theo (chiều sâu). Đồng
thời, các ngân hàng mở rộng quy mô nhưng do thiếu nguồn nhân lực có chất lượng
nên công tác quản trị lại không theo kịp quy mô phát triển.
Khủng hoảng kinh tế cũng mang lại rất nhiều khó khăn cho ngành ngân hàng, một

số ngân hàng đã không thể duy trì mức tăng trưởng trong năm vừa qua. Đây chính
là cơ sở để nhiều chuyên gia về sát nhập (M&A) Đưa ra nhận định rằng xu hướng
sáp nhập trong ngành ngân hàng đang đến gần.Tuy nhiên, ngành ngân hàng là một
trong những ngành nghề nhạy cảm, do vậy việc sát nhập chỉ có thể xảy ra trong
vòng một , hai năm nữa khi ngành ngân hàng đã được mở nhiều cửa hơn theo cam
kết với WTO.
2.3 Phân tích môi trường bên trong:
Sản phẩm chủ yếu :
Các dịch vụ chính của ngân hàng hiện nay:
 Nhận tiền gửi vào tài khoản, tiết kiệm VND và ngoại tệ.

×