Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

Triển vọng kinh tế , phát triển khoa học và công nghệ thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 40 trang )

1
LỜI GIỚI THIỆU
Kinh tế toàn cầu hiện đang trong khủng hoảng, chuyển dịch từ giai đoạn
phát triển ổn định sang giai đoạn rất bất ổn khi khurngg hoảng tài chính
bắt nguồn ở các nước giàu có đã làm rung chuyển các thị trường tài chính
toàn cầu. Các thị trường hàng hóa cũng chao đảo dữ dội từ mức giá rất cao
trong năm 2007 và đã rơi mạnh, giá cả nhiều loại hàng hóa giảm tới hơn
một nửa vào nửa đầu năm 2008.
Tuy nhiên, mặc dầu các chỉ số kinh tế đều xấu, dự báo chi tiêu cho nghiên
cứu và phát triển (NCPT) trong năm 2009 sẽ đạt 1.143,2 tỷ USD, cao hơn
3,2% so với năm 2008. Phần lớn tăng trưởng toàn cầu này là do sự mở
rộng tiếp tục NCPT ở châu Á, mặc dù sự tăng trưởng NCPT trong vùng
địa lý này cũng bị những tác động toàn cầu.
Các quốc gia vẫn tiếp tục đầu tư cho nghiên cứu KH&CN và đưa ra những
ưu đãi khuyến khích NCPT nhằm nâng cao năng lực đổi mới của quốc gia.
Do các cơ hội thị trường toàn cầu tăng lên và tài năng kỹ thuật trở nên
rộng khắp hơn, nên đã xuất hiện xu hướng hợp tác trong các chương trình
nghiên cứu và sử dụng tài năng ở nước ngoài để hỗ trợ các hoạt động sản
xuất, tiếp thị và bán hàng trong nước.
Để giúp bạn đọc có thêm thông tin trong bối cảnh thế giới diễn ra nhiều sự
thay đổi nhanh, Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia
xin giới thiệu Tổng luận “Triển vọng kinh tế, phát triển khoa học và công
nghệ thế giới” nhằm phản ánh tình hình kinh tế và những xu thế phát triển
khoa học và công nghệ toàn cầu.
Nội dung tổng luận này được biên soạn dựa trên số liệu của các báo cáo
và những nghiên cứu phân tích của Ngân hàng Thế giới, Tổ chức Hợp tác
và Phát triển Kinh tế và các tổ chức nghiên cứu và phát triển có uy tín trên
thế giới.
TRUNG TÂM THÔNG TIN
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ QUỐC GIA
2


PHẦN I
TRIỂN VỌNG KINH TẾ TOÀN CẦU
1.1. Bối cảnh chung
Những chấn động trên các thị trường tài chính Mỹ xuất hiện đầu tiên vào mùa hè
năm 2007 đã biến thành một cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nặng nề vào mùa
thu năm 2008: các thị trường tín dụng đóng băng; thị trường chứng khoán đổ vỡ và
một loạt vụ mất khả năng thanh toán nợ đã đe doạ toàn bộ hệ thống tài chính quốc tế.
Những đợt bơm tiền mạnh của các ngân hàng trung ương và một loạt các biện pháp
thay thế tạm thời của các Chính phủ vẫn tỏ ra không đủ sức để kiềm chế một cuộc
khủng hoảng ngay từ ban đầu.
Chính phủ Mỹ đã áp dụng một chương trình giải cứu trọn gói trị giá trên 700 tỷ
USD và đã mua lại vốn cổ phần tại chín ngân hàng chính và nhiều ngân hàng lớn khu
vực khác. Biện pháp bảo lãnh các khoản nợ và tiền gửi ngân hàng cũng đã được áp
dụng. Cùng lúc, Chính phủ các nước châu Âu đã công bố các kế hoạch bơm tiền và
mua lại các tài sản ngân hàng trị giá đến 460 tỷ USD, cùng với gần 2 nghìn tỷ USD
tiền bảo lãnh các khoản nợ ngân hàng. Vào thời điểm 20/11/2008, các thị trường vẫn
bộc lộ sự bất ổn định trước tính chất mạnh mẽ của các biện pháp được áp dụng và các
dấu hiện cho thấy các điều kiện tín dụng đã được cải thiện phần nào tại các nước có
thu nhập cao. Chênh lệch lãi suất chủ quyền và khu vực tư nhân đối với các nước đang
phát triển thậm chí đã trở nên trầm trọng hơn và danh sách các nước bắt buộc phải tìm
kiếm sự trợ giúp của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) ngày càng tăng.
Năm 2007, trong các giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng tài chính, ảnh hưởng của
tình trạng biến động tài chính đối với các nước đang phát triển vẫn còn tương đối nhẹ.
Tuy nhiên, do cuộc khủng hoảng mạnh lên vào năm 2008 và đặc biệt là từ giữa tháng
9, các biện pháp tránh rủi ro đã tăng lên và các luồng vốn đổ vào các nước đang phát
triển đã bị nghẽn lại. Kết quả là tiền tệ của nhiều nước đang phát triển đã bị mất giá
một cách đột ngột, và giá cổ phiếu trên thị trường các nước đang phát triển đã bị giảm
mạnh, gần như triệt tiêu tất cả giá trị tăng thêm đã đạt được kể từ đầu năm 2008.
Hầu như không một nước nào, từ các nước đang phát triển đến các nước có thu
nhập cao, có thể tránh được tác động của cuộc khủng hoảng đang ngày càng lan rộng,

tuy nhiên các nước có nền tảng cơ sở vững chắc hơn, khi lâm vào cuộc khủng hoảng
có thể bị tác động nhẹ hơn. Tình trạng tài chính tồi tệ đã trở nên khắc nghiệt nhất ở các
nước có các nguồn thâm hụt tài khoản vãng lai lớn và tại các nước cho thấy có dấu
hiệu của sự quá nóng và mở tín dụng nhanh một cách không bền vững trước khi cuộc
khủng hoảng tài chính mạnh lên. Trong số 20 nước đang phát triển có nền kinh tế phản
ứng đột ngột nhất trước sự sa sút của các điều kiện tài chính (được đo bằng sự sụt
giảm tỷ giá hối đoái, sự gia tăng lãi sản xuất, và sự suy giảm trên thị trường chứng
khoán), có 6 nước thuộc châu Âu và Trung Á, và 8 nước thuộc châu Mỹ Latinh và
vùng Caribê.
3
1.1.1. Các điều kiện tín dụng thắt chặt hơn sẽ dẫn đến đầu tư và tăng trưởng
GDP chậm lại một cách đột ngột
Trong tình trạng hiện nay, các triển vọng tăng trưởng đối với cả các nước thu nhập
cao lẫn các nước đang phát triển đều trở nên xấu đi một cách căn bản và khả năng về
một cuộc suy thoái nghiêm trọng toàn cầu là điều không thể loại trừ.
Ngay cả khi các làn sóng hoảng loạn tràn ngập các thị trường chứng khoán và tín
dụng trên khắp thế giới sớm được đưa vào tầm kiểm soát, thì cuộc khủng hoảng vẫn có
khả năng sẽ gây ra một sự suy giảm mạnh trong các hoạt động, xuất phát từ sự mất
đòn bẩy trên các thị trường tài chính đã xuất hiện và được cho là sẽ tiếp diễn. Dự báo
cơ bản ở đây là các điều kiện tín dụng sẽ thắt chặt hơn nhiều, các dòng vốn đổ vào các
nước có thu nhập trung bình yếu hơn và một sự suy giảm mạnh về nhu cầu nhập khẩu
toàn cầu được cho là những yếu tố chính chi phối sự giảm tốc ở các đang phát triển.
Nhu cầu nhập khẩu được dự báo sẽ giảm 3,4% tại các nước thu nhập cao trong năm
2009, trong khi nợ tư nhân ròng và các luồng vốn đổ vào các nước đang phát triển
được ước tính sẽ giảm từ 1 nghìn tỷ USD năm 2007 xuống còn khoảng 530 tỷ trong
năm 2009, tức là giảm từ chỗ chiếm 7,7% xuống còn 3% GDP của các nước đang phát
triển. Kết quả là tăng trưởng đầu tư tại các nước đang phát triển có thể sẽ chậm lại
đáng kể, chỉ tăng có 3,5% tại các nước có thu nhập trung bình, so với tỷ lệ gia tăng
13,2% đạt được trong năm 2007.
Một cuộc suy thoái rõ rệt được cho là đã bắt đầu từ giữa năm 2008 ở châu Âu, Nhật

Bản và gần đây hơn là Mỹ. Sự suy thoái này được dự báo sẽ kéo dài đến năm 2009,
làm giảm 0,1% GDP tại các nước thu nhập cao. Tại các nước đang phát triển, tỷ lệ
tăng trưởng được dự báo sẽ giảm xuống đến 4,5% trong năm 2009, từ chỗ đạt được
7,9% và 6,3% trong các năm 2007 và 2008. Tổng thể, GDP toàn cầu được dự báo sẽ
chỉ tăng trưởng có 0,9% trong năm 2009, còn thấp hơn tỷ lệ đạt được trong các năm
2001 và 1991, mức thấp nhất kể từ khi có các số liệu đầy đủ vào năm 1970.
Do các nước có thu nhập thấp ít có cơ hội tiếp cận các thị trường vốn quốc tế nên sự
tăng trưởng chậm lại sẽ tác động đến các nước này chủ yếu thông qua các cơ chế gián
tiếp, trong đó có nhu cầu đối với hàng xuất khẩu của họ giảm, giá hàng hoá thấp hơn
và các luồng chuyển tiền vào cũng giảm bớt. Mậu dịch quốc tế được dự báo sẽ giảm
mạnh, với số lượng xuất khẩu toàn cầu sẽ giảm 2,1% trong năm 2009, đây là lần giảm
đầu tiên kể từ năm 1982 và còn cao hơn tỷ lệ suy giảm 1,9% xảy ra vào năm 1975.
Các cơ hội xuất khẩu đối với các nước đang phát triển sẽ biến mất dần đi một cách
nhanh chóng do sự suy thoái ở các nước thu nhập cao và còn do các khoản vay tín
dụng xuất khẩu bị hạn chế và bảo hiểm xuất khẩu trở nên đắt giá hơn.
Tốc độ tăng trưởng chậm hơn ở các nước thu nhập cao được ước tính đã làm giảm
các luồng tiền đổ vào các nước đang phát triển từ 2% xuống 1,8% GDP các nước tiếp
nhận trong giai đoạn 2007 và 2008. Ở phạm vi quốc gia, mức độ tăng trưởng chậm lại
sẽ phụ thuộc mạnh vào những diễn biến về tỷ lệ ngoại hối, với những bất ổn định gần
đây về tỷ lệ hối đoái song phương đang dẫn đến những thay đổi ở lượng tiền ngoại hối
gắn với đồng tiền của nước tiếp nhận.
4
Sự suy thoái tăng trưởng toàn cầu được dự báo sẽ làm cho cả giá hàng hoá và lạm
phát đều được nới lỏng hơn, giá dầu mỏ đạt mức trung bình khoảng 75 USD/thùng
trong năm 2009, giá thực phẩm và kim loại được dự kiến sẽ giảm tương ứng khoảng
23% và 26% so với mức giá trung bình của năm 2008. Tuy nhiên, giá hàng hoá sẽ vẫn
cao hơn nhiều so với mức rất thấp của những năm 1990.
Giá hàng hoá thấp hơn sẽ giúp giảm được gánh nặng lên một số bộ phận dân nghèo
(đặc biệt là người dân thành thị) có sức mua đã giảm do giá thực phẩm và nhiên liệu
tăng cao. Giá cả thấp đi còn giúp giảm nhẹ được tổng lạm phát.

Cuộc khủng hoảng tài chính và tốc độ chững lại của tăng trưởng toàn cầu đã xảy ra
vào một thời điểm khi tất cả các nước đang phát triển đang ở vào tình thế dễ bị tổn
thương hơn so với những năm trước đây. Giá hàng hoá cao hơn làm tăng thêm thâm
hụt tài khoản vãng lai của nhiều nước xuất khẩu dầu mỏ lên đến mức đáng lo ngại (con
số thâm hụt đã vượt quá mức 10% GDP ở khoảng một phần ba các nước đang phát
triển), và sau khi đã tăng một cách đáng kể, nguồn dự trữ ngoại hối của các nước đang
phát triển xuất khẩu dầu mỏ giờ đây đang giảm nếu tính theo tỷ trọng nhập khẩu của
các nước này. Ngoài ra, lạm phát cao và tình trạng ngân khố bị suy giảm do những
nguyên nhân chu kỳ và do chi tiêu Chính phủ đã tăng lên nhằm làm giảm bớt gánh
nặng giá hàng hoá cao.
Mặc dù suy thoái toàn cầu có khả năng bị kéo dài, nhưng một số yếu tố phục hồi
sau đó vẫn có thể nhận thấy rõ. Các yếu tố này bao gồm sự chuyển dịch sớm hướng
đến ổn định trong lĩnh vực nhà ở tại Mỹ; sự tiến bộ liên tục về thanh toán nợ và một sự
vững mạnh trên các bảng kết toán tài sản của các ngân hàng và các hộ gia đình; một sự
nới lỏng dần các điều kiện tín dụng khi các gói giải cứu của các Chính phủ phát huy
tác dụng và các nhà đầu tư bắt đầu quay trở lại với các thị trường chứng khoán đã
giảm mạnh; những gia tăng ở thu nhập cá nhân thực (nhờ giá thực phẩm và nhiên liệu
thấp hơn); và không gian gia tăng đối với các chính sách ngân khố và tiền tệ do áp lực
lạm phát được nới lỏng và những chi tiêu của Chính phủ để trợ cấp lương thực và
nhiên liệu cũng thay nhau giảm.
1.1.2. Các chính sách khôn ngoan và thận trọng là điều then chốt do tình trạng
không chắc chắn vẫn bao trùm lên triển vọng
Mặc dù dự báo về triển vọng này được đưa ra như một hệ quả tất yếu, nhưng tình
hình vẫn còn nhiều bất ổn định và có thể để lại các hậu quả trên phạm vi rộng, trong
đó có một kịch bản khi sự phục hồi tăng trưởng vào năm 2010 sẽ yếu hơn, nó bị kéo
trở lại do sự tiếp tục tái thiết lại lĩnh vực ngân hàng, và những tác động bất lợi do giá
nhà ở và thị trường chứng khoán thấp hơn.
Một cuộc suy thoái gay gắt hơn cũng có thể xảy ra. Nếu như tình trạng đóng băng
trên các thị trường tín dụng không tan biến như đã được dự báo bên trên, thì những
hậu quả đối với các nước đang phát triển có thể là thảm khốc. Các điều kiện tài chính

sẽ xấu đi nhanh chóng và khu vực tài chính nội địa nhìn bề ngoài có vẻ lành mạnh
nhưng cũng có thể trở nên không có khả năng vay mượn hoặc không sẵn sàng cho vay
5
trên cả thị trường nội địa lẫn quốc tế. Một kịch bản như vậy sẽ được đặc trưng bởi một
cuộc suy thoái kéo dài và sâu tại các nước thu nhập cao và tình trạng đổ vỡ và bất ổn
định đáng kể, bao gồm sự thất bại các ngân hàng và khủng hoảng tiền tệ tại một phạm
vi rộng các nước đang phát triển. Tăng trưởng giảm mạnh ở một loạt nước đang phát
triển với sự có mặt của tất cả các tác động ngược, trong đó có đói nghèo và thất nghiệp
sẽ là điều không thể tránh khỏi.
Tuy mối lo đã lùi xa, lạm phát cao tại các nước đang phát triển vẫn còn là một vấn
đề, đặc biệt là nếu tác động từ cuộc khủng hoảng hiện nay đến nhu cầu đầu tư tại các
nước đang phát triển trở nên ít rõ ràng hơn và tác động kích thích do các gói cứu trợ và
ngân sách tại các nước thu nhập cao và đang phát triển sẽ tạo nên một sự gia tăng
nhanh về cầu. Tuân theo một kịch bản như vậy, tăng trưởng toàn cầu sẽ vẫn chậm lại
trong năm 2009, ban đầu có xu hướng giảm bớt các áp lực lạm phát, nhưng tăng
trưởng được cho là có thể bị kìm hãm mạnh hơn trong năm 2010. Các nước hiện nay
đang có thâm hụt tài khoản vãng lai lớn và lạm phát cao có thể sẽ gặp phải một sự phát
triển quá nóng lặp lại của nền kinh tế. Các chính sách cần phải rất sáng suốt trong
những tình thế như vậy, bởi vì đồng tiền của các nước này có khả năng vẫn rất nhạy
cảm trước những thay đổi thị trường và sự ác cảm với rủi ro gia tăng.
Thách thức đối với các nhà hoạch định chính sách không chỉ là việc đề phòng sự leo
thang của cuộc khủng hoảng và giảm nhẹ sự suy sụp kinh tế, mà còn phải đảm bảo có
một vị trí khởi điểm tốt một khi dấu hiệu phục hồi được thiết lập. Đối với các nước
đang phát triển, điều này có nghĩa là phản ứng nhanh và mạnh với các dấu hiệu yếu
kém trong ngành ngân hàng nội địa, bao gồm cả việc sử dụng sự trợ giúp quốc tế khi
cần thiết. Điều đó cũng có nghĩa là cần theo đuổi một chính sách chu kỳ ngược khôn
ngoan, dựa vào các yếu tố ổn định tự động, các mạng lưới bảo vệ xã hội, và đầu tư cơ
sở hạ tầng nhằm khắc phục những điểm tắt nghẽn gây kìm hãm đối với sự tăng trưởng
bền vững lâu dài tại nhiều nước.
Trong tình hình hiện nay khi sự ác cảm rủi ro tăng cao và sự không mặn mà của các

nhà đầu tư, các nhà hoạch định chính sách cần đặc biệt cảnh giác với việc tiếp nhận
các khoản nợ cao quá mức hay tạo ra các điều kiện gây bong bóng lạm phát bằng việc
phản ứng một cách quá mạnh trước sự suy giảm toàn cầu. Mặc dù điều quan trọng đối
với các nhà hoạch định chính sách là phải phản ứng nhanh trước các vấn đề nổi cộm,
nhưng điều cần thiết là các biện pháp và điều kiện gắn với sự trợ giúp cần được chú
trọng vào việc khắc phục một số các căn nguyên yếu kém cơ bản. Nếu không, các
Chính phủ có khả năng sẽ bị mất đi sự hỗ trợ của thị trường và các người dân đóng
thuế khi họ cố gắng hạn chế quy mô của những cuộc phá sản trong giai đoạn gần.
1.2. Thị trường tài chính
1.2.1. Tình trạng các điều kiện tài chính trở nên xấu đi đã gia tăng nhanh một
cách đáng kể vào tháng 9 năm 2008.
Sự biến động kéo dài lan truyền trên các thị trường tài chính và tín dụng toàn cầu kể
từ giữa năm 2007 đã gia tăng nhanh vào tháng 9 năm 2008, với sự sụp đổ bất ngờ của
6
các tổ chức tài chính lớn, đầu tiên diễn ra ở Mỹ tiếp theo đó là ở châu Âu. Cuộc khủng
hoảng đã lan truyền nhanh chóng sang các thị trường mới nổi và làm nảy sinh các mối
lo ngại về một hiểm họa dây chuyền đối với hệ thống tài chính quốc tế. Mối lo ngại
ngày càng tăng về một nguy cơ giống hệt gây phá vỡ các thị trường tín dụng, đặc biệt
là các thị trường thương phiếu và liên ngân hàng.
Hồi đầu năm nay, các ngân hàng lớn vẫn còn có khả năng thu hút các nhà đầu tư
vốn cổ phần mới trong một nỗ lực nhằm xây dựng lại các cơ sở vốn của họ, đã bị xói
mòn bởi những thua lỗ nghiêm. Tuy nhiên, niềm tin của các nhà đầu tư đã bị rạn nứt
bởi sự sụp đổ hồi tháng Ba của Bear Sterns, công ty chứng khoán lớn thứ bẩy thế giới
về tổng trị giá tài sản. Vào tháng 9 và tháng 10, các chính quyền tại Mỹ và châu Âu đã
phải phản ứng bằng những biện pháp đặc biệt phi thường, trong đó có việc bơm những
khoản tiền mặt lớn; điều phối giảm tỷ lệ lãi suất chính sách; tiếp quản các tổ chức tài
chính lớn; tăng cường bảo lãnh tiền gửi; và các kế hoạch mua lại các tài sản tài chính
đã bị sút kém (như Chương trình Mua lại Tài sản đang gặp Rắc rối của Mỹ - TARP),
để chiếm một lượng vốn cổ phần trong các ngân hàng thương mại và để can thiệp vào
các thị trường thương phiếu.

1.2.2. Sự bất động gây tác sâu sắc đến các tài sản ở thị trường mới nổi
Mặc dù các tổ chức tài chính tại các nước đang phát triển được cho rằng chỉ phải
chịu tác động trực tiếp một cách hạn chế trước các tài sản vốn phụ và chứng khoán liên
quan, sự rối loạn tài chính đã tác động tới hầu hết các nền kinh tế có thị trường mới nổi
do các ngân hàng thuộc các nước thu nhập cao và các quỹ đầu tư đã rút ra khỏi các thị
trường mới nổi và chuyển đổi với một quy mô rộng các tài sản rủi ro cao thành các tài
sản có khả năng thanh khoản cao hơn. Sự không thích rủi ro gia tăng nhanh chóng còn
dẫn đến một sự ngưng nghỉ mạnh trong xúc tiến thương mại. Việc bán hạ giá các tài
sản rủi ro cao gây tác động sâu sắc đến giá cổ phiếu, độ chênh lệch trái phiếu, và tiền
tệ ở gần như tất cả các nền kinh tế thị trường mới nổi và còn góp phần vào các điều
kiện tín dụng nội địa thắt chặt hơn tại các nước lớn hơn, trong đó có Ấn Độ, Liên bang
Nga, Braxin, và các nước nhỏ hơn, trong đó có Thái Lan và Philippin. Những diễn
biến này còn tăng thêm do các nhà đầu tư địa phương cũng rút ra khỏi thị trường cổ
phiếu, và nói chung là rút ra khỏi những khoản đầu tư bằng các đồng tiền địa phương.
Các nước với những thâm hụt tài khoản vãng lai lớn và như vậy phụ thuộc chủ yếu
vào vốn nước ngoài đã bị tác động mạnh nhất bởi sự thắt chặt đáng kể các điều kiện tín
dụng trên các thị trường quốc tế. Một phần ba các nước đang phát triển hiện đang có
thâm hụt tài khoản vãng lai vượt quá mức 10% GDP, nhiều trong số các nước này có
thể bị buộc phải hạn chế nhu cầu trong nước một cách khắt khe do các dòng vốn cạn
kiệt. Ví dụ như trong năm 2007, có nhiều nước đã từng là nước tiếp nhận sự gia tăng
mạnh mẽ các luồng tiền nợ tư nhân, điều đó giúp cho tăng trưởng tín dụng đối với khu
vực tư nhân trong nước và làm tăng thêm áp lực lạm phát. Một năm sau đó các luồng
tiền nợ tư nhân đổ vào các ngân hàng đã giảm sút đột ngột về số lượng: Kazakhstan
13,2 tỷ USD, Nga 6,6 tỷ USD, Nam Phi 3,7 tỷ USD, Thổ Nhĩ Kỳ 3,1 tỷ USD, và
7
Ukraine 2,1 tỷ USD (theo số liệu tính từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2008 so với cùng kỳ
năm 2007).
Tất cả các nước thu nhập trung bình, thậm chí có số dư tài khoản vãng lai, cũng bị
tác động đáng kể bởi cuộc khủng hoảng tài chính. Revealed Vulnerability Index (Chỉ
số Bộc lộ tính dễ bị tổn thương) cho thấy quy mô suy yếu của các điều kiện tài chính

đối với các nước đang phát triển kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2008 (vào thời điểm
Lehman Brothers bị đổ vỡ). Chỉ số về tính dễ bị tổn thương này cho thấy mức trung
bình của sự giảm giá hàng loạt của tiền tệ, những mất mát trên thị trường cổ phiếu nội
địa, và những gia tăng tiền bù rủi ro, cũng như sự suy giảm của tổng luồng vốn đổ vào
một nước trong vòng 12 tháng. Chỉ số này còn cho thấy rằng hầu như tất cả các nước
thu nhập trung bình đều phải chịu áp lực căng thẳng về tài chính.
Giá cổ phiếu trên thị trường mới nổi, phản ánh qua Chỉ số Hỗn hợp Morgan-Stanley
(MSCI), đã sụt giảm hơn 67% (tính theo đồng đôla) từ chỗ đạt đỉnh cao vào tháng 10
năm 2007, đưa mức giá quay trở về mức đạt được vào đầu năm 2005. Sự điều chỉnh ồ
ạt ở giá cổ phiếu đã diễn ra rộng khắp các nền kinh tế có thị trường mới nổi, với sự suy
giảm lớn nhất được ghi nhận ở một loạt các nền kinh tế thuộc châu Âu và Trung Á,
như Ukraine (80%), Romania (75%), Bungaria (75%), và Liên bang Nga (73%). Các
nền kinh tế thị trường mới nổi lớn khác, bao gồm Braxin, Trung Quốc, và Ấn Độ được
ghi nhận có sự hiệu chỉnh giá hơn 60%. Mặc dù có những suy giảm trong năm qua, giá
cổ phiếu tại các thị trường mới nổi vẫn giữ ở mức cao hơn so với ở các thị trường
trưởng thành nhìn từ triển vọng dài hạn hơn, mặc dù vẫn được đặc trưng bởi tính bất
ổn định cao hơn nhiều.
Việc bán xôn các tài sản trên thị trường mới nổi đã khơi mào cho một sự giảm giá
rõ rệt ở tỷ giá ngoại hối tại một loạt nước, đảo ngược lại phần lớn sự tăng giá trong hai
năm trước. Ví dụ, đồng Real Braxin thực tế đã giảm 40% so với đồng đôla (20% so
với đồng euro) trong giai đoạn từ đầu tháng 8 đến giữa tháng 11 năm 2008, nhưng
đồng tiền này đứng ở mức chỉ thấp hơn 8% so với trị giá của nó hồi tháng 1 năm 2007.
Đồng Rand Nam Phi đã giảm giá gần 60% so với đồng đôla (38% so với đồng euro)
trong giai đoạn từ cuối tháng 10 năm 2007 đến giữa tháng 11 năm 2008. Tương tự,
đồng Lira Thổ Nhĩ Kỳ cũng giảm giá 40% so với đồng đôla (20% so với đồng euro) từ
cuối tháng 10 đến giữa tháng 11 năm 2008, nhưng đồng tiền này chỉ mất giá 6% giá trị
thực trong giai đoạn từ tháng 1 năm 2007 đến tháng 10 năm 2008.
Cuộc khủng hoảng ngân hàng nổ ra vào tháng 9 năm 2008 đang gây hạn chế tín
dụng đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là đối với những nước đi vay kém tin
cậy nhất. Những chênh lệch trái phiếu chủ quyền đã nới rộng đến đỉnh cao -1100 điểm

cơ bản vào cuối tháng 10 năm 2008, từ chỗ đạt 330 điểm vào cuối tháng 8, còn cao
hơn 150 điểm so với mức kỷ lục ghi nhận được vào tháng 6 năm 2007, trước khi leo
lên mức hơn 700 điểm cơ bản vào giữa tháng 11. Trong thời gian đó, độ chênh lệch
trái phiếu chủ quyền đã vượt quá ngưỡng "distressed debt" (nợ tịch biên) là 1000 điểm
cơ bản tại 14 trong số 38 nền kinh tế có thị trường mới nổi, một bộ phận gần đây của
8
Chỉ số Toàn cầu EMBI của JPMorgan. Chênh lệch trái phiếu doanh nghiệp còn thay
đổi đột ngột hơn so với chênh lệch trái phiếu chủ quyền. Độ chênh lệch ở trái phiếu
doanh nghiệp thị trường mới nổi hạng phi đầu tư rủi ro cao đã nới rộng đến 1750 điểm
cơ bản vào giữa tháng 11, mở rộng hơn 1450 điểm kể từ giữa năm 2007.
Độ chênh lệch gia tăng chỉ được bù đắp một phần bằng 1,3% điểm suy giảm ở suất
thu nhập chuẩn của trái phiếu Kho bạc Mỹ trong giai đoạn từ tháng 6 năm 2007 đến
tháng 11 năm 2008, như vậy là suất thu nhập từ trái phiếu chủ quyền bằng đồng đôla
được phát hành bởi các thị trường mới nổi đã đạt đến 0,5%, mức cao nhất trong vòng
bốn năm.
1.2.3. Các dòng vốn tư nhân được dự báo tiếp tục giảm
Thậm chí trước khi có sự gia tăng mạnh cuộc khủng hoảng tài chính, các điều kiện
tín dụng thắt chặt hơn đã làm cắt giảm bớt tổng nợ tư nhân và các luồng vốn đổ vào
các nước đang phát triển. Các khoản cam kết vay ngân hàng cung cấp xuyên biên giới
đã giảm xuống 315 tỷ USD trong vòng 12 tháng kết thúc vào tháng 10 năm 2008, giảm
từ mức kỷ lục 400 tỷ USD vào một năm trước đó (nhưng vẫn còn cao hơn mức ghi
nhận được trong giai đoạn 2005-06). Phát hành trái phiếu ở các nước đang phát triển
đã giảm xuống 72 tỷ USD trong vòng một năm tính đến tháng 10, giảm từ chỗ đạt mức
kỷ lục hơn 170 tỷ USD vào giữa năm 2007. Phát hành trái phiếu doanh nghiệp cũng
giảm mạnh, với mức giảm lớn nhất tại Nam Phi (15,6 tỷ USD), Ấn Độ (12,8 tỷ USD),
và Nga (9,4 tỷ USD). Thực sự là loại trái phiếu phi đầu tư của các doanh nghiệp thuộc
các thị trường mới nổi chiếm khoảng 40% tổng số phát hành từ tháng 1 đến tháng 10
năm 2008, so với 60% trong giai đoạn 2005-06. Và phát hành cổ phiếu cũng tụt dốc
cùng với sự suy giảm giá cổ phiếu xuống tổng số 90 tỷ USD trong giai đoạn nói trên,
giảm từ mức kỷ lục cao 200 tỷ USD đạt được vào đầu năm 2008.

Ngay cả khi có một sự khôi phục lại niềm tin thị trường và một sự tan băng tại các
thị trường tín dụng và những dịch chuyển vốn, thì các điều kiện tín dụng tổng thể đối
với các thị trường mới nổi sẽ vẫn thắt chặt hơn đáng kể so với thời gian gần trước đây.
Hậu quả là nợ ròng tư nhân và các luồng vốn đổ vào các nước đang phát triển được dự
báo là sẽ giảm từ mức cao kỷ lục 1,03 nghìn tỷ USD (7,6% GDP các nước đang phát
triển) đạt được vào năm 2007 xuống còn khoảng 530 tỷ USD (3% GDP) vào năm
2009. Mặc dù đầu tư trực tiếp nước ngoài ròng sẽ có sức chịu đựng hơn một chút trước
xu thế chậm lại, thắt chặt tính dụng có thể làm cho các công ty thu nhập cao phải giảm
đầu tư trực tiếp nước ngoài của họ hơn nhiều so với họ đã làm trong thời gian trước
khủng hoảng tài chính, vốn đã từng đặt trọng tâm vào các nước đang phát triển.
1.2.4. Thắt chặt tiền tệ làm giảm mạnh các triển vọng tăng trưởng nội địa
Trước khi sự biến động tài chính phát triển thành một cuộc khủng hoảng có quy mô
toàn cầu, các nước đang phát triển chủ yếu bị tác động bởi nhu cầu chậm lại ở các
nước thu nhập cao thông qua kênh xuất khẩu. Nhiều nước đang phát triển đã cho thấy
có khả năng phục hồi mạnh khi đối diện với môi trường bên ngoài đang dần dần xấu
đi, bởi vì nền kinh tế của các nước này được hỗ trợ bằng sự tăng trưởng đầu tư mạnh
9
và được che chắn bằng những lượng dự trữ ngoại hối lớn. Tình trạng này đã thay đổi
đột ngột kể từ tháng 9 năm 2008.
Không như những thay đổi từ từ trên các thị trường dịch vụ và hàng hoá, những
biến động trên các thị trường tài chính xảy ra nhanh và bất ngờ, và chúng thường có xu
hướng "thái quá". Điều quan trọng hơn, sự leo thang của cuộc khủng hoảng gây ảnh
hưởng trực tiếp đến động cơ tăng trưởng nội địa ở nhiều nền kinh tế đang phát triển,
việc huy động kinh phí cho chi tiêu vốn đột ngột trở nên khó khăn hơn. Ngoài ra, cuộc
khủng hoảng còn gây áp lực mạnh đối với nguồn dự trữ ngoại hối và cùng lúc có thể
bộc lộ ra những bất tương hợp tiền tệ nguy hiểm trong các bảng kết toán tài sản của
khu vực tư nhân.
Trong thời kỳ bùng nổ toàn cầu 5 năm trước đây, các ngân hàng địa phương và các
công ty tư nhân với đồng tiền địa phương đang có giá trị cao đã bị hấp dẫn bởi việc đi
vay ở nước ngoài bằng đồng đôla. Với sự thay đổi đột ngột trong biến động tiền tệ, sự

bất tương hợp về tiền tệ trong các bảng kết toán tài sản khu vực tư nhân có khả năng
dẫn đến những mất mát đáng kể đối với nhiều công ty, ngân hàng và thậm chí là cả các
hộ gia đình. Trong một chừng mực nhất định, sự biến động này sẽ dẫn đến những vụ
vỡ nợ, nó có thể gây căng thẳng cho các hệ thống ngân hàng trong nước và buộc các
ngân hàng phải tìm kiếm những nguồn kinh phí thay thế vào thời điểm khi mà các điều
kiện tài chính toàn cầu đã bị xuống cấp một cách rõ rệt. Tình trạng căng thẳng gây ra
do những biến động về tiền tệ dẫn đến khả năng về các triển vọng còn giảm sút hơn
đối với chi tiêu đầu tư tại các nước đang phát triển.
1.3. Triển vọng đối với các nước OECD thu nhập cao
Cường độ của cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ và sự lan truyền của nó tới các
nước lớn ở châu Âu vào mùa thu năm 2008, dự kiến sẽ đòi hỏi một mức chi phí lớn
cho hoạt động kinh tế ở các nước có thu nhập cao thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển
Kinh tế (OECD). Thậm chí nếu mức độ tin cậy của các thị trường tín dụng toàn cầu
được phục hồi nhanh chóng, thì các mức suy giảm của nguồn tài chính sẵn có dành
cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng, đi đôi với cầu nhập khẩu giảm dần ở các
nước đang phát triển, cũng tạo ra một giai đoạn suy thoái ở nước Mỹ, châu Âu và
Nhật Bản bắt đầu vào nửa sau của năm 2008 và kéo sang năm 2009.
1.3.1. Xu hướng suy thoái chung giữa các nước OECD lớn
Trong quý đầu của năm 2008, tốc độ chậm lại ở các nước OECD khá rõ (mặc dù
sản xuất công nghiệp bị đình trệ trong quý này): xuất khẩu được lợi từ cầu nhập khẩu
mạnh từ các nước đang phát triển và từ các nước xuất khẩu dầu lửa, trong khi nhập
khẩu giảm làm thúc đẩy phần đóng góp của thương mại ròng vào mức tăng trưởng
GDP. Nhưng GDP đã giảm từ 2,4% năm 2007 xuống 0,3% tăng trưởng (theo chỉ số
hằng năm) trong quý hai ở các nền kinh tế tiên tiến chủ chốt, và vì mức tăng trưởng
GDP suy giảm ở các nước Mỹ, châu Âu và Nhật Bản trong suốt quý 3, nên mức tăng
trưởng của OECD giảm tới 0,6%.
Sản xuất công nghiệp trượt xuống giá trị âm ở tất cả các nền kinh tế OECD chủ chốt
ở cả quý hai và ba của năm, do cầu hải ngoại giảm kết hợp với việc thiếu các đơn đặt
10
hàng nội địa do các điều kiện khó khăn về nhà ở và phương tiện vận chuyển ở một số

nước. Mức tăng của khối lượng xuất khẩu giảm từ 14,6% năm 2007 xuống còn 2,5%,
trong quý 3, do thương mại liên vùng OECD (đặc biệt là bên trong khu vực châu Âu)
yếu đi cùng với giảm cầu của các nước đang phát triển.
Trong quý hai, tình trạng ở châu Âu và Nhật Bản trở nên tồi tệ rõ rệt. GDP của Nhật
Bản giảm tới 3,7% theo chỉ số giá điều chỉnh hàng năm theo mùa, và GDP của khu
vực châu Âu giảm 0,7%. Mức suy giảm của chi tiêu hộ gia đình kết hợp với các hiệu
ứng của lạm phát tăng cao, đầu tư giảm sút và mức chuyển dịch lớn trong phần đóng
góp của thương mại vào mức tăng trưởng tất cả đều đóng góp vào chu kỳ này. Ở châu
Âu, sự trì trệ ngày càng tăng ở các thị trường xuất khẩu và cuộc vật lộn lâu dài về việc
định giá đồng Euro đã đẩy xuất nhập khẩu tới ranh giới âm ở quý hai, thể hiện ở những
mức đóng góp vào mức tăng trưởng chung trượt từ 1,4 điểm ở quý cuối cùng của năm
2007 xuống điểm không.
Ngược lại, ở Mỹ, GDP tăng lên 2,8% ở quý hai, do các kích thích tài chính và chính
sách nới lỏng tiền tệ đã thúc đẩy tiêu dùng. Hơn nữa, tốc độ suy giảm của đầu tư từ
dân chúng giảm, trong khi các mức đóng góp của thương mại, vốn vẫn hưởng lợi từ
đồng đôla yếu, tăng lên tới 1,6 điểm phần trăm của tăng trưởng. Cầu nội địa của Mỹ
vẫn suy giảm từ quý cuối của năm 2006, do mức tăng trong tiết kiệm nội địa góp phần
làm xoay chiều các mức mất cân bằng toàn cầu vốn là một mối quan ngại trong vài
năm trước đây. Khi những trục trặc tài chính tăng cao trong quý ba, bao gồm những
mức suy giảm không lường trước ở các thị trường cổ phiếu ở châu Âu, Nhật Bản và
Mỹ, chi tiêu của người tiêu dùng ngày càng chịu sức ép. Và với hiệu suất xuất khẩu
của các nền kinh tế OECD giảm đi khi cầu toàn cầu đang tăng, khu vực châu Âu và
Nhật Bản rơi vào tình trạng suy thoái kỹ thuật ở quý này, trong khi mức tăng trưởng
của Mỹ suy thoái trở lại.
1.3.2. Khủng hoảng tài chính dưới những bất ổn ngoại lệ
Xét trên những sự phát triển mạnh trong giai đoạn tháng 9 tới tháng 11/2008, khó
mà đo được độ sâu của cuộc suy thoái đang diễn ra. Nếu các thị trường tín dụng vẫn sẽ
đóng băng và giá cả của bất động sản tiếp tục giảm, thì mức suy giảm của sản xuất
trong năm tới có thể sẽ rất cao. Tuy nhiên, hiện tại các nhà chức trách đang tiến hành
thực hiện các phương pháp đo đạc đặc biệt về tiền tệ và tài chính và được kỳ vọng là

sẽ khôi phục lại lòng tin nhờ vậy các ngân hàng sẽ không còn tích trữ tiền mặt và các
doanh nghiệp có thể vay được vốn rất thiết yếu đối với hoạt động bình thường của họ.
Tuy vây, tổng quan về các nước OECD vẫn đầy những điểm xấu. Một yếu tố chung là
sự suy giảm của cầu nội địa, hay độ sâu ngày càng tăng của chi tiêu vốn doanh nghiệp,
sẽ không còn được cân bằng nhờ hỗ trợ từ thương mại ròng do một mức tăng trưởng
suy giảm chung giữa các nước đang phát triển.
Với tiêu dùng tư nhân của Mỹ suy giảm ở mức không ngờ 3,1% trong quý này,
GDP suy giảm sẽ ngày càng trở nên khó cứu nhờ sự đóng góp của thương mại ròng.
Mặc dù GDP được dự kiến suy giảm mạnh hơn ở quý tư của năm 2008, mức tăng
11
trưởng cho cả năm dự kiến đạt 1,4% bởi những mức đóng góp lớn của thương mại ở
nửa đầu của năm. Sự suy giảm bất ngờ của đầu tư và mức giảm 1% ở chi tiêu của
người tiêu dùng được cho là sẽ khiến cho GDP suy giảm ở cả quý một và quý hai của
năm 2009, với mức phục hồi nhẹ bắt đầu ở nửa cuối của năm. GDP dự kiến sẽ giảm
tới 0,5% của năm 2009 nhưng phục hồi tới dưới mức 2,0% vào năm 2010.
Tình hình tài chính ở khu vực châu Âu hiện tại vẫn còn rất khắc nghiệt. Sau khi
giảm 0,7% ở quý hai, GDP giảm 0,8% trong quy ba và dự kiến sẽ đạt các mức giảm
nhỏ nhất ở các quý tới trước khi tăng nhẹ vào cuối năm 2009. Mức tăng trưởng dự
kiến đạt mức tăng nhẹ 1,1% cho toàn năm 2008 và giảm 0,6% trong năm 2009, trước
khi tăng lên vào năm 2010 ở mức tăng vẫn còn thấp là 1,6%. Nên so sánh độ sâu của
sự suy thoái ở châu Âu với độ sâu ở Mỹ, một phần bởi tài chính công ty ở châu Âu
dựa vào khu vực ngân hàng nhiều hơn nhưng cũng bởi vì giá hàng hoá thấp hơn làm
giảm cầu nhập khẩu ở các nước Trung Đông và Bắc Mỹ, khu vực đang giữ vai trò là
nguồn cầu xuất khẩu quan trọng dối với châu Âu. Mức suy giảm nhanh chóng của sản
xuất, cộng với mức giảm của giá hàng hoá sẽ làm nhẹ bớt các áp lực lạm phát ở châu
Âu. Nhưng sự suy giảm gần đây của đồng Euro so với đồng đô la có thể vẫn tiếp diễn,
do các nhà đầu tư tiếp tục coi đồng tiền tệ của Chính phủ Mỹ là tài sản an toàn nhất.
Ngoại trừ mức suy giảm mạnh của thị trường cố phiếu, các thị trường tài chính của
Nhật Bản ít bị ảnh hưởng (cho tới giữa tháng 11/2008) bởi sụ suy giảm từ cuộc khủng
hoảng ngân hàng và tài chính toàn cầu. Tuy vậy, thật đáng ngạc nhiên, bối cảnh kinh tế

vĩ mô của nước này lại tương tự như của Mỹ và châu Âu. Chi tiêu của hộ gia đình đã
bị hạn chế, lạm phát tăng cao gây áp lực lên giá điện, và niềm tin của người tiêu dùng
đã giảm sút mạnh xuống mức thấp của 17 năm qua. Điều tra Tankan về ý định đầu tư
của doanh nghiệp đã thể hiện mức giảm rõ rệt, phù hợp với sự chuyển dịch theo hướng
xuống về kỳ vọng đối với triển vọng xuất khẩu của Nhật Bản.
Cầu nhập khẩu giảm sút ở các nước châu Á mới nổi đã được tăng cường bởi chính
sách tỷ giá lãi xuất thắt chặt ở các nước như Ấn Độ, Inđônêxia, Philipin và Thái Lan
nhằm ngăn cản áp lực lạm phát. Trong suốt quý 3, GDP của Nhật Bản giảm tới 0,4%
và đối với thời gian còn lại của năm 2008, hiệu ứng lan toả dần dần từ sự sút giảm của
tín dụng tới suy giảm xuất khẩu sẽ khiến cho GDP của Nhật Bản giảm nữa, tới mức
tăng trưởng 0,5% cho cả năm. Suy thoái ở Nhật Bản được cho là sẽ kém rõ rệt hơn
những nơi khác, với sản lượng sản xuất giảm xuống 0,1% trong năm 2009 trước khi
đạt tới 1,6% vào năm 2010 khi cầu đầu tư toàn cầu phục hồi và kích thích xuất khẩu
của Nhật Bản.
1.4. Triển vọng đối với các nước đang phát triển
Ngay từ trước khi các kênh tín dụng quốc tế đóng băng, đã có những dấu hiệu thể
hiện hoạt động kinh tế chậm lại ở các nước đang phát triển. Mức tăng trưởng chậm lại
ở các nền kinh tế có thu nhập cao, thị trường cổ phiếu suy giảm, và các luồng vốn
quốc tế giảm sút làm giảm đầu tư vào các nước đang phát triển, trong khi làm tăng
12
mạnh tốc độ lạm phát kéo theo mức tăng giá hàng hoá lên cao làm giảm chi tiêu của
người tiêu dùng.
Sản xuất công nghiệp (trừ Trung Quốc) vẫn đang mạnh nhưng bắt đầu chậm lại từ
giữa năm 2008. Ở các nước còn lại của Đông Á, sự chuyển dịch theo hướng xuống của
mức tăng trưởng sản xuất thể hiện rất rõ, giảm từ 20% vào tháng Giêng xuống mức
giảm 5% vào tháng 5/2008, trước khi phục hồi tới điểm không vào tháng 9.
Rõ rệt hơn là sự suy giảm theo hướng dốc đứng của tăng trưởng sản xuất công
nghiệp của Trung Quốc gần đây, từ 20% vào tháng 7 xuống mức suy giảm 0,2% vào
tháng 9. Mức tăng trưởng xuất khẩu yếu đi, cùng với việc thắt chặt quản lý vi mô các
kho hàng, xét trên triển vọng tăng trưởng doanh số bán bất ổn, đã thể hiện rõ quá trình

này. Đến lượt mình, quá trình này này sẽ khiến cho mức tăng trưởng sản xuất mạnh
mẽ ở Đông Á giảm xuống mức bằng không vào quý ba.
Mức tăng trưởng sản xuất cũng đã giảm đi ở Ấn Độ và những nơi khác ở Nam Á,
trong khi sản xuất ở Hungary, Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ và các nước Ban tích mới chỉ bắt
đầu suy giảm gần đây hơn. Các động lực thúc đẩy sản lượng cũng suy giảm ở châu Mỹ
La tinh, khi sản xuất ở Chilê, Côlômbia và Mêxicô đã suy giảm tới điểm âm, trong khi
ở Braxin chậm lại rõ rệt. Nhập khẩu ở các khu vực đang phát triển cũng cho thấy
những dấu hiệu của sự suy giảm, phản ánh cầu nội địa giảm đi. Còn khối lượng xuất
khẩu từ các thị trường mới nổi thể hiện một xung lượng giảm trong 3 quý đầu của năm
2008, đáng lưu ý ở châu Mỹ La tinh, do nhu cầu nhập khẩu ở các nước OECD giảm
mạnh. Tổng tăng trưởng GDP của các nước đang phát triển chậm lại từ 7,9% năm
2007 xuống còn 5,3% (theo năm) trong quý hai năm 2008.
1.4.1. Rối loạn về tài chính dễ làm kìm hãm đầu tư
Đầu tư cố định là một động lực thúc đẩy quan trọng đối với tăng trưởng ở các nước
đang phát triển trong thập kỷ qua, đặc biệt là ở Đông Á và Thái Bình Dương, ở châu
Âu và Trung Á, tăng phần đóng góp của nó vào tổng tăng trưởng lên tới 4 điểm phần
trăm ở những năm gần đây, bỏ xa phần đóng góp từ thương mại. Nhưng mức độ trầm
trọng của cuộc khủng hoảng tín dụng ở Mỹ đã làm suy giảm mạnh luồng tài chính tới
các nước đang phát triển, gây ra những điềm xấu lên triển vọng tăng trưởng. Các hiệu
ứng của cuộc khủng hoảng tài chính lên các nước đang phát triển sẽ khác nhau theo
từng vùng và theo khả năng đối phó lại với những tác động tiêu cực lên khu vực ngân
hàng nội địa và thị trường tài chính của từng nước
Những công ty đi vay ở thị trường mới nổi đã nhận thấy sự lan toả ngày càng tăng
của cuộc khủng hoảng và đang ngày càng bị đẩy ra khỏi các thị trường cổ phiếu quốc
tế. Xuất hiện mức suy giảm ở việc cho vay của ngân hàng theo tổ hợp bao tiêu (vì các
ngân hàng thương mại và các cơ quan tài chính khác ở các nước giàu duy trì cân đối kế
toán bằng cách hạn chế việc cho vay mới hoặc bằng cách huy động các nguồn tín dụng
có sẵn), và vốn cổ phần nhà nước ban đầu từ các thị trường mới nổi chủ chốt đưa ra
đều đã cạn kiệt. Thậm chí trước khi sự đóng băng của các luồng tín dụng liên quan tới
cuộc khủng hoảng ngân hàng, tất cả các luồng vốn vào các nền kinh tế đang phát triển

đã giảm 35% trong 9 tháng đầu năm 2008 so với cùng kỳ năm trước.
13
1.4.2. Sự suy giảm sẽ rõ rệt hơn trong năm 2009
Hướng tới tương lai, các xu hướng bất lợi gần đây được dự báo là sẽ tăng, bị chi
phối bởi một mức giảm mạnh đặc biệt của tăng trưởng đầu tư ở các nước đang phát
triển, xuất khẩu yếu đi do nhu cầu nhập khẩu từ các nước giàu giảm và lạm phát kéo
dài thậm chí vẫn leo thang ở một số nước. Mức tăng trưởng GDP ở các nước đang phát
triển được dự kiến giảm tới 4,5% trong năm 2009, tức là thấp hơn 3 điểm phần trăm
dưới mức trung bình của 5 năm qua. Không có một khu vực hoặc nước nào có thể
thoát khỏi sự suy thoái tăng trưởng này. Quá trình phục hồi trong năm 2010 lên mức
6,1% được dự đoán là một sự cải thiện tương đối sớm cho tình hình tài chính và tăng
trưởng của các nước giàu, một viễn cảnh hiện đang chịu một mức bất ổn cao.
Các kết quả tăng trưởng cho năm 2009 được dự kiến sẽ khác biệt giữa các nước
đang phát triển và các khu vực, tuỳ thuộc vào mức độ phụ thuộc của chúng vào các
luồng vốn bên ngoài và việc cho vay để đầu tư tài chính của ngân hàng, các liên kết
thương mại tới các nước giàu có ảnh hưởng lớn, các tiếp xúc trực tiếp và phi trực tiếp
tới cuộc khủng hoảng cho vay thiếu tín nhiệm, và mức độ tham gia của các ngân hàng
nước ngoài vào khu vực tài chính nội địa. Ngoài ra, chính sách phản ứng với cuộc
khủng hoảng sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành nên tổng quan kinh
tế giai đoạn gần.
1.4.3. Lạm phát tăng nhưng có xu hướng đi xuống
Suy thoái kinh tế toàn cầu dự kiến và giá cả hàng hoá thấp hơn nhiều sẽ góp phần
làm giảm mức tăng lạm phát đã diễn ra trong suốt năm 2007 và 2008. Lạm phát giá cả
tiêu dùng tổng thể giữa các nước OECD tăng từ mức khiêm tốn là 2% trong năm 2007
lên 4% qua một năm ở quý 3 của năm 2008, bị thúc đẩy bởi mức tăng ở Mỹ (4,9%),
khu vực châu Âu (3,9%) và Anh (5%). Mặc dù mức tăng của giá hàng hoá dường như
đã vượt đỉnh, nhưng động lực của lạm phát toàn phần trong tháng 8 đạt tới 8,5% ở Mỹ
trước khi giảm vào tháng 9, trong khi giảm xuống 2,3% ở Nhật Bản và 3,6% ở châu
Âu.
Lạm phát giá tiêu dùng tăng nhanh hơn nhiều ở các nước đang phát triển so với ở

các nước tiên tiến. Ở phần lớn các nước đang phát triển, hầu hết mức tăng của lạm
phát toàn phần là do các tác động trực tiếp của giá hàng hoá cao, còn các mức tăng của
lạm phát cơ bản (không bao gồm lương thực và năng lượng) bị hạn chế. Thực vậy, lam
phát ở các nước đang phát triển vẫn tương đối thấp so với tốc độ tăng trưởng nhanh
chóng trong 5 năm qua, bất chấp các mức tăng đều của giá dầu và kim loại kể từ năm
2003. Tuy nhiên, mức tăng mạnh của giá lương thực và nhiên liệu ở nửa đầu năm 2008
đã đẩy lạm phát trung vị ở các nước đang phát triển lên tới 12% vào tháng 7/2009 và
có hơn 30 nước phải đối mặt với tỷ lệ lạm phát hai con số.
Trong một động thái tích cực, lạm phát trung vị giảm xuống dưới 10% vào tháng 9,
do giá hàng hoá giảm đã cải thiện mức tăng trưởng CPI ở nhiều nước đang phát triển.
Những nước có mức lạm phát leo thang mạnh nhất được dự kiến có thể sẽ phải chịu
sự kết hợp một cách nguy hiểm của giá thực phẩm và năng lượng leo thang với tình
14
hình khó khăn chung của thị trường nội địa, do mức tăng nhanh chóng của quá trình
tạo lập tín dụng. Trong số 24 nước có mức lạm phát đạt tới hơn 5 điểm phần trăm
trong năm vừa rồi, 10 nước là ở châu Âu và Trung Á, là những nước lạm phát được
kích thích bởi các luồng vốn vào mạnh hoặc doanh thu hàng hoá bùng nổ. Các nước
khác chịu các áp lực lạm phát nội địa mạnh gồm Bôlivia, Chilê, Philipin, Vênêzuêla và
Việt Nam. Một số mức tăng lạm phát toàn phần mạnh nhất diễn ra ở các nước châu Phi
Cận Sahara, nhưng phần lớn là do thực phẩm chiếm hơn 50% tiêu dùng ở nhiều nước
châu Phi.
Sự tăng giá hàng hoá trong suốt thời gian 2006-2008 và mức tăng kéo theo của lạm
phát đã tạo ra những thách thức đầy khó khăn về mặt chính sách. Biện pháp trợ giá
Chính phủ cho nhiên liệu và thực phẩm cơ bản đang được thực hiện ở nhiều nước ở
Trung Đông và Bắc Phi, và Đông Nam Á góp phần làm tăng thâm hụt tài chính, thu
hẹp phạm vi hoạt động của các nhà hoạch định chính sách trong các lĩnh vực khác,
như hỗ trợ thu nhập có mục tiêu, đầu tư vào các Mục tiêu Phát triển Thiên niên Kỷ, và
chính sách tài khoá ngược chu kỳ. Rất nhiều nhà chức trách về lĩnh vực tiền tệ đang
phải đối mặt với việc điều hoà giữa tăng cường hỗ trợ và giảm lạm phát và các mức
lạm phát dự kiến. Braxin, Inđônêxia, Mêxicô, Philipin, Nam Phi và Thái Lan đã tăng

các lãi xuất chủ đạo lên 25 điểm chuẩn hoặc hơn. Mức suy giảm của giá hàng hoá gần
đây và tốc độ phát triển chậm lại toàn cầu sẽ có thể làm giảm sự khó khăn này trong
thời gian tới, và thực vậy, một sự chuyển dịch theo hướng điều tiết tiền tệ hiện đang
được thực hiện để giảm thiểu tác động của các hiệu ứng làm giảm mức tăng trưởng
của cuộc khủng hoảng kinh tế.
1.4.4. Triển vọng các khu vực
GDP của khu vực Đông Á và Thái Bình Dương giảm từ 10,5% năm 2007 xuống
8,5% năm 2008, (ngoại trừ Trung Quốc, mức tăng trưởng của khu vực này từ 6,2%
năm 2007 giảm xuống 5,3%, ). Giữ vai trò quan trọng đối với tốc độ tăng trưởng chậm
chạp này, mức tăng trưởng GDP của Trung Quốc từ 10,6% trong quý một giảm xuống
giảm xuống 9% trong quý 3 do sự suy giảm của đầu tư và xuất khẩu. Giá dầu mỏ và
thực phẩm tăng cao đã làm thúc đẩy lạm phát trung vị của khu vực này lên 9% vào
năm 2008, so với 5% của 2 năm trước. Sự suy giảm tổng thể của Nhật Bản và Trung
Quốc làm giảm mức tăng trưởng xuất khẩu, tỷ lệ này đối với các nước Đông Á không
kể Trung Quốc giảm từ 10,5% trong năm 2006 xuống còn 4% trong năm 2008. Theo
đó, sản lượng chế tạo giảm từ 5% mức tăng trưởng năm 2007 xuống mức giảm như
vậy trong năm 2008. Tổng các luồng vốn giảm tới 1/3, xuống còn 64 tỷ$US cả năm tới
tháng 9/2008.
Triển vọng cho giai đoạn 2009 và 2010 vẫn rất mờ nhạt với tình trạng tồi tệ của môi
trường bên ngoài. Cuộc khủng hoảng ngân hàng toàn cầu đã có ít tác động trực tiếp tới
khu vực, nhưng một số nước lại quá yếu để chống lại các hiệu ứng lan toả dưới dạng
các tác động lan truyền từ các công ty cao cấp, các luồng vốn giảm sút và các thị
trường cổ phiếu nội địa bị tuột dốc. Đặc biệt, đầu tư khu vực tư nhân đứng bên bờ rủi
15
ro. Mặc dù Trung Quốc chống đỡ các tác động của cuộc khủng hoảng khá tốt, nhưng
một số nước vẫn phải chịu sự suy giảm mạnh trong thương mại thế giới và có tình
trạng tài chính khó khăn hơn. Mặc dù xu hướng giảm của giá dầu và lương thực sẽ hỗ
trợ cho các vị trí đối ngoại và tạo ra một số cứu cánh để chống chọi với lạm phát, thì
chi tiêu đầu tư giảm sút sẽ góp phần làm giảm mạnh mức tăng trưởng của khu vực này
xuống 6,7% trong năm 2009. Quá trình hồi phục dần dần ở các thị trường nước ngoài

chính sẽ mang lại những động lực mới cho xuất khẩu và sản xuất và sẽ góp phần làm
phục hồi lại mức tăng trưởng ở khu vực này lên tốc độ 7,8% tới năm 2010.
Ở châu Âu và Trung Á, tăng trưởng sản xuất đạt mức 5,3% vào năm 2008, giảm
từ 7,1% năm 2007, mặc dù mức tăng trưởng vẫn duy trì được khá tốt trong nửa đầu
của năm. Mức tăng trưởng GDP nửa đầu năm ở Nga (7,8%), Ba Lan (6%), Thổ Nhĩ
Kỳ (5,8%),và Rumani (8,8%) là nhờ nhu cầu nội địa mạnh, đi đôi với giá dầu tăng cao
và doanh thu tài chính của các nước xuất khẩu hyđrôcácbon trong khu vực. Nhưng
trong năm 2009, các vị trí đối ngoại suy yếu và các rủi ro mới từ cuộc khủng hoảng
ngân hàng toàn cầu sẽ làm giảm triển vọng phát triển của các nước yếu và các rủi ro
sụt giá rất dễ sảy ra. Những sự lan truyền không có giới hạn đã diễn ra vào tháng
10/2008, đáng lưu ý ở Liên bang Nga và Thổ Nhĩ Kỳ, và đặc biệt ở Ucraina và
Cazaxtan.
Trong khi hầu hết các nước đều duy trì được động lực phát triển, đã xuất hiện sự
phân kỳ ở hiệu suất tăng trưởng: Latvia đang trong quá trình suy thoái, kinh tế Rumani
đang quá nóng, còn cộng hoà Kirgizia, Tajikistan và Mônđôva, là những nước nhận
được hỗ trợ của Ngân hàng thế giới, đang phải đối mặt với tác động của giá lương thực
tăng cao. Tình trạng này ở Nga chuyển dịch mạnh từ các quan ngại về tình trạng quá
nóng nội địa sang những lo ngại về khủng hoảng tài chính, vì giá cổ phiếu chao đảo
với những bất ổn ở các thị trường toàn cầu và giá dầu mỏ giảm.
Hầu hết các nước đều có mức tăng trưởng cầu nội địa mạnh, nhưng thương mại
ròng vẫn cản trở mức tăng trưởng. Đồng thời, mức tăng trưởng tín dụng nhanh chóng
và tăng lương đã khiến cho khu vực này trở nên yếu hơn đối với những tác động xấu ở
môi trường tài chính bên ngoài. Tổng quan trung hạn cho thấy một mức giảm mạnh
trong tăng trưởng khu vực xuống 2,7% vào năm 2009, bị chi phối bởi sự suy giảm đầu
tư do môi trường tài chính khó khăn và sự suy yếu rõ rệt ở cầu của thị trường xuất
khẩu. Tăng trưởng dự kiến đạt 5,0% vào năm 2010, khi các thị trường tín dụng ổn
đinh, áp lực lạm phát giảm và tăng trưởng của các thị trường bên ngoài phục hồi, mở
đường cho sự phục hồi của chi tiêu và xuất khẩu.
Các nước châu Mỹ La tinh và Caribê đã có 4 năm đạt mức tăng trưởng vững
mạnh, khi thặng dư tài khoản vãng lai, tích lũy dự trữ, và các chính sách cải tiến đã

hoạt động để kìm giữ các tỷ lệ lạm phát cơ bản, cải thiện chất lượng các hệ thống ngân
hàng, và tạo dựng các công cụ đệm để chống lại khủng hoảng tài chính dây truyền.
Tuy nhiên, trong năm 2008, lạm phát toàn phần tăng lên tương ứng với giá dầu mỏ và
lương thực tăng, và các nhà hoạch định chính sách ở các nước như Braxin và Chilê đã
16
tăng các tỷ lệ lãi suất. Các luồng vốn vào khu vực này bị giảm tới 45% trong khoảng
giữa tháng 1 và tháng 9/2008, so với cùng kỳ năm 2007. Sự suy giảm ở cầu bên ngoài
và ở các thị trường tài chính quốc tế, kết hợp với mức giảm gần đây của giá cả hàng
hoá, làm giảm mức tăng trưởng GDP từ 5,7% vào năm 2007 xuống 4,4% vào năm
2008.
Tốc độ phát triển chậm lại toàn cầu và thâm hụt ở các luồng vốn thể hiện các rủi ro
rõ ràng đối với mức tăng trưởng bền vững, đặc biệt là tạo áp lực lên đầu tư khu vực tư
nhân. Do giá hàng hoá tiếp tục giảm đi, một số nước xuất khẩu chính, đặc biệt là
Achentina, sẽ có thể có các thặng dư tài khoản vãng lai chuyển sang thâm hụt. Đối với
các nước khác, bao gồm Braxin và Mêxicô, độ sâu của sự suy thoái ở Mỹ và châu Âu
sẽ khiến xuất khẩu có tăng trưởng âm, còn nhập khẩu thu hẹp dần sẽ dẫn tới sự quay
trở lại của vị trí thặng dư.
Mức tăng trưởng GDP ở khu vực được cho là giảm xuống 2.1% trong năm 2009
trước khi tăng lại lên 4% vào năm 2010. Các sự kiện xảy ra ở từng nước cũng sẽ tạo ra
một thách thức: tình trạng ở một số nước Andean có xu hướng kém ổn định: Cộng hoà
Vênêzuêla vừa trải qua một đợt quốc hữu hoá nữa và mức tăng trưởng của nước này
có thể sẽ giảm từ 8,4% trong năm 2007 xuống 3,2% vào năm 2010; còn GDP của
Achentina có thể sẽ giảm từ 8,7% trong năm 2007 xuống 4% trong năm 2010, với mức
tăng trưởng 1,5% ở đáy khe năm 2009.
Các nước đang phát triển của vùng Trung Đông và Bắc Phi đã cho thấy một ví dụ
thú vị về sự phân hoá của các hiệu ứng do mức leo thang ở giá lương thực và dầu mỏ
toàn cầu gây ra. Ở các nền kinh tế xuất khẩu dầu lửa, mức tăng doanh thu của dầu lửa
và khí tự nhiên lên tới 200 tỷ USD đã củng cố cho mức tăng trưởng 5,8% trong năm
2008, giảm xuống từ 6,4% trong năm 2007. Mức tăng trưởng cầu nội địa chậm lại ở
nước Cộng hoà Hồi giáo Iran (nơi có mức tăng trưởng GDP giảm từ 7,8% xuống

5,6%) là yếu tố chủ chốt đối với diễn biến này. Ngoại trừ Iran, mức tăng trưởng giữa
các nước xuất khẩu dầu giảm xuống 5,9%.
Ở các nền kinh tế phân hoá hơn vốn phụ thuộc chặt chẽ vào nhập khẩu dầu lửa và
thực phẩm, xuất khẩu chậm lại trong năm 2008 do mức tăng trưởng trở nên chậm chạp
trong số các mô hình thương mại chủ chốt ở châu Âu và Mỹ. Nhưng sự phục hồi mạnh
mẽ ở Marốc sau trận hạn hán năm 2007 và hiệu suất kinh tế vững chắc tiếp diễn ở
Tuynidi và Jordan đã nâng mức tăng trưởng từ 3,8% lên 5,7%.
Các nước xuất khẩu dầu lửa của khu vực sẽ đối mặt với thách thức về thu nhập sụt
giảm trong năm 2009. Giá dầu lửa toàn cầu được dự đoán là giảm từ đỉnh trong tháng
7/2008 (đạt 145$/thùng) xuống dưới 80$ trong năm 2009. Tăng trưởng của các nước
xuất khẩu dầu lửa dự kiến giảm xuống 3,9% trong năm 2009. Mặc dù các nền kinh tế
của những nước này không dễ bị tác động mạnh bởi những tiến triển ở các thị trường
tài chính, nhưng một số nước phần nào cũng chịu những hiệu ứng lan toả từ những sự
phát triển này, bao gồm Libăng, Jordan và Cộng hoà Arập Ai cập. Hơn nữa, các thành
viên xuất khẩu dầu của Uỷ ban Hợp tác Vùng Vịnh có nguy cơ chịu tổn thất ở các vị
17
trí đầu tư quốc tế, làm tăng gián đoạn ở các khoản đầu tư trực tiếp nước ngoài gần đây
vào khu vực. Đối với các nền kinh tế nhập khẩu dầu lửa trong khu vực, giá năng lượng
giảm sẽ làm giảm chi phí nhập khẩu và mang lại một không gian dễ thở ở khía cạnh
lạm phát theo sau sự tăng ở giá trong nửa đầu năm 2008. Mức tăng trưởng đối với khu
vực sẽ khôi phục lên tốc độ 5,2% tới năm 2010 khi cầu nước ngoài phục hồi và giá
hyđrocácbon giảm tạo điều cho một giai đoạn ổn định hơn.
Mức tăng trưởng GDP của Nam Á giảm xuống mức dự đoán 6,3% vào năm 2008,
từ 8,4% vào năm 2007 và từ mức cao 9% kéo dài trong 25 năm cho tới năm 2006. Giá
lương thực và nhiên liệu cao, môi trường tín dụng quốc tế ngặt nghèo, cầu nước ngoài
giảm đã dẫn tới các tài khoản ngoài giảm đi và góp phần làm mức tăng trưởng đầu tư
chậm lại. Tuy nhiên, những dấu hiệu xấu ở các cán cân thương mại đã được bù đắp
phần lớn là nhờ luồng chuyển tiền về nước lớn, đặc biệt là đối với Băngladet, Nêpan
và Sri Lanka, nơi tiền chuyển từ nước ngoài về chiếm tới 8% GDP hoặc hơn. Các nhà
hoạch định chính sách phản ứng lại với giá hàng hoá cao và áp lực lạm phát tăng bằng

cách điều chỉnh từng phần giá nhiên liệu nội địa, cắt giảm chi tiêu phát triển, và (bước
đầu) thắt chặt chính sách tiền tệ.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đang đặt áp lực giảm hơn nữa lên mức tăng
trưởng. Các luồng vốn vào giảm sút (xuống tới 40%, trong giai đoạn tháng 1-9/2008
so với cùng kỳ năm 2007, và các kỳ hạn tín dụng khắc nghiệt sẽ làm giảm đầu tư khu
vực tư nhân, trong khi các luồng chuyển tiền về giảm sút sẽ bổ sung áp lực lên mức
tăng trưởng. Trợ giá lương thực và nhiên liệu đã thúc đẩy phí tổn tài chính tăng cao,
làm đảo ngược tiến độ gần đây trong việc củng cố tài chính. Và những mức thâm hụt
ngày càng tăng đang thu hẹp phạm vi hỗ trợ cho các chương trình nhà nước khẩn cấp
khác, bao gồm cơ sở hạ tầng quá tải của khu vực. Mức tăng trưởng chậm lại rõ nhất ở
Ấn Độ và Pakistan, là những nước có sản xuất công nghiệp giảm mạnh còn xung
lượng sản xuất của Nam Á gần đây đã giảm từ mức đỉnh là 12% trong tháng 4/2008
xuống mức giảm 2% vào tháng 8.
GDP của Nam Á cũng được cho là giảm xuống 5,4% trong năm 2009 nhưng sẽ
phục hồi lên 7,2% vào năm 2010. Mức tăng trưởng vững chắc sẽ được hỗ trợ bởi cầu
nước ngoài cải thiện và giá hàng hoá thấp hơn.
Tăng trưởng của khu vực châu Phi cận Sahara, ngoại trừ Nam Phi, tăng một mức
đáng kể là 7% trong năm 2007, mức tăng cao nhất trong 35 năm qua, nhờ hiệu suất
vững chắc của cả các nước nhập khẩu lẫn xuất khẩu dầu lửa. Tăng trưởng của các
nước xuất khẩu dầu lửa tăng lên 8,2% trong năm 2007, vượt mức 5,5% đạt trong 5
năm qua; tăng trưởng của các nước nhập khẩu dầu lửa đã phá vỡ kỷ lục trong suốt 25
năm, đạt mức 5,4%. Những tiến bộ của GDP đã trở nên rộng hơn và ổn định hơn trong
những năm gần đây, đặc biệt là giữa các nước nhập khẩu dầu. Và một đặc điểm đáng
lưu ý và khuyến khích đối với hiệu suất gần đây của châu Phi là mức đóng góp ổn định
của đầu tư vào tăng trưởng chung của GDP.
Trong năm 2008, hoạt động kinh tế ngoài Nam Phi vẫn mạnh ở mức 6,6% khi các
mức tăng trưởng GDP giữa các nước sản xuất dầu giảm nhẹ xuống 7,8%, do kết hợp
với nhóm lớn hơn gồm các nước nhập khẩu dầu có mức tăng trưởng GDP giảm xuống
18
4,2% trong năm. Đầu tư tiếp tục hỗ trợ cho tăng trưởng GDP, trong khi xuất khẩu ròng

đang đóng góp vào mức tăng trưởng bất chấp mức suy giảm mạnh của thương mại
toàn cầu (hình1.20).
Mức tăng trưởng của khu vực được cho là giảm xuống 4,6% trong năm 2009, trước
khi đạt mức vững chắc ở 5,8% tới năm 2010 nhờ kết quả phục hồi của cầu nước ngoài.
Ngoại trừ Nam Phi, mức tăng trưởng được dự kiến giảm xuống 5,7% trong năm 2009
và tăng lên 6,6% trong năm 2010. Nhưng kịch bản này dự kiến chứa đựng những rủi
ro sụt giá mạnh. Nếu suy giảm toàn cầu chứng tỏ sâu hơn dự đoán, làm tăng thêm sự
suy giảm mạnh của mức tăng trưởng thương mại thế giới, thì phần đóng góp của xuất
khẩu ròng vào mức tăng trưởng GDP của châu Phi sẽ sụt giảm. Nhiều nước trong khu
vực đang trở nên yếu ớt hơn trong các giai đoạn biến động mạnh về thương mại, do giá
nhiên liệu và lương thực cao dẫn tới sự suy giảm vị trí đối ngoại trong những năm qua.
Giá nhiên liệu và lương thực cao cũng làm rộng thêm hố nghèo đói, làm tăng nguy cơ
bất ổn xã hội.
1.5. Thương mại thế giới
Khối lượng thương mại thế giới sẽ lần đầu tiên giảm trong năm 2009 kể từ năm
1982. Sự sụt giảm này phần lớn là do sự giảm mạnh về cầu, khi khủng hoảng kinh tế
toàn cầu tạo ra tình trạng suy thoái hiếm thấy xảy ra cùng một lúc ở các nước có thu
nhập cao và suy giảm mạnh ở các nước đang phát triển. Sự đổ vỡ tín dụng toàn cầu
đặc biệt có tác động tới đầu tư tư nhân, đây là yếu tố mang tính tuần hoàn nhất và là
yếu tố thương mại quốc tế lớn nhất trong GDP. Đồng thời đổ vỡ tín dụng làm hạn chế
nguồn vốn dành cho xuất khẩu. Một số bằng chứng đã cho thấy tín dụng của các ngân
hàng thương mại đang cạn kiệt dần và các khoản thu từ xuất khẩu ngày càng trở nên
khó đảm bảo hơn. Tương tự như vậy, các công ty xuất khẩu có thể cắt giảm việc xuất
hàng đi nếu khả năng tiếp cận với các dòng tín dụng bị hạn chế. Cuối cùng, cuộc
khủng hoảng này liên quan tới sự chao đảo mạnh và khó dự đoán trước của tỉ giá hối
đoái – một yếu tố làm cản trở hoạt động thương mại.
Các dấu hiệu suy giảm kinh tế trở nên rất rõ rệt ở một số thời điểm (tăng trưởng
trong nhu cầu nhập khẩu của Mỹ đã giảm vào năm 2005), tuy nhiên các dấu hiệu này
đang diễn biến với tốc độ chậm hơn so với trước đây, ví dụ như trong thời kỳ tuột dốc
vào năm 2001, khi tốc độ phát triển nhập khẩu giảm từ 15% xuống còn -5% trong

vòng một năm. Sự suy giảm từ từ hiện nay trong phát triển toàn cầu có nghĩa là một số
nước xuất khẩu đã có thời gian chuyển đổi sang các thị trường phát triển mạnh hơn so
ở các nước đang phát triển. Ví dụ như trong khi tỉ lệ của Mỹ trong khối lượng hàng
xuất khẩu của Ấn Độ giảm 17,1% năm 2004 xuống 15,3% năm 2007, tỉ lệ của Trung
Quốc trong hàng nhập khẩu của Ấn Độ tăng từ 5,5% lên 8,4%.
Ngoài ra, nhiều nước (trong đó có một số nước Mỹ Latinh) đã giảm lượng hàng
xuất khẩu bởi cầu của Mỹ thấp làm cho giá cả hàng hóa cao hơn. Hơn nữa, tác động
đối với khối lượng thương mại thế giới giảm nhẹ do tăng trưởng thương mại mạnh mẽ
19
giữa các khu vực ở Đông Á, phần lớn là do sự tiếp tục hội nhập của Trung Quốc vào
các thị trường toàn cầu. Tăng trưởng trong xuất khẩu và nhập khẩu của Trung Quốc
tiếp tục vượt mức 20% trong suốt hai năm qua, trong khi ngoài Trung Quốc, tăng
trưởng xuất khẩu vẫn mạnh.
Các nhân tố làm lắng dịu tình hình có vẻ như sẽ chưa được kích hoạt trong năm
2009. Sự suy giảm trong nhu cầu nhập khẩu ở những nước có thu nhập cao tăng lên,
chỉ một số ít các trung tâm phát triển có thể xuất hàng hóa trở lại, và giá cả hàng hóa
đang giảm dần. Do đó, các nước đang phát triển đang rơi vào trình trạng doanh thu từ
xuất khẩu giảm mạnh, tuy nhiên tình trạng này có thể chỉ mang tính tạm thời. Những
nước này với nguồn dự trữ không đủ duy trì nhập khẩu sẽ cần phải dựa vào sự kết hợp
giữa giảm giá tỉ giá hối đoái và phát triển chậm hơn để hạn chế lượng hàng nhập khẩu.
Các dòng tiền chuyển vào các nước đang phát triển, đạt khoảng 283 tỉ USD năm
2008, bắt đầu giảm nhẹ trong nửa cuối năm và dự đoán sẽ giảm mạnh vào năm 2009.
Khoản tiền thu được từ nước ngoài theo đồng nội tệ dự đoán sẽ giảm do tình hình suy
thoái ở các nền kinh tế công nghiệp, thu nhập thấp hơn ở các nước xuất khẩu dầu có
thu nhập cao và tăng trưởng chậm lại ở nhiều nước đang phát triển hiện đang là điểm
đến của những người nhập cư.
Trong khi dự đoán các dòng tiền chuyển vào các nước đang phát triển giảm vì tỉ lệ
GDP của nước nhận tiền sẽ giảm từ 1,8 xuống 1,6% trong năm 2009, mức độ suy giảm
của nước đó phụ thuộc đáng kể vào sự tiến triển của tỉ giá hối đoái. Sự chao đảo hiện
nay trong tỉ giá hối đoái song phương có ảnh hưởng lớn tới sự thay đổi dự tính trong

số tiền chuyển vào nước đó tính theo đồng nội tệ. Các động thái về tỉ giá hối đoái
trong tương lai cũng sẽ đóng một vai trò quan trọng.
Tình trạng suy thoái toàn cầu, suy giảm trong các hoạt động thương mại thế giới và
trong giá cả hàng hóa sẽ có một tác động to lớn đối với cán cân tài khoản vãng lai.
Thặng dư ở Nhật và châu Âu lần lượt tăng lên 240 tỉ USD và 180 tỉ USD trong năm
2009 do giá cả hàng hóa giảm và khối lượng thương mại thu hẹp dần. Mặc dù các điều
khoản thương mại của Mỹ có cải thiện, thâm hụt trong tài khoản vãng lai dự đoán sẽ
tăng từ 770 tỉ USD năm 2008 (5,4% GDP) lên 830 tỉ USD (chiếm 5,8% GDP) vào
năm 2009. Sự suy giảm nhanh của thương mại thế giới tác động rất mạnh tới Mỹ: khối
lượng xuất khẩu dự tính sẽ giảm 2,6% vào năm 2009 trong khi khối lượng nhập khẩu
giảm 1,1%. Nói chung, thâm hụt tài khoản vãng lai của các nước OECD có thu nhập
cao dự đoán sẽ thu hẹp lại từ 185 tỉ USD tới 375 tỉ USD.
Thâm hụt của nước công nghiệp kém có tỉ lệ tương ứng trong thặng dư thấp hơn ở
các nước xuất khẩu dầu có thu nhập cao và ở những nước đang phát triển. Thặng dư tài
khoản vãng lai ở các nước đang phát triển sẽ giảm từ mức đỉnh cao đạt 500 tỉ USD
(3,7% GDP) năm 2007 xuống còn 333 tỉ USD (2% GDP) năm 2009. Trong khi thặng
dư của Trung Quốc (và của cả khu vực Đông Á) dự báo sẽ tăng lên, ở các khu vực
khác, thặng dư lại giảm hay nói cách khác thâm hụt ngày càng tăng lên.
Việc đánh giá tác động của tình trạng suy thoái toàn cầu đối với cán cân tài khoản
vãng lai có thể được xác định thông qua việc theo dõi các nước theo nhóm thương mại
20
sản phẩm sơ cấp (trừ Trung Quốc bởi vì thặng dư của nước này lớn - gần 400 tỉ USD
năm 2008 – vượt trội hơn hẳn so với sự phát triển của các nước nhỏ hơn). Giá dầu ước
tính giảm 26% và giá các hàng hóa khác giảm 23% sẽ làm thay đổi các điều khoản
thương mại có lợi cho các nước nhập khẩu thực phẩm và dầu, sau một khoảng thời
gian ít nhất 5 năm bị thất thoát liên tục. Đối với các nước đang phát triển xuất khẩu
dầu, nhu cầu giảm trên toàn thế giới sẽ làm giảm cả giá dầu và khối lượng hàng xuất
khẩu (dự tính sẽ giảm từ 5,1% năm 2008 xuống còn 0,3% năm 2009) và thặng dư tài
khoản vãng lai sẽ giảm từ mức đỉnh điểm 6,4% GDP năm 2008 xuống 1,4% năm
2009. Ngược lại, thâm hụt tài khoản vãng lai của các nước đang phát triển xuất khẩu

cả dầu và thực phẩm giảm còn một nửa, từ mức đỉnh điểm 8,1% GDP năm 2008
xuống 4,3% năm 2009, do giá hàng hóa thấp hơn và khối lượng hàng hóa nhập khẩu
giảm mạnh từ 8,1% năm 2008 xuống 1,5% năm 2009. Tác động tới sự phát triển toàn
cầu này cần phải được giải quyết vào năm 2010 khi giá dầu đi vào ổn định, giá của các
mặt hàng khác chỉ giảm 4,3% và thương mại thế giới bắt đầu hồi phục.
Khủng hoảng tài chính là nguyên nhân chính dẫn đến những biến đổi bất thường
của tỉ giá hối đoái trong suốt mùa thu năm 2008. Hầu hết các đồng tiền trên thế giới
đều mất giá so với đồng USD Mỹ và đồng yên Nhật, điều này phản ánh khu vực đầu tư
an toàn ở Mỹ. Chứng khoán kho bạc, sự đảo chiều của đồng yên nhờ các hoạt động
thương mại và chính sách tháo đòn bẩy của các ngân hàng, các công ty và các nhà đầu
tư. Không đồng tiền của nước đang phát triển nào được đánh giá cao so với đồng USD
hơn 0,5% trong suốt thời kỳ này. Trung bình, đồng tiền của các nước đang phát triển
đã giảm 15% so với đồng USD, và đồng tiền của nước có thu nhập cao cũng bị mất giá
(trừ Nhật Bản). Nói chung tình hình cạnh tranh của Mỹ, Nhật và Trung Quốc và những
nước có đồng tiền ổn định so với đồng USD cũng sẽ suy giảm; cạnh tranh với các
nước có đồng tiền bị sụt giá sẽ được cải thiện trên những thị trường này. Kết quả là,
việc thúc đẩy mạnh mẽ cho xuất khẩu ròng mang lại tăng trưởng cho Mỹ có vẻ yếu đi,
đồng thời xuất khẩu ròng sẽ hỗ trợ cho việc phục hồi tăng trưởng của nhiều nước đang
phát triển.
1.6. Các thị trường hàng hóa
Giá cả hàng hóa – có xu hướng tăng cao hơn kể từ năm 2003 – tiếp tục tăng mạnh
từ năm 2007 tới nửa đầu năm 2008. Đến giữa tháng 11, giá cả giảm mạnh, xóa bỏ tình
hình giá cả tăng cao của những tháng đầu năm 2008. Việc giảm giá bất ngờ này phản
ánh phản ứng truyền thống của thị trường hàng hóa đối với sự tăng trưởng chậm chạp
trên toàn thế giới tại thời điểm của sự bùng nổ khủng hoảng, sự suy giảm này bị thổi
phồng và càng mạnh hơn do khủng hoảng tài chính. Vào mùa hè năm 2008, giá năng
lượng tăng hơn 80% tính bằng đồng USD so với một năm trước, trong khi giá hàng
hóa khác chỉ cao hơn 35%.
Hầu hết tất cả giá cả hàng hóa khác ngoài giá năng lượng tăng lên trong suốt năm
2008 là ngũ cốc (hơn 60%), chất béo và dầu (hơn 34%) và phân bón (hơn 140%). Giá

21
kim loại, đã tăng mạnh từ năm 2003 tới năm 2008, đạt mức tăng đỉnh điểm 8% trong 6
tháng đầu năm 2008. Hầu hết giá các loại hàng hóa đều đạt mức cao nhất vào đầu và
giữa năm 2008, và tất cả các mặt hàng này lại giảm mạnh kể từ giữa năm. Giá dầu thô
giảm từ 143 USD/thùng vào đầu tháng 7 xuống dưới mức 50 USD/thùng vào giữa
tháng 11. Giá dầu thô giảm là do sự suy giảm cầu ở các nước thành viên OECD, việc
đánh giá cao đồng USD và do những vấn đề trong triển vọng về cầu ngay sau khi xảy
ra khủng hoảng tài chính. Giá dầu thô giảm mạnh cũng là nhân tố góp phần đáng kể
trong sự suy giảm giá cả của các mặt hàng khác bởi vì những thị trường này ngày càng
liên kết chặt chẽ với nhau thông qua chi phí sản xuất và sự phát triển của nhiên liệu
sinh học.
1.6.1. Sự suy giảm cầu của các nước có thu nhập cao dẫn tới giảm giá dầu
Nhu cầu dầu mỏ của các nước OECD đã giảm trong vòng 3 năm qua, chủ yếu là ở
Mỹ, điều này được phản ánh bởi hoạt động kinh tế phát triển chậm chạp và các tác
động của giá xăng dầu tăng cao làm tiêu dùng suy yếu. Cầu về dầu của Mỹ giảm 5,6%
trong suốt 10 tháng đầu năm 2008. Tiêu thụ xăng cũng giảm 3% khi người tiêu dùng
hạn chế đi lại và bắt đầu chuyển sang những phương tiện tiết kiệm năng lượng hơn.
Nhu cầu dầu cũng giảm ở châu Âu. Nói chung nhu cầu của các nước OECD dự tính
giảm hơn 2,2% trong suốt năm 2008 và gần 2% năm 2009. Cầu về xăng dầu ở các
nước đang phát triển và các thị trường mới nổi tiếp tục tăng khoảng 4%, nhu cầu lớn
nhất là ở châu Á và Trung Đông. Nhu cầu của khu vực Trung Đông cho tới gần đây
được thúc đẩy bởi tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ở một số nước có trợ cấp đối với
nhiên liệu và do đó giá cả tiêu dùng thấp.
Các nhà sản xuất OPEC - miễn cưỡng phải tăng đáng kể sản lượng trong suốt giai
đoạn giá cả tăng vào nửa đầu năm 2008 - đã tăng cường sản xuất vào giữa năm, chủ
yếu ở Ả rập Xê-út, khi đơn phương đồng ý đẩy mạnh sản lượng vào tháng 6 lên 0,5
triệu thùng/ngày. Sản lượng của I-rắc lần đầu tiên đạt 2,5 triệu thùng/ngày kể từ năm
2001 do những cuộc tấn công vào cơ sở hạ tầng giảm xuống. Tuy nhiên, sự gia tăng
sản lượng ở khu vực vùng Vịnh một phần được bù đắp bởi sự suy giảm ở Nigiêria, nơi
xung đột dân sự tiếp tục ngăn cản khả năng cung ứng dầu khối lượng lớn.

Phản ứng về lượng cung ở các nước ngoài OPEC rất đáng thất vọng. Tuy nhiên,
cung cấp dầu mỏ của các nước ngoài OPEC bắt đầu tăng về số lượng tại một số khu
vực và dự tính sẽ tăng lên trong nửa cuối năm 2008 và trong suốt năm 2009-10.
Kết quả là nhu cầu giảm nhưng cung lại tăng, giá dầu dự đoán đạt trung bình
75USD/thùng trên danh nghĩa trong giai đoạn 2008-2010, phản ánh giá dầu giảm thực
sự hơn 30%.
1.6.2 Giá nhiều kim loại giảm sau khi nhu cầu thu hẹp lại
Giá của nhiều kim loại đã sụt giảm trong những tháng gần đây do sự tăng trưởng
chậm chạp trên toàn thế giới và triển vọng cung được cải thiện. Giá niken giảm hơn ba
phần tư từ mức cao nhất năm 2007, một phần là do những khó khăn trong các lĩnh vực
sản xuất ô tô và xây dựng. Giá cả giảm dưới mức chi phí cận biên của các nhà sản xuất
22
chi phí cao, và một số nhà máy phải đóng cửa và các dự án mới phải hoãn lại hoặc
phải xem xét lại. Giá kẽm cũng giảm gần bằng niken tính theo tỉ lệ phần trăm. Giá chì
giảm hơn 60% khi tình hình cung ứng tăng lên. Giá của các loại kim loại này dự tính
sẽ giảm hơn nữa khi các nguồn cung mới tiếp tục được bổ sung.
Đồng là một trong số ít kim loại có giá vẫn duy trì ở mức cao trong suốt nửa đầu
năm 2008 mặc dù nhu cầu có giảm đi, lượng cung lớn giảm do tình trạng đình công ở
khu vực Mỹ Latinh và các nguồn cung mới chậm đi vào hoạt động so với tiến độ giữ
cho giá đồng duy trì ở mức cao. Tuy nhiên giá đồng đã sụt giảm vào nửa cuối của năm
2008 vào thời điểm khủng hoảng tài chính và của môi trường kinh tế toàn cầu yếu
kém. Nhu cầu nhập khẩu của Trung Quốc kém hơn trong năm 2008 và tốc độ xây
dựng nhà ở trên toàn thế giới chậm lại góp phần to lớn trong sự suy giảm nhu cầu này.
Tuy nhiên, giá cả vẫn duy trì ở mức cao hơn chi phí sản xuất và dự đoán sẽ tiếp tục
giảm mạnh tới năm 2010 khi các nguồn cung mới tiếp tục được bổ sung.
Nhôm – một trong những kim loại chính có giá không thay đổi trong suốt thời kỳ
gần đây do tăng năng suất ở Trung Quốc – trở nên đắt đỏ hơn trong giai đoạn hiện nay
do nhu cầu trên thế giới vẫn cao và chi phí điện tăng, đây là một nguồn đầu vào chính
trong quá trình sản xuất nhôm. Tương lai giá nhôm phụ thuộc lớn vào tốc độ đầu tư
vào các nguồn cung mới (đặc biệt ở Trung Quốc và Trung Đông), cũng như mức chi

phí năng lượng và việc bãi bỏ điều tiết trên các thị trường năng lượng. Dù nguồn cung
mới tập trung ở những khu vực có các nguồn năng lượng chi phí thấp, chẳng hạn như
khu vực Trung Đông, ít có khả năng giá nhôm sẽ giảm bởi vì giá nhôm hiện đang dao
động ở phần trên của đường chi phí.
Tóm lại, chỉ số giá kim loại và khoáng sản dự tính sẽ giảm 25% vào năm 2009 và
giảm thêm 5% vào năm 2010 so với năm 2008.
1.6.3. Giá cả hàng nông nghiệp giảm mạnh từ mức đỉnh
Giá thực phẩm buôn bán trên thị trường quốc tế tính theo đồng USD đã tăng gần
60% trong nửa đầu năm 2008, các mặt hàng cơ bản như ngũ cốc và hạt có dầu có tốc
độ tăng mạnh nhất. Giá lúa mì tăng hơn gấp đôi, từ 200USD lên 440USD/tấn trong
khoảng thời gian từ tháng 3/2007 tới tháng 3/2008 trong khi giá gạo tăng gần gấp ba
trong bốn tháng tính đến tháng 4/2008. Giá dầu cọ và dầu nành tăng 44% từ năm 2007
đến năm 2008. Sau đó giá cả đã giảm mạnh, chẳng hạn như giá lúa mì giảm xuống gần
240USD/tấn vào tháng 11/2008. Kể từ mức đỉnh cao vào tháng 4/2008, giá ngũ cốc
giảm hơn 30%. Mức đỉnh của giá gạo diễn ra vào tháng 4 và tháng 5 năm 2008 do lo
ngại về nguồn cung gạo trên thế giới không đủ và lệnh cấm xuất khẩu gạo. Những lo
ngại này đã giảm đi, khiến giá giảm từ gần 1000USD xuống 550USD/tấn vào tháng
11/2008. Lệnh cấm xuất khẩu trước đây được nhiều quốc gia dỡ bỏ hoặc được lách
qua bằng các hiệp định song phương. Chẳng hạn như Ai Cập đã dự trữ được 7 triệu tấn
gạo trong suốt thời kỳ diễn ra lệnh cấm xuất khẩu, dự kiến sẽ chấm dứt sớm việc cấm
xuất khẩu. Tương tự như vậy, Ấn Độ cũng cho phép xuất gạo không phải là gạo
basmati tới 4 nước châu Phi.
23
Giá hạt có dầu cũng giảm mạnh. Giá dầu cọ trung bình thấp hơn 480 USD/tấn vào
tháng 11/2008, giảm từ mức 1250 USD/tấn vào tháng 3/2008. Sự giảm giá cũng xảy ra
tương tự ở hầu hết các mặt hàng dầu ăn khác (dầu nành giảm từ 1475 USD xuống còn
835 USD/tấn và giá dầu dừa giảm từ 1470 USD xuống còn 705 USD/tấn trong giai
đoạn này). Sự sụt giảm giá dầu ăn không chỉ phản ánh tốc độ tăng trưởng chậm chạp
của nền kinh tế mà còn phản ánh dư cung và có thể cả áp lực đang tăng lên tại châu Âu
(EU) trong việc giảm bớt sản xuất nhiên liệu sinh học - hầu hết nhiên liệu sinh học của

EU là dầu diesel sinh học, có nguyên liệu từ dầu hạt cải, một loại dầu thay thế gần gũi
với dầu cọ và dầu nành.
Giá cao su cũng bắt đầu giảm nhẹ vào tháng 7 và tháng 8/2008, đây là một tín hiệu
không đáng ngạc nhiên bởi vì giá cao su giảm theo giá dầu thô (cao su tổng hợp làm từ
dầu hỏa). Các dấu hiệu giảm giá cũng nhận thấy ở ngành đồ uống, với giá ca-cao giảm
từ 3 USD/kg vào tháng 6/2008 xuống còn 2 USD/kg vào tháng 11. Các mặt hàng nông
sản khác, đặc biệt là nguyên liệu thô và một số loại thực phẩm chẳng hạn như chuối và
đường giảm giá ít hơn bởi vì giá của các mặt hàng này trước đó không tăng mạnh và
các mặt hàng này không liên quan nhiều tới giá năng lượng.
Giá phân bón tăng mạnh nhất trong số tất cả các hàng hóa trong năm 2008 với chỉ
số giá tăng 116% từ tháng 1 đến tháng 8/2008; giá tăng là do sự kết hợp nhu cầu tăng
mạnh (cùng với giá các mặt hàng nông sản trồng trọt tăng cao), năng lực sản xuất bổ
sung hạn chế, chi phí sản xuất cao hơn do giá năng lượng cao, và thuế xuất khẩu của
Trung Quốc để đảm bảo nguồn cung trong nước. Chẳng hạn như giá phân lân (DAP)
tăng gần 110% từ tháng 1 đến tháng 8/2008 trong khi giá phân u-rê tăng gấp đôi chỉ
trong 4 tháng (12/2007 đến 4/2008). Tuy nhiên, giá dầu thô và giá ngũ cốc giảm cùng
với lượng cầu ít đi đang có tác động tới giá phân bón. Chẳng hạn như phân u-rê giảm
xuống 250USD/tấn (mức thấp nhất trong vòng 2 năm) trong khi giá phân lân trung
bình đạt mức dưới 650USD/tấn tại thời điểm 20/11.
Lĩnh vực cây trồng tương lai trong hứa hẹn nhiều triển vọng. Sản lượng ngũ cốc dự
đoán sẽ tăng khoảng 4% trong năm nay và sản lượng hạt có dầu dự tính sẽ tăng gấp hai
lần. Mặc dù sản lượng tăng sẽ làm tăng số lượng dữ trữ, việc tiếp tục tăng cầu về nhiên
liệu sinh học sẽ gây áp lực về hàng dự trữ trong kho. Ngô dùng để sản xuất ethanol ở
Mỹ dự tính sẽ tăng 33% sản lượng cây trồng năm 2008, chiếm gần bằng tất cả lượng
tăng lên trong sản lượng tiêu thụ ngô toàn cầu và làm cho sản lượng ngô dữ trữ toàn
cầu giảm. Ngược lại, khối lượng lớn sản lượng lúa mì và hạt có dầu tăng lên sẽ phần
nào giúp tái thiết kho dự trữ. Các kho dự trữ này vẫn duy trì ở mức thấp do các tiêu
chuẩn trước đây, tuy nhiên giá cả sẽ vẫn dễ bị ảnh hưởng do sự phá vỡ cung và sự tăng
lên của cầu.
Nói chung, giá ngũ cốc dự tính sẽ giảm khoảng 28% năm 2009 và giảm bớt 3% vào

năm 2010. Giá chất béo và dầu dự đoán sẽ giảm 27% năm 2009 và giảm thêm 5% năm
2010. Đồ uống sẽ giảm 18% và 4% lần lượt vào các năm 2009 và 2010. Mặc dù có sự
giảm giá này, giá thực phẩm vẫn duy trì cao hơn so với giai đoạn những năm 1990 và
cao hơn mức năm 2003 là 60%.
24
Về cơ bản, các điều kiện tín dụng vô cùng chặt chẽ vào tháng 11/2008 dự báo sẽ nới
lỏng dần trong quý đầu của năm 2009 - cùng với vụ mùa bội thu trong năm nay sẽ bảo
đảm cho giá cả không tăng mạnh trong trung hạn. Tuy nhiên, nếu nông dân ở các các
nước có thu nhập trung bình và cao không có vốn mua hạt giống và phân bón để trồng
trong vụ tới, trồng trọt sẽ kém so với dự tính và có thể làm cho giá nông nghiệp tăng
trở lại vào mùa vụ 2009/10. Nông dân ở những nước sản xuất và xuất khẩu hàng nông
nghiệp chính, trong đó có Ôxtrâylia, Achentina, Braxin, Mỹ và châu Âu, lại dựa vào
nguồn vốn ngắn hạn cho các sản phẩm đầu vào (chẳng hạn như để mua phân bón) và
nguồn vốn dài hạn để mua máy móc. Nguồn vốn ngắn hạn được đảm bảo một cách đặc
trưng bằng đầu tư vào đất đai như vật ký quỹ và ở mức độ thấp hơn là bằng việc tự bảo
hiểm trong các thị trường tương lai đối với việc đảm bảo một mức giá tối thiểu (việc
làm này phổ biến ở Mỹ). Sự sụp đổ tín dụng cùng với giá hàng hóa giảm khiến cho các
ngân hàng bất đắc dĩ phải cho vay. Tình trạng này có thể tồi tệ hơn nếu giá đất bắt đầu
giảm – đã có những tín hiệu cho thấy giá đất giảm ở một số nước EU – hoặc nếu các
điều kiện tín dụng không nới lỏng hơn. Đồng thời, nông dân mất lòng tin vào các công
cụ tự bảo hiểm.
1.6.4. Giá hàng hóa giảm có tác động đáng kể tới các điều khoản thương mại
Sự giảm giá hàng hóa dự báo trong năm 2009 sẽ gây ra những biến đổi lớn trong
các điều khoản thương mại của các nước đang phát triển. 30 nước dự tính sẽ đạt được
tốc độ phát triển 1,5% GDP từ việc giảm giá dầu. Trong số những nước này, Cộng hòa
Síp, Guyana, Jamaica, Jordan, Cộng hòa Kyrgyz, Moldova, Nicaragoa, Seychelles và
Tajikistan sẽ đạt mức 2,5% GDP.
Đồng thời, các nước xuất khẩu dầu sẽ có kinh nghiệm về các điều khoản lớn đối với
những thiệt hại thương mại, với Angola, Azerbaijan, Cộng hòa Công gô, Equatorial
Guinea, Gabon, Cộng hòa Iran, Kuwait, Libya, Nigeria, và Ả rập Xê-út phải chịu

những thiệt hại về thu nhập ở vòng đầu tiên vượt hơn 10% GDP. Giá kim loại giảm dự
báo sẽ làm giảm thu nhập hơn 2% GDP tại Chi lê, Mauritania, Mông Cổ, Papua New
Guinea, Suriname, và Zimbabwe. Các nước dựa nhiều vào xuất khẩu ngũ cốc sẽ gặp
nhiều khó khăn. Các nhà xuất khẩu như Achentina (ngô, đậu nành, lúa mì), Bolivia
(đậu nành), Gambia (lạc), Guinea-Bissau (lạc), Guyana (gạo) và Paraguay (đậu nành)
sẽ thiệt hại từ 1,6% đến 9% GDP, mặc dù đối với một số nước thiệt hại có thể giảm
nhẹ hơn nhờ giá dầu giảm.
Xét đến những tác động giảm giá hàng hóa tới giá hàng xuất khẩu và nhập khẩu,
hơn một nửa trong danh sách 162 nền kinh tế dự đoán sẽ tăng cường các điều khoản
thương mại, trong đó 24 nước sẽ đạt mức vượt trên 1,5% GDP. Khoảng một phần tư
các nước này, trong đó có hầu hết các nước xuất khẩu dầu, sẽ phải gánh chịu thiệt hại
thu nhập ở vòng đầu tiên vượt mức 1,5% GDP.
1.7. Những rủi ro và bất ổn chính
Sự đóng băng của các thị trường tín dụng, sự sụp đổ của các thị trường chứng
khoán, những biến động lớn của tỷ giá hối đoái và giá các nguyên vật liệu tăng cao
25
cũng như những phản ứng chính trị chưa từng có đã tạo nên một môi trường cực kỳ bất
ổn đối với những người tham gia thị trường cũng như những nhà dự báo.
Nhiều vấn đề có thể xảy ra đối với nền kinh tế thế giới vẫn còn hiện hữu trong bối
cảnh hiện nay, cho dù sự sụp đổ của tồi tệ của các thị trường có thể tránh được. Tăng
trưởng GDP toàn cầu năm 2009 có thể tối đa là 1,4%, tối thiểu là 0,4% (so với dự báo
0,9%).
Mức tin tưởng sẽ cao hơn đối với các dự báo cho năm 2010. So với sự phục hồi
được dự kiến trong các dự báo cơ sở, những kết quả đầu ra có lẽ sẽ vẫn khiêm tốn vì
sự hợp nhất trong lĩnh vực ngân hàng phản ứng như một lực hãm liên tục đối với sự
tăng trưởng nói chung và sự tăng trưởng tín dụng vẫn dẫm chân tại chỗ từ nhiều năm
nay. Cũng có thể những tác động trực tiếp của cuộc khủng hoảng đối với nền kinh tế
sẽ ít hơn, trong trường hợp này sự nới lỏng đáng kể của chính sách tiền tệ và biện pháp
thuế khoá quy mô rộng áp dụng cho cuộc khủng hoảng có thể sẽ dẫn tới sự phục hồi
ngoạn mục kinh tế năm 2010. Một kịch bản như vậy ẩn chứa rủi ro gia tăng lạm phát

mới và điều này lại dẫn tới sự thắt chặt các chính sách tiền tệ và ngân sách.
Trong bối cảnh đó, những người ra quyết định tại cả các nước phát triển và đang
phát triển phải chuẩn bị đối phó với thảm kịch tăng trưởng còn chậm hơn nữa, dẫn tới
khả năng tụt giảm GDP toàn cầu lần đầu tiên trong giai đoạn sau chiến tranh và sự sụp
đổ của thị trường tài chính, từ đó có thể dẫn tới sự ngưng trệ bất ngờ của các luồng tín
dụng đổ vào phần lớn các nước đi vay. Dù sao đi nữa thì tình hình trong 2 năm nữa sẽ
có thay đổi căn bản so với tình hình được dự báo cách đây chỉ một vài tháng và các
chính sách có thể phải thay đổi để thích ứng.
Trong bối cảnh hiện nay nền kinh tế thế giới phải đối mặt với những rủi ro tài chính
một cách hệ thống, sự chú ý trong ngắn hạn sẽ tập trung vào việc quản lý khủng hoảng
trước mắt, giảm bớt rủi ro và phản ứng trước những thay đổi nhanh chóng. Những rủi
ro chính liên quan đến khả năng diễn ra cuộc khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng cán
cân thanh toán của nước này với nước khác, một rủi ro thực ở giai đoạn này đối với ít
nhất là một số nước đang phát triển.
Sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng của một số nước đang phát triển cũng là điều có
thể xảy ra. Trong trường hợp của Nga, nơi mà nền kinh tế chịu sự chi phối mạnh bởi
các tập đoàn dầu khí xuất khẩu để thu ngoại tệ mạnh, thì chính quyền có vẻ như đang
cứu các cơ quan tài chính trong nước. Các nước khác không có được thuận lợi như
Nga thì có thể sẽ phải kêu gọi sự giúp đỡ của quốc tế, hành động này phải được thực
hiện nhanh nhất nếu có thể.
Sự khủng hoảng quy mô toàn cầu càng kéo dài thì những rủi ro đối với các đồng
tiền càng lớn. Sự gia tăng lãi suất trên các khoản nợ của các công ty luôn cao hơn gia
tăng lãi suất của các khoản nợ của nhà nước. Trong mọi trường hợp, việc ngăn một
nước khỏi lâm vào khủng hoảng mà nhiều nước đang gặp phải sẽ rất khó. Điều này
giải thích vì sao càng mổ xẻ chi tiết một cuộc khủng hoảng có thể xảy ra và có sự hợp
tác quốc tế tốt thì càng có cơ may tránh được khủng hoảng.

×