Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

So sánh kiến trúc ai cập cổ đại kiến trúc hy lạp cổ đại kiến trúc la mã cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.58 MB, 32 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA KIẾN TRÚC

TIỂU LUẬN

(KẾT THÚC HỌC PHẦN LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG TÂY)

GVHD: PGS.TS.KTS LÊ THANH SƠN
SVTH: TRẦN MINH ANH
LỚP KT18/A3
MSSV: 18510101013

1


KIẾN TRÚC HY LẠP CỔ ĐẠI

ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN:
SV chọn một nền kiến trúc tiêu biểu trong LSKTPT để viết thu hoạch theo các nội dung:
Câu 1: Nêu ảnh hưởng cụ thể của: tín ngưỡng - tơn giáo - kinh tế - chính trị - xã hội.... lên
đặc điểm của nền kiến trúc ấy như thế nào? ( 2.5 điểm)
Câu 2: Nêu ảnh hưởng cụ thể của các yếu tố: vật liệu xây dựng - tính năng kỹ thuật của vật
liệu xây dựng đó lên kỹ thuật xây dựng (trình độ kết cấu - kiến tạo) và thẩm mỹ ... lên 1 cơng
trình kiến trúc thuộc nền kiến trúc ấy như thế nào? (2.5 điểm)
Câu 3: Lập bảng so sánh các đặc điểm giống và khác của 3 nền kiến trúc (nền kiến trúc
trước - nền kiến trúc chính đã chọn từ câu 1 - nền kiến trúc sau đó) như thế nào? (2.5 điểm)
Câu 4: Nêu ý kiến về: (2.5 điểm)
+ Những đặc điểm nào trên cơng trình kiến trúc ấy thể hiện sự kế thừa? Giải
thích tại sao?
+ Những đặc điểm nào trên cơng trình kiến trúc ấy thể hiện sự cách tân? Giải
thích tại sao?



2


MỤC LỤC
Câu 1: Nêu ảnh hưởng cụ thể của: tín ngưỡng - tơn giáo - kinh tế - chính trị xã hội.... lên đặc điểm của nền kiến trúc Hy Lạp cổ đại như thế nào?
1.

Tín ngưỡng - Tơn giáo.

2.

Kinh tế.

3.

Chính trị.

4.

Xã hội.

4
6
6

7

Câu 2: Nêu ảnh hưởng cụ thể của các yếu tố: vật liệu xây dựng - tính năng
kỹ thuật của vật liệu xây dựng đó lên kỹ thuật xây dựng (trình độ kết cấu kiến tạo) và thẩm mỹ ... lên 1 cơng trình kiến trúc thuộc nền kiến trúc ấy

như thế nào?
1.

Giới thiệu về sự ra đời vật liệu xây dựng của cơng trình kiến trúc Hy Lạp cổ đại.

2.

Nêu ảnh hưởng cụ thể của yếu tố vật liệu xây dựng và tính năng kỹ thuật của vật liệu
xây dựng đó lên kỹ thuật xây dựng (trình độ kết cấu - kiến tạo) và thẩm mỹ ...lên một
cơng trình kiến trúc thuộc nền kiến trúc ấy
10
a.

Column (Cột Doric)

b.

Entablature (Dầm ngang)

9

12
14

Câu 3: Lập bảng so sánh các đặc điểm giống và khác của 3 nền kiến trúc
(nền kiến trúc trước - nền kiến trúc chính đã chọn từ câu 1 - nền kiến trúc
sau đó) như thế nào?
1.

Giống nhau


2.

Khác nhau

22
23

Câu 4: Nêu ý kiến về: (2.5 điểm)
1. Những đặc điểm nào trên cơng trình kiến trúc ấy thể hiện sự kế thừa?
Giải thích tại sao?
2. Những đặc điểm nào trên cơng trình kiến trúc ấy thể hiện sự cách tân?
Giải thích tại sao?

3

31
33


KIẾN TRÚC HY LẠP CỔ ĐẠI

Câu 1: Nêu ảnh hưởng cụ thể của: tín ngưỡng - tơn giáo - kinh tế - chính trị xã hội.... lên đặc điểm của nền kiến trúc Hy Lạp cổ đại như thế nào?

Sơ lược về nền Kiến trúc Hy Lạp cổ đại (3000 - 30 TCN), Kiến trúc Hy Lạp cổ đại được chia
thành 2 giai đoạn phát triển khác nhau:
+ Giai đoạn Tiền Hy Lạp (3000 - 1100 TCN)
(chia thành 3 giai đoạn: Aegea, Crete (3000 - 1400 TCN) và Mycenae (1500 - 1100
TCN))
+ Giai đoạn Hy Lạp chính thống (thế kỷ VIII - 30 TCN)

(chia thành 3 giai đoạn nhỏ: Archaic (thế kỷ VIII - V TCN), Hellenic (thế kỷ V - IV
TCN) và Hellenistic (thế kỷ III - 30 TCN))
+ Giai đoạn từ 1100 - thế kỷ VIII TCN là giai đoạn nền văn minh Mycenae sụp đổ một
cách bí ẩn, dẫn tới một thời kỳ khủng hoảng tại Hy Lạp, kéo dài trong khoảng 400
năm với tên gọi “Kỷ ngun bóng tối”.
1. Tín ngưỡng - Tơn giáo.
Thời cổ đại, người Hy Lạp đều theo đa thần giáo. Tín ngưỡng ở Hy Lạp là các vị thần
đều mang hình người đầy đủ với những đức tính tốt xấu của con người, gần gũi với con người.
Các vị thần ở Hy Lạp hay cịn có tên gọi khác là Thần thoại Hy Lạp là một phần của tôn giáo
Hy Lạp cổ đại và nay là một phần của một tôn giáo hiện đại, lưu hành ở Hy Lạp mà trên thế
giới gọi là Hellenismos. Từ nguồn tư liệu, có thể thấy Thần thoại Hy Lạp xuất hiện vào thời
kỳ Tiền Hy Lạp ở giai đoạn Mycenae (1500 - 1100 TCN) nhưng cũng một vài tư liệu ghi chép
rằng Thần thoại Hy Lạp bắt đầu xuất hiện vào cuối thời kỳ Hy Lạp cổ đại rơi vào “Kỷ nguyên
bóng tối”, khoảng từ 900 - 800 TCN. Người ta cũng khơng biết có bao nhiêu trong tín ngưỡng
tơn giáo Hy Lạp là của Mycenae, còn bao nhiều là sản phẩm của thời tăm tối của Hy Lạp và
sau đó.
Dù xuất hiện khá sớm nhưng vào giai đoạn Archaic (từ thế kỉ VIII - V TCN), kiến trúc
vẫn chưa đạt được thành tựu đỉnh cao, ngoài sự phát triển các thức cột Doric ở Selinus và
Akragas. Thế nhưng, vào giai đoạn Hellenic (từ thế kỷ V - IV TCN), sự tín ngưỡng của Hy
Lạp - Thần thoại Hy Lạp - đã bắt đầu ảnh hưởng tới nền kiến trúc Hy Lạp cổ đại, cụ thể là họ
đã tạo ra những bức tượng điêu khắc các vị thần Hy Lạp, xây dựng lên các đền thờ thờ các vị
thần,... ví dụ như thần Zues, thần Poseidon, thần Athena, thần Hera,.....
Khi nhắc đến kiến trúc Hy Lạp khơng thể khơng kể đến những cơng trình mang đậm
chất tơn giáo, đó là đền đài. Đền thờ theo người Hy Lạp là nơi ở của thần thánh, đền thờ Hy
Lạp có quy mơ khơng to lớn nhưng lại có sự tuyệt mĩ trong cơng trình kiến trúc, đi từ bố cục
chung cho đến những chi tiết nhỏ bé. Bố cục kiến trúc Hy Lạp nói lên sự sùng bái các vị thần
và thể hiện quan niệm tôn giáo của người Hy Lạp.
Một số cơng trình kiến trúc Hy Lạp cổ đại được xây dựng để tôn thờ các vị thần :

4



ĐỀN THỜ THẦN ZEUS
(470 - 465 TCN)
Đền thờ thần Zeus là trung tâm tôn
giáo của Hy Lạp cổ đại đồng thời cũng là
một trong những ngôi đền lớn nhất ở Hy
Lạp cổ đại. Đền thờ thần Zeus được xây
dựng vào năm 470 trước Cơng ngun và
được hồn thành vào năm 465 trước Công
nguyên và phong cách của đền dựa theo đền
thờ Doric.
Diện tích nền có chiều dài là 64 mét
và chiều rộng là 28 mét, với 6 cột theo chiều
rộng và 13 cột theo chiều dài, bên trong hội
trường là bức tượng thần Zeus, cao hơn 12
mét, được bao bọc bởi 7 thức cột Corinthian.
ĐỀN THỜ PARTHEON - THẦN ATHEAN
(448 - 432 TCN)
Đền Partheon là một biểu tượng vĩ
đại của sự kết thúc Hy Lạp cổ đại và nền
dân chủ Athena được xây dựng khởi công
vào năm 447 TCN và hồn thành vào năm
432 TCN. Khơng gian bên trong ngơi đền
gồm phòng lớn đặt tượng thờ nữ thần
Athena cao 6 mét. Athena - nữ thần của sự
thông thái, vị thần bảo hộ của thủ đơ Athena
của Hy Lạp.
Cơng trình có mặt bằng hình chữ
nhật với chiều dài là 70 mét và chiều rộng là

31 mét, chia làm bốn phần chính: Tiền sảnh,
Gian thờ tế, Chổ để châu báu và Hậu cảnh.
Cơng trình được xây theo lối kiến trúc cột
Doric và kiểu Peripteral với 46 cột lớn, mặt
chính gồm 8 cột, mặt bên 17 cột.
ĐỀN THỜ THẦN APOLLO
( giữa thế kỷ V TCN)
Đền thờ Apollo ở Bassae là một
trong những đền thờ cổ đại có quy mơ rộng
lớn và được bảo tồn khá tốt. Đền thờ này có
kiến trúc rất đặc biệt, là sự kết hợp của các
kiến trúc Doric, Ionic và Corinthian.
Bên trong đền thờ là 10 thức cột
Ionic ở những vùng trũng và một chiếc cột
kiểu Corinthian ở cuối dãy phía Nam. Cịn
bên ngồi đền thờ là cột trụ thiết kế theo
kiểu Doric chạy dọc theo chiều dài và 6
chiếc cột theo chiều ngang
5


2. Kinh tế
Vào thời kỳ Mycenae ( 1500 - 1100 TCN) là thời kì mà các hoạt động kinh tế - xã hội
Hy Lạp đã đạt tới trình độ và mức độ phân hóa cao. Cụ thể là sản xuất nông nghiệp tập trung
chủ yếu vào bộ ba: lúa, dầu oliu và nho, tuy nhiên công thương nghiệp với các nhà xưởng có
trình độ chun mơn hóa cao mới là động lực chính của nền kinh tế Mycenae.
Vào khoảng thế kỷ VIII TCN, Hy Lạp bắt đầu thoát ra khỏi “Kỷ nguyên bóng tối”
bước vào Thời kỳ Cổ điển. Hy Lạp cổ đại lúc này này bị phân chia thành nhiều cộng đồng tự
quản nhỏ, kinh tế đặc biệt là ngoại thương được đẩy mạnh với các cơ sở thương mại được
thành lập tại rất nhiều nơi. Cùng với sự phát triển và phục hồi về mặt kinh tế, dân số đã tăng

trưởng vượt quá giới hạn cung cấp của đất trồng trọ, đã dẫn tới dòng người Hy Lạp di cư khắp
các vùng tại Địa Trung Hải. Trong đó hai thành bang Athena và Sparta là có ảnh hưởng đặc
biệt trong lịch sử của Hy Lạp.
Đất đai Hy Lạp khơng được phì nhiêu, khơng thuận lợi cho viêc trồng cây lương thực,
địa hình lại cịn bị chia cắt thành nhiều vùng đồng bằng nhỏ hẹp nên người Hy Lạp phải tận
dụng những dải đất ven sông hoặc chạy dọc theo các sườn núi, vùng duyên hải và các đồng
bằng nhỏ cho việc canh tác nông nghiệp. Cây trông chủ yếu là lúa mạch, lúa mì, ơ liu, nho và
các loại rau xanh.
Hy Lạp có nhiều vũng, vịnh thuận lợi cho việc xây dựng hải cảng nên người Hy Lạp
khai thác triệt để nhằm đẩy mạnh hoạt động mậu dịch với các quốc gia khác trên thế giới,
cùng với việc tiếp thu những tư tưởng mới từ đó thúc đẩy ngành thương nghiệp phát triển
mạnh mẽ. Ở đây cịn có hiều khoáng sản dễ khai thác như đồng, vàng bạc... tạo điều kiện
thuận lợi cho nghề luyện kim và buôn bán. Do đó kinh tế Hy Lạp cổ đại chú trọng phát triển
công, thương nghiệp hơn nông nghiệp, nhất là buôn bán đường biển.
Tiền xu được sử dụng đầu tiên tại Lydia,
một vương quốc nhỏ ở miền bắc Anatolia, vào
cuối thế kỷ thứ VII TCN. Khái niệm dùng tiền
này nhanh chóng lan đến các thuộc địa của Hy
Lạp và sau đó tồn tại trong suốt nền văn hóa Hy
Lạp. Các đồng tiền phổ biến nhất được làm bằng
bạc, các đồng xu bản vị bạc của Athens được gọi
là glaukes, có nghĩa là “cú” bởi vì được khắc
hình con cú - biểu tượng của Athena
3. Chính trị
Vào thế kỷ thứ V TCN, biến đổi chính trị vĩ đại xảy ra tại các thành quốc Hy Lạp. Sự
thay đổi ấy là một biến đổi dựa trên dân chủ và được ví như tầm quan trọng của sự kiện này
với “sự phát minh ra vòng xe hoặc cuộc khám phá ra Tân Thế Giới”. Thời ấy Hy Lạp không
chỉ là một nước, mà là kết hợp giữa một số thành quốc độc lập gọi là Polis.
Hy Lạp cổ đại bao gồm nhiều hơn hoặc ít hơn hàng trăm thành bang độc lập (Polis).
Đây là một tình huống khơng giống như hầu hết các xã hội đương thời khác, mà hoặc một bộ

tộc, hay một vương quốc cai trị một vùng lãnh thổ tương đối lớn. Chắc chắn vị trí địa lý của
Hy Lạp - chia cắt và phân chia bởi những ngọn đồi, núi và con sơng - góp phần vào tính rời
rạc của Hy Lạp cổ đại.

6


Một mặt, người Hy Lạp cổ đại đã khơng có nghi ngờ rằng họ là “một dân tộc, họ có
cùng tơn giáo, văn hóa cơ bản giống nhau và cùng một ngôn ngữ”. Hơn nữa, người Hy Lạp đã
rất ý thức về nguồn gốc bộ lạc của họ, Herodotus đã có thể để phân loại rộng rãi các thành
bang theo bộ lạc. Tuy nhiên, mặc dù những mối quan hệ cao hơn này tồn tại, chúng dường
như hiếm khi có một vai tị quan trọng trong chính trị Hy Lạp. Sự đôc lập của những Polis
được bảo vệ rất mãnh liệt, thống nhất đất nước là một cái gì đó hiếm khi có trong dự tính của
người Hy Lạp cỏ đại. Ngay cả khi, trong cuộc xâm lược Hy Lạp lần thứ hai của người Ba Tư,
một nhóm các thành bang đã tự mình liên minh bảo vệ Hy Lạp, phần lớn các polei vẫn trung
lập và sau khi đánh bại Ba Tư, các đồng minh nhanh chóng quay ra tranh giành.
Như vậy, đặc thù chính của hệ thống chính trị của Hy Lạp cổ đại, trước hết là tính chất
rời rạc của nó, và thứ hai là sự tập trung đặc biệt vào các trung tâm thành thị trong số các
quốc gia nhỏ bé. Các đặc thù của hệ thống Hy Lạp tiếp tục chứng minh bằng các thuộc địa mà
họ thiết lập trên khắp vùng biển Địa Trung Hải, mặc dù chúng có thể coi như một polei Hy
Lạp nhất định như thành bang của “mẹ” chúng, chúng đã là một thành bang hoàn toàn độc lập.
4. Xã hội
Vào thời kỳ Mycenae, xã hội đã phân hóa ra vua chúa, quan lại, nhân dân, thợ thủ
công và nô lệ, phân chia ruộng đất ra hai phần là kitimena tức là vùng đất của cung điện và
kekemenha là vùng đất làng xã. Vào thế kỷ thứ VI TCN, lúc này dù Hy Lạp bị chia ra nhiều
thành bang khác nhau nhưng đơn vị hành chính cơ bản của Hy Lạp là các thành bang (Polis)
hoặc có tên khác dễ hiểu hơn là thị quốc - tức các quốc gia của lãnh thổ chỉ bằng một thành
thị.
Những nét đặc trưng của xã hội Hy Lạp cổ đai là sự phân chia giữa người tự do và nơ
lệ, vai trị khác nhau giữa nam giới và nữ giới, sự ít phân biệt địa vị xã hội dựa trên gốc gác ra

đời và sự quan trọng của tôn giáo. Lối sống của người Athena là phổ biến trong thế giưới Hy
Lạp so với chế độ đặc biệt của Sparta. Cấu trúc xã hội chỉ có những người tự do mới có quyền
làm cư dân thành phố và được bảo vệ đầy đủ bởi pháp luật trong một thành bang. Trong hầu
hết các thành bang, không giống như La Mã, sự nổi trội trong xã hội không cho phép những
quyền lợi đặc biệt. Chẳng hạn, sinh ra trong một gia đình nào đó khơng có nghĩa là có quyền
lực nào đó trong chính quyền. Tai Athena, dân chúng được chia thành bốn tầng lớp dựa theo
sự giàu có. Người ta có thể thay đổi tầng lớp của mình nếu có nhiều tiền hơn. Tại Sparta, tất
cả các nam công dân của thành phố đều được xác định là “bình đẳng” nếu họ kết thúc việc
học hành của họ. Tuy vậy, các vua người Sparta lãnh đạo tôn giáo và quân đội của thành bang
thường đến từ hai gia đình khác nhau.
Nơ lệ khơng có quyền lực và địa vị. Họ có quyền có gia đình và tài sản riêng, tuy
nhiên khơng có quyền chính trị. Năm 600 TCN chế độ chiếm hữu nơ lệ trải rộng khắp Hy Lạp.
Đến thế kỷ thứ V TCN, nô lệ chiếm đến một phần ba số dân ở một số thành bang. Nơ lệ nên
ngồi Sparta hầu như khơng bao giờ trỗi dậy bởi vì học thuộc nhiều quốc tịch khác nhau. Hầu
hết các gia đình đều sở hữu nô lệ làm người giúp việc nhà và lao động chân tay, ngay cả
những gia dình cũng có thể có một hay hai nơ lệ. Những người sở hữu không bao giờ được
phép đánh đập hay giết hại nô lệ. Những người sở hữu thường hứa sẽ trả tự do cho những nô
lệ trong tương lai để họ làm việc chăm chỉ hơn. Không như ở La Mã, những người nô lệ được
trả tự do không thể trở thành những cơng dân thành phố.
Thay vào đó họ gia nhập vào thành phần các metic, bao gồm những người từ nước
ngoài hay những thành bang khác được cho phép sinh sống trong thành bang này. Những
thành bang cũng được pháp luật cho phép sở hữu nô lệ. Những nô lệ cộng đồng có sự độc lập
lớn hơn so với những nơ lệ do các gia đình sở hữu, tự kiếm sống và làm các công việc chuyên
7


môn. Trong Athena, những nô lệ cộng đồng được đào tạo để theo sõi việc làm ra tiền giả,
trong khi những nơ lệ tại các đền thờ thì làm việc như những kẻ phục dịch của vị thần trong
đền.
Sparta có một dạng nô lệ đặc biệt gọi là helot. Helot là những tù nhân của cuộc chiến

Hy Lạp do các thành bang sở hữu và đưa vào các gia đình. He lot chuyên đi kiếm thực phẩm
và làm những công việc vặt nội trợ cho các gia đình, cho phép phụ nữ có thể tập trung ni
dạy con cái tốt hơn và nam giới có thời gian để huấn luyện thành lính hoplote. Những ơng chủ
của họ thường xun đối xử rất khắc nghiệt với họ nên rất hay có những cuộc nổi dậy.
*Xung đột xã hội và chính trị:
Những thành phố Hy Lạp cổ ban đầu theo chế độ quân chủ, mặc dù rất nhiều thành
phố khá nhỏ và danh xưng “vua” (basileus) dành cho người đứng đầu những thành phố này là
quá trang trọng. Hy Lạp cổ đại khơng có nhiều đất canh tác và quyền lực nằm trong tay thiểu
số tầng lớp địa chủ, những người nảy hình thành nên một tầng lớp quý tộc chiến binh thường
xuyên gây chiến giữa các thành phố để giành đất và nhanh chóng chấm dứt chế độ quân chủ.
Cũng khoảng thời gian này nổi lên một tầng lớp thương nhân (với sự xuất hiện của tiền xu
vào khoảng 680 TCN) dẫn đến mâu thuẫn giai cấp tại các thành phố lớn. Từ năm 650 TCN
trở đi, các tầng lớp quý tộc đánh nhau không để bị lật đổ và thay thế bởi những lãnh chúa
thường dân, gọi là tyranoi.
Vào thế kỷ thứ VI TCN có một số thành phố đã nổi lên tại Hy Lạp cổ: Athena, Sparta,
Corinth và Thebes. Mỗi thành phố đó đều kiểm sốt những vùng nơng thơ phụ cận và những
thành thị nhỏ quanh nó. Athena và Corint cũng ganh đua nhau để chi phối nền chính trị Hy
Lạp liên tục nhiều thế hệ.
Tại Sparta, tầng lớp quý tộc sở hữu đất đai nắm quyền lực, và hiến pháp do Lycurgus
(Sparta) đưa ra (vào khoảng 650 TCN) đã củng cố chặt chẽ quyền lực của tầng lớp này đồng
thời đem lại cjp Sparta một chế độ quân phiệt dưới một nền quân chủ lưỡng chế. Sparta chi
phối các thành phố khác của bán đảo Peloponnesus, ngoại trừ Argus và Achaia.
Tại Athena, ngược lại, chế độ quân chủ được bãi bỏ vào năm 683 TCN, và những cải
cách của Solon đã lập nên một hệ thống chính phủ ơn hịa của tầng lớp q tộc. Tiếp sau đó ;à
chính thể chun chế của Peisistratos với những người con trai của ông, những người này đã
biến Athena thành một trung tâm quyền lực mạnh về hàng hải và thương mại.

8



Câu 2: Nêu ảnh hưởng cụ thể của các yếu tố: vật liệu xây dựng - tính năng
kỹ thuật của vật liệu xây dựng đó lên kỹ thuật xây dựng (trình độ kết cấu kiến tạo) và thẩm mỹ ... lên 1 cơng trình kiến trúc thuộc nền kiến trúc ấy như
thế nào?
1.

Giới thiệu về sự ra đời vật liệu xây dựng của cơng trình kiến trúc Hy Lạp cổ đại:

Sự đổi mới quan trọng nhất của đền đài Hy Lạp cổ đại được ghi nhận vào thời điểm
thế kỷ VI TCN, khi vật liệu gỗ được thay thế bằng vật liệu đá. Trước khi đền thờ Hy Lạp cổ
đại được hình thành bằng đá, trong một thời gian dài nó đã dùng kết cấu gỗ, cho nên dễ bị
mục, mọt và dễ cháy. Những viên ngói bằng đất sét nung có niên đại sử dụng và phát triển
vào thế kỷ VII TCN, đã góp phần bảo vệ kết cấu gỗ bên dưới và làm cho mái đền thoải hơn.
Việc chuyển các bộ phận kiến trúc làm bằng gỗ sang làm bằng đá là một bước tiến đáng kể
của nghệ thuật, tạo dựng không gian kiến trúc lúc bấy giờ của Hy Lạp nói riêng và nhân loại
nói chung.
Đá được khẳng định là vật liệu xây dựng chính của đền đài Hy Lạp cổ đại, song cùng
với kiểu dáng đền có hành lang cột bao quanh, cùng với sự phát triển của kết cấu cột, dầm,
điềm mái,... đã tạo nên bộ mặt truyền thống của kiến trúc đền đài. Đến thế kỷ VI TCN, kiểu
các xây dựng đã tương đối ổn đinh, kiểu cách này dựa trên một hệ thống cấu trúc gọi là thức
cột. Với ba loại thức cột - Doric, Ionic, Corinthian - đã khẳng định phong cách kiến trúc Hy
Lạp cổ đại.

Doric

Ionic

Corinthian
9



2.

Nêu ảnh hưởng cụ thể của yếu tố vật liệu xây dựng và tính năng kỹ thuật của vật liệu
xây dựng đó lên kỹ thuật xây dựng (trình độ kết cấu - kiến tạo) và thẩm mỹ ...lên một
cơng trình kiến trúc thuộc nền kiến trúc ấy.
(*Đền thờ Parthenon (447 - 432 TCN) - thuộc nền kiến trúc Hy Lạp cổ đại.)

Đền thờ Parthenon khởi công xây dựng vào năm 447 TCN và hoàn thành vào năm 432 TCN.

Kiến trúc còn lại của Đền thờ Parthenon qua nhiều thập kỉ
10


Đền thờ Parthenon sử dụng vật liệu xây dựng chủ yếu là đá cẩm thạch (hay còn gọi
là marble) được coi như là đỉnh cao của nghệ thuật Hy Lạp cỏ đại - ca ngợi như là thành tựu
của kiến trúc Hy Lạp.
Từ thời xa xưa, đá marble đã là vật liệu phổ biến ở các vùng đất Hy Lạp, một loại đá
rực rỡ, phát sáng lần đầu tiên được khai thác trong điêu khắc thời tiền sử vào Hậu thời kỳ đồ
đá mới (5300 - 4500 TCN) nhưng rõ ràng nhất là vào thiên niên kỷ thứ ba trước Công nguyên
trong Thời kỳ đồ đồng Aegean.

Kết cấu và vật liệu xây dựng của Đền thờ Parthenon
01. Column
02. Capital
03. Abacus
04. Architrave
05. Entablature
06. Metope
07. Triglyph
08. Cornice

09. Pediment
10. Attic
11. Pronaos
12. Frieze
13. Cella
14. Opisthodomos
15. Akroterion
16. Sima
17. Peristyle
18. Pteron

11


a.

Column ( Cột Doric )
* Shalt ( Thân cột)

Cơng trình có mặt bằng hình chữ
nhật với chiều dài là 70 mét và chiều rộng là
31 mét, chia làm bốn phần chính: Pronaos
(tiền sảnh), Naos (gian thờ thần Athena),
Opictodom (phịng để châu báu),
Opisthodomos (hậu sảnh). Cơng trình được
xây theo lối kiến trúc cột Doric và kiểu
Peripteral với 46 cột lớn, mặt chính gồm 8
cột, mặt bên 17 cột.
Thức cột Doric ra đời sớm nhất, từ
thế kỷ VII TCN, thức cột Doric do người

Doria sáng tạo ra, sau đó phát triển mạnh ở
Peloponnese, Nam Italia và Sicile, những
thành bang này lúc đó làm nông nghiệp,
triều cống quả thực cho quý tộc....và người
thợ ở đây trong cảm hứng tự do sáng tạo có
bị hạn chế hơn những khu vực khác của Hy
Lạp cổ đại. Vì vậy, thức cột Doric tốt lên
vẻ mạnh chắc, nghiêm túc và suy tư.
Thức cột Doric có cột đặt thẳng lên
bệ nhà (stylobate) của đền, lần lượt từ chân
cột lên đến mái có các thành phần sau đây:

Cột Doric của Đền Parthenon
+ Thân cột (Fut) với 20 gờ đứng (Cannelure)
làm nhấn mạnh chiều cao của thân cột.
+ Đầu cột (Sappitro) gồm một tấm vng
(Abaque) phía trên và một mũ đỡ (Echine)
cong lượn phía dưới.
Trên các đầu cột có dầm ngang (Architrave)
chạy phía trên, những dầm này dùng để liên
kết các đầu cột lầm cho cơng trình trở thành
một khung cứng, đồng thời dùng để đỡ một
băng ngang (Frisc) bên trên rất giàu trang trí,
được cấu tạo xen kẽ bởi những hình chữ
nhật hơi nhơ ra (Triglyphes) có khắc vẽ lại
những rãnh cột và những mảnh vuông lùi
vào (Metope), những diện của Metope này
hoặc được trang trí phù điêu hết sức công
phu hoặc để trơn đơn gỉản.
Tiếp đến bên trên là một điềm ngang

đưa ra khỏi mặt đứng (Corniche) và phần
diềm mái trêncùng hình tam giác đều
(Fronton) với những hình điêu khắc lớn nổi
tiếng miêu tả chủ đề lịch sử.
12


Khi xây dựng Đền thờ Parthenon,
người ta ghép các tảng đá vừa khít với nhau
như thể là một mà khơng cần dùng chất kết
dính nào. Đây là điểm đặc biệt nhất của
cơng trình nghệ thuật này. Bên cạnh đó, các
khối đá tạo nên cơng trình đều mang tính
duy nhất, khơng thể thay thế, khơng thể
hốn đổi vị trí cho nhau. Mỗi khối đá đều có
thơng số kĩ thuật riêng, sao cho khi ghép lại
chúng vừa khít, khoảng hở chỉ ở mức
1/10mm.
Cột đá được dùng vào kiến trúc đền
đài trước tiên, ban đầu người ta đục cả khối
đá dài làm cột, sau đó để tiện cho thi cơng
và vận chuyển, cột được chia thành từng
khúc trịn, giữa các khúc trịn có sự liên kết
giữa 2 khối vuông nhỏ và một thanh que
được làm bằng gỗ. Theo thời gian, hầu hết
các bộ phận khác của đền đài Hy Lạp đều
được xây dựng bằng đá. Ngay cả các bộ
phận đá làm phù điêu vẫn có thể có cách làm
màu sắc tươi tắn, rực rỡ. Để được như vậy
người ta thực hiện những bước sau: trên mặt

đá quét một lớp bột đá cẩm thạch, sau đó
quét tiếp một lớp sáp nóng có pha màu sắc
.

13


* Capital ( Đầu cột )

b. Entablature ( Dầm ngang )
* Architrave ( Dầm chính )

Cột và Dầm
Phần Architrave ( Dầm chính ) sử
dung vật liệu là đá Marble được đặt trực tiếp
lên đầu cột, những dầm này dùng để liên kết
các đầu cột tạo thành một khung cứng, đồng
thời dùng để đỡ phần ngang Frieze ( Diềm
mái ) bên trên có trang trí phù điêu hết sức
cơng phu.
Để có những khối đá hình chữ nhật
vng vắn như vậy, người Hy Lạp bắt đầu
bằng việc khai thác, vận chuyển đá từ các
mỏ đá ở núi Pentelicon và tiến hành đẽo gọt
hình dáng, cụ thể như sau:
Người ra sử dụng một hệ thống gồm
nêm và đòn bẩy sắt, chày vồ và sức người
nạy cả tảng đá ra khỏi tầng đá. Nơi nào có
thể thì người ta tận dụng các kẽ nứt tự nhiên
để công tác nạy dời đá dễ dàng hơn. Chèn

nêm vào trong các hốc ở rìa tảng đá muốn
lấy, dùng chày vỗ búa mạnh lên nêm. Các
khúc đá nặng đến 5 - 10 tấn và mũ cột 8 - 9
tần cần sử dụng các thanh trượt để kéo các
tảng đá khổng lồ ra khỏi khu mỏ đá. Người
ta sử dụng xe bò và la để tải đá từ mỏ về đồi
Acropolis.
14


Nếu khơng tạo dáng đá tại khu mỏ thì phải thực hiện công việc này ngay tại hiện
trường theo mục địch và vị trí sơ đồ tổng thể. Kết quả, khơng hề có chuyện các tảng đá giống
nhau. Những người thợ xây có tay nghề chỉ hồn thiện mặt dưới của các đoạn ngắn lắp cột và
các chi tiết khác trong phần đá xây dựng những mẩu lồi, những chỗ nhỏ nhơ ra có tính tốn
trên tảng đá, dùng làm tay nắm khi di chuyển và nâng nhấc đá, khi đá vào đúng vị trí, người ta
sẽ gọt phần lồi này đi. Sau đó những người thợ xây lại tiếp tục hoàn thiện. Thế nhưng, phải
hoàn tất mũ cột trước khi nhấc vào đúng vị trí.

Cách người Hy Lạp đặt các khối Architrave (dầm chính) lên cột Doric
* Frieze ( Diềm mái )
Phần Frieze hay còn gọi là phần
diềm mái, được phân chia thành 2 loại: đan
xen giữa các tấm metope và các tấm triglyph.
Đền thờ Parthenon có khoảng 92
metope, các điêu khắc metope có niên đại
khoảng 446 - 440 TCN, thiết kế của chúng
được cho là do nhà điêu khắc Kalamis.
Những phù điêu trên các tấm metope diễn tả
lại thắng lợi của người Hy Lạp, mang đậm ý
nghĩa biểu tượng về tơn giáo và chính trị.

Theo các tài liệu ghi chép lại, các
metope về phía Đơng của đền Parthenon,
miêu tả Gigantomachy (trận đánh thần thoại
giữa các vị thần trên đỉnh Olympus và các
người khổng lồ). Các metope phía Tây diễn
tả Amazonomachy (trận đánh thần thoại của
dân thành Athena chống lại người Amazon).
Các metope phía Nam miêu tả Thessalian
Centauromachy (trận đánh của người Lapith
được giúp bởi Theseus chống lại nhân mã,
một sinh vật nửa người nửa ngựa. Trên mặt
phía Bắc của đền Parthenon có lẽ miêu tả
trận cướp phá Troia
15


Một trong số metope ở hướng Đông

Một trong số metope ở hướng Tây

Một trong số metope ở hướng Nam

Một trong số metope ở hướng Bắc
16


Hình ảnh một số metope ở hướng Tây của đền thờ Parthenon cịn sót lại, chưa bị tàn phá.
Các Triglyph được tạo rãnh trang trí với hình dạng ba
thanh sọc dọc. Ban đầu các ngôi đền được thiết kế
bằng gỗ và mỗi Triglyph sẽ được căn ngay chính giữa

cột có nghĩa là mỗi cột phải chịu một thanh dầm nằm
ngang giữa cột (hình I).
Sau đó việc thay đổi vật liệu từ gỗ sang các
khối đá khiến cho việc đặt Triglyph cuối cùng bị di
chuyển, khơng cịn được căn giữa mỗi cột (hình II)

Mối nối liên kết giữa Metope và Triglyph
17


* Pediment

1. Tympanum
2. Acroterion
3. Sima
4. Cornice

Pediment thường có dạng tam giác, nó xuất hiện ở dạng đầu hồi ở đầu mái bên trên
các cơng trình kiến trúc, giống như ở Đền thờ Parthenon, thường thiết kế theo kiểu đối xứng,
nó cung cấp một điểm trung tâm và thường được sử dụng để tăng thêm sự hoành tráng cho lối
vào. Phần Pediment có bốn chi tiết kiến trúc điêu khắc độc đáo: Tympanum, Acroterium,
Sima, Cornice.
Ngôi đền nổi tiếng ở phông điêu khắc do nhà điêu khắc nổi tiếng của thế giới Hy Lạp
Phidias thực hiện. Sáng tạo ra cái đẹp tiêu chuẩn, ca ngợi con người với vẻ đẹp thống nhất
giữa thể chất và tinh thần, đó chính là thành cơng của Phidias. Tympanum ở Pediment phía
Đơng, mang chủ thể “Sự ra đời của Nữ thần Athena”, còn Tympanum ở Pediment phía Tây
miêu tả “Cuộc chiến đấu giữa Athena và Poseidon dành quyền bảo hộ miền Attic”.

“Sự ra đời của Nữ thần Athena”


“Cuộc chiến đấu giữa Athena và Poseidon dành quyền bảo hộ miền Attic”
18


Câu 3: Lập bảng so sánh các đặc điểm giống và khác của 3 nền kiến trúc (nền kiến trúc
trước - nền kiến trúc chính đã chọn từ câu 1 - nền kiến trúc sau đó) như thế nào?
Nền kiến trúc Ai Cập Cổ đại ( 3000 TCN - 330 SCN )
Nền kiến trúc Hy Lạp Cổ đại ( 3000 - 30 TCN )
Nền kiến trúc La Mã Cổ đại ( 500 TCN - 330 SCN )

1.

Giống nhau:

Trong giai đoạn hình thành nền văn mình cổ đại, cả ba thời kỳ Ai Cập Cổ đại, Hy Lạp
Cổ đại và La Mã Cổ đại đều xuất hiện nền Kiến trúc Đền thờ, để lại rất nhiều thành tựu, di
tích lịch sử cho đến thời nay, sự xuất hiện cụ thể như: (nhìn hình bên trên)


Ai Cập Cổ đại vào giai đoạn Tân Vương quốc hay còn gọi là New Kingdom (1543 1078 TCN) bắt đầu từ năm 1543 TCN trở đi đến năm 330 SCN đã xuất hiện nhiều
kiến trúc đền thờ. Ví dụ như Đền thờ thần Amun - Karnak (1470 TCN), Đền thờ
Amen Mut Khonsu ở Luxor (1390 TCN), Đền thờ thần Ramses II ở Abu Simbel
(1257 TCN),....



Hy Lạp Cổ đại vào giai đoạn Viễn cổ hay còn goi là Archaic (thế kỷ VIII - V TCN)
dù kiến trúc chưa đạt đến thành tựu đỉnh cao, nhưng những tiền đề cho sự phát triển
của kiến trúc ở giai đoạn kế tiếp đã xuất hiện, cụ thể là việc tạo nên cột Doric bởi
người Dorian. Vào giai đoạn Cổ điển (Hellenic) (thế kỷ V - VI TCN) nền kiến trúc

đền thờ mới bắt đầu hưng thịnh trở lại, đã từ bỏ những chuẩn mực nghệ thuật Ai Cập
Cổ đại và nhanh chóng tạo ra những chuẩn mực ở trình độ cao và đạt được những thành tựu vượt trội. Ví dụ như Đền thờ thần Zeus (470 - 465 TCN), Đền thờ
Parthenon (448 - 432 TCN), Đền thờ thần Apollo (giữa thế kỷ V TCN),....



La Mã Cổ đại vào thời kỳ văn minh Etruscan (500 - 300 TCN) dù chịu ảnh hưởng
của Hy Lạp, nhưng vẫn có một số đặc điểm riêng là tiền đề kiến trúc đền thờ của La
Mã. Ví dụ như là xuất hiện thức cột Tuscan và thức cột Composite. Phải trải qua giai
đoạn thời kỳ Cộng hòa (300 - 50 TCN) đến thời kỳ đế quốc La Mã (50 TCN - 330
SCN), nghệ thuật kiến trúc La Mã có nhiều điều kiện để phát triển để lại dấu ấn riêng
ví dụ như Đền thờ Fortuna Virilis (thế kỷ II TCN), Đền thờ Sibyl - Tivoli (thế kỷ I
TCN), Đền thờ Pantheon (118 - 125 SCN),.....

*Nhìn vào cột mốc sự xuất hiện của nền kiến trúc đền thờ như hình trên, ta có thể thấy giai
đoạn từ năm 500 đến năm 30 TCN là giai đoạn mà kiến trúc Ai Cập Cổ đại, Hy Lạp Cổ đại và
La Mã Cổ đại đã chịu nhiều ảnh hưởng sâu sắc lẫn nhau.

19


2.

Khác nhau:

Ai Cập
(3000 TCN - 330 SCN)

Hy Lạp Cổ đại
(3000 - 30 TCN)


La Mã Cổ đại
(500 TCN - 330 SCN)

1. Đặc điểm và mặt bằng của kiến trúc Đền thờ
+ Các cơng trình được xây
dựng thành các quần thể, đó
có thể là kiến trúc thánh địa
với nhiều đền đài trên các
khu đồi cao (cụ thể là đồi
Acropolí)

+ Kiến trúc La Mã Cổ đại
hình thành dựa trên nền kiến
trúc Hy Lạp Cổ đại tạp thành
nền móng và cho ra đời
những cơng trình kiến trúc
đặc sắc và độc đáo.

+ Mặt bằng đền thờ Hy Lạp
Cổ đại được tạo thành bởi ba
thành phần chính: pronaos
(tiền sảnh), naos (gian thờ)
và pathnon (phịng để châu
+ Đặc trưng của các đền thờ báu) ngoài ra một số đền cịn
là có thiết kế cửa lớn, đường có thêm opisthodomos (hậu
bệ phù hợp với các nghi lễ sảnh)
tôn giáo, tín ngưỡng của
những người dân nơi đây.
+ Có bậc thang cấp bao bọc

xung quanh.
+ Ngôi đền được bao quanh
là những bức tường đá lớn, + Mặt đứng chính điện quay
dày đặc kín, ít có cửa sổ, con về hướng Đông
đường dẫn vào đền được lát
đá trải dài, hai bên là các + Tên gọi của mỗi một đền
tượng nhân sư và một cánh thờ được ghép giữa dạng mặt
cửa được gọi là tiền tháp bằng nêu trên với số cột ở
môn (pylon).
trên mặt tiền.

+ Tường của kiến trúc đền
thờ phổ biến lối xây theo
hình thức cột bổ trụ.

+ Đền thờ có quy mơ lớn,
kích thước đồ sộ, nặng nề
nhưng kéo dài mà không cao,
bên trong đền thờ thường thờ
các vị thần (đặc biệt là vị
thần Mặt Trời)
+ Mặt bằng hình chữ nhật,
bốn góc hướng về bốn hướng
địa dư, đối xứng và kéo dài
theo trục chính.

+ Tổ chức khơng gian càng
vào sâu càng thấp và nhỏ lại,
gian giữa cao, hai gian bên
thấp hơn để cho ánh sáng qua

hệ thống cửa mái.
+ Trong khi ở Ai Cập các cột
bố trí ở trong nội thất để đỡ
mái đền, thì các đền thờ Hy
Lạp lại có cột chạy vịng ở
phía bên ngồi.

+ Cơng trình xây dựng trong
thành phố, trên các quảng
trường (forum) vì vậy trục
của forum cũng chính là trục
của đền thờ.
+ Mặt bằng đền thờ đối xứng
theo trục quy hoạch, ( một số
có dạng hình trịn hoặc với
thiết kế đặc trưng là mái vịm
bên trên)
+ Để có thể thiết kế được hệ
thống mái vịm độc đáo thì
người La Mã đã dày cơng
nghiên cứu các vật liệu tạo
thành chất kết dính bền vững
nhất. Đó là sự kết hợp giữa
cao su, vơi sống, tro bụi và
cát được lấy từ núi lửa để tạo
thành vật liệu gọi là bê tơng.

+ Những ngơi đền thường có
nhiều cột chạy phía bên
ngồi, cách thiết kế những

cột đó phức tạp hay đơn giản
sẽ giúp phân chia loại hình
đền đài. (phân thành 5 loại
tiêu
biểu:
Inantis + Sử dụng vật liệu đá cẩm
(Amphinantis),
Prostyle thạch ốp bên ngoài các mảng
(Amphiprostyle), Periptere khối xây bê tông khổng lồ.
(Pseudoperipter),
Dipter
(Pseudodipter) và Tholos).
20


Mặt bằng Đền thờ Ai Cập Cổ đại (3000 TCN - 330 SCN)

Đền thờ Amon - Karnak (1470 TCN)

Đền thờ Amon - Luxor (1400 TCN)

Đền thờ Khons - Karnak (1390 TCN)

Đền thờ Horus - Edfu (237 - 212 TCN)

21


Mặt bằng Đền thờ Hy Lạp Cổ đại (3000 - 30 TCN)


Đền thờ Aphaia - Aegina (500 TCN)

Đền thờ Parthenon - Athena (448 - 432 TCN)

Đền thờ Apollo - Didyma (330 TCN)

Đền thờ Artemis - Ephesus (356 TCN)

22


Mặt bằng Đền thờ La Mã Cổ đại (500 TCN - 330 SCN)

Đền thờ Pantheon

Đền thờ Vesta

Đền thờ Minerva

23


Ai Cập Cổ đại
(3000 TCN - 330 SCN)

Hy Lạp Cổ đại
(3000 - 30 TCN)

La Mã Cổ đại
(500 TCN - 330 SCN)


2. Thức cột
Các thức cột được mơ phỏng
theo hình tượng con người và
các loại cây (chà là, sồi, bao
báp,...)

Quan điểm của người Hy Lạp
là “Kiến trúc cần phải
thuân theo kiểu dáng của
các bộ phận nhân thể để
chế định ra những tỉ lệ chặt
+ Thức hoa sen (Papyrus / chẽ” - Mười quyển sách kiến
Papyriform) tạo dựng lấy từ trúc (phần 2, chương 1)
nguồn cảm hứng từ một đóa
hoa sen, được buộc lại bởi Pythagore cho rằng cái đẹp
năm vòng dây, xen kẻ thêm của con người cũng thống
những nụ nhỏ.
nhất với nguyên tắc hài hòa
của số học, nếu một khách
+ Thức cây kê (Palm / thể nào đó hịa đồng được với
Palmiform) xuất hiện từ thời kích thước con người thì
Trung vương quốc V, mơ khách thể đó cũng đẹp. Vì
hình cây Papyrus.
vậy những thức cột Hy Lạp Doric, Ionic, Corinthian - đã
+ Thức cột Hathor: xuất khẳng định được phong cách
hiện từ thời Trung vương kiến trúc mà người Hy Lạp
quốc, được lấy ý tưởng thiết quan niệm.
kế từ vị thần tình yêu Hathor,
bắt đầu cột là hình ảnh chạm + Thức cột Doric (ra đời

khắc gương mặt của nữ thần sớm nhất từ thế kỷ VII TCN)
tình yêu Hathor, diện tích đa với thiết kế đơn giản, khơng
giác 6 - 8 - 16 mặt, đầu cột là có phần đầu cột và đế cột,
tấm đá vng, trên đó là đá được hình thành từ một trụ
đầu cột, tiếp trên là tường đầu thẳng đứng phình to ở đáy.
cột,...
+ Thức cột Ionic (ra đời từ
khoảng thế kỉ VI TCN), được
đặt trên phần đế và có phần
bệ đỡ nằm giữa thân cột và
đế cột, đầu cột có 2 vịng
xoắn ốc được gắn trên đầu
cột được trang trí gờ chỉ.
+ Thức cột Corinthian (ra
đời vào khoảng thế kỉ thứ V
TCN) có đường nét mảnh
mai, trang trí cầu kì, đầu cột
rất hoa lệ, có nhiều chi tiết
giống như một lẵng hoa kết
hợp cùng với một tầng lá
phiên thảo diệp (acanthe).

24

Từ ba thức cột được tiếp thu
trực tiếp từ Hy Lạp như:
Doric, Ionic, Corinthian sau
này người La Mã đã phát
minh thêm những thức cột
khác là thức cột Tuscan và

thức cột Composite.
+ Thức cột Tuscan được
hình thành và sáng tạo từ
thức cột Doric nhưng thân
cột trơn, nhẵn bóng, khơng
có đường rãnh và có chân đế.
+ Thức cột Composite là
một kiểu cột được thiết kế
theo kiểu La Mã kết hợp giữa
thức cột Ionic và Corinthian
của Hy Lạp.


Thức cột của Ai Cạp Cổ đại (3000 TCN - 330 SCN)

Papyrus/Papyriform Column

Palm/Palmiform Column

Hathor Column

Ba dạng thức cột truyền thống và phát triển nhất của Ai Cập Cổ đại

Các dạng thức cột được cải cách từ ba thức cột truyền thống trên
25


×