Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Chiến lược tại Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu ACB 2011.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.25 KB, 33 trang )

QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
Để thực hiện đề án cơ cấu lại hệ thống NHTM QD và hệ thống NHTM CP theo
quyết định của Thủ tướng Chính phủ năm 2001. Cùng với việc trở thành thành viên
thứ 150 của Việt Nam trong ngôi nhà chung WTO ngày 07/11/2006 đến nay các
NHTM Việt Nam đã thực hiện nhiều giải pháp để hoàn thành tốt đề án của Thủ
tướng Chính phủ, các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của mình như: tăng
vốn điều lệ, cơ cấu lại nợ, làm sạch bảng cân đối, đổi mới công tác quản trị, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, đầu tư công nghệ….Bên cạnh đó, sự xâm nhập
ngày càng sâu rộng của ngân hàng nước ngòai vào thị trường Việt Nam, cũng như
những cam kết về mở cửa khu vực ngân hàng trong tiến trình hội nhập ngày một
gần kề đã làm làm cho cuộc cạnh tranh giữa các NHTM tại Việt Nam ngày càng trở
nên gây gắt và khốc liệt hơn.
Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu ACB cũng không nằm ngòai chủ trương
và xu thế đó. NHTMCP Á Châu ACB dù đã có những lợi thế trong cạnh tranh so
với các NHTM khác. Thế nhưng, NHTMCP Á Châu ACB cũng còn tồn tại không ít
những yếu kém, cũng như đang phải đối mặt với những khó khăn và thách thức
phía trước. Để tận dụng tốt những lợi thế của mình trên cơ sở xác định những điểm
yếu, lợi dụng cơ hội mà WTO mang lại để vượt qua những thách thức.
Nhóm chúng tôi đã chọn đề tài “Chiến lược tại Ngân hàng TMCP Á Châu
ACB” để nghiên cứu về chiến lược tại ngân hàng ACB và xin đề xuất một số giải
pháp nhằm hoàn thiện chiến lược tại Ngân hàng TMCP Á Châu ACB.
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 1
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
I. Tổng quan về Ngân hàng TMCP Á Châu ACB
1. Giới thiệu về Ngân hàng TMCP Á Châu ACB
a. Bối cảnh thành lập
Pháp lệnh về Ngân hàng Nhà nước và Pháp lệnh về NHTM, hợp tác xã tín dụng và
công ty tài chính được ban hành vào tháng 5 năm 1990, đã tạo dựng một khung
pháp lý cho hoạt động NHTM tại Việt Nam. Trong bối cảnh đó, NHTMCP Á Châu
(ACB) đã được thành lập theo Giấy phép số 0032/NH-GP do NHNNVN cấp ngày
24/04/1993, Giấy phép số 533/GP-UB do Ủy ban Nhân dân TP.Hồ Chí Minh cấp


ngày 13/05/1993. Ngày 04/06/1993, ACB chính thức đi vào hoạt động.
b. Ngành nghề kinh doanh
 Huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn dưới các hình thức tiền gửi có
kỳ hạn, không kỳ hạn, tiếp nhận vốn ủy thác đầu tư và phát triển của các tổ
chức trong nước, vay vốn của các tổ chức tín dụng khác;
 Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn; chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và
giấy tờ có giá; hùn vốn và liên doanh theo luật định;
 Làm dịch vụ thanh toán giữa các khách hàng;
 Thực hiện kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc và thanh toán quốc tế, huy động
các loại vốn từ nước ngoài và các dịch vụ ngân hàng khác trong quan hệ với
nước ngoài khi được NHNN cho phép;
 Hoạt động bao thanh toán.
2. Mục tiêu và triết lý kinh doanh
a. Triết lý kinh doanh
Tăng trưởng bền vững, quản lý rủi ro hiệu quả, duy trì khả năng sinh lợi cao và chỉ
số tài chính tốt, đầu tư chiều sâu vào con người và xây dựng văn hóa công ty lành
mạnh
b. Mục tiêu
Ngân hàng Á Châu luôn phấn đấu là ngân hàng thương mại bán lẻ hàng đầu Việt
Nam, hoạt động năng động, sản phẩm phong phú, kênh phân phối đa dạng, công
nghệ hiện đại, kinh doanh an toàn hiệu quả, tăng trưởng bền vững, đội ngũ nhân
viên có đạo đức, nghề nghiệp và chuyên môn cao.”
II. phân tích môi trường bên ngoài
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 2
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
1. Phân tích ngành ngân hàng
a. Nguy cơ từ các ngân hàng mới
Thời gian gần đây, xuất hiện nhiều khuyến cáo về việc xem xét lại số lượng các
ngân hàng Việt nam do có lo ngại rằng số lượng các ngân hàng hiện nay là quá
nhiều so với nhu cầu thực tế.

Theo cam kết gia nhập WTO, từ 1/4/2007, các ngân hàng nước ngoài được thành
lập ngân hàng con 100% vốn trực thuộc tại Việt Nam. Nhưng phải đến năm 2009,
điều này mới chính thức hiện thực, các ngân hàng ngoại bắt đầu mở rộng tầm ảnh
hưởng thực sự.
Tập trung cấp giấy phép từ cuối năm 2008, bước sang năm 2009, hệ thống ngân
hàng Việt Nam bắt đầu đón nhận những ngân hàng 100% vốn ngoại đầu tiên.
Những thành viên mới này được hoạt động đẩy đủ hơn, cạnh tranh toàn diện hơn
thay vì phụ thuộc vào các điều kiện kinh doanh hạn chế trước đó.
Trong năm 2009, 5 ngân hàng đầu tiên của khối này đã nhận giấy phép, thành lập
và mở rộng hoạt động, gồm HSBC, Standard Chartered, ANZ, Shinhan và Hong
Leong; trong đó, HSBC và ANZ đã nhanh chóng khai trương nhiều điểm giao dịch
mới. Lợi thế của khối này và áp lực cạnh tranh đã được đề cập nhiều từ năm 2007
và nay đang dần hiện hữu.
Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, khối các tổ chức tín dụng nước ngoài tại
Việt Nam hiện có 45 chi nhánh của 33 ngân hàng nước ngoài, 5 ngân hàng liên
doanh với hơn 20 chi nhánh phụ thuộc, 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 8 tổ
chức tín dụng phi ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài; ngoài ra còn có 56 văn
phòng đại diện của các tổ chức tín dụng khác.
Theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước, nhóm thành viên này hiện đang hoạt động
hiệu quả. Dự tính, năm 2009, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng
100% vốn nước ngoài đạt mức thu nhập trước thuế đạt 2.612 tỷ đồng, nguồn vốn
huy động và dư nợ tín dụng tăng 17,8% và 10,8%, tổng tài sản có tăng 14% so với
cuối năm 2008; các ngân hàng liên doanh đạt thu nhập trước thuế 477 tỷ đồng, huy
động vốn tăng 18,2%, dư nợ tín dụng tăng 34,3%, tổng tài sản có tăng 18,3% so với
cuối năm 2008.
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 3
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
Trong khi đó các ngân hàng trong nước dù lớn hay nhỏ đều rơi vào tình trạng khó
khăn. Khả năng thanh khoản hết sức hạn chế. Tình hình huy động gặp khó khăn,
nguồn vốn huy động chạy lòng vòng từ ngân hàng này sang ngân hàng khác trong

khi lượng vốn từ dân cư chảy vào ngân hàng tăng lên không đáng kể.
Cuộc đua tăng lãi suất huy động tháng 02/2008 là một tất yếu không thể tránh khỏi,
đến nay khi NHNN tăng lãi suất cơ bản tiền đồng lên 12%/năm và gắn chặt trần lãi
suất cho vay theo qui định của luật dân sự, lãi suất huy động đạt mốc 16%/năm.
Điều này tuân theo qui luật giá trị, rằng giá cả hàng hóa phụ thuộc vào cung cầu, lãi
suất chính là biểu hiện cho giá cả của một loại hàng hóa đặc biệt – tiền tệ.
Thời gian qua, trước những biến động không thuận lợi cho hoạt động của ngành,
“bệnh” của các ngân hàng đã bộc phát. Tình trạng “ăn xổi, ở thì” là rõ nhất, khả
năng quản trị ngân hàng, đặc biệt là quản trị nguồn vốn nói riêng và quản trị rủi ro
nói chung của các ngân hàng Việt nam hiện tại được xếp loại “kém”. Khi NHNN
thực hiện các biện pháp thắt chặt tiền tệ, gần như ngay lập tức hệ thống rơi vào khó
khăn, khả năng thanh khoản đặt trong tình trạng báo động khẩn cấp.
Với mức tăng trưởng tín dụng bình quân của ngành là 54% năm 2007 thì giới hạn
30% tăng trưởng tín dụng năm nay được các ngân hàng đánh giá là cào bằng tất cả,
giống như chỉ thị 03 đối với cho vay chứng khoán và Quyết định số 02 của NHNN
về trần lãi suất huy động. Theo báo cáo tài chính năm 2007, tổng dư nợ cho vay của
ngân hàng Nam Á: 2.698 tỷ đồng, ngân hàng Thái Bình Dương: 2.700 tỷ đồng,
ngân hàng Việt Á: 5.764 tỷ đồng, ngân hàng An Bình: 6.858 tỷ đồng, ngân hàng
Mỹ Xuyên: 1.264 tỷ đồng … Hầu như tất cả các ngân hàng này đều đã sử dụng hết
và vượt hạn mức qui định chỉ trong 02 tháng đầu năm 2008. Hiện nay dư nợ của
Ngân hàng Thái Bình Dương khoảng 4.800 tỷ đồng, tăng hơn 77% so với cả năm
2007 và đang bị buộc phải giảm dư nợ. Điều đó có nghĩa là cán bộ tín dụng sẽ ngồi
chơi từ nay đến… hết năm. Trong khi đó ở các ngân hàng TMQD, hạn mức vẫn
còn “rủng rỉnh”.
Hậu quả của việc bất chấp các nguyên tắc cơ bản của tín dụng, năm 2007 vừa qua
dư nợ tại các ngân hàng tăng vọt khi chất lượng tín dụng không đảm bảo. Dưới áp
lực của lợi nhuận và vì “lợi ích cá nhân”, công tác thẩm định được tiến hành sơ sài,
chiếu lệ, tình trạng cán bộ tín dụng và lãnh đạo ngân hàng “bắt tay” khách hàng, cò
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 4
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY

tín dụng trở nên phổ biến… là những nguyên nhân đặt các khoản vay trong tình
trạng “bất ổn”, có nguy cơ quá hạn hiện nay tại hầu hết các ngân hàng.
Thời báo kinh tế Việt nam ngày 02/6/2008 đã cung cấp cho độc giả một số liệu
đáng chú ý như sau: hiện Việt nam có 5 ngân hàng thương mại nhà nước, ngân
hàng chính sách, ngân hàng phát triển; 6 ngân hàng liên doanh; 36 ngân hàng
thương mại cổ phần; 46 chi nhánh ngân hàng nước ngoài; 10 công ty tài chính; 13
công ty cho thuê tài chính; 998 quĩ tín dụng nhân dân cơ sở. Các đơn vị trên đều có
chức năng cho vay, là chức năng chính của ngân hàng. Dân số nước ta hiện nay ước
khoảng 86 triệu người, GDP khoảng 65 tỷ USD, số lượng các ngân hàng này được
cho là quá nhiều trong điều kiện hiện nay.
b. Sự đe dọa của sản phẩm thay thế
Cơ bản mà nói, các sản phẩm và dịch vụ của ngành ngân hàng Việt Nam có thể xếp
vào 5 loại:
• Là nơi nhận các khoản tiền (lương, trợ cấp, cấp dưỡng…)
• Là nơi giữ tiền (tiết kiệm…)
• Là nơi thực hiện các chức năng thanh toán
• Là nơi cho vay tiền
• Là nơi hoạt động kiều hối
Đối với khách hàng doanh nghiệp, nguy cơ ngân hàng bị thay thế không cao lắm do
đối tượng khách hàng này cần sự rõ ràng cũng như các chứng từ, hóa đơn trong các
gói sản phẩm và dịch vụ của ngân hàng. Nếu có phiền hà xảy ra trong quá trình sử
dụng sản phẩm, dịch vụ thì đối tượng khách hàng này thường chuyển sang sử dụng
một ngân hàng khác vì những lý do trên thay vì tìm tới các dịch vụ ngoài ngân
hàng.
Đối với khách hàng tiêu dùng thì lại khác, thói quen sử dụng tiền mặt khiến cho
người tiêu dùng Việt Nam thường giữ tiền mặt tại nhà hoặc nếu có tài khoản thì khi
có tiền lại rút hết ra để sử dụng. Các cơ quan Chính phủ và doanh nghiệp trả lương
qua tài khoản ngân hàng nhằm thúc đẩy các phương thức thanh toán không dùng
tiền mặt, góp phần làm minh bạch tài chính cho mỗi người dân. Nhưng các địa
điểm chấp nhận thanh toán bằng thẻ lại đa số là các nhà hàng, khu mua sắm sang

trọng, những nơi không phải người dân nào cũng tới mua sắm.
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 5
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
Ngay ở các siêu thị, người tiêu dùng cũng phải chờ đợi nhân viên đi lấy máy đọc
thẻ hoặc đi tới một quầy khác khi muốn sử dụng thẻ để thanh toán. Chính sự bất
tiện này cộng với tâm lý chuộng tiền mặt đã khiến người tiêu dùng muốn giữ và sử
dụng tiền mặt hơn là thông qua ngân hàng.
Ngoài hình thức gửi tiết kiệm ở ngân hàng, người tiêu dùng Việt Nam còn có khá
nhiều lựa chọn khác như giữ ngoại tệ, đầu tư vào chứng khoán, các hình thức bảo
hiểm, đầu tư vào kim loại quý (vàng, kim cương…) hoặc đầu tư vào nhà đất. Đó là
chưa kể các hình thức không hợp pháp như “chơi hụi”. Không phải lúc nào lãi suất
ngân hàng cũng hấp dẫn người tiêu dùng. Chẳng hạn như thời điểm này, giá vàng
đang sốt, tăng giảm đột biến trong ngày, trong khi đô la Mỹ ở thị trường tự do cũng
biến động thì lãi suất tiết kiệm của đa số các ngân hàng chỉ ở mức 7-8% một năm.
c. Năng lực thương lượng của khách hàng
Sự kiện nổi bật gần đây nhất liên quan đến quyền lực của khách hàng có lẽ là việc
các ngân hàng quyết định thu phí sử dụng ATM trong khi người tiêu dùng không
đồng thuận. Trong vụ việc này, ngân hàng và khách hàng ai cũng có lý lẽ của mình
nhưng rõ ràng nó đã ảnh hưởng không ít đến mức độ hài lòng và lòng tin của khách
hàng. Nhưng không vì thế mà ta có thể đánh giá thấp quyền lực của khách hàng
trong ngành ngân hàng tại Việt Nam.
Điều quan trọng nhất vẫn là: việc sống còn của ngân hàng dựa trên đồng vốn huy
động được của khách hàng. Nếu không còn thu hút được dòng vốn của khách hàng
thì ngân hàng tất nhiên sẽ bị đào thải. Trong khi đó, như đã nói ở phần trên, nguy
cơ thay thế của ngân hàng ở Việt Nam, đối với khách hàng tiêu dùng, là khá cao.
Với chi phí chuyển đổi thấp, khách hàng gần như không mất mát gì nếu muốn
chuyển nguồn vốn của mình ra khỏi ngân hàng và đầu tư vào một nơi khác.
d. Năng lực thương lượng của các nhà cung cấp
Khái niệm nhà cung cấp trong ngành ngân hàng khá đa dạng. Họ có thể là những cổ
đông cung cấp vốn cho ngân hàng hoạt động, hoặc là những công ty chịu trách

nhiệm về hệ thống hoặc bảo trì máy ATM. Hiện tại ở Việt Nam các ngân hàng
thường tự đầu tư trang thiết bị và chọn cho mình những nhà cung cấp riêng tùy theo
điều kiện. Điều này góp phần giảm quyền lực của nhà cung cấp thiết bị khi họ
không thể cung cấp cho cả một thị trường lớn mà phải cạnh tranh với các nhà cung
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 6
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
cấp khác. Tuy nhiên khi đã tốn một khoản chi phí khá lớn vào đầu tư hệ thống,
ngân hàng sẽ không muốn thay đổi nhà cung cấp vì quá tốn kém, điều này lại làm
tăng quyền lực của nhà cung cấp thiết bị đã thắng thầu.
Quyền lực của các cổ đông trong ngành ngân hàng thì như thế nào? Không nhắc
đến những cổ đông đầu tư nhỏ lẻ thông qua thị trường chứng khoán mà chỉ nói đến
những đại cổ đông có thể có tác động trực tiếp đến chiến lược kinh doanh của một
ngân hàng. Nhìn chung hầu hết các ngân hàng Việt Nam đều nhận đầu tư của một
ngân hàng khác. Quyền lực của nhà đầu tư sẽ tăng lên rất nhiều nếu như họ có đủ
cổ phần và việc sáp nhập với ngân hàng được đầu tư có thể xảy ra. Ở một khía cạnh
khác, ngân hàng đầu tư sẽ có một tác động nhất định đến ngân hàng được đầu tư.
e. Cường độ cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành
Trong năm 2008, McKinsey dự báo doanh số của lĩnh vực ngân hàng bán lẻ ở Việt
Nam có thể tăng trưởng đến 25% trong vòng 5-10 năm tới, đưa Việt Nam trở thành
một trong những thị trường ngân hàng bán lẻ có tốc độ cao nhất châu Á. Tuy khủng
hoảng kinh tế làm cho tốc độ tăng trưởng chậm lại, tác động xấu tới ngành ngân
hàng nhưng thị trường Việt Nam chưa được khai phá hết, tiềm năng còn rất lớn.
Ảnh hưởng tạm thời của cuộc khủng hoảng kinh tế sẽ khiến cho các ngân hàng gặp
khó khăn trong việc tìm kiếm khách hàng mới, dẫn đến việc cường độ cạnh tranh sẽ
tăng lên. Nhưng khi khủng hoảng kinh tế qua đi, với một thị trường tiềm năng còn
lớn như Việt Nam, các ngân hàng sẽ tập trung khai phá thị trường, tìm kiếm khách
hàng mới, dẫn đến cường độ cạnh tranh có thể giảm đi.
Cường độ canh tranh của các ngân hàng càng tăng cao khi có sự xuất hiện của
nhóm ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Ngân hàng nước ngoài thường sẵn có một
phân khúc khách hàng riêng, đa số là doanh nghiệp từ nước họ. Họ đã phục vụ

những khách hàng này từ rất lâu ở những thị trường khác và khi khách hàng mở
rộng thị trường sang Việt Nam thì ngân hàng cũng mở văn phòng đại diện theo.
Ngân hàng ngoại cũng không vướng phải những rào cản mà hiện nay nhiều ngân
hàng trong nước đang mắc phải, điển hình là hạn mức cho vay chứng khoán, nợ
xấu trong cho vay bất động sản. Họ có lợi thế làm từ đầu và có nhiều chọn lựa
trong khi với không ít ngân hàng trong nước thì điều này là không thể. Ngoài ra,
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 7
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
ngân hàng ngoại còn có không ít lợi thế như hạ tầng dịch vụ hơn hẳn, dịch vụ khách
hàng chuyên nghiệp, công nghệ tốt hơn (điển hình là hệ thống Internet banking).
Quan trọng hơn nữa, đó là khả năng kết nối với mạng lưới rộng khắp trên nhiều
nước của ngân hàng ngoại. Để cạnh tranh với nhóm ngân hàng này, các ngân hàng
trong nước đã trang bị hệ thống hạ tầng công nghệ, sản phẩm dịch vụ, nhân sự...
khá quy mô. Lợi thế của ngân hàng trong nước là mối quan hệ mật thiết với khách
hàng có sẵn. Ngân hàng trong nước sẵn sàng linh hoạt cho vay với mức ưu đãi đối
với những khách hàng quan trọng của họ.
2. Phân tích chu kỳ phát triển của ngành
Cho đến nay, ngành ngân hàng nước ta đã trải qua hơn 55 năm xây dựng và phát
triển, với nhiều chặng đường gay go và phức tạp nhưng vẫn ổn định và phát triển
tốt. Đặc biệt là chặng đường từ năm 1986 cho đến nay, chặng đường đổi mới căn
bản và toàn diện của hệ thống ngân hàng VN. Nghị định 53/HĐBT ngày 26/3/1988
đổi mới mô hình tổ chức bộ máy ngân hàng VN, với sự ra đời của hệ thống ngân
hàng chuyên doanh. Đến năm 1990, cơ chế đổi mới ngân hàng được hoàn thiện
thông qua việc công bố hai Pháp lệnh ngân hàng vào ngày 24/5/1990 (Pháp lệnh
Ngân hàng Nhà nước VN và Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty
tài chính) đã chính thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống NHVN từ “một
cấp” sang “hai cấp”. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực thi nhiệm vụ
quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng, là ngân
hàng duy nhất được phát hành, là ngân hàng của các ngân hàng, là ngân hàng của
Nhà nước…, còn hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, dịch vụ ngân hàng do các

tổ chức tín dụng thực hiện. Các tổ chức tín dụng bao gồm: ngân hàng thương mại
quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài, hợp tác xã tín dụng, công ty tài chính. Tháng 12/1997 trước yêu
cầu cao của thực tiễn hai Pháp lệnh ngân hàng đã được Quốc hội nâng lên thành hai
luật về ngân hàng (có hiệu lực từ ngày 1/10/1998) và sau đó Luật NHNN và Luật
các TCTD được sửa đổi và bổ sung vào năm 2003, 2004.
Như vậy, hệ thống ngân hàng thương mại VN đã chính thức đánh dấu sự ra đời và
phát triển khoảng trên 19 năm (từ 1990 đến nay). Trải qua chặng đường trên, hệ
thống NHTM VN đã không ngừng phát triển về quy mô (vốn điều lệ không ngừng
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 8
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
gia tăng, mạng lưới chi nhánh…), chất lượng hoạt động và hiệu quả trong kinh
doanh.
Mạng lưới ngân hàng thương mại VN đến cuối năm 2005 đã có những buớc phát
triển mạnh phủ khắp quận huyện và hình thành cả trong các trường học. Hệ thống
NHTM ở nước ta bao gồm: 5 NHTM nhà nước (Ngân hàng ngoại thương VN,
Ngân hàng đầu tư và phát triển VN, Ngân hàng công thương VN, Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu
Long), 36 NHTM cổ phần đô thị và nông thôn, 29 chi nhánh ngân hàng nước ngoài,
04 ngân hàng liên doanh. Trong đó Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
VN có mạng lưới rộng nhất với hơn 100 chi nhánh cấp 1 và 2000 chi nhánh cấp 2-4
phủ khắp huyện và cả hệ thống ngân hàng lưu động.
Vốn điều lệ của các NHTM VN không ngừng gia tăng, NHTMNN sau nhiều lần bổ
sung vốn đã nâng tổng vốn chủ sở hữu của 05 NHTMNN lên trên 20.000 tỷ đồng
tăng gấp 3 lần so với thời điểm cuối năm 2000. Vốn điều lệ của NHTMCP được
gia tăng đáng kể từ lợi nhuận giữ lại, sáp nhập, các quỹ bổ sung vốn điều lệ, phát
hành thêm cổ phiếu… từ đó giúp tổng vốn điều lệ NHTMCP đến cuối năm 2005
tăng gấp 5 lần so với năm 2000, nhiều NHTMCP có vốn điều lệ trên 500 tỷ đồng-
1000 tỷ đồng.
Hệ thống NHTM VN đã có những đóng góp quan trọng cho sự ổn định và tăng

trưởng kinh tế ở nước ta trong nhiều năm qua. Với nhiều hình thức huy động vốn
tương đối đa dạng, NHTM VN đã huy động vốn hàng trăm tỷ đồng (năm 2005 tăng
gấp 30 lần so với năm 1990-trên 600.000 tỷ đồng, tại TP.HCM các NHTM huy
động đến cuối năm 2005 là 184.600 tỷ đồng gấp 2,8 lần so với năm 2001) từ các
nguồn vốn trong xã hội, tăng dư nợ cho vay với mọi thành phần kinh tế (dư nợ năm
2005 tăng 40 lần so với năm 1990, tại TP.HCM dư nợ cho vay cuối năm 2005 của
các NHTM 170.200 tỷ đồng gấp 3 lần so với năm 2001), tăng đầu tư vào những
chương trình trọng điểm quốc gia, qua đó góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, kiểm soát lạm phát, thúc
đẩy kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ cao (GDP tăng bình quân 7.5% trong 5
năm 2001-2005), góp phần tạo công ăn việc làm cho xã hội (trong 5 năm 2001-
2005 cả nước tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động), góp phần xóa đói giảm nghèo (tỷ
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 9
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
lệ hộ nghèo còn 7%) và làm giàu hợp pháp. Nhiều dịch vụ tiện ích (chi lương, thu
chi hộ, thanh toán chuyển khoản, chuyển tiền tự động, dịch vụ ngân hàng điện tử,
dịch vụ thẻ…) và nhiều sản phẩm mới xuất hiện đã đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
dân cư và sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh tế…
Hiệu quả kinh doanh của các NHTM VN nhìn chung có những chuyển biến tích
cực, lợi nhuận tăng trưởng khá cao, có những NHTM tỷ suất lợi nhuận ròng trên
vốn tự có (ROE) đạt trên 20%, riêng tại TP.HCM kết thúc năm 2005 các NHTM đã
có những kết quả kinh doanh (thu nhập-chi phí) tăng khá cao so với năm 2004
(NHTMNN tăng 73,9%, NHTMCP tăng 41,3%), dư nợ tồn đọng giảm dần. Ngân
hàng nước ta đang trải qua thời kỳ khá phát triển
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực hệ thống NHTM VN vẫn còn quá nhiều
điểm yếu kém và tồn tại. Trong bài phát biểu tại buổi lễ kỷ niệm 55 năm ngày
thành lập ngành ngân hàng VN (1951-2006) nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải đã
phát biểu “Hệ thống chính sách, pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng chưa
đáp ứng được yêu cầu đổi mới triệt để, toàn diện ngành ngân hàng và hội nhập kinh
tế quốc tế… sức cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của hệ thống ngân hàng VN

còn yếu...”. Vì vậy, để NHTM VN có thể đứng vững trong xu thế hội nhập, thực
hiện các cam kết trong thỏa thuận khung về dịch vụ trong khối ASEAN, các cam
kết trong Hiệp định thương mại song phương VN-Hoa Kỳ (BTA), và những nghĩa
vụ khi VN gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO
3. Phân tích môi trường quốc gia và toàn cầu
a. Môi trường trong nước:
- về dân số và thói quen người tiêu dùng
Việt nam hiện có hơn 85 triệu người, trong đó hơn 75% là dân số trẻ. Lớp trẻ, từ 21
đến 29 tuổi, đóng vai trò chủ đạo trong việc định hình thị trường ngân hàng bán lẻ,
tuy nhỏ bé nhưng đang rất phát triển tại Việt Nam. So với thế hệ trước, những
người trẻ tuổi không ngại vay tiền ngân hàng và có xu hướng thích sử dụng kênh
phân phối sản phẩm theo kiểu “điều khiển từ xa”. Theo kết quả nghiên cứu 13.000
khách hàng của các ngân hàng trong khu vực thì khoảng cách về sở thích và và thói
quen tiêu dùng giữa 2 thế hệ ở Việt Nam có độ khác biệt rõ ràng hơn hẳn so với 11
nước châu Á khác.
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 10
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
Mặc dù thị trường ngân hàng bán lẻ ở Việt Nam phát triển khá mạnh trong những
năm gần đây, nhưng qui mô vẫn còn khiêm tốn. Tài sản ngân hàng Việt Nam
khoảng 75 tỉ USD (khoảng 123%GDP) vào cuối năm 2006, trong khi đó, ở Thái
Lan là 226 tỉ USD (110% GDP) và ở Malaysia là 302 tỉ USD (195% GDP). Chỉ có
10% người dân Việt Nam có giao dịch với ngân hàng. Tuy nhiên, cũng như các khu
vực kinh tế khác, ngành ngân hàng Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng. Theo dự đoán,
doanh thu từ ngành ngân hàng bán lẻ sẽ tăng khoảng 25% mỗi năm trong vòng 5-10
năm tới. Việt Nam sẽ trở thành 1 trong những thị trường có tốc độ tăng trưởng
nhanh nhất châu Á nhờ vào nền kinh tế năng động có tốc độ tăng trưởng gần bằng
Trung Quốc và Ấn Độ, với mức thu nhập đầu người đang tăng và các dịch vụ ngân
hàng còn chưa thâm nhập sâu.
Theo kết quả của khảo sát, đối tượng từ 21 đến 29 tuổi tiếp cận với nhiều sản
phẩm ngân hàng hơn những đối tượng ngoài 29 tuổi; cụ thể 2,3 sản phẩm/người trẻ

tuổi so với 1,9 sản phẩm/người lớn tuổi. 90% người trẻ tuổi có tài khoản tiết kiệm,
trong khi đó, chỉ 55% những người ngoài 30 có tài khoản. 89% người trẻ tuổi có
thẻ tín dụng, so với 40% những đối tượng khác của cuộc khảo sát. Lớp trẻ còn sẵn
sàng sử dụng các kênh phân phối “điều khiển từ xa” như điện thoại hay Internet,
nếu như các ngân hàng đảm bảo được vấn đề an toàn và bảo mật. Lớp trẻ còn sẵn
sàng vay tiền từ ngân hàng hơn, 45% những người trẻ tuổi đồng ý rằng vay ngân
hàng sẽ cải thiện cuộc sống của họ, trong khi đó, chỉ 31% đối tượng ở độ tuổi ngoài
30 có cùng ý kiến. Thanh niên không còn giữ quan điểm cũ như thế hệ trước của họ
rằng đi vay tiền là thiếu khôn ngoan và không an toàn.
Theo Kết khảo sát cho thấy sự khác biệt rõ rệt về thói quen tiêu dùng giữa các vùng
địa lý ở Việt Nam. Những người sống ở thành phố Hồ Chí Minh có thái độ và cách
nhìn thoáng hơn người Hà Nội. 42% những người được hỏi ở thành phố Hồ Chí
Minh trả lời rằng họ sẽ sử dụng các dịch vụ ngân hàng từ xa so với 24% ở Hà Nội.
Chỉ có 39% người ở miền Nam cho rằng việc vay tiền từ ngân hàng là thiếu khôn
ngoan trừ vay tiền để mua nhà so với 46% người miền Bắc có cùng ý kiến
- về pháp luật:
Sự thay đổi luật pháp luôn ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất kinh doanh
cho các pháp nhân kinh tế, do vậy sự thay đổi này ảnh hưởng mạnh đến hoạt động
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 11
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
của ngân hàng. Hợp đồng tín dụng là hợp đồng có thời hạn và được ký kết trước
hoặc sau khi có văn bản pháp luật ban hành và có hiệu lực, do vậy nếu nội dung
một hợp đồng tín dụng ký kết trước khi văn bản pháp luật ban hành mà trái với nội
dung của văn bản pháp luật đó thì rất dễ dàng nhận lấy rủi ro. Đối với doanh nghiệp
nếu bị một văn bản pháp luật chi phối các hành vi hợp đồng mà họ đã ký kết thì
nhất định việc kinh doanh của họ sẽ gặp nhiều khó khăn và những khó khăn này sẽ
dẫn đến việc họ sẽ không trả được nợ cho ngân hàng. Môi trường pháp lý còn gây
rủi ro cho ngân hàng khi môi trường pháp lý đó chưa hoàn thiện hoặc cách thức thi
hành còn chưa đảm bảo tính thời gian, tính nghiêm minh, phát sinh nhiều chi phí do
thủ tục tố tụng kéo dài.

Ngoài Pháp lệnh ngân hàng và các văn bản liên quan, việc thực hiện và giải quyết
các hợp đồng tín dụng khi đáo hạn còn chịu sự chi phối của Bộ Luật dân sự, Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (26/03/1994), Pháp lệnh thi hành án
(17/04/1993), Luật Phá sản Doanh nghiệp… Do đó khi nợ đáo hạn, nếu con nợ mất
khả năng chi trả hoặc cố tình trốn tránh thanh toán nợ thì ngân hàng chỉ có con
đường hợp pháp duy nhất là khởi kiện trước tòa án có thẩm quyền. Vấn đề tố tụng
trước tòa án hiện nay quá nhiêu khê và thường kéo dài qua nhiều giai đoạn làm mất
nhiều thời gian, dễ dàng tạo điều kiện thuận lợi cho con nợ có ý đồ, đồng thời gây
thiệt hại lớn cho ngân hàng. Tình trạng này thường làm cho ngân hàng phải chịu
đọng vốn trong lúc ngân hàng phải chịu lãi suất cho người gửi. Đây là một thiệt hại
lớn cho ngân hàng chưa kể các chi phí phát sinh trong thủ tục tố tụng. Chính sách
tiền tệ của Ngân hàng đặc biệt là chính sách lãi suất, chính sách tín dụng đều có liên
quan và ảnh hưởng mạnh đến hoạt động ngân hàng. Khi ngân hàng Nhà nước hạ lãi
suất có thể dẫn đến các ngân hàng thương mại không thu hút được vốn tiền mặt và
có thể mất khả năng thanh toán.
- về công nghệ:
Công nghệ cao đang được áp dụng ngày càng nhiều trong kinh doanh, đặc biệt
trong các tổ chức cung ứng dịch vụ có liên quan đến việc giao dịch trực tiếp đối với
khách hàng như ngân hàng, môi giới chứng khoán, v.v… Công nghệ giao dịch với
công nghệ thông tin đã được các nước tiên tiến vận dụng và phát triển với tốc độ
cao trong lĩnh vực dịch vụ như thanh toán điện tử, InternetBanking, thanh toán Thẻ,
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 12
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
chuyển tiền điện tử... nhằm nâng cao công suất dịch vụ, tiết kiệm chi phí nhân
công, chi phí cho dịch vụ, mở rộng giao diện với khách hàng và quản lý tốt hơn dữ
liệu về khách hàng, đáp ứng yêu cầu của khách hàng tốt hơn về chất lượng dịch vụ
cũng như thời gian. Sự hài lòng của khách hàng đối với dịch vụ giao dịch được
hiểu là sự thoả mãn của khách hàng trong khoảng thời gian giao dịch trực tiếp với
doanh nghiệp dịch vụ kể cả sự có mặt hoặc không có mặt của nhân viên doanh
nghiệp dịch vụ.

Việc áp dụng công nghệ cao trong dịch vụ giao dịch là xu hướng phát triển tất yếu
trên con đường hội nhập, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng. Hiện nay, hệ thống
ngân hàng Việt Nam chủ yếu vẫn áp dụng hình thức dịch vụ giao dịch trực diện
giữa khách hàng và nhân viên giao dịch (kiểu giao dịch ngân hàng truyền thống).
Hình thức này có thể phù hợp trong giai đoạn nhất định, song với sự phát triển ồ ạt
của công nghệ tiên tiến, các Ngân hàng cần xem xét chiến lược áp dụng công nghệ
hiện đại để giúp khách hàng tiết kiệm thời gian, công sức, tiền bạc và tránh được
thái độ quan liêu, cửa quyền, thờ ơ của nhân viên phục vụ trong giao dịch. Có thể
nói, thanh toán là một trong những lĩnh vực được quan tâm nhiều nhất. Nhiều
người kỳ vọng, sự phát triển không ngừng của công nghệ sẽ giải quyết được các
câu hỏi hóc búa lâu nay như làm sao để thiết lập liên minh thanh toán giữa các NH,
làm sao để thúc đẩy sự kết nối giữa NH với các thành phần kinh tế chủ chốt, đặc
biệt là các lĩnh vực liên quan đến thương mại điện tử, bán lẻ, chứng khoán, viễn
thông cũng như khắc phục thách thức do sự khác biệt về trình độ quản lý và ứng
dụng công nghệ của NH,….
- Về kinh tế và chính trị:
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới tiếp tục được thực hiện toàn diện
và sâu sắc hơn. Kinh tế tăng trưởng nhanh, 5 năm qua GDP tăng bình quân 7,5%,
kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm tới được Quốc hội thông qua, phấn đấu
sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển. Về kinh tế, dự kiến tốc độ
tăng GDP đạt tối thiểu 7.5-8.0%/ năm. Với tốc độ tăng trưởng đó, tới năm 2010
GDP của Việt nam sẽ đạt xấp xỉ 100 tỷ USD, GDP trên đầu người sẽ tăng từ 640
USD năm 2005 lên 1050-1100 USD. Khi đó nước ta sẽ vượt qua ngưỡng nước
đang phát triển có thu nhập thấp để ghi tên mình vào nhóm nước có thu nhập trung
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 13

×