Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Đánh giá kết quả tham gia các FTA của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.21 KB, 21 trang )

1. Đánh giá kết quả tham gia các FTA của Việt Nam
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu, mở rộng tự do hóa thương mại, làn
sóng ký kết các Hiệp định thương mại tự do (FTA) đang trở nên mạnh mẽ trên
khắp thế giới và trở thành một xu thế mới trong quan hệ kinh tế quốc tế. Khơng
nằm ngồi xu thế đó, trong những năm qua Việt Nam đã rất nỗ lực, tích cực tham
gia ký kết nhiều Hiệp định FTA, mở ra nhiều cơ hội phát triển kinh tế - xã hội. Đến
nay, Việt Nam đã chính thức tham gia, đã ký kết 10 FTA: bao gồm:
- 6 FTA ký kết với tư cách là thành viên ASEAN (gồm AFTA, 5 FTA giữa
ASEAN và các đối tác: Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Úc và
Niu Dilân).
- 4 FTA đàm phán với tư cách là một bên độc lập (gồm FTA với các đối tác:
Chile, Nhật Bản, Hàn Quốc, Liên minh Kinh tế Á Âu).
- Vừa hoàn tất đàm phán 2 FTA (gồm FTA với Liên minh Châu Âu và Hiệp
định Đối tác Chiến lược xuyên Thái Bình Dương - TPP).
- Đang tiếp tục đàm phán 3 FTA, gồm: FTA ASEAN– Hồng Kông (Trung
Quốc), FTA với Khối thương mại tự do Châu Âu (EFTA), Hiệp định đối tác
kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).
Đặc biệt, từ giữa năm 2012, tiến trình đàm phán tham gia các Hiệp định FTA
đã được đẩy mạnh hơn. Đến cuối năm 2014, Việt Nam và các đối tác đã kết thúc
đàm phán 3 Hiệp định FTA song phương và đa phương: Hiệp định FTA Việt Nam
với EU (EVFTA), với Hàn Quốc (VKFTA), với Liên minh Hải quan Nga - Belarus
- Kazakhstan (VCUFTA). Đây là dấu ấn rất quan trọng của Việt Nam trên con
đường hội nhập ngày càng sâu hơn với kinh tế thế giới.
Đánh giá về kết quả tham gia một số FTA của Việt Nam như sau:
I.1. FTA ASEAN- Hàn Quốc
a. Thương mại song phương


Là thị trường xuất khẩu lớn thứ 5 và thị trường nhập khẩu lớn thứ 2, Hàn Quốc
luôn là đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam, chỉ sau Trung Quốc, Mỹ và
Nhật Bản. Tốc độ tăng trưởng bình quân kim ngạch thương mại song phương Việt


Nam-Hàn Quốc trong 10 năm qua (2001-2010) là rất cao, đạt trên 23%. Trong 11
tháng năm 2010, Việt Nam đã xuất khẩu 2,7 tỷ USD hàng hóa sang thị trường Hàn
quốc, chiếm 4,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, tăng 45,94% so
với 11 tháng năm 2009.
Hiệp định giữa Hàn Quốc và các thành viên ASEAN bắt đầu có hiệu lực trong
lĩnh vực thương mại hàng hóa năm 2007, dịch vụ và đầu tư năm 2009. ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á - bao gồm 10 nước: Brunei, Campuchia,
Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt
Nam. Hàn Quốc xóa bỏ 70% các loại thuế nhập khẩu năm 2007 và hoàn tất cam
kết cắt giảm thuế sớm trong năm 2010 cho 10 thành viên ASEAN, trong khi Việt
Nam đặt mục tiêu hoàn tất cam kết cắt giảm thuế từ mức hiện hành 7- 20% xuống
còn 5-0% vào năm 2018. Việc cắt giảm này sẽ có hiệu lực đối với ½ tổng số các
dịng thuế vào năm 2015. Việt Nam có mức thâm hụt thương mại cao với Hàn
Quốc. Tuy nhiên, Việt Nam hy vọng rằng Hiệp định này sẽ mang lại FDI và sẽ góp
phần làm giảm thâm hụt cũng như tăng cường xuất khẩu.
Thương mại giữa Hàn Quốc và Việt Nam nhảy vọt lên 9 tỷ USD năm 2009
từ mức 490 triệu USD năm 1992, trong khi tổng đầu tư của Hàn Quốc vào Việt
Nam đạt trên 11 tỷ USD tính đến tháng 10/2008. Đến cuối năm 2010, thương mại
song phương dự kiến sẽ tăng trên 10 tỷ USD và lên đến 20 tỷ USD vào năm 2015.
Sau khi có Hiệp định, giá trị trao đổi thương mại đã có bước nhảy vọt cả về xuất
khẩu và nhập khẩu. Theo thống kê của cơ quan hải quan, thương mại song phương
đạt 4,2 tỷ USD năm 2005, 4,7 tỷ USD năm 2006, 6,6 tỷ USD năm 2007 và 9,9 tỷ
USD năm 2008 bất kể những khó khăn phát sinh do cuộc khủng hoảng kinh tế toàn


cầu (bảng 1). Năm 2009, tổng kim ngạch thương mại hai chiều giảm 8,5% xuống
còn 9 tỷ USD do những tác động trực tiếp của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu.

Bảng 1: Thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Hàn Quốc 2004-2009 (triệu
USD)
Việt Nam bị thâm hụt trong thương mại hàng hóa với Hàn Quốc lên tới 4,8

tỷ USD năm 2009, còn cao hơn tổng xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc trong
suốt giai đoạn 2005-2008. Hàn Quốc là nước nhập khẩu đứng thứ 7 về hàng hóa
của Việt Nam, tuy nhiên đồng thời là nước xuất khẩu thứ nhất sang Việt Nam. Hàn
Quốc là đối tác thương mại lớn thứ 4 của Việt Nam năm 2009. Năm 2009, gần
9.800 doanh nghiệp Việt Nam có doanh thu thương mại với Hàn Quốc.
Theo thông kê của Tổng cục Hải quan, kim ngạch thương mại hai chiều lên tới
4.3 tỷ USD ngay từ đầu năm 2010 cho đến hết tháng 5, tăng 41,2% so với cùng kỳ
năm 2009. Cụ thể, Việt Nam nhập 3,4 tỷ USD hàng hóa từ Hàn Quốc, chiếm tới
10,8% tổng giá trị nhập khẩu, trong khi xuất khẩu được 900 triệu USD sang Hàn
Quốc, tăng 32,4% tính theo mức hàng năm và chiếm 3,6% tổng giá trị xuất khẩu
của Việt Nam. 28 Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc đạt gần 26%
mức nhập khẩu từ Hàn Quốc năm 2009. Xuất khẩu của Việt Nam tăng 32,5% trong
7 tháng đầu năm 2010 trong khi mức tăng trưởng xuất khẩu bình quân của các


nước thành viên ASEAN khác chỉ khoảng 24% trong cùng thời kỳ. Xuất khẩu của
Việt Nam sang Hàn Quốc tăng 16,3% năm 2009.
b. Xu hướng và cơ cấu FDI của Hàn Quốc vào Việt Nam
Các công ty của Hàn Quốc đã đăng ký tới 20,15 tỷ USD cho hơn 2.200 dự
án trong giai đoạn từ năm 1988 đến tháng 7/2009.
Theo một báo cáo của KOTRA, hơn 1.000 doanh nghiệp Hàn Quốc hiện
đang chủ động tìm kiếm cơ hội kinh doanh và đầu tư ở Việt Nam và tạo ra hơn
200.000 việc làm. Hơn 500.000 người Hàn Quốc đang cư trú ở Việt Nam. Chỉ
riêng năm 2006 đã có khoảng 430.000 du khách Hàn Quốc tới Việt Nam. Hai nước
đang tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực công nghệ thông tin và kỹ thuật cao.
Việt Nam mong muốn tăng cường hợp tác với Hàn Quốc trong các lĩnh vực chủ
chốt như đóng tàu, luyện thép, hóa chất, ơ tơ, xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng.
Năm 2006, các công ty dệt may Hàn Quốc gia tăng mạnh đầu tư vào Việt
Nam tới 53,7% so với năm trước. Sự gia tăng này khiến Việt Nam trở thành điểm
đến đầu tư lớn thứ hai của ngành dệt may Hàn Quốc, chỉ sau Trung Quốc. Trong số

20 nhà xuất khẩu dệt may hàng đầu của Việt Nam, 6 công ty đến từ Hàn Quốc. Sự
gia tăng mạnh đầu tư vào ngành dệt may của Việt Nam có thể bởi các lý do chi phí
lao động rẻ, đội ngũ lao động có tay nghề của Việt Nam, nhiều ưu đãi đối với đầu
tư nước ngồi và ý chí mạnh mẽ của chính phủ Việt Nam trong việc thu hút các
nhà đầu tư nước ngoài. Năm 2008, Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn thứ hai vào ngành
dệt may của Việt Nam chỉ sau Đài Loan, với tổng mức đầu tư là 737 triệu USD.
Hàn Quốc là nước nhập khẩu hàng dệt may lớn thứ 6 của Việt Nam trong năm
2008, với tổng doanh thu đạt 139 triệu USD. Trong nửa đầu năm 2009, bất kể
khủng hoảng kinh tế, nhập khẩu của Hàn Quốc từ Việt Nam lên tới 77 triệu USD,
tăng 43% so với cùng kỳ năm trước.


AKFTA đã mang lại cơ hội cho Việt Nam xuất khẩu nhiều hơn linh kiện điện thoại,
gỗ dăm keo (wood chips) và các sản phẩm này cũng làm gia tăng đầu tư từ Hàn
Quốc. Kotra cho biết xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc về các mặt hàng này
tăng tương ứng 98,6 và 600% từ tháng 1 đến tháng 7/2010 trong khi các mặt hàng
truyền thống như thủy sản, giày dép và nông sản tăng ổn định. Đến nay, hãng điện
tử khổng lồ Samsung của Hàn Quốc đã xuất khẩu 1 tỷ USD trị giá hàng hóa từ nhà
máy sản xuất điện thoại di động của hãng đặt tại tỉnh Bắc Ninh có vốn đầu tư 670
triệu USD và đã bắt đầu hoạt động từ tháng 9/2009. Việt Nam được coi là đối tác
tốt nhất của Hàn Quốc trong khu vực Đông Nam Á.
I.2.

Hiệp định FTA Việt Nam – Chi Lê

Theo thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam, 7 tháng đầu năm 2014, kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Chi Lê đạt trên 250 triệu USD, tăng 102% so
với cùng kỳ năm 2013 và kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Chi Lê đạt 203
triệu USD, tăng 12% so với cùng kỳ năm 2013. Đây là lần đầu tiên Việt Nam vươn
lên vị trí xuất siêu, chấm dứt một giai đoàn dài nhập siêu từ Chi Lê.

Bảng 1: Diễn biến xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Chi Lê năm 2007 đến 2013


Nguồn: Tổng cục Hải quan Việt Nam
Như vậy, Hiệp định FTA Việt Nam – Chi Lê có hiệu lực từ ngày 1/1/2014 đã
tạo ra bước đột phá cho hàng hoá của Việt Nam thâm nhập không chỉ thị trường
Chi Lê mà còn lan toả ra cả khu vực Mỹ Latinh cũng như hàng hoá Chi Lê thâm
nhập thị trường Việt Nam và ASEAN.
Trước đây, dù chưa có hiệp định thương mại tự do, hàng hoá của Viêt Nam
phải chịu thuế nhập khẩu vào Chi Lê (trung bình là 6%) và hàng hóa của Chi Lê
nhập khẩu vào Việt Nam cịn phải chịu thuế suất cao, song kim ngạch xuất nhập
khẩu hai chiều giữa hai nước đã liên tục tăng trưởng, ngay cả trong thời kỳ khủng
hoảng kinh tế thế giới trong mấy năm vừa qua, từ mức 157 triệu USD năm 2007
lên 473 triệu USD năm 2011. Hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Chi Lê hiện nay
chủ yếu là giày dép và quần áo, chiếm khoảng 63% tổng kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam sang chi Lê (số liệu năm 2011). Danh mục xuất khẩu của Việt Nam sang
Chi Lê hiện có tới trên 40 mặt hàng. Tuy nhiên, trừ giầy dép và quần áo ra, giá trị
kim ngạch của các nhóm hàng khác cịn rất nhỏ, chỉ từ vài nghìn đến trên trăm


nghìn USD/năm và chỉ chiếm 37% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào
Chi Lê.
Kim ngạch xuất khẩu của Chi Lê sang Việt Nam năm 2011 đạt 335,7 triệu
USD, bằng 0,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của Chi Lê và 0,31% kim ngạch nhập
khẩu của Việt Nam. Các mặt hàng xuất khẩu chính của Chi Lê sang Việt Nam gồm:
đồng và quặng đồng và các khoảng sản khác (chiếm gần 80%…% tổng kim ngạch
xuất khẩu của Chi Lê sang Việt Nam); gỗ thông và bột giấy; bột cá; hoa quả tươi;
cá hồi; rượu vang. Các mặt hàng xuất khẩu của Chi Lê vào thị trường Việt Nam
tăng trung bình 37%/năm trong vòng 5 năm qua. Riêng rượu vang của Chi Lê đã
có thị phần lớn thứ hai tại thị trường Việt Nam (sau rượu vang Pháp).

Cơ cấu kinh tế, xuất nhập khẩu của Việt Nam và Chi Lê có ít những mặt
hàng cạnh tranh nhau, chủ yếu có tính bổ sung cho nhau. Hiệp định thương mại tự
do Việt Nam -Chi Lê có hiệu lực chắc chắn sẽ tạo ra những cơ hội to lớn cho tăng
trưởng thương mại giữa hai nước. Các mặt hàng như giầy dép, quần áo, đồ gỗ, cà
phê của Việt Nam cũng như cá hồi, nho, sê-ri, gỗ thông và bột giấy ..của Chi Lê
được dự báo sẽ có cơ hội tăng kim ngạch do được giảm thuế nhập khẩu. Ngồi ra,
Việt Nam cịn được kỳ vọng là cửa ngõ cho hàng hóa Chi Lê thâm nhập thị trường
ASEAN và Chi Lê là cửa ngõ cho hàng Việt Nam vào Mỹ Latinh.
Đáng chú ý là các tập đoàn siêu thị lớn của Chi Lê như: Tập đoàn Cencosud,
Felabella Tập đoàn Sodimac..đang triển khai các dự án đầu tư hàng tỉ USD sang
các nước Nam Mỹ khác (như: Achentia, Braxin, Côlômbia, Pêru, …). Thực tế, đã
có nhiều mặt hàng của Việt Nam theo chân các tập đồn này để có mặt ở các nước
Nam Mỹ khác (như mặt hàng: quần áo, giầy ép, đồ nhựa, hàng thủ cơng mỹ
nghệ… ). Vì vậy, hồn tồn có thể khẳng định, khi hàng hóa của Việt Nam đã khai


thơng được thị trường Chi Lê thì sẽ có sức lan tỏa ra các nước khác của khu vực
Mỹ Latinh.
I.3.

Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA)

Nhật Bản là một trong những thị trường lớn nhất thế giới và là thị trường
thương mại quan trọng của Việt Nam. Trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của
Việt Nam với các thị trường trên thế giới thì Nhật Bản chiếm tỷ trọng lên đến 10%.
Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA) là hiệp định thương mại
tự do song phương đầu tiên kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO, với các nội dung
toàn diện về tự do hóa thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư..., VJEPA mở ra
những cơ hội mới cho hàng hóa Việt Nam vào thị trường Nhật Bản.
Về tổng thể, vào năm cuối của lộ trình giảm thuế (2026), tức là sau 16 năm

thực hiện VJEPA, Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế quan đối với 90,64% số dịng
thuế, trong đó xóa bỏ thuế quan ngay tại thời điểm VJEPA có hiệu lực đối với
29,14% số dịng thuế.
Theo nội dung FTA Việt Nam - Nhật Bản, thuế suất bình quân đối với hàng
Việt Nam xuất khẩu vào Nhật Bản sẽ giảm dần xuống 2,8% vào năm 2018. Khi
Hiệp định có hiệu lực, ít nhất 86% hàng nơng - lâm - thủy sản và 97% hàng công
nghiệp Việt Nam xuất sang Nhật Bản được hưởng ưu đãi thuế. Đổi lại, thuế suất
bình quân đối với hàng nhập khẩu từ Nhật Bản vào Việt Nam sẽ giảm dần, xuống
còn 7% vào năm 2018. Các mặt hàng thủy sản, nông sản, dệt may, sắt thép, hóa
chất, linh kiện điện tử có mức cam kết tự do hóa mạnh mẽ nhất. Trong vịng 10
năm, theo thỏa thuận, Việt Nam và Nhật Bản cơ bản hồn tất lộ trình giảm thuế để
xây dựng một khu vực thương mại tự do song phương hoàn chỉnh. Theo đó,


94,53%kimngạch xuất khẩu của ViệtNam và 87,6% kim ngạch xuất khẩu của Nhật
Bản sẽ được miễn thuế nhập khẩu.
Việc xóa bỏ phần lớn hàng rào thuế quan đã và đang mở ra cơ hội lớn cho hàng
Việt thâm nhập vào thị trường Nhật Bản, đồng thời cũng giúp các doanh nghiệp
(DN) nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ sản xuất.
Trong giai đoạn 2008-2014, Nhật Bản xếp thứ 4 trong các thị trường xuất nhập
khẩu của Việt Nam; trong đó, xếp thứ 2 về xuất khẩu và xếp thứ 3 về nhập
khẩu. Số liệu thống kê sơ bộ mới nhất của Tổng cục Hải quan , 8 tháng đầu năm
2015, tổng kim ngạch thương mại giữa 2 nước đạt gần 19 tỷ USD, giảm 21% so
với cùng kỳ của năm 2014. Trong đó, tổng trị giá hàng hóa các cơng ty Việt Nam
nhập khẩu hàng hóa xuất xứ từ Nhật Bản là 9,7 tỷ USD, tăng mạnh 22% so với
năm 2014 và chiếm 9% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ tất cả
các quốc gia, vùng lãnh thổ. Nhóm hàng máy móc, thiết bị và dụng cụ phụ tùng
khác được nhập nhiều nhất trong 8 tháng năm 2015 với trị giá 3,2 tỷ USD tăng
39% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, các nhóm mặt hàng máy vi tính, sản
phẩm điện tử và linh kiện... là một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu vào Việt

Nam khá cao, chiếm hơn 33% tổng kim ngạch nhập khẩu vào Việt Nam của các
mặt hàng có xuất xứ từ Nhật Bản.
Ở chiều ngược lại, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của các cơng ty Việt
Nam sang thị trường Nhật Bản trong 8 tháng năm 2015 đạt gần 9,3 tỷ USD, giảm
6% so với cùng kỳ năm trước đó và chiếm 9% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam. Trong 8 tháng từ đầu năm 2015, Nhật Bản là thị trường tiêu thụ quan trọng
đối với các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như: hàng dệt may (đạt 1,7
tỷ USD, tăng 6% so với năm 2014); dầu thô (đạt 489 triệu USD, giảm 62% so với
năm 2014); hàng thủy sản đạt 650 triệu USD …


Nhìn chung, lợi ích của doanh nghiệp Việt Nam thu được từ việc thực hiện
Hiệp định giữa Việt Nam và Nhật Bản về đối tác kinh tế (VJEPA) và FTA đã tham
gia trong những năm qua chưa phản ánh được tiềm năng thương mại trong nước.
Nguyên nhân là tỷ lệ vận dụng các hiệp định thương mại FTA của các doanh
nghiệp tại Việt Nam còn thấp, thường từ 25 – 36%.
I.4.

Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA)

Trung Quốc hiện là thị trường xuất nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam. Theo
cam kết mở cửa của ACFTA, Việt Nam sẽ xóa bỏ thuế quan của 90% số dòng thuế
trong vòng 10 năm. Việt Nam được giữ lại 456 dòng thuế gồm những mặt hàng
nhạy cảm và Trung Quốc có khả năng cạnh tranh rất cao như: trứng gia cầm,
đường, thuốc lá, động cơ, phương tiện vận tải, xăng dầu, sắt thép, vật liệu xây
dựng, một số mặt hàng liên quan đến an ninh quốc phòng. Trong khi đó, Trung
Quốc xóa bỏ thuế quan 95% số dịng thuế ngay từ năm 2011, số dòng thuế nhạy
cảm còn lại cũng được cam kết cắt giảm về 5% đến 50% vào cuối lộ trình là năm
2018.
Hiện tại, Trung Quốc cắt giảm cho Việt Nam 7.845 dòng thuế, chiếm 95,35%

tổng số dòng thuế và chiếm 91,59% tổng kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam. Số
dòng thuế còn lại sẽ được cắt giảm về 5% - 50% vào cuối năm 2018. Một số mặt
hàng Trung Quốc vẫn duy trì thuế suất gồm ngũ cốc và các sản phẩm từ ngũ cốc,
cà phê, gia vị, xăng dầu, phân bón, nhựa nguyên liệu, vải may mặc, nguyên liệu dệt
may, da giày, động cơ, máy móc thiết bị, ơ tơ, động cơ, bộ phận phụ tùng ô tô, đồ
nội thất...
Như vậy, xét về tổng quan, các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều lợi thế hơn khi
xuất khẩu vào Trung Quốc. Tuy nhiên dù có nhiều lợi thế hơn nhưng nhập siêu từ
Trung Quốc mỗi năm một lớn.


Trong giai đoạn 2010-2015, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa từ Việt Nam
sang Trung Quốc tăng trưởng bình quân 8,9%/năm. Năm 2014, kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc đạt hơn 13 tỷ USD, tăng 6,9% so với năm
2013 và chiếm gần 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ra thế giới.
Trong giai đoạn 2010-2015, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc
của Việt Nam tăng bình quân 22,5%/năm. Năm 2014, kim ngạch nhập khẩu từ
Trung Quốc là gần 37 tỷ USD, tăng 28,8% so với năm 2013, chiếm tỷ trọng 27,9%
trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hố của Việt Nam
Tình hình nhập siêu từ Trung Quốc gia tăng nhanh trong những năm qua. Năm
2012 Việt Nam nhập siêu 13,4 tỷ USD, năm 2013 nhập siêu 16,3 tỷ USD, năm
2014 nhập siêu 23,6 tỷ USD. Điều này cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam chưa
tận dụng được lợi thể do ký kết FTA này mang lại.
I.5. FTA Việt Nam - EU (EVFTA)
a. Về thương mại song phương
EU là một trong những thị trường nhập khẩu hàng hố chính của Việt Nam,
chiếm khoảng 18,6% kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Trong năm
2014 thương mại hai chiều tăng 8,8% so với 2013 chủ yếu là do tốc độ tăng
trưởng ấn tượng của hàng xuất khẩu Việt Nam vào EU tăng 14,7% . EU cũng là
đối tác thương mại lớn thứ hai của Việt Nam sau Trung Quốc (khơng tính

thương mại nội khối ASEAN). Trong năm 2014, thặng dư TM giữa Việt Nam
với EU(19 tỷ USD) đã giúp cân bằng đáng kể thâm hụt thương mại lớn của
Việt Nam với Trung Quốc và Hàn Quốc, dẫn đến thặng dư thương mại khoảng
2 tỷ USD. Năm 2014 đánh dấu một năm Việt Nam hưởng thặng dư thương mại
cao kỷ lục với EU. Trong khi đó, xuất khẩu của EU vào Việt Nam giảm 5,9%
trong năm 2014.


b. Về đầu tư trực tiếp
EU là một trong các nguồn đầu tư nước ngoài quan trọng của Việt Nam. Theo
Cục Đầu Tư Nước Ngoài thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các nhà đầu tư từ 23/ tổng
số 28 nước thành viên Liên minh châu Âu đã cam kết đầu tư FDI với giá trị là
19,1 tỷ usd vào 1566 dự án trong 25 năm vừa qua (tính đến hết năm 2014).
Trong năm 2014 EU là đối tác đầu tư đứng thứ 5 tại Việt Nam đã có 59 doanh
nghiệp EU đầu tư vào Việt Nam với số vốn FDI cam kết tổng cộng là 587,1 triệu
USD.
2. So sánh cam kết hội nhập AEC với TPP
1.Thuế
quan

AEC
-Về cắt giảm hoặc xóa bỏ thuế quan, các quốc
gia ASEAN thống nhất trong ATIGA thực hiện
theo cơ chế phân chia các loại hàng hóa thành 08
danh mục cắt giảm thuế quan khác nhau (thay vì
4 danh mục như trong Hiệp định CEPT) với các
lộ trình cắt giảm, xóa bỏ thuế quan chi tiết, linh
hoạt nhằm tiến tới xóa bỏ hồn tồn thuế quan
(mức thuế 0%) đối với tất cả các sản phẩm trong
quan hệ nội khối vào năm 2010 đối với ASEAN

6 và vào năm 2015, linh hoạt tới năm 2018 với
Vam phu chia, Lào, Mianma và Việt Nam
(CLMV)
-Hình thức tiến hành hoạt động tự do hóa
Thương mại hàng hóa trong AEC được quy định
tương đối linh hoạt và mở, thể hiện ưu đãi đối
với quốc gia kém phát triển hơn trong khu vực
như: kéo dài thời gian thực hiện lộ trình, được hỗ
trợ nhiều hơn về kỹ thuật, giảm bớt một số nghĩa
vụ…Ví dụ: các quốc gia CLMV được thực hiện
CEPT chậm hơn so với lộ trình chung theo
nguyên tắc –X.
- Cơ chế mềm dẻo nhưng rất cụ thể và rõ ràng.
- Cách thức thực hiện cắt giảm/xóa bỏ thuế quan
của AEC cũng tương đối đơn giản, hàng hóa căn
cứ theo mức thuế suất hiện tại sẽ được cắt giảm

Hiệp định TPP
-TPP đặt ra u cầu rất cao: xố bỏ tồn bộ
thuế nhập khẩu ngay khi Hiệp định TPP có
hiệu lực với lộ trình rất ngắn, trừ một tỷ lệ
nhất định nhóm các mặt hàng có thể có lộ
trình từ 3-5 năm, một số ít có lộ trình tối đa
10 năm.
-Hầu hết việc loại bỏ thuế quan đối hàng
công nghiệp sẽ được thực hiện ngay lập tức
-Các bên đồng ý xoá bỏ và cắt giảm thuế
quan và các rào cản phi thuế quan đối với
hàng hóa cơng nghiệp, xóa bỏ hoặc cắt giảm
thuế quan và các chính sách hạn chế khác về

hàng hố nơng nghiệp.
-Các tiếp cận ưu đãi được cung cấp thông
qua TPP sẽ tăng cường thương mại giữa các
quốc gia.
-. Các bên sẽ công bố tất cả các sắc thuế và
thơng tin khác liên quan đến thương mại
hàng hóa để đảm bảo rằng các doanh nghiệp
nhỏ và vừa cũng như các cơng ty lớn có thể
tận dụng lợi thế của TPP.
- Các bên tham gia TPP đưa ra các quy định
hạn chế việc cấp vốn ưu đãi từ chính phủ
hoặc các chính sách khác gây bóp méo
thương mại nơng sản.


dần từng bước giữa nhóm các danh mục hàng
hóa khác nhau để đạt mức thuế xuất xác định (05% đối với CEPT và ATIGA là 0%).
-Về các rào cản phi thuế quan, phương thức thực
hiện hoạt động này cũng được CEPT, ATIGA quy
định tương đối uyển chuyển với các bước tiến
hành cụ thể, ưu tiên các quốc gia CLMV được
kéo dài lộ trình xóa bỏ các rào cản phi thuế quan
trong danh sách đã được xác định
 Trong số FTA thì sự cắt giảm thuế quan trong
cộng đồng kinh tế ASEAN là cao nhất hiện nay,
cao hơn cả so với TPP và các FTA khác.
2. Hải
quan và
thuận lợi
hóa

thương
mại

- Đơn giản hóa, hài hịa hóa và tiêu chuẩn hóa
thương mại và hải quan cùng với việc thực hiện
các tiến trình, thủ tục và luồng thông tin liên
quan dự kiến sẽ làm giảm chi phí giao dịch trong
ASEAN.
- Phát triển và thực hiện chương trình làm việc,
tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại tồn diện
nhằm mục đích đơn giản hóa, hài hịa và tiêu
chuẩn hóa thương mại với hải quan, quy trình thủ
tục và luồng thơng tin liên quan phục vụ hoạt
động thương mại.
- Thiết lập một cơ chế hợp tác tạo điều kiện cho
thương mại khu vực.
Phát triển các biện pháp ở cấp độ quốc gia để hỗ
trợ và đảm bảo thực hiện các sáng kiến ở cấp khu
vực có hiệu quả.
-Xây dựng chương trình xây dựng năng lực tồn
diện để đảm bảo thực hiện trơn tru chương trình
làm việc.
- Hội nhập hải quan
Các quốc gia thành viên trong ASEAN đi đến
thống nhất trong việc xây dựng biểu Danh pháp
Thuế quan hài hòa ASEAN (AHNT). Biểu
AHNT được sửa đổi 5 năm 1 lần nhằm rà sốt,
cập nhật chính xác các mặt hàng đang được buôn
bán, trao đổi trong khu vực.
- Hải quan ASEAN 1 cửa

ASEAN một cửa là môi trường mà trong đó cửa
sổ riêng biệt của từng quốc gia sẽ hoạt động và
hội nhập. Một cửa duy nhất cho một quốc gia

Đây được đánh giá là một phạm vi toàn
diện hơn bất kỳ FTA nào, như với Hiệp định
thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA), lộ
trình giảm thuế của Việt Nam kéo dài suốt từ
năm 1999 đến 2018, trong đó vẫn cịn giữ lại
một số mặt hàng nơng nghiệp nhạy cảm như
gia cầm sống, trứng gà, xăng dầu... Khác với
AEC, TPP cam kết cả biểu thuế xuất khẩu

- Quy định tăng cường thuận lợi hóa thương
mại, nâng cao tính minh bạch trong thủ tục
hải quan, và đảm bảo sự chính trực của cơ
quan hải quan. Những quy định này sẽ giúp
các doanh nghiệp thuộc TPP, bao gồm cả các
doanh nghiệp nhỏ và vừa, bằng cách khuyến
khích việc đơn giản hóa thủ tục hải quan và
thủ tục tại biên giới, và thúc đẩy chuỗi cung
ứng khu vực.
- Các nguyên tắc minh bạch, bao gồm xuất
bản quy định pháp luật về hải quan của mình,
ban hành quy định về giải phóng hàng mà
khơng có những trì hỗn khơng cần thiết, và
quy định về khế ước hoặc 'thanh toán bắt
buộc’ nếu cơ quan nơi hải quan vẫn chưa có
quyết định về số tiền thuế hoặc phí cịn nợ.
- Các Bên đồng ý về quy tắc xác định trước

trị giá hải quan và các vấn đề khác có thể
giúp doanh nghiệp lớn nhỏ có thể dự đoán
trước trong thương mại.
 Một vấn đề mà Hiệp định TPP tác động
lớn đến công tác quản lý hải quan là quy
định cơ chế tự chứng nhận xuất xứ trong thủ
tục kiểm tra và xác định xuất xứ cho hàng
hóa xuất nhập khẩu với thời gian chuyển đổi
tối đa 10 năm. Cơ chế này cho phép doanh
nghiệp tự khai báo xuất xứ cho hàng hóa của
mình thay cho cách thức quản lý hiện tại là
doanh nghiệp phải nộp cho cơ quan hải quan
giấy chứng nhận xuất xứ do cơ quan có thẩm


cho phếp một quy trình duy nhất về dữ liệu và
quyền của nước xuất khẩu cấp. Điều này tạo
thông tin, đưa ra quyết định duy nhất cho việc
thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp xuất nhập
thơng quan hàng hóa, giải quyết thủ tục hải quan, khẩu và đơn giản hóa thủ tục hải quan.
giảm thời gian, chi phí giao dịch, do đó nâng cao
hiệu quả thương mại, khả năng cạnh tranh của
hàng hóa.
3. Quy
tắc xuất
xứ
(ROO)

Các nội dung cần thực hiện trong các cam kết
xây dựng AEC bao gồm:

- Tiếp tục cải cách nâng cấp quy tắc xuất xứ
(ROO) trong khuôn khổ CEPT để đáp ứng những
thay đổi trong quy trình sản xuất của khu vực.
- Đơn giản hóa thủ tục chứng chỉ hoạt động đối
với ROO trong khuôn khổ CEPT và đảm bảo liên
tục cải thiện, thúc đẩy nhanh các quy trình như
quy trình cấp giấy chứng nhận xuất xứ bằng điện
tử, kết hợp hài hòa các thủ tục của quốc gia trong
phạm vi có thể.
- Xem xét tất cả các ROO được thực hiện bởi
các nước thành viên ASEAN, riêng rẽ và tập
trung, đồng thời khảo sát cơ chế tính tốn cộng
dồn.
đơn giản hóa quy tắc xuất xứ.

- 12 bên đã nhất trí về một bộ quy tắc xuất
xứ để xác định liệu một hàng hóa cụ thể có
xuất xứ từ TPP và do đó đủ điều kiện để
nhận được ưu đãi thuế quan TPP. TPP có quy
định về "tích lũy", cho nên nói chung,
ngun liệu đầu vào từ một trong các các
nước ký kết được xem như nguyên vật liệu
từ một nước ký kết khác nếu nguyên liệu đó
được sử dụng để sản xuất ra một sản phẩm
tại bất kỳ nước ký kết nào.
- Các bên cũng đã đặt ra các quy tắc nhằm
đảm bảo doanh nghiệp có thể dễ dàng hoạt
động trên toàn khu vực TPP bằng cách tạo ra
một hệ thống chung trong TPP cho phép hiển
thị và xác minh hàng hoá sản xuất trong khu

vực TPP đáp ứng các quy tắc xuất xứ. Nhà
nhập khẩu sẽ có thể yêu cầu áp dụng ưu đãi
thuế quan, miễn là họ có tài liệu chứng minh
đủ điều kiện áp dụng.
 TPP còn đề cập tới nhiều biện pháp để thúc
đẩy, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, các cam
kết rộng hơn AEC.

4. Sở hữu
trí tuệ

Việc thực thi kế hoạch làm việc với 28 sáng kiến
và 5 mục tiêu chiến lược trong Kế hoạch Hành
động IPR ASEAN 2012-2015 đã giúp nâng cao
tính pháp lý và chính sách trong việc giải quyết
các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.

-Sở hữu trí tuệ (IP) trong TPP điều chỉnh các
lĩnh vực về bằng sáng chế, nhãn hiệu, bản
quyền, bí mật thương mại, các hình thức
khác của quyền sở hữu trí tuệ, và việc thực
thi các quyền về sở hữu trí tuệ, cũng như các
lĩnh vực mà các Thành viên đồng ý hợp tác.
Xây dựng tiêu chuẩn cho bằng sáng chế, lấy
từ Hiệp định TRIPS của WTO và những
thông lệ quốc tế tốt nhất. Về nhãn hiệu,
chương này làm rõ và củng cố việc bảo vệ
tên nhãn hiệu và những dấu hiệu khác mà các
doanh nghiệp và cá nhân sử dụng để phân



biệt sản phẩm của họ trên thị trường.
- những điều khoản liên quan đến dược
phẩm, những cam kết liên quan đến việc bảo
vệ kết quả thử nghiệm và những dữ liệu khác
đã được đệ trình để xin cấp phép lưu hành
một sản phẩm dược hoặc hóa chất nơng
nghiệp mới, tái khẳng định cam kết của các
bên về Tuyên bố của WTO năm 2001 về
Hiệp Ước TRIPS và Sức Khỏe cộng đồng.
- Về bản quyền, chương sở hữu trí tuệ xây
dựng những cam kết liên quan đến việc bảo
hộ đối với các tác phẩm và cơng trình như
bài hát, phim, sách, và phần mềm, và bao
gồm những điều khoản cân đối và hiệu quả
về các biện pháp bảo vệ công nghệ và thông
tin quản lý bản quyền.
- các nước TPP đồng ý cung cấp các hệ
thống chế tài mạnh
 TPP có mức độ cam kết cao hơn, sâu hơn
thời gian bảo hộ dài hơn và xử lý hình sự khi
xâm phạm ở quy mơ thương mại và thu lợi
bất chính. các DN có thể nâng cao mức độ
bảo hộ sáng chế và vấn đề dược phẩm cũng
như dữ liệu thử nghiệm cho dược phẩm và
nơng hóa phẩm; Nâng cao mức độ và kéo dài
thời hạn bảo hộ quyền tác giả và quyền liên
quan; Siết chặt thực thi (bảo vệ) quyền
SHTT, đặc biệt là đối với quyền tác giả và
quyền liên quan trong mơi trường số; Xử lý

hình sự các vi phạm và vấn đề xử lý hành
chính.
5. Mua
sắm
chính phủ

-Các nước TPP chia sẽ lợi ích chung trong
việc tiếp cận thị trường mua sắm công của
nhau thông qua những qui định minh bạch,
có thể dự đốn, và khơng phân biệt đối xử.
- các nước TPP sẽ cam kết những nguyên tắc
quan trọng về đối xử và không phân biệt đối
xử giữa các quốc gia.
- thống nhất việc công bố kịp thời các thơng
tin liên quan nhằm giúp cho các nhà cung
cấp có đủ thời gian nhận hồ sơ mời thầu và


6. Thực
hiện tiêu
chuẩn và
rào cản
kỹ thuật
trong
thương
mại

7. Cam

tham gia dự thầu, tiếp nhận và xử lý hồ sơ dự

thầu một cách công bằng và không thiên vị,
đồng thời bảo mật thông tin trong đó.
- Ngồi ra, các nước TPP thỏa thuận sử dụng
thông số kỹ thuật một cách công bằng và
khách quan, chỉ lựa chọn nhà thầu (ký hợp
đồng) dựa trên các tiêu chí đánh giá được ghi
trong các thơng báo và hồ sơ mời thầu, và
xây dựng các thủ tục pháp lý phù hợp để chất
vấn hoặc xem xét những kiến nghị về việc
lựa chọn nhà thầu
 công bằng
-Hệ thống tiêu chuẩn, đảm bảo chất lượng, công - các bên đã nhất trí về nguyên tắc minh bạch
nhận và đo lường vô cùng quan trọng để thúc đẩy và không phân biệt đối xử trong việc phát
tính hiệu quả, nâng cao chi phí hiệu quả của sản
triển các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, và
xuất xuất nhập khẩu trong khu vực. Phát triển và quy trình đánh giá sự phù hợp, đồng thời vẫn
thực hiện các thỏa thuận công nhận lẫn nhau
cho phép theo đuổi những mục tiêu chính
(MRAs) của ngành về việc đanh giá tính phù hợp đáng của mình.
cho các lĩnh vực cụ thể được xác định trong Hiệp -các bên đồng ý hợp tác để đảm bảo rằng các
định khung ASEAN về thỏa thuận công nhận lẫn tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật này không tạo
nhau.
ra các rào cản không cần thiết đối với thương
Cải thiện cơ sở hạ tầng,thúc đẩy tính minh bạch
mại.
trong việc phát triển và áp dụng các tiêu chuẩn,
- Giảm chi phí cho các doanh nghiệp TPP,
quy định kỹ thuật, thủ tục đánh giá của hiệp định tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty tiếp
về rào cản kỹ thuật trong thương mại của tổ chức cận các thị trường TPP.
Thương mại Thế giới (WTO).

-các bên phải cho phép cơng chúng đóng góp
ý kiến về các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật,
và các thủ tục đánh giá sự phù hợp được đề
xuất
-Các bên cũng sẽ đảm bảo một khoảng thời
gian hợp lý giữa thời điểm công bố các quy
chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù
hợp và thời điểm có hiệu lực của các quy
chuẩn, quy trình này để doanh nghiệp có đủ
thời gian để đáp ứng những yêu cầu mới.Các
ngành này gồm mỹ phẩm, thiết bị y tế, dược
phẩm, các sản phẩm công nghệ thông tin và
truyền thông, rượu và thức uống chưng cất,
công thức độc quyền cho các loại thực phẩm
đóng gói sẵn và phụ gia thực phẩm, và các
sản phẩm nông nghiệp hữu cơ.
Để tạo điều kiện cho tự do lưu chuyển dịch vụ

-TPP bao gồm các nghĩa vụ cốt lõi trong


kết về tự
do lưu
chuyển
dịch vụ
và lao
động lành
nghề

vào năm 2015, ASEAN cũng đang làm việc để

hướng tới việc cơng nhận trình độ chuyên môn
nhằm tạo thuận lợi cho việc di chuyển trong khu
vực. Cụ thể như sau:
-Hủy bỏ tất cả các hạn chế về thương mại dịch
vụ trong 4 ngành dịch vụ ưu tiên như vận tải
hàng không, ASEAN điện tử, y tế và du lịch.
-Thực hiện tự do hóa thơng qua các vòng liên
tiếp theo cơ chế hai năm một lần cho đến năm
2015 tức là 2008,2012,2014 và 2015.
-Lập kế hoạch cho các gói cam kết của mỗi vịng
theo các thơng số: cho phép các nước và khu vực
ngồi ASEAN tham gia góp cổ phần khơng dưới
51% vào năm 2008. 70% vào năm 2010 đối với 4
ngành dịch vụ ưu tiên; khơng ít hơn 49% năm
2008. 51% năm 2010 và 70% năm 2013 đối với
ngành dịch vụ logistics, và không dưới 49% vào
năm 2008, 51% năm 2010 và 70% năm 2013 đối
với các ngành dịch vụ khác.
-Thiết lập các thông số tự do hóa đối với các hạn
chế đơi xử quốc gia, phương thức 4 và hạn chế
các cam kết theo chiều ngang cho mỗi vòng vào
năm 2009.
-Thực hiện các thỏa thuận công nhận lẫn nhau
(MRAs) hiện đang được đàm phán đối với các
dịch vụ kiến trúc, dịch vụ kế tốn, khảo sát trình
độ, các học viên y tế vào năm 2008 và các học
viên nha khoa vào năm 2009.
-Tăng cường phát triển nguồn nhân lực và xây
dựng năng lực trong lĩnh vực dịch vụ.


WTO và các hiệp định thương mại khác: đối
xử quốc gia; đối xử tối huệ quốc; mở cửa thị
trường yêu cầu không thành viên TPP nào có
thể áp dụng các hạn chế định lượng đối với
việc cung cấp dịch vụ hoặc yêu cầu thành lập
một loại thực thể pháp lý hoặc liên doanh cụ
thể; và hiện diện địa phương.
-Các Thành viên TPP chấp nhận các nghĩa vụ
dựa trên cơ sở “một danh mục chọn bỏ”,
nghĩa là thị trường các nước là mở hồn tịan
đối với các nhà đầu tư nước ngoài,
-Các thành viên TPP cũng đồng ý quản lý
các biện pháp áp dụng chung theo cơ chế
hợp lý, khách quan và công bằng; và chấp
nhận các yêu cầu về minh bạch hóa trong
xây dựng các quy định mới về dịch vụ.
-Các Thành viên TPP đồng ý cho phép tự do
chuyển tiền liên quan tới cung cấp dịch vụ
qua biên giới với các ngoại lệ của Hiệp định
TPP.
Hiệp định TPP là một Hiệp định theo mơ
hình FTA thế hệ mới khơng chỉ tập trung vào
tự do hóa đối với lĩnh vực thương mại hàng
hóa mà cịn mở rộng đối với lĩnh vực dịch vụ
và đầu tư, trong đó có các ngành dịch vụ tài
chính. Các nước TPP phải cam kết tuân thủ
các nghĩa vụ mở cửa thị trường dịch vụ theo
cách tiếp cận chọn bỏ, ngoại trừ những lĩnh
vực được đưa vào danh mục bảo lưu có chọn
lọc. Các nghĩa vụ cam kết trong TPP rất

rộng. Một số nghĩa vụ cam kết chính bao
gồm khơng phân biệt đối xử giữa nhà nước
cung cấp dịch vụ tài chính trong nước và
nước ngoài, cho phép các tổ chức tài chính
nước ngồi cung cấp dịch vụ tài chính qua
biên giới trên một số lĩnh vực, sản phẩm tài
chính, bảo hộ nhà đầu tư nước ngồi trong
lĩnh vực tài chính, nghĩa vụ về minh bạch
hố... .Ở lĩnh vực tài chính, sau WTO, gần
như Việt Nam chưa đàm phán một hiệp định
nào yêu cầu mở cửa tự do quy mô lớn ở lĩnh
vực này, đàm phán dịch vụ tài chính trong
TPP đã có nhiều khác biệt lớn.


8. Các
cam kết
về tự do
lưu
chuyển
đầu tư

Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA)
được kí vào năm 2007 thúc đẩy quan hệ hữu nghị
và hợp tác phát triển kinh tế của mỗi nước. Hiệp
định có 7 nguyên tắc hướng dẫn chung cho các
thành viên bao gồm:
Quy định tự do hóa đầu tư, bảo hộ đầu tư, xúc
tiến và thuận lợi hóa đầu tư- đây được coi là
những điều khoản quan trọng của hiệp định.

ACIA cho phép tự do hóa hơn trong tương lai đối
với một số ngành, dịch vụ trên cơ sở nhất trí của
các nước thành viên.
Đảm bảo lợi ích của nhà đầu tư và khoản đầu tư
của họ.
Nguyên tắc về đối xử đó là quốc gia yêu cầu
nước thành viên đối xử vơi nhà đầu tư của các
nước thành viên khác và khoản đầu tư của họ
không kém thuận lợi hơn những gì đã dành cho
nhà đầu tư của nước mình.
Những cam kết của các nước thành viên liên
quan đến hoạt động đầu tư trong hai hiệp định
AIA và IGA sẽ khơng được áp dụng khi ACIA có
hiệu lực.
Đối xử đặc biệt và khác biệt
Mở rộng phạm vi điều chỉnh của Hiệp định sang
các lĩnh vực và ngành nghề khác trong tương lai.

Khi xây dựng các quy định về đầu tư, các
thành viên TPP đã đưa ra các nguyên tắc yêu
cầu các chính sách và bảo hộ đầu tư công
bằng và không phân biệt đối xử nhằm bảo
đảm nguyên tắc cơ bản của luật pháp, trong
khi vẫn bảo đảm khả năng của Chính phủ các
thành viên để đạt được các mục tiêu chính
sách cơng hợp pháp. Nghiêm cấm “các yêu
cầu thực hiện” chẳng hạn như yêu cầu về
hàm lượng nội địa hoặc tỷ lệ nội địa hóa
cơng nghệ; và tự do bổ nhiệm các vị trí quản
lý cấp cao mà không quan tâm đến quốc tịch.

Các thành viên chấp nhận các nghĩa vụ dựa
trên cơ sở “một danh mục chọn bỏ”, nghĩa là
thị trường các nước là mở hoàn tịan đối với
các nhà đầu tư nước ngồi, trừ khi các thành
viên đưa ra một ngoại lệ
Điều khác biệt trong hiệp định TPP là mở
cửa dịch vụ, đầu tư dành đãi ngộ quốc gia
cho các nhà đầu tư nước ngoài. Trước đây,
chúng ta mới chỉ cam kết minh bạch hóa các
chính sách đầu tư liên quan tới thương mại.
Nay chúng ta cam kết mở cửa dịch vụ này và
dành cho nhà đầu tư nước ngồi đối xử
khơng kém với nhà đầu tư trong nước.

9. Về
thương
mại và
môi
trường

Chưa đề cập đến

Đây là cam kết mới: Với tư cách là các quốc
gia chiếm một phần đáng kể về dân số, động
vật hoang dã, thực vật và sinh vật biển trên
thế giới, các nước TPP cùng ký một bản cam
kết bền vững về việc bảo vệ và bảo tồn môi
trường, bao gồm hợp tác trong việc giải
quyết các thách thức về môi trường như ô
nhiễm môi trường, buôn bán trái phép động

vật hoang dã, khai thác gỗ bất hợp pháp và
trong việc bảo vệ môi trường biển…

10.
Doanh
nghiệp
vừa và
nhỏ

Một trong các đặc trưng của AEC là xây dựng
một khu vực có sự phát triển kinh tế cân bằng với
hai yếu tố: Phát triển các doanh nghiệp vừa và
nhỏ (SME) và Sáng kiến hội nhập ASEAN nhằm
thu hẹp khoảng cách phát triển ở cấp độ SME

Các nước TPP chia sẻ mối quan tâm đến việc
thúc đẩy sự tham gia của các doanh nghiệp
nhỏ và vừa vào thương mại và bảo đảm rằng
các doanh nghiệp nhỏ và vừa chia sẻ các lợi
ích của Hiệp định TPP. Bên cạnh những cam


11. Điều
kiện lao
động:

cũng như thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế của
các nước CLMV.
AEC khuyến khích các thành phần kinh tế tư
nhân và các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME)

phát triển, và dành nhiều ưu đãi, hỗ trợ cho khu
vực này.AEC xác định vai trò của khu vực tư
nhân là một bên liên quan trong tiến trình hội
nhập ASEAN; coi phát triển doanh nghiệp vừa
và nhỏ (SME) là trọng tâm, là xương sống của
các nền kinh tế ASEAN, đã và đang thiết kế một
chương trình trước và sau 2015 nhằm nâng cao
khả năng cạnh tranh, giúp các SME hưởng lợi
nhiều hơn từ hội nhập ASEAN, trong đó tập
trung vào thiết lập mơi trường chính sách năng
động, khả năng tiếp cận nguồn lực từ tài chính,
dịch vụ hỗ trợ...được cải thiện; giúp các SME
tham gia vào các chuỗi cung ứng khu vực và toàn
cầu; nâng cao năng lực lãnh đạo doanh nghiệp.
Không đề cập đến.

kết tại các chương khác của Hiệp định về
tiếp cận thị trường, giảm các công việc giấy
tờ, tiếp cận internet, thuận lợi hóa thương
mại, chuyển phát nhanh và các nội dung
khác.
Quy định việc thành lập Ủy ban Doanh
nghiệp vừa và nhỏ được tiến hành họp định
kỳ để rà soát mức độ hỗ trợ của Hiệp định
TPP cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cân
nhắc các cách thức để nâng cao hơn nữa
những lợi ích của Hiệp định và giám sát các
hoạt động hợp tác hoặc nâng cao năng lực để
hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ thông
qua tư vấn xuất khẩu, hỗ trợ, đào tạo cho

doanh nghiệp vừa và nhỏ; chia sẻ thông tin;
cấp vốn thương mại và các hoạt động khác.
Đây là quy định của ILO, trong TPP chúng ta
cam kết điều kiện lao động và cho phép lập
cơng đồn ở cơ sở theo lộ trình. Các thành
viên cũng đồng ý có luật quy định mức
lương tối thiểu, số giờ làm việc, an toàn và
sức khỏe nghề nghiệp
- không miễn trừ hoặc giảm hiệu lực của
pháp luật quy định việc thực thi các quyền cơ
bản của người lao động để thu hút thương
mại hoặc đầu tư, và thực thi một cách hiệu
quả pháp luật liên quan đến lao động một
cách bền vững hoặc đều đặn có thể có ảnh
hưởng tới thương mại hoặc đầu tư giữa các
nước TPP.
- những cam kết khơng khuyến khích việc
nhập khẩu hàng hóa được sản xuất bằng lao
động cưỡng bức hoặc lao động trẻ em, hoặc
sử dụng nguyên liệu đầu vào được sản xuất
ra bằng lao động cưỡng bức, bất kể nước
xuất xứ có phải là nước TPP hay không.
- Mỗi nước TPP đều cam kết bảo đảm khả
năng tiếp cận với hệ thống thủ tục hành
chính và tư pháp công bằng, không thiên vị
và minh bạch và sẽ cung cấp các biện pháp
khắc phục hiệu quả những vi phạm luật lao


động của mình.


KẾT LUẬN:
- AEC hướng tới sẽ hình thành một thị trường chung, thống nhất. Do đó, AEC là
cấp độ phát triển cao hơn so với hợp tác và tự do hoá thương mại như TPP. Mặc
dù, TPP là một bước phát triển mới về chất lượng cam kết, nhưng TPP cũng mới
chỉ dừng lại ở cấp độ hợp tác và tự do hóa thương mại khu vực mà thơi.
- AEC và TPP cùng hướng tới tự do hóa thương mại khu vực. Mục tiêu của AEC
là tạo dựng một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất cho các quốc gia thành
viên, thúc 3 đẩy dòng chu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, và lao động
có tay nghề trong khối. Trên cơ sở đó, AEC thúc đẩy tự do hóa thương mại nội
khối và đẩy nhanh quá trình gắn kết các thành viên trong một sân chơi chung,
nhằm thúc đẩy sự thịnh vượng của từng thành viên. CịnTPP khơng chỉ bao gồm tự
do hóa sâu trong lĩnh vực thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ và đầu tư mà
còn đặt ra những tiêu chuẩn nghiêm ngặt về môi trường, lao động, quyền sở hữu trí
tuệ....Bên cạnh đó, TPP cịn đề cập tới nhiều biện pháp để thúc đẩy hợp tác liên
quan tới hoạch định chính sách, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, phát triển chuỗi
cung ứng giữa các nước thành viên, nâng cao sự tham gia của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ vào q trình lưu thơng hàng hóa giữa các quốc gia thành viên TPP
cũng như tạo điều kiện để thúc đẩy sự phát triển chung của các quốc gia thành
viên.
So sánh phạm vi và mức độ tự do hóa thương mại trong AEC và TPP .
Qua phân tích trên có thể thấy, AEC với đặc trưng là số lượng thành viên tương đối
ít so với các liên kết kinh tế khác trên thế giới và trình độ phát triển có sự chênh
lệch giữa các quốc gia thành viên, phương thức thực hiện tự do hóa thương mại


của AEC khơng chỉ mang tính chất chung chung, tổng quát ở cấp độ khu vực mà là
sự hướng dẫn cụ thể với mục tiêu rõ ràng và thời hạn cần thiết ở từng quốc gia phù
hợp với trình độ phát triển kinh tế của nước đó. Đồng thời, AEC không đơn thuần
là tập hợp của các cam kết tự do hóa thương mại, đầu tư mà được xây dựng dựa

trên sự thống nhất, hài hòa cao về hệ thống tiêu chuẩn, quy trình quản lý hoạt động
thương mại, đầu tư và khả năng điều phối chặt chẽ các chính sách vĩ mô giữa các
nước thành viên.Điều này đã giúp cho các quốc gia kém phát triển lựa chọn được
hướng đi đúng cho mình, tạo điều kiện phát triển kinh tế và tiến tới dần xóa bỏ
khoảng cách phát triển. Ngoài ra, lợi thế về sự ra đời muộn của AEC cũng cho
phép AEC kế thừa những ưu điểm về phương thức tự do hóa thương mại của các tổ
chức, các liên kết kinh tế có quy mơ lớn và thời gian hoạt động dài như TPP, EU…
Đó cũng là lí do giải thích cho nhiều điểm tương đồng giữa AEC với TPP hay EU.
Còn đối với TPP, với phạm vi điều chỉnh rộng và có xu hướng đàm phán tự do
mạnh mẽ. Mặc dù với số lượng thành viên tham gia đàm phán hiện tại không nhiều
hơn AEC, nhưng lại có góp mặt các cường quốc kinh tế hàng đầu như Mỹ, Nhật
Bản...Tuy nhiên tính hiện thực về phạm vi và mức độ tự do hóa của TPP chưa được
kiểm chứng bởi các nội dung đàm phán vẫn đang được giữ bí mật. Đồng thời, sự
nhất trí giữa các quốc gia tham gia đàm phán cho đến nay vẫn chưa rõ ràng đặc
biệt là sự nhượng bộ của Mỹ, Nhật, hai quốc gia hàng đầu trong TPP.



×