Tải bản đầy đủ (.pdf) (370 trang)

Khoa học và công nghệ thế giới thách thức và vận hội mới ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.18 MB, 370 trang )



1


Mục lục

Lời nói đầu
Các chữ viết tắt
Chơng 1. Các xu thế phát triển KH&CN hiện nay 6

1.1. Bối cảnh chung 6
1.2. Các xu thế khoa học và công nghệ 17
Chơng 2. Phát triển công nghiệp công nghệ cao 54
2.1. Các ngành công nghệ cao 54
2.2. Chức năng và vai trò chủ yếu của công nghệ cao 56
2.3. Công nghiệp công nghệ cao 58
Chơng 3. Thách thức và vận hội trong chính sách khoa học và đổi mới 78
3.1. Các hệ thống nghiên cứu công với những thách thức mới 78
3.2. Những áp lực gia tăng đối với nghiên cứu công phục vụ các nhu cầu kinh tế-xã hội. 79
3.3. Giao diện giữa khoa học và đổi mới 83
3.4. Thúc đẩy sự phát triển và di chuyển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ 95
3.5. Thách thức và toàn cầu 107
Chơng 4. Khoa học và công nghệ của các nớc 118
Mỹ 118
Canađa 143
Liên minh châu Âu 150
Đức 158
Anh 170
Italia 181


Pháp 191
Liên bang Nga 206
Ba Lan 216
Hungary 227
Cộng hòa Séc 245
2
Céng hßa Slovakia 258
Trung Quèc 271
Hµn Quèc 288
NhËt B¶n 296
Singapo 309
Malaixia 314
Th¸i Lan 326
Philippin 337
In®«nªxia 349
Lêi kÕt 361
Phô lôc
Tµi liÖu tham kh¶o chÝnh


3
Các chữ viết tắt
ACST Hội đồng T vấn KH&CN của Canađa
APEC Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu á- TBD
ATP Chơng trình Công nghệ Tiên tiến của Anh
BMBF Bộ Giáo dục và Nghiên cứu Liên bang của Đức
CERN Trung tâm Nghiên cứu Hạt nhân châu Âu
CNNN Công nghệ nano
CNSH Công nghệ sinh học
CNTT Công nghệ thông tin

CRC Trung tâm Hợp tác Nghiên cứu của ôxtrâylia
DNVVN Doanh nghiệp vừa và nhỏ
DOD Bộ Quốc phòng Mỹ
DOE Bộ Năng lợng Mỹ
EMBO Tổ chức Sinh học Phân tử châu Âu
ESA Cơ quan Vũ trụ châu âu
EU Liên minh Châu Âu
EUREKA Dự án Nghiên cứu công nghệ tiên tiến của EU
GDP Tổng sản phẩm trong nớc
INCO Chơng trình Hợp tác Quốc tế châu Âu
ISDN Mạng dịch vụ tích hợp số
KH&CN Khoa học và công nghệ
KHKT Khoa học kỹ thuật
KIST Viện KHCN Hàn Quốc
OECD Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
MITI Bộ Thơng mại và công nghiệp Nhật Bản
MTI Bộ Thơng mại và Công nghiệp Hàn Quốc
NASA Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Quốc gia của Mỹ
NCPT Nghiên cứu và phát triển
NIH Viện Y tế Quốc gia Mỹ
NNI Sáng kiến Công nghệ Nano Quốc gia của Mỹ
NRC Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia của Canađa
NSF Quỹ Khoa học Quốc gia Mỹ
NSTC Hội đồng KHCN Quốc gia của Mỹ
OSTP Cơ quan Chính sách KH&CN của Mỹ
TPC Chơng trình chung Phát triển Công nghệ Canada
4

Lời nói đầu


Trong lịch sử phát triển của nhân loại, thế kỷ XXI sẽ hứa hẹn
nhiều biến đổi xã hội sâu sắc với sự tiếp diễn của các cuộc cách
mạng trong nhiều lĩnh vực khoa học và công nghệ, đợc bắt đầu từ
cuối thế kỷ XX. Các cuộc cách mạng này, với các ngành công
nghệ cao nh công nghệ nano, công nghệ thông tin, công nghệ vật
liệu, công nghệ sinh học, công nghệ năng lợng mới, công nghệ vũ
trụ. v.v., đã và đang làm thay đổi tận gốc lực lợng sản xuất, khiến
nền kinh tế thế giới phát triển, biến hoá cực kỳ mạnh mẽ, cả về
chiều rộng lẫn chiều sâu, với tốc độ và quy mô ngày càng lớn.
Nhiều đột phá công nghệ quan trọng, nh kỹ thuật vi-điện tử, lade,
bán dẫn, siêu dẫn, cáp quang, truyền thông và viễn thông hiện đại,
siêu máy tính, trí tuệ nhân tạo, kỹ thuật ADN, rôbốt công nghiệp,
mạng Internet, v.v., đã tạo nên những tác động có tính cách mạng
tới sự phát triển trên toàn cầu.
Trên phơng diện kinh tế, nền kinh tế thế giới đang có thay đổi
căn bản về cơ cấu, phơng thức tổ chức và sản xuất. Cách tiếp cận
hệ thống linh hoạt của từng cá nhân, cộng đồng doanh nghiệp tới
tri thức, giải trí, việc làm, nghiên cứu khoa học, sản xuất-kinh doanh
cũng nh việc sáng tạo ra những thị trờng mới, ngành nghề mới,
những giá trị mới đang là những thách thức đối với toàn thế giới.
Trên quy mô hành tinh, quá trình quốc tế hoá đã đợc đẩy lên một
mức mới nữa về chất và chuyển thành một xu thế mới - đó là xu thế
toàn cầu hoá và phi địa phơng hoá. Trong đó, mọi loại hàng hoá,
dịch vụ, các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực và lao động, cùng với
những yếu tố của nền sản xuất đang luân chuyển và vận động
xuyên qua mọi đờng biên giới quốc gia, khu vực, hàng ngày, hàng
giờ với khối lợng khổng lồ và tốc độ cực nhanh.
Trên phơng diện địa-chính trị, các đờng biên giới quốc gia
và các khu vực trên toàn cầu không còn mang ý nghĩa lớn nh
trớc, do bức tờng rào không gian-thời gian bị dỡ bỏ bởi những đột

phá có tính cách mạng trong công nghệ thông tin và truyền thông
hiện đại ở cuối thế kỷ XX.
Trên phơng diện xã hội, khoa học và công nghệ đem lại cho
nhân loại những vận hội phát triển nhanh, mạnh (mặt sáng của

5
khoa học và công nghệ) nhng cũng tiềm ẩn những thách thức
nghiệt ngã, thậm chí những hậu quả khôn lờng (mặt tối của khoa
học và công nghệ) đối với nhận loại.
Vào đầu thế kỷ XXI, nhân loại đang quá độ sang nền kinh tế tri
thức và tiến dần vào Ký nguyên thông tin. Trong quá trình đó, việc
dành u tiên phát triển khoa học và công nghệ, cũng nh nâng cao
hiệu quả của khoa học, công nghệ và tận dụng những u thế lớn
nhất của chúng để phục vụ phát triển kinh tế-xã hội ngày nay đã
trở thành nhiệm vụ then chốt và hết sức cấp bách đối với mọi quốc
gia và khu vực trên thế giới.
Để có thể tìm hiểu sâu thêm về những xu thế phát triển cũng
nh những thách thức đặt ra cho khoa học và công nghệ, Trung
tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia, trân trọng giới
thiệu cuốn sách "Khoa học và công nghệ thế giới-thách thức và
vận hội mới". Những thông tin đợc giới thiệu trong cuốn sách này,
chắc chắn sẽ bổ ích đối với các độc giả có quan tâm tới đổi mới
quản lý khoa học và công nghệ và chính sách phát triển nhanh,
bền vững bằng khoa học và công nghệ trong thời đại hiện nay.

TRUNG TÂM THÔNG TIN
KHOA HọC Và CÔNG NGHệ QUốC GIA
6

Chơng 1


Các xu thế phát triển KHoa học và
công nghệ hiện nay

1.1. Bối cảnh chung
Khoa học, công nghệ và đổi mới lên ngôi
Việc cơn suy thoái kinh tế vừa qua đã nhờng chỗ cho những triển
vọng tăng trởng kinh tế mạnh hơn đã tạo điều kiện cho các nớc tiếp
tục tập trung vào khoa học, công nghệ và đổi mới để thực hiện các mục
tiêu kinh tế-xã hội. Trên thế giới, quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế tri
thức vẫn tiếp tục diễn ra cùng với cạnh tranh ngày càng tăng, buộc các
nớc phát triển phải dựa nhiều hơn vào sáng tạo, truyền bá và khai thác
tri thức khoa học và công nghệ, cũng nh các nguồn lực trí tuệ khác, làm
những phơng tiện để thúc đẩy tăng trởng và năng suất. Các ngành
công nghiệp công nghệ cao có tỷ trọng ngày càng cao trong giá trị gia
tăng và trong trao đổi quốc tế của các nớc phát triển tới đây sẽ đóng vai
trò đáng kể trong phục hồi kinh tế.
Trong những năm qua, điều kiện kinh tế yếu kém đã hạn chế đầu t
vào KH&CN. Ví dụ, đầu t cho NCPT trên toàn thế giới chỉ tăng dới 1%
từ 2001 đến 2002, so với 4,6% hàng năm trong giai đoạn từ 1994 đến
2001. Kết quả là, chi tiêu cho NCPT đã giảm từ 2,28% xuống còn 2,26%
GDP trong toàn khu vực OECD do chịu ảnh hởng sụt giảm từ Mỹ, vốn
bị tác động mạnh bởi suy thoái kinh tế. Cờng độ NCPT cũng giảm trong
nhiều nớc Đông Âu đang trong quá trình tái cơ cấu kinh tế, nhng lại
tăng trong 25 nớc thành viên EU và tại Nhật Bản cũng nh châu á-Thái
Bình Dơng.

7
ý thức đợc tầm quan trọng của đổi mới đối với hoạt động và tăng
trởng kinh tế, Chính phủ nhiều nớc OECD đã cố gắng tránh cắt giảm

đầu t công cộng cho NCPT, một số nớc còn tăng nhẹ. Mặc dù còn
thấp so với mức của đầu thập kỷ 1990, nhng chi tiêu của chính phủ các
nớc OECD cho NCPT đã tăng từ 0,63% lên 0,68% GDP giữa các năm
2000 và 2002; tăng mạnh nhất tại Mỹ, tiếp theo là Nhật Bản và EU. Do
vấn đề an ninh quốc gia ngày càng đợc quan tâm, nên đa số phần tăng
thêm của Mỹ dành cho NCPT quốc phòng và y tế.
Nguyên nhân dẫn đến giảm cờng độ NCPT trong OECD là đầu t
NCPT bị giảm mạnh trong khu vực kinh doanh của Mỹ. Chi phí cho
NCPT của các doanh nghiệp đã giảm từ 1,88% xuống 1,65% GDP tại
Mỹ giữa các năm 2000 và 2003, đồng thời NCPT đợc thực hiện trong
khu vực kinh doanh cũng giảm từ 2,04% xuống 1,81% GDP. Ngợc lại,
NCPT do khu vực kinh doanh thực hiện tại Nhật Bản lại tăng từ 2,12%
đến 2,32% GDP giữa các năm 2000 và 2002, và mức tăng khiêm tốn
hơn cũng đợc ghi nhận tại EU. Vốn đầu t mạo hiểm cũng giảm mạnh,
từ 106 tỷ USD xuống 18 tỷ USD tại Mỹ giữa các năm 2000 và 2003 và từ
19,6 tỷ xuống 9,8 tỷ Euro tại EU giữa các năm 2000 và 2002. Mặc dù
viễn cảnh tăng trởng kinh tế đã đợc cải thiện hứa hẹn sự phục hồi
NCPT của các doanh nghiệp và vốn đầu t mạo hiểm, tỷ lệ tăng trởng
có thể bị hạn chế bởi những lo lắng về tốc độ phục hồi.
Những viễn cảnh về tăng trởng kinh tế mạnh trong khu vực OECD
tạo ra cơ hội mới để tăng hỗ trợ cho khoa học, công nghệ và đổi mới.
Nhiều nớc OECD đã áp dụng mới, hoặc điều chỉnh lại chơng trình
quốc gia về khoa học, công nghệ và chính sách đổi mới và ngày càng có
nhiều nớc thiết lập mục tiêu tăng ngân sách cho NCPT. Hầu hết các
nớc đang tìm mọi cách để tăng chất lợng và hiệu quả nghiên cứu
công, kích thích đầu t của các doanh nghiệp cho NCPT và củng cố mối
quan hệ giữa khu vực t nhân và Nhà nớc. Quan hệ hợp tác nghiên cứu
công-t đã nổi lên nh một yếu tố then chốt trong chính sách đổi mới và
đang thu hút ngày càng nhiều tài trợ. Nguồn nhân lực cho KH&CN cũng
là một u tiên hàng đầu đối với những nhà hoạch định chính sách, đặc

biệt trong đảm bảo cung cấp đủ nhân công lành nghề (bao gồm các nhà
khoa học và kỹ s) để hỗ trợ tăng trởng kinh tế và tái cơ cấu do đổi mới
dẫn đờng.
8
Hơn bao giờ hết, chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới cần
thích ứng với nhu cầu của lĩnh vực dịch vụ và với sự năng động của quá
trình toàn cầu hoá. Dịch vụ chiếm phần NCPT ngày càng tăng trong các
nớc OECD, chiếm 23% tổng chi NCPT của doanh nghiệp năm 2000 so
với 15% năm 1991, và khả năng đổi mới của các doanh nghiệp trong lĩnh
vực dịch vụ sẽ ảnh hởng rất mạnh đến bức tranh tăng trởng, năng suất
và việc làm. Tuy nhiên, các doanh nghiệp thuộc khu vực này còn đổi mới
chậm hơn các doanh nghiệp sản xuất. Cùng thời gian này, khoa học,
công nghệ và đổi mới đang đợc toàn cầu hoá ngày càng mạnh. Tổng
chi tiêu cho NCPT của cả Trung Quốc, Israel và Nga tơng đơng với
15% chi tiêu NCPT của các nớc OECD năm 2001, so với 6,4% năm
1995. Trong nhiều quốc gia OECD, phần NCPT do chi nhánh nớc
ngoài của các công ty đa quốc gia cũng tăng. Các nhà hoạch định chính
sách cần đảm bảo cho các nền kinh tế OECD đủ mạnh để đối mặt với
cạnh tranh ngày càng tăng và thu lợi từ sự phát triển của mạng lới các
công ty đa quốc gia.
Củng cố hệ thống khoa học, công nghệ và đổi mới
Bất chấp những ràng buộc tài chính, nhiều chính phủ OECD cam
kết tăng chi tiêu cho NCPT. Nhiều nớc, và cả EU, đã vạch ra những
mục tiêu rõ ràng để thúc đẩy chi tiêu cho NCPT thông qua cả khu vực
Nhà nớc lẫn t nhân. Tiền của Nhà nớc ngày càng đợc dành nhiều
cho các lĩnh vực KH&CN đợc cho là có giá trị kinh tế, xã hội to lớn, đặc
biệt là CNTT và truyền thông, công nghệ sinh học và công nghệ nano.
Một số nớc nh Đan Mạch, Đức, Hà Lan và Na Uy đã thành lập các quỹ
đặc biệt để tài trợ cho nghiên cứu trong các lĩnh vực u tiên.
Các chính phủ đã có hàng loạt cải cách để tăng cờng hệ thống

nghiên cứu nhà nớc và giúp nó đóng góp hiệu quả, tích cực hơn cho đổi
mới. Ví dụ nh, các chính phủ Nhật Bản, Đan Mạch, Slovakia đã trao
nhiều quyền tự quyết hơn cho các trờng đại học hoặc chuyển đổi các
trờng này thành trờng t hoặc bán t thục và dỡ bỏ những rào cản đối
với hợp tác giữa chúng và khu vực công nghiệp. Nguồn vốn cho các tổ
chức cũng thay đổi trong nhiều quốc gia nhằm làm cho các trờng đại
học và các viện nghiên cứu của chính phủ ít phụ thuộc hơn vào nguồn
vốn của Nhà nớc và dựa vào nguồn vốn dự án nghiên cứu do cạnh

9
tranh mà có. Nhiều quốc gia đang nỗ lực đánh giá các cơ quan nghiên
cứu Nhà nớc nhằm cải thiện chất lợng giảng dạy và nghiên cứu.
Các nớc cũng đang xúc tiến cải thiện việc chuyển giao công nghệ
từ các cơ quan nghiên cứu công sang khu vực công nghiệp. Những điều
luật mới tại Đan Mạch và Na Uy đã quy định chuyển giao công nghệ cho
khối công nghiệp là nhiệm vụ cụ thể của các trờng đại học và Đại học
Luxembourg mới đã đợc khuyến khích thúc đẩy tơng tác với khối công
nghiệp thông qua các hợp đồng nghiên cứu và trng dụng sinh viên, nhà
nghiên cứu. Các nớc tiếp tục cải tổ luật lệ chi phối quyền sở hữu trí tuệ
của các cơ quan.
Nghiên cứu công đợc thúc đẩy theo hớng đảm bảo quyền sở hữu
trí tuệ cho các cơ quan này để tạo điều kiện thơng mại hoá dễ dàng các
kết quả NCPT. Na Uy và Thụy Sỹ cũng đã có những thay đổi nh vậy
những năm vừa qua, Phần lan và Aixơ-len đang dự thảo luật về chủ đề
này. Nhiều nớc không thay đổi luật nh Ôxtrâylia và Ai-Len thì cũng
phát triển đờng hớng chỉ đạo để khuyến khích thơng mại hoá các kết
quả nghiên cứu và tạo ra tính nhất quán cao trong quản lý sở hữu trí tuệ
giữa các tổ chức nghiên cứu.
Hỗ trợ NCPT của các doanh nghiệp là điểm nổi bật trong chính sách
đổi mới của OECD, đặc biệt là các chính phủ đều quyết tâm tăng chi tiêu

cho NCPT của các doanh nghiệp. Ngoại trừ nhiều nớc Đông Âu, tài trợ
trực tiếp của Nhà nớc cho NCPT đã giảm cả theo giá trị tuyệt đối lẫn
theo tỷ lệ NCPT trong các doanh nghiệp và các biện pháp gián tiếp lại
đợc coi trọng nhiều hơn nh khuyến khích về thuế đối với NCPT. Giữa
các năm 2002-2004, Bỉ, Ai-Len và Na Uy đã xây dựng những kế hoạch
khuyến khích về thuế, đa số lợng các nớc OECD sử dụng khuyến
khích thuế cho NCPT lên 18 nớc. Vơng quốc Anh cũng phát triển
chính sách khuyến khích thuế cho các doanh nghiệp lớn đồng thời bổ
sung chính sách của mình đối với các doanh nghiệp nhỏ. Nhiều nớc
cũng nỗ lực khuyến khích tinh thần kinh doanh, tăng cờng các hoạt
động NCPT trong các DNVVN thông qua các khoản vốn đầu t mạo
hiểm và những hỗ trợ u đãi cho các doanh nghiệp loại này.
Để định lợng đợc hiệu quả của chính sách đổi mới và hoạch định
chính sách trong tơng lai, hầu nh tất cả các nớc OECD đang rất coi
trọng việc đánh giá, ở tất cả cấp độ: công cụ riêng lẻ (khuyến khích thuế,
10
quan hệ đối tác công-t), các thể chế (trờng đại học và các phòng thí
nghiệm của chính phủ), hệ thống đổi mới quốc gia (Ôxtrâylia, Phần Lan,
Anh). Canada có kế hoạch đánh giá toàn diện hỗ trợ của liên bang cho
NCPT và CH Séc thờng xuyên đánh giá các chơng trình nh một phần
trong phát triển chính sách của mình, giống nh Thụy Điển đã làm.
Trong một vài trờng hợp, nh ở Hà Lan, Niu Dilân và Thụy Sỹ chẳng
hạn, luật quy định mọi chơng trình và chính sách phải đợc đánh giá
thờng xuyên.
Phát huy quan hệ hợp tác công-t
Quan hệ hợp tác công-t là công cụ thiết yếu để nuôi duỡng đổi mới
trong các nớc OECD. Thông qua đóng góp tài chính của cả khu vực t
nhân lẫn Nhà nớc, quan hệ đối tác công-t là phơng tiện tăng sức
mạnh các khoản đầu t khiêm tốn của Nhà nớc cho NCPT và đảm bảo
sự cam kết mạnh hơn từ khu vực công nghiệp. Bằng cách kết hợp nhu

cầu của khu vực nhà nớc và t nhân thông qua các mục tiêu chung và
sự tham gia tích cực của các đối tác vào quản lý và hoạch định chính
sách, quan hệ đối tác công-t cũng có thể cải thiện chất lợng những
đóng góp của khu vực t nhân đối với nhu cầu của Nhà nớc, tăng viễn
cảnh thơng mại hoá các kết quả nghiên cứu của Nhà nớc và nâng cao
hạ tầng tri thức cở sở.
Nghiên cứu trên cơ sở hợp tác công-t chiếm phần tài trợ cho NCPT
ngày càng tăng tại các nớc OECD. Tại Pháp, năm 2002, nghiên cứu
hợp tác chung công-t chiếm 78% nguồn tài trợ cạnh tranh cho nghiên
cứu so với 37% năm 1998 và Chính phủ Đức dành 805 triệu Euro cho
nghiên cứu hợp tác chung công-t trong các lĩnh vực then chốt giữa các
năm 2003 và 2010. Các chơng trình nghiên cứu chung công-t hiện nay
tại Ôxtrâylia, áo và Thụy Điển cũng đợc tăng cờng các nguồn tài trợ
bổ sung và các nghiên cứu hợp tác công-t mới đang đợc thiết lập tại
CH Séc, Ai Len, Hungari và Thụy Sỹ. Trong khi nhiều quan hệ đối tác
công-t đợc thực hiện dới hình thức các trung tâm nghiên cứu chung
thì các nớc nh Bỉ, Đan Mạch, Pháp, Hà Lan, Niu Dilân, Thụy Sỹ và
Vơng quốc Anh đang nỗ lực thiết lập các mạng lới các nhà nghiên cứu
tại các trung tâm nghiên cứu khác nhau để cải thiện phối hợp và chất
lợng công việc.

11
Những kinh nghiệm đến nay cho thấy các nghiên cứu hợp tác công-
t cần đợc thiết kế và quản lý một cách cẩn thận mới kết hợp đợc
những đối tác có nền văn hoá, phơng pháp quản lý và mục tiêu khác
nhau. Thành công phụ thuộc vào việc các nghiên cứu hợp tác công-t
đảm bảo nh thế nào cam kết của lĩnh vực t nhân mà vẫn dung hoà
đợc các mục tiêu công và t, hội nhập ra sao với hệ thống đổi mới quốc
gia, tối u hoá những cam kết tài trợ, tạo ra những liên kết quốc tế thích
hợp, lôi cuốn các doanh nghiệp vừa và nhỏ và đợc đánh giá nh thế

nào. Ví dụ, việc lựa chọn dựa trên phơng pháp cạnh trạnh từ dới lên
(bottom-up) dờng nh là một phơng tiện hiệu quả giúp các nghiên cứu
hợp tác công-t thu hút đợc các doanh nghiệp có năng lực và đứng
vững trên khả năng vốn có của mình. Tuy nhiên những tiêu chí từ trên
xuống (top-down) đôi khi cũng rất cần thiết để giúp các chơng trình
nghiên cứu hợp tác công-t với tới những lĩnh vực có tầm quan trọng
chiến lợc của quốc gia. Cân đối đóng góp tài chính của khu vực Nhà
nớc và t nhân và thời gian cấp vốn của Nhà nớc cũng cần đợc điều
chỉnh để xem xét mức độ nghiên cứu đó nhằm đáp ứng cho nhu cầu của
Nhà nớc hay hỗ trợ NCPT trong các doanh nghiệp.
Mặc dù các DNVVN rất cần thiết cho sự thành công của nhiều
chơng trình nghiên cứu hợp tác công-t, song chúng vẫn cha có mặt
rộng rãi trong nhiều chơng trình quốc gia. Pháp đã có một số thành
công khi các DNVVN nớc này chiếm gần 30% vốn tài trợ cho 13 mạng
lới nghiên cứu công-t trong khi toàn bộ các doanh nghiệp Pháp chỉ
chiếm gần 20% tổng số vốn tài trợ cho NCPT. Để khuyến khích các
DNVVN tham gia tích cực hơn, các chính phủ cần có biện pháp giảm rào
cản đầu vào, ví dụ nh cho phép sự tham gia của các hiệp hội công
nghiệp. Họ cũng có thể khuyến khích hình thành quan hệ đối tác trong
các lĩnh vực mà các DNVVN đóng vai trò quan trọng. Chính sách cũng
cần có ảnh hởng đến sự tham gia của các doanh nghiệp nớc ngoài,
vốn là những nguồn tài lực, công nghệ quý báu song đang phải đối mặt
với vô vàn hạn chế trong nhiều nớc.
Thúc đẩy đổi mới trong lĩnh vực dịch vụ
Thúc đẩy đổi mới trong lĩnh vực dịnh vụ là chìa khoá để cải thiện
hiệu năng của nền kinh tế trong tơng lai. Dịch vụ chiếm 70% tổng giá trị
gia tăng trong khu vực OECD năm 2000, trong đó dịch vụ thị trờng
12
chiếm 50% so với từ 35 đến 40% năm 1980. Hai phần ba của sự gia
tăng trong giá trị gia tăng của các nền kinh tế OECD giữa các năm 1990

và 2001 là từ dịch vụ, cũng giống nh tăng trởng việc làm đã đem lại.
Dịch vụ cũng đã tạo ra phần lớn mức tăng trởng năng suất lao động
trong nhiều nớc OECD, bao gồm cả Mỹ, Anh và Đức. Tầm quan trọng
của dịch vụ ngày càng tăng trong toàn khu vực OECD vì các nền kinh tế
tiếp tục trở thành các nền kinh tế tri thức cao và các doanh nghiệp
chuyển sản xuất đến những nơi có giá nhân công rẻ trên thế giới.
Bất chấp quan điểm trớc đây cho rằng dịch vụ là ngành tiến triển
chậm, kết quả điều tra mới đây cho thấy tiềm năng đổi mới rất lớn của
các doanh nghiệp trong lĩnh vực này. Số lợng các doanh nghiệp đổi mới
trong lĩnh vực dịch vụ còn ít hơn trong lĩnh vực sản xuất nhng tỷ lệ đổi
mới trong các doanh nghiệp trung gian tài chính và dịch vụ doanh nghiệp
(lần lợt là hơn 50 và 60%) cao hơn mức trung bình của ngành sản xuất.
Mức tăng trởng NCPT trong lĩnh vực dịch vụ cao hơn hẳn trong lĩnh vực
sản xuất. Trong khi các doanh nghiệp dịch vụ lớn có xu hớng đổi mới
mạnh hơn các doanh nghiệp dịch vụ nhỏ, các doanh nghiệp nhỏ trong
lĩnh vực dịch vụ doanh nghiệp và trung gian tài chính lại đổi mới mạnh
hơn trong các ngành công nghiệp dịch vụ khác.
Đổi mới trong dịch vụ không thể làm theo cách đã làm với ngành
sản xuất. Trong lĩnh vực này, NCPT đóng vai trò yếu hơn so với giáo dục
và đào tạo. Số nhân công có trình độ học vấn cao trong lĩnh vực dịch vụ
cao hơn trong lĩnh vực sản xuất (cao hơn 2 lần trong nhiều nớc OECD),
tập trung chủ yếu trong dịch vụ tài chính. Do mức độ NCPT thấp, các
doanh nghiệp dịch vụ phụ thuộc nhiều hơn vào tri thức bên ngoài (thông
qua cấp lixăng sở hữu trí tuệ và mua máy móc, thiết bị), cho nên việc
cân nhắc xây dựng mạng lới, dây chuyền cung cấp là rất quan trọng.
Quan hệ đối tác cũng góp phần vào đổi mới, nhng xu hớng đổi mới
của các doanh nghiệp dịch vụ mới lại bị mức độ đổi mới của toàn nền
kinh tế chi phối.
Để phát triển đổi mới trong các doanh nghiệp dịch vụ, chính sách
cần có mục tiêu rõ ràng hơn và đáp ứng đợc nhu cầu đặc thù của các

doanh nghiệp. Cho đến nay, các doanh nhiệp này bị hạn chế tham gia
vào các chơng trình đổi mới của Nhà nớc và không nhận đợc nhiều
tài trợ công nh các doanh nghiệp sản xuất. Bất chấp tầm quan trọng
ngày càng tăng của các doanh nghiệp dịch vụ trong các nền kinh tế

13
OECD, ít chính phủ phát triển các chơng trình đổi mới đặc biệt thích hợp
cho các doanh nghiệp này. Các nớc OECD sẽ phải nỗ lực nhiều hơn
nữa nh củng cố mối liên kết giữa các doanh nghiệp dịch vụ và các trung
tâm nghiên cứu, cải thiện đào tạo nhân lực, định hớng nghiên cứu theo
nhu cầu của các ngành công nghiệp dịch vụ đặc thù, hay giúp đỡ các
doanh nghiệp dịch vụ sử dụng tốt hơn CNTT và truyền thông. Nhiều
nớc nh Đan Mạch, Phần Lan, Ailen và Na Uy đang thực hiện theo
hớng này và các nớc khác có thể học tập.
Đảm bảo đủ nguồn nhân lực cho khoa học và công nghệ
Những nỗ lực nhằm tăng khả năng đổi mới và hàm lợng tri thức của
nền kinh tế đòi hỏi phải có đủ nguồn nhân lực cho KH&CN. Số việc làm
trong KH&CN đã tăng gần 2 lần so với giữa năm 1995-2000 và số lợng
các nhà nghiên cứu trong toàn khu vực OECD đã tăng từ 2,3 triệu năm
1990 lên 3,4 triệu năm 2000, hay tăng từ 5,6 lên 6,5 nhà nghiên cứu trên
10.000 lao động. Khoảng 2/3 làm việc trong khu vực doanh nghiệp.
Những nỗ lực đầu t của quốc gia và khu vực vào NCPT sẽ làm cho nhu
cầu đối với nghiên cứu viên tăng lên. Chẳng hạn, theo một số đánh giá,
để đạt đợc mục đích tăng NCPT lên 3% GDP của EU vào năm 2010,
số lợng các nhà nghiên cứu tăng thêm có thể vợt quá nửa triệu ngời,
nổi lên vấn đề về cung cấp nguồn nhân lực cho KH&CN trong tơng lai.
Nguồn cung các nhà khoa học và kỹ s trong nớc rất khó dự đoán.
Mặc dù toàn bộ số ngời tốt nghiệp đại học các ngành khoa học và kỹ
thuật đã tăng ở EU, Nhật Bản và Mỹ, song mức độ tăng trởng còn
khiêm tốn và những khác biệt còn rất lớn giữa các nớc về loại cấp,

ngành khoa học hay kỹ thuật. Từ 1998 đến 2001, số ngời tốt nghiệp
khoa học giảm tại Đức và Italia, trong khi số ngời tốt nghiệp kỹ thuật
giảm ở Pháp, Đức, Anh và Mỹ. Số lợng ngời đăng ký học đại học các
ngành khoa học, kỹ thuật đã tăng nhanh hơn tất cả các ngành khác cộng
lại, điều này cho thấy về lâu dài nguồn cung nhân lực KH&CN có thể
tăng nếu các sinh viên hoàn thành chơng trình học của mình, nhng
tình hình không hẳn nh vậy. Số lợng đăng ký học các ngành khoa học,
kỹ thuật tại Mỹ đã tăng từ 405.000 lên 455.000 sinh viên trong khoảng
các năm từ 1998 đến 2002. Nhng ở Đức, số đăng ký học hóa học và
vật lý đã giảm từ năm 1993 đến 2002. ở Pháp, đăng ký học các chơng
trình vật lý, sinh học bậc đại học và sau đại học cũng giảm nhng tăng ở
14
cấp làm tiến sỹ năm 2001 và 2003. Một thị trờng lao động hoạt động tốt
sẽ rất cần thiết để đảm bảo việc làm đợc trả lơng cho các cử nhân
tơng lai và tránh đợc thiếu hụt về kỹ năng hay không phù hợp.
Các quốc gia có thể bổ sung nguồn cung nhân lực KH&CN trong
nớc thông qua các trờng quốc tế và nhân công trình độ cao. Khả năng
tuyển dụng quốc tế đã tăng trong thập kỷ vừa qua khi mà giáo dục đợc
toàn cầu hoá và các nớc OECD đã sửa đổi luật nhập c. Khoảng 1,5
triệu sinh viên nớc ngoài đăng ký học đại học tại các nớc OECD năm
2000. Nhng tình hình chuyển trờng đang thay đổi. Trong khi Mỹ thu
hút đợc nhiều nghiên cứu sinh nớc ngoài hơn các nớc OECD khác,
thì số sinh viên và nghiên cứu sinh tiến sỹ lần đầu tiên đã giảm nhẹ
những năm qua, do những quy định nhập c ngặt nghèo và cạnh tranh
ngày càng tăng giữa các nớc OECD. Con số này đã tăng lên ở Anh,
Ôxtrâylia do họ và các nớc khác đã áp dụng một loạt các biện pháp để
thu hút nhân công nớc ngoài. Trong thời gian này, số lợng sinh viên ở
các nớc ngoài OECD tốt nghiệp trong nớc họ ngày càng tăng và chính
phủ các nớc này rất tích cực tìm cách đa sinh viên và ngời lao động
đã thu đợc kinh nghiệm từ nớc ngoài về làm việc trong nớc.

Để đảm bảo nguồn cung nhân lực KH&CN phù hợp, các nớc
OECD đang triển khai nhiều hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau.
Thứ nhất là những nỗ lực để thu hút nhiều ngời theo đuổi sự nghiệp
khoa học và kỹ thuật, ví dụ bằng cách khuyến khích sự quan tâm của
giới trẻ đối với khoa học, cải thiện đào tạo giáo viên và chơng trình giáo
dục và tuyển dụng nhiều phụ nữ và ngời thuộc tầng lớp ít tiêu biểu. Thứ
hai, tăng tài trợ đặc biệt cho nghiên cứu sinh tiến sỹ và các nhà nghiên
cứu sau tiến sỹ, những ngời thờng tìm đợc công việc sinh lợi ngoài
công việc nghiên cứu. Thứ ba, sử dụng các chính sách về cầu để cải
thiện sự thích ứng giữa cung và cầu, chẳng hạn nh khuyến khích sử
dụng các nhà nghiên cứu trẻ, cải thiện t
ơng lai nghề nghiệp đối với các
nhà nghiên cứu trong khu vực nhà nớc và cung cấp cho sinh viên nhiều
thông tin việc làm hơn trong lĩnh vực dịch vụ. Những nỗ lực tăng NCPT
của các doanh nghiệp cũng sẽ tạo thêm nhiều việc làm trong lĩnh vực
kinh doanh.

15
Lợi ích từ quá trình toàn cầu hoá
Quá trình toàn cầu hoá đang đợc các chi nhánh nớc ngoài của
các công ty đa quốc gia đốt nóng một cách mạnh mẽ. Từ 1995 đến
2001, sản lợng công nghiệp và việc làm của các doanh nghiệp sản xuất
nằm dới sự kiểm soát của nớc ngoài trong các nớc OECD đã tăng,
trừ Đức và Hà Lan. Năm 2001, phần NCPT trong lĩnh vực sản xuất dới
sự quản lý của các chi nhánh nớc ngoài trong các nớc OECD là từ 4%
tại Nhật Bản đến hơn 70% tại Hungari và Ailen, nhiều quốc gia ở mức
15% và 45%. Phần việc làm trong các chi nhánh nớc ngoài chiếm từ
15% đến 30% trong đa số các nớc OECD. Tăng trởng sản xuất trong
các chi nhánh nớc ngoài tăng nhanh hơn các doanh nghiệp trong nớc.
Tầm hoạt động toàn cầu của các công ty đa quốc gia đang trải rộng

vì các nớc ngoài khối OECD đang cải thiện năng lực khoa học, công
nghệ của mình. Trung Quốc, Israel, Nga và các nớc khác đã tăng đáng
kể cờng độ NCPT những năm vừa qua. Cờng độ NCPT của Trung
Quốc đã tăng gấp đôi từ 1996 đến 2002 (từ 0,6 đến 1,2 % GDP) và tổng
đầu t cho NCPT của Trung Quốc xét về giá trị tuyệt đối chỉ đứng sau
Mỹ và Nhật Bản. Đầu t NCPT của nớc ngoài tại Trung Quốc đang
tăng nhanh khi năng lực công nghệ đợc tăng cờng và thị trờng Trung
Quốc cởi mở hơn. Chỉ riêng đầu t của Mỹ tại Trung Quốc đã tăng từ 7
triệu USD lên 500 triệu USD trong khoảng từ năm 1994-2000.
Một phân tích mới đây dựa trên những dữ liệu ở cấp doanh nghiệp
đã chỉ rõ rằng các công ty đa quốc gia đều đóng góp đáng kể vào tăng
năng suất tại nớc nhà và trong các nớc đến và là những kênh chuyển
giao công nghệ quan trọng. Các công ty đa quốc gia đóng góp vào tăng
trởng năng suất lao động tại Bỉ, Anh, Mỹ nhiều hơn so với các công ty
đơn quốc gia hoặc không có chi nhánh trong nớc. Chúng cũng góp
phần tạo ra các làn sóng công nghệ, giúp cải thiện hoạt động đổi mới ở
nớc nhà cũng nh ở nớc đến. Gần nh hầu hết tăng trởng năng suất
lao động trong doanh nghiệp phi tài chính của Mỹ cuối những năm 1990
đến từ các công ty đa quốc gia. Các công ty đa quốc gia có trụ sở tại
Anh cũng có xu hớng đạt đợc những kết quả tốt hơn các công ty quốc
gia không tham gia mạng lới toàn cầu.
Trong khi nhiều chú ý đang tập trung đến những bất lợi của toàn cầu
hoá, nh chuyển việc làm trong nớc ra nớc ngoài, mất kiểm soát các
16
công ty đa quốc gia do nớc ngoài sở hữu , thì các nhà hoạch định
chính sách cần nhận thức đợc lợi ích của nó đối với nớc mình và nớc
đến, cũng nh xây dựng chính sách để thu hút các công ty này. Các
chính sách đợc xây dựng để hạn chế toàn cầu hoá, hồi hơng các chi
nhánh nớc ngoài có thể không phải là biện pháp hiệu quả để củng cố
nền kinh tế trong nớc, bởi vì nó hạn chế con đờng tiếp cận với một

nguồn tri thức lớn và tăng trởng sản xuất. Chính sách cần tập trung cải
thiện tính hấp dẫn của kinh tế trong nớc đối với các doanh nghiệp nớc
ngoài và đảm bảo cho hoạt động của họ phát triển bằng cách khuyến
khích hợp tác với các doanh nghiệp và nhà cung cấp trong nớc.

17
1.2. Các xu thế khoa học và công nghệ
1.2.1. Khoa học và công nghệ là động lực của sự phát triển
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, thế kỷ XXI là thế kỷ tiêu biểu
nhất với sự tiếp tục của các cuộc cách mạng trong nhiều lĩnh vực khoa
học và công nghệ diễn ra từ cuối thế kỷ XX. Các cuộc cách mạng này đã
làm cho lực lợng sản xuất thay đổi tận gốc và đợc xã hội hoá cao độ,
khiến nền kinh tế thế giới phát triển, biến hoá cực kỳ mạnh mẽ, cả về
chiều rộng lẫn chiều sâu, với tốc độ và quy mô ngày càng lớn.
Cách đây hơn 10.000 năm, cuộc cách mạng thông tin lần thứ nhất
đợc khởi phát bằng việc tạo ra tiếng nói; tiếp theo là cuộc cách mạng
thông tin lần thứ hai đợc đánh dấu bằng việc tạo ra chữ viết; cuộc cách
mạng thông tin lần thứ ba - phát minh ra nghề in; cuộc cách mạng thông
tin lần thứ t - phát minh ra điện tín, điện thoại, điện báo. Vào thế kỷ XXI,
cuộc cách mạng thông tin lần thứ năm đang diễn ra hiện nay, với cốt lõi
là cuộc cách mạng số hoá - đang tạo ra các siêu lộ cao tốc thông tin,
mạng Internet thuộc thế hệ II và thế hệ mới có tốc độ nhanh hơn 1000
lần so với mạng Internet hiện nay, hệ thống thông tin di động thế hệ 3G
và 4G, cùng với các Hạ tầng cơ sở thông tin quốc gia, Hạ tầng cơ sở
thông tin khu vực và Hạ tầng cơ sở thông tin toàn cầu.
Duới tên gọi khái quát chung là cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ ba, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại và cuộc cách
mạng thông tin lần thứ năm, đã đa nhân loại quá độ từ Thời đại công
nghiệp lên Thời đại trí tuệ, đợc đặc trng bởi Nền kinh tế dựa trên tri
thức (hay còn đợc gọi là nền Kinh tế tri thức, nền Kinh tế mạng, nền

Kinh tế mới hay nền Kinh tế số).
Trong thời đại trí tuệ, việc khoa học đã trở thành lực lợng sản xuất
trực tiếp của nền sản xuất xã hội đã đa những yếu tố phát triển truyền
thống nh tài nguyên thiên nhiên, lao động, vốn đợc xếp xuống hàng
thứ yếu. Thay vào đó, tri thức và thông tin đã đợc coi là yếu tố lợi thế so
sánh hàng đầu.
Trong quá trình hoán đổi vị trí này, những ngành công nghiệp nặng
nh sản xuất thép, ôtô, hóa chất, cao su, v.v. đã nhờng vai trò then
chốt cho những ngành chế tạo có hàm lợng tri thức khoa học và công
18
nghệ cao nh hàng không - vũ trụ, máy tính, viễn thông, điện tử dân
dụng, dợc phẩm và các thiết bị tế, v.v Với cuộc cách mạng số hoá
trong lĩnh vực công nghệ thông tin, ngày càng xuất hiện nhiều ngành
dịch vụ có hàm lợng trí tuệ và tri thức cao, nh tài chính, truyền thông
và viễn thông, chăm sóc y tế giáo dục và đào tạo, luật, kế toán, xử lý số
liệu và giải trí, v.v
Về mặt công nghệ và kinh tế-xã hội, tầm quan trọng của cuộc cách
mạng công nghiệp mới này có thể còn cao hơn so với cuộc cách mạng
về đờng sắt, hay điện năng diễn ra ở thế kỷ trớc, với tác dụng ngày
càng sâu rộng, nhờ các mạng lới truyền thông, viễn thông đầy hiệu quả
với hệ thống các mạng thông tin điện tử toàn cầu, rải dới đáy đại dơng,
trên mặt đất hay đặt trong Vũ trụ- tạo thành một hệ thống thần kinh đầu
não của xã hội thông tin trên quy mô toàn cầu. Đồng thời, đây cũng là
một biểu trng nổi bật của khoa học và công nghệ ở cuối thế kỷ XX và
đầu thế kỷ XXI. Nhờ khoa học và công nghệ đợc phát triển với tốc độ
cao hơn so với thế kỷ XX trớc đây, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
ba này sẽ diễn ra nhanh hơn và đang làm thay đổi về căn bản cơ cấu
kinh tế, phơng thức tổ chức và sản xuất, cách tiếp cận của từng cá
nhân, cộng đồng và các doanh nghiệp tới tri thức, giải trí, phơng pháp
làm việc, công tác nghiên cứu, sản xuất-kinh doanh và các mối quan hệ

trong các khu vực kinh tế-xã hội, thông qua việc sáng tạo ra những giá trị
mới và việc làm mới, những thị trờng mới và những nghề nghiệp mới có
tính thách thức đối với toàn thế giới.
Trên quy mô toàn cầu, vào những thập niên đầu của thế kỷ XXI, với
vô số thành tựu khoa học công nghệ mới nhất đợc tạo ra trong các
ngành công nghệ cao (hi-tech) - công nghệ nano, công nghệ thông tin,
công nghệ vật liệu, công nghệ sinh học, công nghệ năng lợng mới,
công nghệ vũ trụ. v.v., (nh kỹ thuật vi-điện tử, lade, bán dẫn, siêu dẫn,
cáp quang, truyền thông và viễn thông hiện đại, siêu máy tính, trí tuệ
nhân tạo, kỹ thuật ADN, rôbốt công nghiệp, mạng Internet ), lực lợng
sản xuất đã thực sự có bớc phát triển nhảy vọt và đạt tới một trình độ
cha từng có trong lịch sử phát triển của nhân loại, góp phần đa nhanh
quá trình Quốc tế hoá nền sản xuất xã hội của mọi quốc gia trên thế giới
lên một mức mới nữa về chất và chuyển thành một xu thế mới - đó là xu
thế Toàn cầu hoá và Phi địa phơng hoá. Trong đó, tất cả các loại hàng
hoá, dịch vụ, các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực và lao động, cùng với

19
những yếu tố của nền sản xuất đang luân chuyển và vận động xuyên
qua các đờng biên giới của mọi quốc gia, khu vực. Đặc điểm nổi bật
của giai đoạn phát triển KH&CN hiện nay là tính liên tục của các làn
sóng đổi mới công nghệ, cũng nh tính phức hợp đồng bộ của các đổi
mới ngày càng bao trùm và thâm nhập mọi thành phần và yếu tố cơ bản
của lực lợng sản xuất. Mặt khác, nhờ những đột phá lớn trong công
nghệ thông tin và viễn thông hiện đại ở cuối thế kỷ 20, mà bức tờng rào
không gian - thời gian đã bị xóa bỏ, khiến cho các đờng biên giới quốc
gia và khu vực không còn nhiều ý nghĩa trên phơng diện địa-chính trị
nh trớc đây.
Nhờ cuộc cách mạng thông tin và viễn thông, mà tất cả các khu vực
đời sống kinh tế và văn hoá - xã hội đã có sự thay đổi to lớn dựa trên:

1) Sự cất cánh của nền kinh tế ảo với các hoạt động phi vật chất -
các hoạt động của doanh nghiệp, nghiên cứu-phát triển, thơng mại hoá,
thiết kế và sản xuất đã thay đổi căn bản. Do quá trình quốc tế hoá sản
xuất, xuất hiện các xí nghiệp ảo và cạnh tranh quốc tế diễn ra nhanh
chóng và khốc liệt, cũng nh khả năng linh hoạt về thời gian lao dộng và
của bản thân lao động nên trong l0 năm tới đây, có thể dự báo đợc khả
năng quy hoạch lại trên toàn lãnh thổ quốc gia hay toàn cầu đối với việc
tổ chức các doanh nghiệp.
2) Sự triển khai những chỗ làm việc mới và làm việc từ xa sử dụng
các kỹ thuật và công nghệ tin học, viễn thông, kỹ thuật nghe nhìn đã cho
phép các doanh nghiệp có thể bố trí đợc các hoạt động của mình tại
những nơi có nhiều mối quan tâm (làm việc và sản xuất từ xa).
Trong tiêu dùng, sự bùng nổ của các mạng lới đa dịch vụ thông tin
cũng nh về hậu cần đã cung cấp tới tận nhà tất cả những dịch vụ nhằm
đảm bảo đầy đủ những nhu cầu vật chất (tủ lạnh, lò vi sóng, máy giặt,
thực phẩm, thức ăn chuẩn bị sẵn, v.v.) và tinh thần cho sinh hoạt gia
đình (nh chữa bệnh sửa chữa máy móc, đặt vé máy bay, đặt chỗ khách
sạn trong nớc và ngoài nớc, v.v.) đã giảm nhẹ nhiều thời gian cho
công việc nội trợ và dành nhiều thời gian hơn cho công tác giáo dục con
cái, tự học, giải trí, thể dục-thể thao, các sinh hoạt xã hội và sinh hoạt
tâm linh làm phong phú thêm đời sống văn hoá cho con ngời.
Vào đầu thế kỷ XXI, nhân loại đang tiến dần vào Kỷ nguyên thông
tin. Kỷ nguyên này, theo các nhà khoa học, sẽ vào quãng năm 2010 -
20
2015. Nh vậy, nhờ sự phát triển vũ bão của KH&CN, với các ngành
công nghệ cao làm then chốt, việc thực hiện bớc quá độ lên Xã hội
thông tin, trên thực tế, chỉ diễn ra trong một khoảng thời gian cực kỳ
ngắn ngủi là khoảng 30 năm, so với quãng đờng gần 300 năm để tiến
lên Xã hội công nghiệp. Đồng thời, bớc quá độ to lớn "vô tiền, khoáng
hậu" sang nền kinh tế tri thức đang diễn ra hiện nay ở khắp các châu lục

trên thế giới, đã và đang tạo ra nhiều xung lực và động lực mạnh mẽ cho
trào lu toàn cầu hoá, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu, cũng
nh quá trình khu vực hoá diễn ra với gia tốc ngày một lớn. Trong quá
trình đó, việc dành u tiên phát triển KH&CN, cũng nh nâng cao hiệu
quả của khoa học, công nghệ và tận dụng những u thế lớn nhất của
chúng để phục vụ phát triển kinh tế-xã hội ngày nay đã trở thành nhiệm
vụ then chốt và hết sức cấp bách đối với mọi quốc gia và khu vực trên
thế giới.
1.2.2. Những xu thế và triển vọng phát triển khoa học và công
nghệ hiện nay
Trong thế kỷ XXI, khoa học và công nghệ vẫn tiếp tục là một trong
những động lực phát triển của tất cả các nớc trên thế giới. Mặc dù cha
thể dự đoán đợc một cách chính xác tơng lai, nhng việc xem xét
những xu thế và triển vọng phát triển khoa học và công nghệ hiện nay,
sẽ góp phần nắm bắt đợc những sự vận động và sự tiến bộ đang diễn
ra trong các lĩnh vực của đời sống xã hội hiện nay và tới đây trên thế giới.
Theo James Canton, Chủ tịch và đồng thời là Giám đốc điều hành
về thông tin của Viện Tơng lai toàn cầu (Mỹ), thì kiến trúc của thế kỷ
XXI chủ yếu dựa trên sự hội tụ của các ngành công nghệ cao là công
nghệ sinh học, công nghệ nano, công nghệ thông tin và một số ngành
mũi nhọn khác, v.v. (Hình 1).
Trong một Báo cáo dới tên gọi "Các công nghệ hội tụ cho việc
nâng cao hiệu suất của con ngời", do Quỹ Khoa học Quốc gia Mỹ và
Bộ Thơng mại Mỹ công bố tháng 6/2002, khi đề cập tới sự hội tụ của
các ngành công nghệ cao là công nghệ nano, công nghệ sinh học, công
nghệ thông tin và khoa học về nhận thức, các nhà khoa học Mỹ đã tuyên
bố rằng "Trong khi nền khoa học và công nghệ Mỹ làm lợi cho toàn thế
giới, thì điều sống còn là phải nhận thức đợc rằng việc vợt trội về công
nghệ là nền tảng cơ bản của sự phồn vinh kinh tế và an ninh quốc gia


21
của Mỹ". Tơng tự, Bộ Quốc phòng của Anh, sau khi đánh giá những xu
thế khoa học và công nghệ chiến lợc tới tầm các năm 2025-2030, đã
kết luận rằng "Cho tới năm 2030, nếu đầu t mạnh vào các hệ thống
giáo dục, cơ sở hạ tầng thơng mại và giữ vững uy danh công nghệ đã
từng có trớc đây, thì các nớc phát triển vẫn tiếp tục duy trì đợc vị trí
bá chủ của mình trong lĩnh vực đổi mới khoa học và công nghệ ". Để duy
trì sức mạnh cạnh tranh đó, các nớc phát triển hiện nay đều tập trung
vào những ngành công nghệ "hội tụ". Về thực chất, đây đều là những
ngành công nghệ cao đã nêu ở trên, nh công nghệ sinh học, công
nghệ nano, công nghệ thông tin, nhất là các hệ thống điện toán. Hầu
nh mọi nớc phát triển đều đầu t thích đáng vào các lĩnh vực đó nhằm
chiếm lĩnh những vị trí quan trọng trong các lĩnh vực công nghệ cao này.









22

Kiến trúc
Thế kỷ 21
Máy tính
CNSH
CNNN
mạng



Hình 1. Kiến trúc của thế kỷ XXI dựa trên sự hội tụ của các ngành công nghệ cao.
Công nghệ nano
Trong thập niên đầu của thế kỷ XXI, việc tiếp tục đột phá vào cấp
dới mức nguyên tử, trong các lĩnh vực khoa học cơ bản, đã mở ra cho
toàn thể nhân loại triển vọng xuất hiện thêm một nền kinh tế mới nữa -
đó là Nền kinh tế nano, dựa trên một ngành công nghệ cao mới - đó là
công nghệ nano.
Công nghệ nano (CNNN) là kết quả của xu thế tích hợp các ngành
khoa học nhằm cùng nghiên cứu các đối tợng, vật thể nhỏ bé có kích
thớc của nguyên tử. Hàng ngàn năm trớc đây, đối tợng của khoa học
cổ Hy Lạp là các vật thể vĩ mô. Theo đà thời gian, hiểu biết của con
ngời càng tăng lên, và do đó, độ phức tạp cũng gia tăng, khoa học đợc
phân hóa theo các ngành khác nhau nh toán học, vật lí, hóa học, sinh
học, để nghiên cứu các vật thể ở cấp độ lớn hơn micro mét. Vào đầu
thế kỷ XXI, sự phân hóa đó đang kết thúc và khoa học một lần nữa lại
tích hợp với nhau khi nghiên cứu các vật thể ở cấp nano mét (một phần
tỷ mét), dới tên gọi của một ngành khoa học mới - Khoa học Nano.
Khoa học Nano là lĩnh vực chuyên nghiên cứu các nguyên tử, phân
tử và các đối tợng mà kích thớc của chúng nằm ở trong phạm vi 1-100

23
nanomét (nm) (theo định nghĩa nêu trong Sáng kiến Quốc gia về CNNN
của Mỹ).
Công nghệ nano đem lại khả năng điều khiển và thao tác vật liệu ở
cấp nguyên tử và tạo ra các cấu trúc có các tính chất và chức năng mới
nhờ kích thớc, hình dạng và thành phần của chúng. Những cấu trúc đó
có thể coi là những khối kiến tạo ở cấp phân tử. CNNN là sự kết hợp
giữa phạm vi nano và các tính chất mới ở cấp nano, một lĩnh vực có hoạt

động NCPT bao trùm lên một số bộ môn nh sinh học, hoá học và vật lý.
Do có các lĩnh vực rộng nên thờng để chính xác hơn, ngời ta hay sử
dụng thuật ngữ các công nghệ nano. Công nghệ nano là các công trình
nghiên cứu, triển khai và thờng là công nghệ sản xuất các sản phẩm sử
dụng các vật liệu kỹ thuật ở cấp nguyên tử, phân tử hay đại phân tử, với
độ dài xấp xỉ 1 - 100 nanomét. Khoa học nano là khoa học nghiên cứu
cơ bản trong lĩnh vực các hiện tợng và các vật liệu cấp nano. ở một
phạm vi lớn hơn, nghiên cứu và triển khai trong công nghệ nano bao
hàm việc thao tác có điều khiển các cấu trúc nano và sự tích hợp của
chúng thành các kiến trúc, các hệ thống và các kết cấu vật liệu lớn hơn.
Khoa học nano hiện đang trở thành một lĩnh vực quan trọng nhờ
những thành tựu đạt đợc 20 năm gần đây, còn thuật ngữ CNNN lần đầu
tiên đợc đa ra vào năm 1975. Nhng ngời ta cũng thờng coi bài nói
chuyện nổi tiếng với nhan đề: Còn vô số chỗ ở bên dới của Nhà vật lý
học Richard Feynman tại Viện Công nghệ California (Caltech) năm 1959
là xuất phát điểm cho giai đoạn tiến triển của khoa học nano.
Thêm vào đó, một trong những bớc khởi đầu quan trọng trong sự
phát triển của CNNN là sự phát minh ra điểm lợng tử (Quantum Dot)
năm 1980 bởi Louis Brus tại trờng Đại học Columbia. Tiếp theo, vào
đầu thập niên 80, Kính hiển vi quét đờng hầm đã đợc IBM- Zurich ở
Thuỵ Sĩ sáng chế, lần đầu tiên, cho phép quan sát đợc các nguyên tử,
và các nhà sáng chế ra dụng cụ này đã đợc Giải thởng Noben năm
1986. Vài năm sau, Kính hiển vi lực nguyên tử đã ra đời, tăng thêm khả
năng và loại hình vật liệu có thể quan sát và thao tác đợc.
Năm 1985, Jim Heath và Richard Smalley đã phát hiện ra một dạng
mới của phân tử cacbon, bóng Bucky hay Fullerene, bao gồm 60 nguyên
tử cacbon liên kết với nhau, ký hiệu là C
60
. Hai nhà nghiên cứu này đã
đợc nhận Giải thởng Noben hoá học năm 1996. CNNN đã đợc phổ

biến nhờ tác phẩm Engine of Creation của Eric Drexler, xuất bản năm
1986. Cuốn sách này là một tài liệu quan trọng cho sự thảo luận rộng rãi

×