Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC NGHIÊM KHẮC CỦA LỊCH SỬ VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.22 KB, 40 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA
ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP HỒ CHÍ MINH


BÀI TẬP LỚN MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

ĐỀ TÀI 1:
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI – QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC
NGHIÊM KHẮC CỦA LỊCH SỬ VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM

LỚP --- NHÓM --- HK
Giảng viên hướng dẫn: NGUYỄN HỮU KỶ TỴ
Sinh viên thực hiện

Mã số sinh viên

NGÀY NỘP 2022
Thành phố Hồ Chí Minh - 2022

1


MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................................3
II. PHẦN NỘI DUNG..................................................................................................5
CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ VIỆT NAM VÀO CUỐI THẾ KỶ XIX,
ĐẦU THẾ KỶ XX........................................................................................................5
1.1. Bối cảnh thế giới.................................................................................................5
1.1.1. Sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản và hậu quả của nó............................5
1.1.2. Ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin.......................................................5
1.1.3. Tác động của Cách mạng Tháng Mười Nga và Quốc tế Cộng sản..............6


1.2. Bối cảnh trong nước...........................................................................................7
1.2.1. Sự thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp...............................7
1.2.2. Sự thay đối tính chất xã hội và cơ cấu giai cấp xã hội Việt Nam.................8
1.2.3. Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, chuẩn bị thành lập Đảng
và phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản.............................................10
1.2.4. Sự ra đời các tổ chức cộng sản..................................................................11
CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC CỦA LỊCH SỬ VÀ DÂN TỘC ĐỐI VỚI
SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM................................................12
2.1. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến........................................12
2.2. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản................................................16
2.3. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng vô sản................................................18
2.3.1. Phong trào đấu tranh của giai cấp cơng nhân trước năm 1925.................18
2.3.2. Vai trị của Nguyễn Ái Quốc trong việc xác định con đường cứu nước theo
khuynh hướng vô sản...........................................................................................21
2.3.3. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện về chính trị, tư tưởng cho việc
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.....................................................................22
2.3.4. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện về tổ chức cho việc thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam.....................................................................................24
CHƯƠNG 3: SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.........................26
3.1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên...............26
3.1.1. Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam..........................................................26
3.1.2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng....................................................27
2


3.2. Những hạn chế trong các phong trào yêu nước nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX được giải quyết trong cương lĩnh chính trị đầu tiên 2/1930.....................33
3.3. Giá trị của việc thành lập Đảng.......................................................................34
III. PHẦN KẾT LUẬN..............................................................................................36
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO


38

I. PHẦN MỞ ĐẦU
Là một mảnh đất màu mỡ và có vị trí chiến lược quan trọng, Việt Nam từ lâu đã
nằm trong sự dịm ngó của các quốc gia khác. Minh chứng cho điều này là đoạn lịch
sử bị đô hộ và liên tục bị xâm lăng trong cả ngàn năm. Tuy nhiên cho dù có đứng
trước bờ vực mất nước, nhân dân Việt Nam chưa từng khuất phục, dân tộc ta luôn anh
dũng đứng lên khởi nghĩa chống lại quân xâm lăng, nhất quyết bảo vệ lãnh thổ thiêng
liêng. Nhờ tinh thần đó mà dân tộc ta đã viết nên thời kỳ lịch sử nổi tiếng toàn thế
giới: Một đất nước bé nhỏ đánh bại hai cường quốc đương thời là Thực dân Pháp và
Đế quốc Mỹ; là nguồn cảm hứng cho các quốc gia thuộc địa tiếp tục đấu tranh chống
xâm lược. Để đạt được thành quả như ngày hôm nay, chắc chắn không thể thiếu công
lao của lực lượng lãnh đạo với con đường đúng đắn, sáng suốt và kịp thời đó là Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược và biến Việt Nam thành một quốc
gia thuộc địa nửa phong kiến. Chúng đưa ra những chính sách cai trị vơ lý và hà khắc
nhằm bóc lột người dân, khiến cho đất nước ta đứng trên hoàn cảnh bị chèn ép từ cả
hai phía: chế độ phong kiến và thực dân Pháp. Trước tình cảnh đó, sự mâu thuẫn giữa
giai cấp nói riêng và mâu thuẫn trong xã hội nói chung ngày càng dâng cao, đặt ra
nhiệm vụ cho đất nước đó là xóa bỏ chế độ phong kiến và giải phóng dân tộc thì mới
thay đổi được vận mệnh dân tộc.
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra liên tục
trên toàn quốc, tuy nhiên do còn ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến, sự rời rạc của
các cuộc khởi nghĩa và quy mơ cịn hẹp nên các cuộc khởi nghĩa này đều không đem
lại kết quả. Các cuộc khởi nghĩa này đã chứng tỏ tinh thần yêu nước và tinh thần dân
tộc nhưng thiếu đi đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết. Phong
trào Cách mạng trong giai đoạn này ngày càng chìm sâu vào khủng hoảng sâu sắc.

3



Tình hình đấu tranh của dân tộc chỉ bắt đầu khởi sắc khi xuất hiện một tổ chức
chính trị mang tên Đảng Cộng sản Việt Nam với người lãnh đạo Nguyễn Ái Quốc, với
đường lối cách mạng đúng đắn, sự sáng suốt trong con đường cứu nước. Đảng Cộng
sản Việt Nam đã thổi một luồng gió mới vào phong trào yêu nước, nắm lấy ngọn cờ
lãnh đạo, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới và cũng là duy nhất để
giành lại độc lập dân tộc, đó là con đường Xã hội Chủ nghĩa.
Để thấy rõ sự quan trọng của sự kiện lịch sử này cũng như hiểu thêm về nguồn
gốc ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhóm quyết định tìm hiểu và nghiên cứu đề
tài: “Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời – Quá trình sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và
dân tộc Việt Nam”. Sau khi hồn thành đề tài, nhóm hy vọng sẽ hiểu rõ hơn về bối
cảnh lịch sử, quá trình sàng lọc của lịch sử và dân tộc đối với sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nan và ý nghĩa của sự ra đời này.

4


II. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VIỆT NAM VÀO CUỐI THẾ KỶ XIX,
ĐẦU THẾ KỶ XX
1.1. Bối cảnh thế giới
1.1.1. Sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản và hậu quả của nó
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh
sang giai đoạn độc quyền (chủ nghĩa đế quốc). Các nước đế quốc bên trong thì tăng
cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngồi thì xâm lược và áp bức nhân dân các dân
tộc thuộc địa. Sự thống trị tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân
lao động các nước trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ
nghĩa thực dân ngày càng gay gắt, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra sơi
nổi ở các nước thuộc địa.

Ngày 1/8/1914, Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ. Cuộc chiến tranh này gây
ra những hậu quả đau thương cho nhân dân các nước (khoảng 10 triệu người chết và
20 triệu người tàn phế do chiến tranh), đồng thời cũng đã làm cho chủ nghĩa tư bản
suy yếu và mâu thuẫn giữa các nước tư bản đế quốc càng tăng thêm. Tình hình đó đã
tạo điều kiện cho phong trào đấu tranh ở các nước nói chung, các dân tộc thuộc địa nói
riêng phát triển mạnh mẽ.
1.1.2. Ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin
Vào giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển
mạnh đặt ra yêu cầu bức thiết phải có hệ thống lý luận khoa học với tư cách là vũ khí
tư tưởng của giai cấp cơng nhân đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Trong hoàn cành

5


đó, chủ nghĩa Mác ra đời, về sau được Lênin phát triển và trở thành chủ nghĩa Mác Lênin.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chi rõ muốn giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh
thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp cơng nhân phải lập ra đảng cộng sản. Sự
ra đời của đảng cộng sản là yêu cầu khách quan đáp ứng cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân chống áp bức, bóc lột. Tun ngơn của Đảng Cộng sản (năm 1848) xác
định: những người cộng sản luôn ln đại biểu cho lợi ích của tồn bộ phong trào; là
bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở các nước; họ hiểu rõ những điều
kiện, tiến trình và kết quả của phong trào vơ sản. Những nhiệm vụ chủ yếu có tính quy
luật mà chính đảng của giai cấp công nhân cần thực hiện là: tổ chức, lãnh đạo cuộc
đấu tranh của giai cấp công nhân để thực hiện mục đích giành lấy chính quyền và xây
dựng xã hội mới. Đảng phải luôn đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, mọi
chiến lực, sách lược của Đảng đều ln xuất phát từ lợi ích của giai cấp công nhân.
Nhưng, Đảng phải đại biểu cho quyền lợi của tồn thể nhân dân lao động. Bởi vì giai
cấp cơng nhân chỉ có thể giải phóng được mình nếu đồng thời giải phóng cho các tầng
lớp nhân dân lao động khác trong xã hội.
Kể từ khi chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào Việt Nam, phong trào yêu

nước và phong trào công nhân phát triển mạnh theo khuynh hướng cách mạng vô sản,
dẫn tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, sáng
lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
1.1.3. Tác động của Cách mạng Tháng Mười Nga và Quốc tế Cộng sản
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga giành được thắng lợi. Nhà nước Xô
Viết dựa trên nền tảng liên minh công - nông dưới sự lãnh đạo của Đảng Bơnsêvích
Nga ra đời. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Muời mở ra một thời đại mới, "thời đại
cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc". Cuộc cách mạng này cổ vũ
mạnh mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân các nước và là một
trong những động lực ra đời của nhiều đảng cộng sản: Đảng Cộng sản Đức, Đảng
Cộng sản Hunggari (Năm 1918), Đảng Cộng sản Mỹ (năm 1919), Đảng Cộng sản
6


Trung Quốc và Đảng Cộng sản Mông cổ (năm 1921), Đảng Cộng sản Nhật Bản (năm
1992)...
Đối với các dân tộc thuộc địa Cách mạng Tháng Mười đã nêu tấm Gương sáng
trong việc giải phóng dân tộc bị áp bức, về ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười,
Nguyễn Ái Quốc nhận định: Cách mạng Tháng Mười như tiếng sét đã đánh thức nhân
dân châu Á tỉnh giấc mê hàng thế kỷ nay. “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng
muốn cách mệnh thành cơng thì phải dân chúng (cơng nơng) làm gốc, phải có đảng
vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ
nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”.
Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) được thành lập. Sự ra đời của
Quốc tế Cộng sản có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển của phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế. Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa của Lênin được công bố tại Đại hội II Quổc tế Cộng sản vào năm 1920 đã
chỉ ra phương hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa, mở ra con đường giải

phong các dân tộc bị áp bức trên lập trường cách mạng vô sản.

1.2. Bối cảnh trong nước
1.2.1. Sự thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp
Đêm 31/8/1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Tháng 6/1884, triều đình
nhà Nguyễn ký Hiệp ước Patơnốt, từ đó Pháp thiết lập sự thống trị ở toàn Việt Nam.
- Về chính trị:
+ Thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị trực tiếp ở Đông Dương. Chúng
dùng bộ máy quân sự, cảnh sát, nhà tù thủ tiêu mọi quyền dân chủ, đàn áp, khủng bố
mọi sự chống đối; dùng chính sách “chia để trị”, chia nước ta thành ba kỳ với ba chế
độ thống trị khác nhau. Thực dân Pháp duy trì triều đình phong kiến nhà Nguyễn và
giai cấp địa chủ làm công cụ tay sai để áp bức về chính trị và bóc lột kinh tế. Nhân dân
ta mất nước trở thành nô lệ, bị đàn áp, bóc lột, cuộc sống vơ cùng khổ cực.
+ Một mặt, Doumer tìm mọi cách chia cắt đất nước, chia rẽ dân tộc Việt Nam
hòng phân tán lực lượng để dễ bề cai trị. Nhưng mặt khác, ông ta lại quan tâm đến sự
7


thống nhất của bộ máy thuộc địa tồn Đơng Dương. Đó là sự phức tạp trong tính chất
hai mặt của một chính sách thâm độc.
+ Theo sắc lệnh ngày 17/10/1887, thực dân Pháp thành lập Liên bang Đơng
Dương, năm đó mới bao gồm có Bắc Kì, Trung Kì, Nam Kì và Campuchia, trực thuộc
Bộ Hải quân và Thuộc địa. Ngày 19/4/1899, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh sáp nhập
thêm Lào vào Liên bang Đông Dương. Việt Nam bị chia cắt làm 3 kì: Bắc Kì, Trung
Kì và Nam Kì với ba chế độ cai trị khác nhau. Bắc Kì và Trung Kì là hai xứ bảo hộ
vẫn cịn giữ lại chính quyền phong kiến về hình thức; Nam Kì là đất thuộc địa hoàn
toàn do Pháp nắm cùng với Lào và Campuchia cũng là đất bảo hộ của Pháp, hợp thành
Liên bang Đông Dương. Với thủ đoạn này, chúng nhằm xóa bỏ tên Việt Nam, Lào,
Campuchia trên bản đồ thế giới.
- Về kinh tế:

+ Thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa Đông Dương lần thứ nhất
(1897 – 1914); khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919- 1929), trong đó lấy Việt Nam là
trọng điểm.
+ Tư bản Pháp bỏ vốn nhiều nhất vào nông nghiệp (lập các đồn điền cao su, cà
phê, chè…) và ngành khai mỏ (chủ yếu là than, sẳt, thiếc, vàng…) để thu lợi nhuận
nhiều và nhanh. Tư bản Pháp xây dựng ngành giao thông vận tải đường bộ, đường sắt,
phát triển các cơ sở công nghiệp chế biến; độc quyền ngoại thương. Ngân hàng Đơng
Dương của Pháp độc quyền tài chính, đặt ra hàng trăm thứ thuế, tàn ác nhất là thuế
thân; thi hành rộng rãi chính sách cho vay nặng lãi.
+ Kết quả là nền kinh tế nước ta có sự phát triển mức độ nào đó theo hướng tư
bản chủ nghĩa nhưng là nền kinh tế thuộc địa, mất cân đối, phụ thuộc vào Pháp.
- Về văn hoá:
+ Thực dân Pháp thực hiện chính sách “Ngu dân”. Đó là các chính sách và biện
pháp hạn chế giáo dục, hạn chế phát triển khoa học kĩ thuật, hạn chế mở mang dân trí
của chủ nghĩa thực dân đối với các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc. nơ dịch văn hố;
xố bỏ hệ thống giáo dục phong kiến, thay bằng chế độ giáo dục thực dân hạn chế.
Pháp mở nhà tù, trại giam nhiều hơn trường học; khuyến khích các hoạt động mê tín,
các tệ nạn cờ bạc, rượu chè, hạn chế xuất bản sách báo, gây tâm lý tự ti dân tộc.
8


+ Kết quả là hơn 90% nhân dân ta bị mù chữ, bị bưng bít mọi thơng tin tiến bộ từ
bên ngồi.
1.2.2. Sự thay đối tính chất xã hội và cơ cấu giai cấp xã hội Việt Nam
Dưới sự thống trị của thực dân Pháp, tính chất xã hội Việt Nam đã thay đổi. Việt
Nam từ xã hội phong kiến trở thành xã hội thuộc địa, nửa phong kiến.
Giai cấp địa chủ, đa số là địa chủ nhỏ và vừa có tinh thần yêu nước, căm ghét,
vừa có tinh thần dân tộc chống Pháp, số đại địa chù, tay sai, chỗ dựa của thực dân
Pháp là đối tượng của cách mạng.
Giai cấp nông dân chiếm hơn 90% dân số, bị đế quốc, địa chủ, phong kiến bóc

lột, cuộc sống cực khổ nên rất tích cực chống đế quốc và phong kiến.
Tầng lớp tiểu tư sản gồm người buôn bán nhỏ, viên chức, trí thức, học sinh, sinh
viên… phát triển khá nhanh. Họ nhạy cảm trước thời cuộc, đời sống rất bấp bênh nên
hăng hái đấu tranh và là lực lượng quan trọng của cách mạng.
Giai cấp tư sản Việt Nam ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của
thực dân Pháp. Một bộ phận tư sản mại bản có quyền lợi gắn với Pháp, trở thành tay
sai của chúng. Bộ phận tư sản còn lại, thế lực kinh tế nhỏ bé, bị tư sản nước ngoài
chèn ép nên có tinh thần dân tộc, dân chủ, có thể đi với cách mạng.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất
của thực dân Pháp (1897 – 1914) và phát triển khá nhanh. Năm 1914 khoảng 10 vạn,
đến năm 1929 tăng lên 22 vạn. Giai cấp công nhân Việt Nam tuy số lượng ít, ra đời
muộn so với cơng nhân nhiều nước nhưng mang đầy đủ đặc điểm chung của giai cấp
công nhân quốc tế là có tính chất tiên tiến, triệt để cách mạng, tính kỷ luật và tính chất
quốc tế.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, vừa lớn lên đã
tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin, rất kiên quyết cách mạng và đã nhanh chóng trở thành
lực lượng chính trị độc lập. Công nhân Việt Nam đa số xuất thân từ nông dân, bị bần
cùng hố nên có quan hệ gần gũi với nông dân, rất thuận lợi cho liên minh công nơng.
Trong các giai cấp ở Việt Nam lúc đó “Chỉ có giai cấp cơng nhân là dũng cảm nhất,
cách mạng nhất, ln ln gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận
9


cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công
nhân ta tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt
Nam”’.
Trong xã hội Việt Nam nối lên hai mâu thuẫn cơ bản. Mâu thuẫn cơ bản thứ nhất
đồng thời là mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực
dân Pháp. Mâu thuẫn cơ bản thứ hai giữa nhân dân Việt Nam, đa số là nông dân với
địa chủ phong kiến.

Hai mâu thuẫn này gắn bó, tác động lẫn nhau đòi hỏi đồng thời giải quyết. Độc
lập dân tộc và người cày có ruộng là hai yêu cầu cơ bản của xã hội Việt Nam nhưng
độc lập dân tộc là yêu cầu cơ bản, chủ yếu nhất vì phản ánh nguyện vọng bức thiết của
cả dân tộc Việt Nam ở đầu thế kỷ XX.
1.2.3. Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, chuẩn bị thành lập
Đảng và phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản
Ngày 5/6/1911, Nguyễn Ái Quốc ra nước ngồi tìm đường cứu nước. Trước khi
ra đi, Người đã tiếp thu những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, quê hương và gia
đình; được học tập, có vốn kiến thức văn hố, sớm cảm thông với nỗi khổ nhục của
người dân mất nước; hiểu rõ nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước,
Người quyết định sang phương Tây tìm đường cứu nước.
Người qua Pháp, đến nhiều nước châu Phi và sống ở Mỹ (1912 – 1913), sống ở
Anh (1914 – 1917); kiên trì chịu đựng gian khổ và sớm có tình cảm thương yêu giai
cấp của những người lao động nghèo khổ.
Tháng 7/1917, Người từ Anh trở về Pháp. Cùng với những người yêu nước Việt
Nam, Người tham gia các hoạt động chính trị- xã hội, văn hố Pháp và ủng hộ nước
Nga Xô viết.
Từ sau ngày 17/7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất Luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” trên báo L’Humanite và hoàn toàn tin
theo Lênin, tin theo Quốc tế Cộng sản. Cuối tháng 12/1920, tại Đại hội XVIII của
Đảng xã hội Pháp họp ở thành phố Tua (Pháp), Người bỏ phiếu tán thành Quốc tế
Cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Đây là bước chuyển về chất
trong lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc.
10


Nguyễn Ái Quốc sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa, ra báo Người cùng khổ (Le
Paria) và tham gia viết báo tố cáo tội ác của thực dân Pháp ở Đông Dương.
Tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc sang Liên Xô và làm việc ở Ban Phương Đông
của Quốc tế Cộng sản. Người đã tham gia các Hội nghị Quốc tế nông dân, Quốc tế

Thanh niên và dự các khoá bồi dưỡng ngắn hạn của Quốc tế Cộng sản.
Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc là phái viên Ban thư ký Viễn Đông trở về hoạt
động ở Quảng Châu, Trung Quốc. Tháng 6/1925, Người thành lập Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên, ra báo Thanh Niên, mở nhiều lớp và trực tiếp giảng bài, huấn luyện
con đường cách mạng, phương pháp truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và con đường
cách mạng giải phóng dân tộc.
Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện được Bộ Tuyên truyền
của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản thành tác phẩm “Đường kách mệnh”
(1927).
Đường cách mệnh chỉ rõ kinh nghiệm của các cuộc cách mạng Mỹ năm 1776,
cách mạng Pháp năm 1789, cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 và kết luận: Chỉ có
Cách mạng Tháng Mười Nga là cách mạng triệt đệ nhất. Cách mạng Việt Nam cần
phải đi theo con đường cách mạng vô sản mới thành cơng.
Bây giờ chủ nghĩa nhiều nhưng chỉ có chủ nghĩa Mác – Lênin là chân chính nhất,
chắc chắn nhất, cách mệnh nhất. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, trong đó
cơng nơng là “gốc cách mệnh”. Cách mạng muốn thắng lợi phải có đảng cách mệnh.
Đảng có vững cách mệnh mới thành công. Cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách
mạng thế giới.
Đường cách mệnh đã chỉ rõ những vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam,
chuẩn bị về tư tưởng chính trị cho việc thành lập chính đảng của giai cấp cơng nhân
Việt Nam.
1.2.4. Sự ra đời các tổ chức cộng sản
Trước năm 1925, phong trào cơng nhân Việt Nam diễn ra hồn tồn tự phát. Sự
ra đời và hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, báo Thanh Niên làm

11


cho chủ nghĩa Mác – Lênin và khuynh hướng giải phóng dân tộc theo con đường cách
mạng vơ sản ngày càng chiếm ưu thế ở Việt Nam.

Tiêu biểu nhất vào đầu tháng 8/1925, hơn 1.000 công nhân Ba Son, Sài Gịn do
Cơng hội đỏ tổ chức bãi cơng thắng lợi. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên chủ
trương “Vô sản hố”, đưa hội viên của mình vào làm việc tại các nhà máy, hầm mỏ,
đồn điền trong nước để truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và đường lối cách mạng, tổ
chức lãnh đạo giai cấp công nhân đấu tranh.
Tháng 3/1929, tại nhà số 5D, phố Hàm Long (Hà Nội) Chi bộ cộng sản đầu tiên
đã thành lập. Ngày 17/6/1929 tại nhà số 312 Khâm Thiên, Hà Nội, Đại biểu các tổ
chức cộng sản ở miền Bắc họp Đại hội, quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản
Đảng, ra Tuyên ngôn, Điều lệ và phát hành báo Búa liềm của Đảng.
Ngày 28/7/1929, tại 15 phố Hàng Nón, Đại hội thành lập Tổng Cơng hội đó,
thơng qua Chương trình, Điều lệ, bầu ra Ban chấp hành lâm thời do Nguyễn Đức Cảnh
đứng đầu, ra Báo Lao động và tạp chí Gơng hội đỏ.
Tháng 8/1929, An Nam Cộng sản Đảng ra đời, thơng qua đường lối chính trị,
Điều lệ Đảng và lập Ban lãnh đạo của Đảng.
Tháng 9/1929, một số hội viên tiên tiến của Tân Việt ra Tuyên đạt thông báo
thành lập Đơng Dương Cộng sản Liên đồn.
Những năm 1929 – 1930 cả nước có hàng chục cuộc bãi cơng lớn của công nhân.
Phong trào đấu tranh của nông dân chống sưu cao, thuế nặng, chống cướp ruộng đất
và phong trào bãi khoá của học sinh, bãi thị của tiểu thương tạo thành làn sóng đấu
tranh cách mạng dân tộc, dân chủ dâng cao khắp cả nước.

CHƯƠNG 2. QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC CỦA LỊCH SỬ VÀ DÂN TỘC ĐỐI VỚI
SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
2.1. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến
Khởi nghĩa Trương Định (1862-1864):
12


- Năm 1859, quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định. Ngay lúc đó Trương Định
đã đem nghĩa binh của mình lên đóng quân ở Gia định. Đầu năm 1861, Trương Định

rút qn về Gị Cơng thuộc huyện Tân Hịa (Gia Định), quyết tâm chiến đấu lâu dài.
Thời gian này Trương Định đã chiêu mộ thêm binh sĩ, tích lũy lương thực, chế tạo,
mua sắm vũ khí và đã xây dựng Gị Cơng thành một căn cứ kháng chiến. Địa bàn hoạt
động của nghĩa quân ngày càng rộng khắp ở Gò Công, Mỹ Tho, Tân An, Chợ Lớn
thuộc Định Tường, Gia Định, lan rộng ra hai bên nhánh sông Vàm Cỏ từ biển Đông
kéo dài đến tận biên giới Campuchia.
- Năm 1862, triều đình Huế phong cho Trương Định chức phó lãnh binh tỉnh Gia
Định. Cuộc khởi nghĩa ngày càng lớn mạnh. Nhưng đến ngày 5 tháng 6 năm 1862,
triều đình Huế đã phản bội lại quyền lợi của nhân dân, ký kết Hiệp ước Nhâm Tuất với
Pháp. Triều đình Huế buộc Trương Định ngừng bắn, giải tán nghĩa quân. Nhưng
Trương Định đã chống lại lệnh của triều đình và vẫn ở lại cùng nhân dân quyết tâm
chống Pháp.
- Ngày 16 tháng 12 năm 1862, nghĩa quân của Trương Định nổi lên khắp mọi nơi
khơng những ở Gị Cơng mà cịn ở Bà Rịa, Cần Giờ, Chợ Lớn… Cuộc kháng chiến đã
diễn ra ác liệt nghĩa quân của Trương Định đã chiến đấu anh dũng trong căn cứ Tân
Hịa, (Gị Cơng). Đến ngày 28 tháng 2 năm 1863, căn cứ Tân Hòa bị mất. Tuy bị tổn
thất nhưng nghĩa quân Trương Định vẫn tiếp tục hoạt động. Ngày 20 tháng 8 năm
1864, trong một trận chiến đấu quyết tử với giặc, Không để rơi vào tay giặc, Trương
Định đã rút gươm tự sát để bảo tồn khí tiết khi tuổi đời mới 44 tuổi. Trong suốt những
năm từ 1861 đến tháng 8 năm 1864, nghĩa quân của Trương Định đã làm cho quân
Pháp khiếp sợ với nhiều chiến thắng ở Gò Công, Rạch Giá, Quý Sơn, Tân An và nhiều
vùng khác ở khắp tỉnh miền Đông.
- Nguyên nhân thất bại của cuộc khởi nghĩa là do: khơng có sự hỗ trợ và đồng
tình của triều đình nhà Nguyễn, vũ khí cịn thơ sơ và trình độ qn ta lúc bấy giờ chưa
thể sánh ngang với Pháp.
Khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực (1861-1868):
- Năm 1859 thực dân pháp tấn công vào thành Gia Định, ông đã tham gia vào
đội nghĩa binh kháng chiến và được cử về hoạt động chống Pháp trên địa bàn phủ Tân
13



An và phối hợp tác chiến với Trương Định. Năm 1861, ông chiêu mộ một số đông
nông dân nổi dậy đánh phá các đồn Pháp ở các vùng thuộc phủ Tân An, nhờ lập được
nhiều công lao, ông được triều đình Nguyễn phong chức Quản cơ nên cịn gọi là Quản
Chơn, hay Quản Lịch.
- Được sự giúp đỡ của hương chức làng Nhật Tảo, ơng đã bố trí một kế hoạch để
đánh tàu Hi Vọng (pháo hạm L’Espérance) của quân xâm lược Pháp đang hoạt động
trên Nhật Tảo. Sáng ngày 10 tháng 12 năm 1861, sau khi bố trí lực lượng phục kích
trên bờ, nghĩa quân phân tán lên các thuyền nhỏ giả làm thuyền buôn tiến sát pháo
hạm L’Espérance của địch và bất thần nhảy lên tiêu diệt địch. Sau trận đốt cháy pháo
hạm L’Espérance của thực dân Pháp, triều đình Huế đã phong Nguyễn Trung Trực
chức Quản cơ và hậu thưởng cho nghĩa quân. Đến 1862 triều đình Huế kí Hịa ước
Nhâm Tuất, 3 tỉnh miền Đơng rơi vào tay thực dân Pháp, Nguyễn Trung Trực rút quân
về hoạt động ở 3 tỉnh miền Tây.
- Năm 1867, ông về lập căn cứ chống Pháp ở Hịn Chơng, Rạch Giá (nay thuộc
xã Bình An, Huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang).
- Tháng 9 năm 1868, Nguyễn Trung Trực bị thực dân Pháp bắt ở Phú Quốc rồi bị
đem về Sài Gịn, chúng dụ dỗ ơng đầu hàng nhưng vơ hiệu. Ngày 27 tháng 10 năm
1868, thực dân Pháp đưa Nguyễn Trung Trực về Rạch Giá và xử tử ông tại dây.
- Tương tự như đối với cuộc khởi nghĩa Trương Định khởi nghĩa Nguyễn Trung
Trực đã thất bại do không có sự hỗ trợ của triều đình nhà Nguyễn cùng với sự chênh
lệch nhiều về vũ khí và trình độ của nghĩa quân so với binh lực của thực dân Pháp.
Phong trào Cần Vương:
- Cuối thế kỉ XIX, sau khi triều đình nhà Nguyễn đã kí 2 hiệp ước Harmand
(1883) và Patenotre (1884) đầu hàng thực dân Pháp, các phong trào đấu tranh chống
Pháp vẫn diễn ra mạnh mẽ. Tiêu biểu nhất là phong trào cần Vương do vua Hàm Nghi
phát động. Phong trào cần Vương diễn ra từ năm 1885 đến năm 1896 với hàng loạt các
cuộc khởi nghĩa vũ trang.
- Giai đoạn đầu phong trào Cần Vương đặt dưới sự chỉ huy của triều đình, mở
đầu từ các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh sau đó liên tục nổ ra ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng

Trị, Thanh Hóa, Đà Nẵng, Phú Yên,...bùng nổ khắp các tỉnh miền Bắc và Trung Bộ.
14


- 1/11/1888 vua Hàm Nghi bị bắt phong trào vẫn tiếp tục kéo dài đến hết thế kỉ
XIX. Từ năm 1888 đến 1896 phong trào Cần Vương khơng cịn đặt dưới sự lãnh đạo
của triều đình, nhưng vẫn tiếp tục được duy trì.
- Nguyên nhân thất bại của phong trào Cần Vương:
+ Phong trào Cần Vương thất bại có nguyên nhân đến từ sự kháng cự chỉ có tính
chất địa phương. Các lãnh đạo của phong trào chỉ có uy tín tại địa phương nơi xuất
thân, khi họ bị bắt hoặc giết thì nghĩa quân đầu hàng hoặc giải tán.
+ Thiếu sự quy tụ và đường lối lãnh đạo.
+ Các cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần Vương không lấy được sự tin tưởng
từ nhân dân bởi gốc rễ chưa xuất phát từ nơng dân. Các đạo qn cịn đi cướp bóc của
dân chúng.
+ Tương quan lực lượng và vũ khí của của phong trào Cần Vương quá chênh
lệch với qn đội của Pháp. Họ chỉ có thể tấn cơng vào những chỗ yếu, sơ hở của địch,
không đủ khả năng thực hiện chiến tranh trực diện với lực lượng của địch.
Khởi nghĩa Yên Thế (1884 –2019):
- Khi Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất (11/1873) Hoàng Hoa Thám (Đề Thám) gia
nhập nghĩa binh của Trần Xuân Soạn. Đến khi Pháp chiếm Bắc Kỳ lần thứ 2 (4/1884),
ông tham gia khởi nghĩa của Cai Kinh (Hồng Đình Kinh) ở Hữu Lũng. Cuối năm
1885, ông cùng Bá Phức trở lại Yên Thế đứng dưới cờ của Lương Văn Nắm tức Đề
Nắm. Giai đoạn 1884-1892, nhiều toán nghĩa quân hoạt động riêng rẽ, chưa có sự chỉ
huy thống nhất. Sau khi Đề Nắm mất (4/1892), Đề Thám trở thành lãnh tụ của phong
trào.
- Giai đoạn 1893-1908: nghĩa quân vừa chiến đấu vừa xây dựng cơ sở.
- Giai đoạn 1909-1913: Sau vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội , phát hiện thấy có sự
dính líu của Đề Thám, Thực dân Pháp đã tập trung lực lượng, mở cuộc tấn công quy
mô lên Yên Thế. Đến ngày 10/2/1913 khi thủ lĩnh Đề Thám bị sát hại phong trào tan


- Nguyên nhân thất bại của cuộc khởi nghĩa:
+ Lực lượng giữa ta và địch quá chênh lệch.
15


+ Phong trào mang tính tự phát, chưa có sự liên kết với các phong trào yêu nước
khác cùng thời.
Các cuộc khởi nghĩa vũ trang theo hệ tư tưởng phong kiến tiếp tục khẳng định
tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất chống xâm lược của dân tộc ta và làm cho thực dân
Pháp tổn thất nặng nề,làm chậm bước tiến xâm lược của thực dân Pháp, đồng thời
cũng thể hiện sự mạnh tiềm tàng của nhân dân ta trong các phong trào yêu nước.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thất bại của phong trào yêu nước theo khuynh
hướng phong kiến do: thiếu đường lối đúng đắn, lực lượng giữa ta và địch không cân
xứng, giai cấp phong kiến đã không đủ sức lãnh đạo phong trào yêu nước Việt Nam đi
đến thành công, và từ đây phong trào yêu nước chuyển sang giai đoạn mới.
2.2. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản
Đầu thế kỷ XX chịu ảnh hưởng các cuộc cách mạng tư sản bên ngoài, phong trào
yêu nước Việt Nam diễn ra sôi nổi theo hai khuynh hướng chính.
Khuynh hướng bạo động vũ trang do Phan Bội Châu lãnh đạo:
- Tháng 5/1904, Phan Bội Châu lập Hội Duy tân ở Quảng Nam với mục đích
đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập, thành lập chính thể quân chủ lập hiến.
- Hội tổ chức phong trào Đông Du, đưa gần 200 học sinh sang Nhật học.
- Tháng 8/1908, Nhật bắt tay với Pháp trục xuất tất cả lưu học sinh Việt Nam và
Phan Bội Châu. Phong trào tan rã.
- Tháng 6/1912, Phan Bội Châu lập Việt Nam Quang phục hội. Hội tổ chức ám
sát những tên thực dân đầu sỏ, tấn công các đồn binh Pháp ở Vân Nam,...
- Sau khi cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc (1911) thắng lợi Tháng 6/1912, Phan
Bội Châu lập Việt Nam Quang phục Hội, chủ trương vũ trang chống Pháp ở trong
nước, khôi phục độc lập dân tộc.

- Hoạt động của Việt Nam Quang phục hội trong buổi đầu đã đạt được một số kết
quả nhất định, khuấy động được dư luận trong và ngoài nước. Tuy nhiên, kết quả đạt
được cịn ít trong khi lực lượng hao tổn khá lớn, nhiều người bị bắt và bị giết.

16


- Ngày 24/12/1913: Phan Bội Châu bị giới quân phiệt Trung Quốc bắt giam ở
nhà tù Quảng Đông.
- Năm 1925, Phan Bội Châu bị bắt, rồi bị giam lỏng ở Huế cho đến khi qua đời.
- Nguyên nhân thất bại: Vì Phan Bội Châu và những người yêu nước chưa hiểu
được bản chất của những nước đế quốc trong đó có Nhật Bản. Chủ trương bạo động
của Phan Bội Châu là đúng nhưng tư tưởng cầu viện đế quốc để đánh đế quốc là sai.
Cần xây dựng thực lực trong nước, trên cơ sở đó mà tranh thủ sự hỗ trợ quốc tế chân
chính.
Khuynh hướng cải cách dân chủ do Phan Châu Trinh (1782 – 1926) tổ chức:
- Năm 1906, ông cùng một nhóm sĩ phu đất Quảng như Huỳnh Thúc Kháng,
Trần Quý Cáp, Ngô Đức Kế mở cuộc vận động Duy tân ở Trung kỳ:
+ Về kinh tế: Chú ý cổ động thực nghiệp, lập hội kinh doanh. Phát triển nghề thủ
công, làm vườn, lập “nông hội”,..
+ Về giáo dục: mở trường dạy theo kiểu mới để nâng cao dân trí, dạy chữ Quốc
ngữ, các mơn học mới thay thế cho Tứ thư, Ngũ kinh của Nho học…
+ Về văn hóa: vận động cải cách trang phục và lối sống: cắt tóc ngắn, ăn mặc
“Âu hóa”, bài trừ mê tín dị đoan và các hủ tục phong kiến,..
- Tư tưởng Duy tân khi đi vào quần chúng đã vượt qua khn khổ ơn hịa, biến
thành cuộc đấu tranh quyết liệt, điển hình là phong trào chống Thuế ở Trung kì (1908).
- Năm 1908, sau phong trào chống thuế ở Trung kì, Pháp đàn áp dữ dội, Phan
Châu Trinh bị án tù 3 năm ở Cơn Đảo.
- Năm 1911, chính quyền thực dân đưa Phan Châu Trinh sang Pháp.
- Nguyên nhân thất bại: vì lo sợ Phong trào ảnh hưởng đến việc cai trị nên thực

dân Pháp và nhà Nguyễn đã ra lệnh đàn áp, một số người như: Phan Châu Trinh, Ngô
Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng,... bị đày về Côn Đảo, nên Phong trào mới bị dập tắt.
Phong trào dạy học theo lối mới ở Trường Đông Kinh Nghĩa Thục, Hà Nội
(1907):

17


- Mâu thuẫn giữa Việt Nam và thực dân Pháp ngày càng trở nên gay gắt, nhất là
các chính sách của Pháp đã đẩy Việt Nam vào tình trạng trì trệ. Thúc đẩy những nhà
yêu nước đẩy mạnh các phong trào chống quân xâm lược. Tháng 3- 1907 Đông Kinh
Nghĩa Thục bắt đầu được đi vào hoạt động tại phố Hàng Đào, Hà nội.
- Đơng Kinh Nghĩa Thục nhanh chóng trở nên nổi tiếng, lúc đầu chỉ có sự theo
học của các nhà nho, con của những gia đình giàu có, sau đó số lượng học sinh theo
học tăng lên nhanh chóng. Mục đích của phong trào là khai thơng dân trí, tổ chức
những cuộc diễn thuyết để trao đổi tư tưởng, cổ vũ động viên lòng yêu nước, chiến
đấu của dân tộc ta.
- Ban đầu chính quyền Pháp cho phép trường hoạt động, về sau Pháp nhận thấy
đó là mối nguy hại nên đã ra lệnh giải tán vào đầu năm 1908. Pháp cũng đã cấm tổ
chức các cuộc diễn thuyết của dân tộc ta.
- Nguyên nhân thất bại: Phong trào chỉ quan tâm đến việc vận động quần chúng
nhưng khơng xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang. Dẫn đến việc dễ
dàng bị đàn áp bởi thực dân Pháp.
Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản phản ánh tinh thần
dân tộc của một bộ phận trí thức, tư sản Việt Nam nhưng tất cả đều thất bại. Nguyên
nhân thất bại chính là do:
- Khuynh hướng dân chủ tư sản ko còn phù hợp với thời đại mới.
- Các phong trào cứu nước diễn ra lẻ tẻ ko thống nhất lên dễ dàng bị thực dân
Pháp đàn áp
- Các phong trào này quá phụ thuộc vào người lãnh đạo. Sau khi lãnh đạo bị bắt

và bị hi sinh thì các phong trào này đều bị thất bại
- Chỉ hô hào cổ động không quan tâm đến vận động quần chúng, không chủ động
xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang.
Tóm lại, cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam đang ở thời kỳ
khủng hoàng, bế tắc về đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo. Và từ đây cuộc cách
mạng bước qua một nấc thang mới trở thành con đường cách mạng vô sản của chủ
nghĩa Mác – Lênin.
18


2.3. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng vô sản
2.3.1. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân trước năm 1925
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, Pháp thiệt hại nặng nề về kinh tế lẫn tài chính
nên tăng cường đẩy mạnh khai thác ở quy mô và mức độ lớn hơn với các nước thuộc
địa bao gồm Việt Nam để phục hồi thương tổn chiến tranh. Do đó Pháp cần một lượng
lớn cơng nhân phục vụ các cơng trường, nhà xưởng. Từ đó lực lượng giai cấp cơng
nhân ở nước ta tăng lên nhanh chóng, tăng khoảng 12 vạn người từ trước chiến tranh
thế giới thứ nhất đến năm 1929. Sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa nửa phong
kiến, công nhân Việt Nam bị ngược đãi, chèn ép, bóc lột nặng nề. “Có nơi như khu dệt
Nam Định, ngày công của công nhân trong năm 1924 được quy định bình qn là 12
giờ, cơng nhân không được hưởng bất kỳ một chế độ bảo hiểm thân thể nào. Tiền
lương rất thấp”1. Vì thế, họ đã sớm giác ngộ cách mạng, dần dần xuất hiện phong trào
đấu tranh giành quyền lợi cho giai cấp của mình.
Các phong trào đấu tranh với nhiều hình thức từ quy mô nhỏ đến lớn như bỏ
việc, phá giao kèo cho đến bãi cơng. Từ năm 1919 – 1922 có 2119 vụ cơng nhân bỏ
việc, phá giao kèo, trung bình mỗi năm là 555 vụ. Số lượng vụ công nhân bỏ việc, phá
giao kèo ngày càng tăng lên: “Trong thời gian những năm 1919-1925, số lượng công
nhân bỏ trốn, phá giao kèo với chủ đã lên tới 4877 người. Càng ngày, cơng nhân đã
biết sử dụng hình thức đấu tranh đặc thù của mình là bãi cơng, mặc dù hình thức này
bị ghép vào tội “phá rối trị an” và bị kết án tù”2.

Về mặt chất lượng, sau chiến tranh nhiều thủy thủ, lính thợ được hồi hương;
trong hành trang nghèo khó của mình mang về nước có cả những hiểu biết mới, tư
tưởng mới và cả những kinh nghiệm tổ chức và đấu tranh của giai cấp công nhân châu
Âu. Trong khi đó, cuộc sống của họ càng trở nên cùng quẫn. Những điều kiện đó đã
thơi thúc họ đứng dậy đấu tranh. Những hình thức đấu tranh thấp như: bỏ việc, phá
giao kèo vẫn được tiếp tục, nhưng cơng nhân cũng đã sử dụng thường xun hơn hình
1 GS. Đinh Xuân Lâm (Chủ biên) (2007), Đại cương Lịch sử Việt Nam tập II, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội,
trang 261.
2 GS. Đinh Xuân Lâm (Chủ biên) (2007), Đại cương Lịch sử Việt Nam tập II, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội,
trang 262.

19


thức đấu tranh đặc thù là bãi công. Theo thống kê của chính quyền thực dân, từ năm
1920 – 1925 đã nổ ra 25 cuộc bãi công, tiêu biểu như:
- Tháng 08/1919 nổ ra cuộc bãi công của thủy thủ tàu Sácnơ đang đậu ở cảng
Hải Phịng địi tăng lương và phản đối việc đưa lính Việt Nam sang đàn áp nhân dân
Syria.
- Năm 1920, hơn 200 thủy thủ của 5 chiếc tàu Pháp đang bng neo ở cảng Sài
Gịn đã bãi cơng địi phụ cấp đắt đỏ.
- Năm 1921, Liên đồn cơng nhân tàu biển Viễn Đơng được thành lập và tổ chức
được nhiều cơ sở ở Ma Cao, Thượng Hải (Trung Quốc). Công nhân Việt Nam làm
việc trên các hãng tàu của Pháp đã gia nhập tổ chức này, đóng góp trong việc đưa đón
cán bộ và tài liệu cách mạng từ nước ngoài về nước.
Từ năm 1922, phong trào cơng nhân có bước phát triển mới. Trước hết là cuộc
đấu tranh của 600 công nhân nhuộm Sài Gịn - Chợ Lớn với nét mới chính là lực
lượng đơng đảo các thợ nhuộm trên đất Sài Gịn – Chợ lớn. “Dấu hiệu của thời đại
mới”, “lần đầu tiên một phong trào như thế đã nhóm lên ở thuộc địa” 3 là những đánh
giá của Nguyễn Ái Quốc về cuộc bãi cơng này.

Năm 1924, có nhiều cuộc bãi cơng của công nhân nhà máy dệt, rượu, xay gạo ở
Nam Định, Hà Nội, Hải Dương,.. Năm 1925, phong trào công nhân đã xuất hiện nhiều
cuộc bãi cơng có quy mơ lớn và có tổ chức lãnh đạo ở một mức độ nhất định, tiêu biểu
là cuộc bãi công của công nhân Ba Son. Cuộc bãi công của 1000 công nhân xưởng Ba
Son (Sài Gịn) vào tháng 08/1925 với mục đích là làm chậm việc sửa chữa chiếc tàu
Misơlê (Michelet) mà thực dân Pháp dùng chở lính sang đàn áp phong trào cách mạng
Trung Quốc. Gắn liền với cuộc bãi công này là vai trị tổ chức của đồng chí Tơn Đức
Thắng. Sau khi tham gia cuộc binh biến ở Hắc Hải, năm 1920 đồng chí Tơn Đức
Thắng về nước, xin vào làm cơng nhân ở Sài Gịn. Tại đây, ơng đã bí mật thành lập tổ
chức “Cơng hội” đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam. Ngày 04/08/1925, cuộc
bãi công nổ ra với yêu sách "tăng 20% lương, đưa số thợ bị đuổi trở lại làm việc và
giữ lệ nghỉ 30 phút vào ngày lãnh lương". Để đảm bảo thắng lợi, ban lãnh đạo Công
hội đã vận động công nhân, viên chức trong thành phố ủng hộ vật chất và tinh thần
3 Nguyễn Ái Quốc (1980), Bản án chế độ thuộc địa, Nxb. Sự thật, Hà Nội, trang 153.

20


cho công nhân Ba Son. Sau 8 ngày đấu tranh, cuộc bãi công đã giành được thắng lợi.
Ngày 12/08/1925 công nhân trở lại làm việc, nhưng tiếp lục lãn công làm chậm việc
sửa chữa tàu Misơlê đến tháng 11/1925 mới xong.
Đặc điểm chung của phong trào công nhân Việt Nam thời kỳ này còn ở mức độ
thấp, phụ thuộc vào phong trào u nước nói chung, mang tính chất tự phát, chưa tỏ rõ
được sức mạnh của một lực lượng chính trị độc lập, chưa có ý thức rõ rệt về sứ mệnh
lịch sử của giai cấp mình. Cuộc bãi công Ba Son kết thúc thắng lợi đánh dấu một bước
tiến mới của phong trào công nhân Việt Nam là không chỉ nhằm vào mục tiêu đấu
tranh kinh tế mà cao hơn nữa cịn nhằm vào mục đích chính trị, thể hiện tình đồn kết
giai cấp, đồn kết quốc tế của cơng nhân Việt Nam. Vì thế, cuộc bãi cơng Ba Son là
một mốc son rất quan trọng trong phong trào công nhân - giai đoạn công nhân Việt
Nam bắt đầu đi vào đấu tranh có tổ chức và có mục đích chính trị rõ ràng.

2.3.2. Vai trị của Nguyễn Ái Quốc trong việc xác định con đường cứu nước
theo khuynh hướng vô sản
Sự bất lực của các phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến do thiếu
đường lối cách mạng đúng đắn, tiên tiến dẫn đến chưa thúc đẩy và khai thác được hết
sự ủng hộ của nhân dân, khơng phát huy sức mạnh đồn kết của của dân tộc. Sau đó là
sự thất bại của phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản vì giai cấp tư sản nước ta
lúc bấy giờ vẫn còn nhỏ bé, yếu đuối về kinh tế lẫn chính trị, các phong trào phụ thuộc
quá nhiều vào người lãnh đạo. Bên cạnh đó các phong trào này diễn ra nhỏ lẻ và
không thống nhất, rất dễ bị đàn áp nếu khơng cịn người lãnh đạo nữa. Phong trào u
nước theo hệ tư tưởng vô sản vẫn chưa đặt tầm quan trọng của lực lượng quần chúng
nhân dân, khiến sự ủng hộ không được vững chắc dẫn đến khủng hoảng về cả đường
lối cách mạng lẫn giai cấp lãnh đạo. Do đó các phong trào yêu nước cần có đường lối
đúng đắn và tiến bộ hơn, chính là hệ tư tưởng vô sản. Phong trào yêu nước theo hệ tư
tưởng vô sản có thể hiểu là cuộc cách mạng mà giai cấp công nhân lật đổ giai cấp tư
bản.
Trước vấn đề về đường lối giải phóng dân tộc, thanh niên yêu nước nổi bật là
Nguyễn Tất Thành lúc bấy giờ tuy rất khâm phục các bậc tiền bối, văn thân, sĩ phu đã
xả thân vì nước nhưng Người khơng tán thành với các đường lối ấy mà tự mình ra đi
tìm đường cứu nước (năm 1911). Người tự mình sang Pháp, nhiều nước Châu Phi và
21


từng sống ở Mỹ (1912 – 1913), ở Anh (1914 – 1917), chịu gian khổ để tìm tịi nghiên
cứu và sớm đồng cảm được với tình cảnh của giai cấp những người lao động nghèo
khổ. Trước tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917,
Nguyễn Tất Thành đã nhìn thấy được đây là cuộc cách mạng mà Người đang tìm
kiếm, từ đó Người bắt đầu nghiên cứu, tìm hiểu về cuộc cách mạng ấy và dẫn đến với
chủ nghĩa Mác – Lênin.
Vào đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp, một chính
đảng tiến bộ nhất ở Pháp. Sau đó Người đổi tên thành Nguyễn Ái Quốc, gửi đến Hội

nghị Vécxây (1919) ở Pháp bản Yêu sách của nhân dân An Nam nhằm địi quyền tự
do, dân chủ và bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Dù không được Hội nghị Vécxây chú
ý đến nhưng bản yêu sách này đã tạo nên tiếng vang lớn trong dư luận quốc tế với
nhiều ảnh hưởng chính trị và Nguyễn Ái Quốc càng hiểu rõ hơn bản chất của đế quốc,
thực dân. Tháng 07/1920, Người đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin đăng trên báo Nhân đạo
(L’Humanité), số ra ngày 16 và 17/07/1920. Nhờ đó mà Người đã tìm thấy đường lối
đúng đắn giải phóng dân tộc, những chỉ dẫn cho sự nghiệp cứu nước khỏi ách thực
dân. “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng
biết bao? Tơi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tơi nói to
lên như đang nói trước quần chúng đơng đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây
là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!” Từ đó tơi hồn
tồn tin theo Lênin, tin vào Quốc tế thứ ba”4.
Cuối năm 1920, tại Đại hội XVIII của Đảng xã hội Pháp họp ở thành phố Tua
(Pháp), Người bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản và tham gia Đảng Cộng sản Pháp.
Đây là một bước chuyển mình trong lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc. Sự
kiện này đánh dấu bước ngoặt quyết định trong cuộc đời hoạt động của Người, từ chủ
nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản và mở đường giải quyết đúng đắn về đường
lối giải phóng dân tộc của Việt Nam.
Bằng thiên tài trí tuệ và hoạt động cách mạng của mình, Nguyễn Ái Quốc đã kịp
thời đáp ứng nhu cầu bức thiết của lịch sử. Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ
phu và của các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Nguyễn Ái Quốc đã
4 Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, trang 562.

22


đến với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin và lựa chọn con đường cách
mạng vô sản: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản”5.

2.3.3. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện về chính trị, tư tưởng cho việc
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Sau khi trở thành một người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc thực hiện nhiều nhiệm
vụ đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Người xúc tiến mạnh mẽ việc
nghiên cứu lý luận giải phóng dân tộc theo học thuyết cách mạng vô sản của chủ
nghĩa Mác – Lênin để truyền bá rộng rãi ở nước ta, từng bước chuẩn bị về mặt tư
tưởng và chính trị cho việc thành lập Đảng Cộng sản.
Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc sáng lập nên Hội Liên hiệp thuộc địa nhờ sự giúp
đỡ của Đảng Cộng sản Pháp. Hội xuất bản báo Người cùng khổ (Le Paria) do Nguyễn
Ái Quốc chủ nhiệm. Cuối năm 1921, tại Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Pháp
họp ở Mácxây, Nguyễn Ái Quốc trình bày dự thảo nghị quyết về vấn đề "Chủ nghĩa
cộng sản và các thuộc địa" và kiến nghị thành lập Ban Nghiên cứu thuộc địa trực
thuộc ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Pháp. Kiến nghị đó được Đại hội chấp nhận.
Năm 1922, Ban Nghiên cứu thuộc địa được thành lập, Nguyễn Ái Quốc được cử làm
trưởng tiểu ban nghiên cứu về vấn đề Đông Dương. Nguyễn Ái Quốc viết nhiều bài
đăng trên các khác như báo Nhân đạo (L' Humanité) của Đảng Cộng sản Pháp, Đời
sống công nhân (La Vie ouvrière) của Tổng Liên đồn Lao động Pháp. Người muốn
thơng qua viết báo để tích cực tố cáo tội ác của thực dân Pháp ở Đơng Dương. Từ đó
xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những người cộng sản và nhân dân lao động Pháp
với các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Bản án chế độ thực dân Pháp được viết bởi Nguyễn Ái Quốc và xuất bản lần
đầu tiên ở Pari (Pháp) năm 1925. Đây là tác phẩm với những dẫn chứng cụ thể, sinh
động, tố cáo trước dư luận Pháp và thế giới những tội ác tày trời của bọn thực dân
Pháp đối với các nước thuộc địa. Bản án chế độ thực dân Pháp đã vạch trần bản chất
phản động của đế quốc Pháp đối với các nước thuộc địa, thức tỉnh tinh thần dân tộc,
hướng nhân dân các nước thuộc địa tới con đường giải phóng dân tộc của thời đại
5 Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng tồn tập, Tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 314.

23



cách mạng vô sản. Nhân dân ta, trước hết là những tiểu tư sản trí thức yêu nước, tiến
bộ, nhờ tác phẩm đó và các bài viết khác của Nguyễn Ái Quốc trong thời kỳ ấy mà
hướng tới con đường cách mạng của Người để đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân
tộc của nhân dân Việt Nam.
Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc tới Liên Xô và làm việc trực tiếp ở Ban Phương
Đông của Quốc tế Cộng sản. Người viết nhiều bài cho báo Sự thật của Đảng Cộng sản
Liên Xơ và tạp chí Thư tín quốc tế của Quốc tế Cộng sản. Nguyễn Ái Quốc tham gia
các Hội nghị Quốc tế nông dân, Quốc tế Thanh niên và dự các khóa bồi dưỡng ngắn
hạn của Quốc tế Cộng sản. Năm 1924, Người tham gia Đại hội V của Quốc tế Cộng
sản và các đại hội của Quốc tế Công hội đỏ, Quốc tế Phụ nữ, Quốc tế Thanh niên,
Quốc tế Cứu tế đỏ. Tại Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã
đề cập các vấn đề về tăng cường mối quan hệ giữa phong trào công nhân ở các nước
đế quốc với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và vấn đề về nơng dân ở các
nước thuộc địa, từ đó giúp ban hành các nghị quyết quan trọng góp phần lớn trong các
phong trào cách mạng dân tộc. "Sự nổi dậy của nơng dân bản xứ đã chín muồi. Trong
nhiều nước thuộc địa, họ đã vài lần nổi dậy, nhưng lần nào cũng bị dìm trong máu.
Nếu hiện nay nơng dân vẫn cịn ở trong tình trạng tiêu cực, thì ngun nhân là vì họ
cịn thiếu tổ chức, thiếu người lãnh đạo. Quốc tế Cộng sản cần phải giúp đỡ họ tổ chức
lại, cần phải cung cấp cán bộ lãnh đạo cho họ và chỉ cho họ con đường đi tới cách
mạng và giải phóng”6.
Phong trào “Vơ sản hóa” được phát động cũng góp phần truyền bá tư tưởng vơ
sản, đồng thời rèn luyện cán bộ, xây dựng và phát triển tổ chức của công nhân. Tác
phẩm Đường Kách Mệnh (1927) được tổng hợp từ các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc
trong các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho những người Việt Nam yêu nước tại Quảng Châu
(Trung Quốc) bởi Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đơng. Đây là cuốn sách
chính trị đầu tiên của cách mạng Việt Nam thể hiện tầm quan trọng của lý luận cách
mạng được đặt ở vị trí hàng đầu đối với cuộc vận động cách mạng và đối với đảng
cách mạng tiên phong. Trong tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Đảng
muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải


6 Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng tồn tập, Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 289.

24


theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà khơng có chủ nghĩa cũng giống như người khơng có trí
khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam”7.
Đó là những hoạt động chuẩn bị về chính trị và tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc
truyền bá rộng rãi vào Việt Nam nhằm hướng phong trào giải phóng dân tộc theo Cách
mạng vơ sản, dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.3.4. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện về tổ chức cho việc thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam
Cuối năm 1924, Người từ Liên Xơ về Quảng Châu (Trung Quốc) để tìm hiểu về
tình hình hoạt động của những người yêu nước Việt Nam đang sống ở đây, tiếp xúc
với tổ chức “Tâm tâm xã”, lựa chọn ra những thanh niên tích cực để tuyên truyền giác
ngộ và thành lập Cộng sản đồn (02/1925) với 9 thành viên. Sau đó Người thành lập
nên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (06/1925) - tổ chức cộng sản với tính chất
cách mạng và quần chúng rộng rãi. Tuần báo Thanh niên với vai trò là cơ quan tuyên
truyền của Hội cũng được xuất bản.
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là sự chuẩn bị quan trọng về tổ chức để
tiến tới thành lập chính đảng của giai cấp công nhân ở Việt Nam. Những hoạt động
của Hội có ảnh hưởng mạnh mẽ và giúp thúc đẩy sự chuyển biến của phong trào công
nhân cũng như phong trào yêu nước Việt Nam những năm 1928 – 1929 theo xu hướng
cách mạng vô sản. Hội cũng chính là tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội mở các lớp do chính Nguyễn Ái Quốc giảng dạy chính trị, huấn luyện đào tạo cán
bộ về đường lối cách mạng theo tư tưởng vô sản. Phần lớn số học viên đó sau khi học
xong bí mật về nước truyền bá lí luận giải phóng dân tộc và tổ chức nhân dân. Số còn
lại được gửi sang học tại trường Đại học Phương Đông (Liên Xô) hoặc trường Qn
sự Hồng Phố.

Các cuộc đấu tranh cơng nhân đã dẫn đến sự ra đời của ba tổ chức cộng sản đầu
tiên của Việt Nam là Đông Dương Cộng sản Đảng (06/1929), An Nam Cộng sản Đảng
(tháng 7/1929), Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (09/1929). Sự ra đời của ba tổ chức
cộng sản lúc bấy giờ là một xu thế khách quan của cách mạng giải phóng dân tộc ở
Việt Nam.
7 Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 289.

25


×