Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

(TIỂU LUẬN) ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM RA đời – sự SÀNG lọc NGHIÊM KHẮC của LỊCH sử dân tộc VIỆT NAM TRONG THỜI đại mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227 KB, 37 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC BÁCH KHOA


BÀI TẬP LỚN
MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG
ĐỀ TÀI

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI – SỰ SÀNG LỌC NGHIÊM
KHẮC CỦA LỊCH SỬ DÂN TỘC VIỆT NAM TRONG THỜI ĐẠI MỚI

LỚP L10 --- NHÓM 10 --- HK 212
NGÀY NỘP 28/03/2022
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Trần Thị Kim Oanh

Thành phố Hồ Chí Minh – 2022


BÁO CÁO KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM VÀ BẢNG ĐIỂM BTL
Mơn: LỊCH SỬ ĐẢNG (MSMH: SP1039)
Nhóm/Lớp: L14...... Tên nhóm: 10......HK 212......Năm học 2022-2023
Đề tài: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời – sự sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử dân
tộc Việt Nam trong thời đại mới
STT

1

2

3


4

5

Họ và tên nhóm trưởng: Phạm Xuân Đức
Số ĐT: 0353034052, Email:
NHÓM TRƯỞNG

Phạm Xuân Đức

2


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................ 5
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................... 5
2. Mục đích đề tài...................................................................................................... 5
3. Nhiệm vụ đề tài...................................................................................................... 6
PHẦN NỘI DUNG......................................................................................................... 7
Chương 1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp......7
1.1 Bối cảnh thế giới.............................................................................................. 7
1.2 Bối cảnh Việt Nam dưới ách thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp........................................................................................................................ 9
1.2.1 Đặc điểm kinh tế........................................................................................ 9
1.2.2 Đặc điểm xã hội....................................................................................... 10
1.3 Thực trạng và nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam....................13
1.3.1 Thực trạng và mâu thuẫn chủ yếu của cách mạng Việt Nam................13
1.3.2 Nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam........................................ 14
Chương 2. Các phong trào yêu nước Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến đầu năm
1930 và con đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng vô sản ở Việt Nam. 16


2.1 Các phong trào yêu nước theo các khuynh hướng phong kiến và tư sản..16
2.1.1 Khuynh hướng phong kiến...................................................................... 16
2.1.2 Khuynh hướng tư sản.............................................................................. 17

3


2.2 Con đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng vô sản và sự chuẩn bị
cho sự nghiệp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam..........................................19
2.2.1 Quá trình lựa chọn con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc............19
2.2.2 Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với sự nghiệp thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam............................................................................................................ 20
2.3 Sự phát triển của phong trào cách mạng theo khuynh hướng vơ sản.......22
Chương 3. Sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.......................................................................... 24
3.1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên..........24
3.1.1. Hội nghị thành lập Đảng........................................................................ 24
3.1.2. Nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên................................................. 26
3.2. Giá trị thực tiễn của sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương
lĩnh chính trị đầu tiên......................................................................................... 28
3.2.1. Đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc...................28
3.2.2. Giá trị và đối với sự phát triển của đất nước hiện nay........................... 28
PHẦN KẾT LUẬN...................................................................................................... 30
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................... 32

4


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là kết quả của quá trình vận động hợp quy
luật,của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân
với phong trào yêu nước Việt Nam. Đảng ra đời đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng sâu
sắc về giai cấp lãnh đạo và đường lối cứu nước ở nước ta từ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ
AX.

Sự Kiện đó chứng tỏ giai cấp công nhân nước ta đã trưởng thành "đủ sức

lãnh đạo cách mạng”. Từ đây, giai cấp công nhân Việt Nam đã có một bộ tham
mưu của giai cấp và dân tộc lãnh đạo, đánh dấu sự chiến thắng của chủ nghĩa
Mác - Lênin đối với các trào lưu tư tưởng phi vô sản.
Với sự chuẩn bị công phu của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, năm 1930 Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thành lập, đảm nhiệm vai trò lãnh
đạo của Cách mạng Việt Nam. Đảng ra đời là bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt
Nam - là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam
Trong thời đại mới, đó là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam được lịch sử giao cho
sứ mệnh nắm quyền lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam.
Sự ra đời của Đảng với hệ thống tổ chức chặt chẽ và Cương lĩnh lãnh đạo đúng
đắn đã chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc những năm
đầu thế kỷ XX. Đảng ra đời làm cho cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăng
khít của cách mạng thế giới. Là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên cho mọi thắng lợi của cách
mạng nước ta, là nhân tố quyết định phương hướng phát triển và đưa đến thắng lợi
trong sự nghiệp giành độc lập, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Là con đường đúng đắn và phù
hợp với quy luật phát triển của lịch sử.
2. Mục đích đề tài
Khẳng định Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác- Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, là kết quả của
sự phát triển cao và thống nhất của phong trào công nhân và phong trào yêu nước, là kết

quả thống nhất của phong trào cách mạng trong cả nước, là sự đồng tâm nhất trí của
những chiến sĩ tiên phong. Khẳng định Luận Cương chính trị và Cương lĩnh chính trị
5


đầu tiên của Đảng là phù hợp với yêu cầu của toàn Đảng và toàn dân, đã trở thành ngọn
cờ tập hợp, đoàn kết các lực lượng và lãnh đạo phong trào cách mạng từ khi Đảng được
thành lập.
3. Nhiệm vụ đề tài
Một là, làm rõ đặc điểm kinh tế, xã hội Việt Nam dưới chính sách thống trị, khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp.
Hai là, làm rõ những nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước Việt Nam
theo khuynh hướng chính trị phong kiến và tư sản cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ đầu
1930.
Ba là, làm rõ quá trình lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn Ái
Quốc (1911-1920) và sự chuẩn bị của Nguyễn Ái Quốc về tư tưởng-chính trị và tổ chức
cho việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam.
Bốn là, làm rõ sự phát triển của phong trào cách mạng vô sản, sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Năm là, làm rõ giá trị thực tiễn của sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.

6


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp
1.1 Bối cảnh thế giới
a) Sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản và hậu quả của nó
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh

sang giai đoạn độc quyền (chủ nghĩa đế quốc). Các nước đế quốc bên trong thì tăng
cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngồi thì xâm lược và áp bức nhân dân các dân
tộc thuộc địa. Sự thống trị tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao
động các nước trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa
thực dân ngày càng gay gắt, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra sơi nổi ở
các nước thuộc địa.
Ngày 1-8-1914, Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ. Cuộc chiến tranh này gây
ra những hậu quả đau thương cho nhân dân các nước (khoảng 10 triệu người chết và 20
triệu người tàn phế do chiến tranh), đồng thời cũng đã làm cho chủ nghĩa tư bản suy yếu
và mâu thuẫn giữa các nước tư bản đế quốc càng tăng thêm. Tình hình đó đã tạo điều
kiện cho phong trào đấu tranh ở các nước nói chung, các dân tộc thuộc địa nói riêng
phát triển mạnh mẽ.
b) Ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin
Vào giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh
đặt ra yêu cầu bức thiết phải có hệ thống lý luận khoa học với tư cách là vũ khí tư tưởng
của giai cấp cơng nhân đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Trong hồn cảnh đó, chủ
nghĩa Mác ra đời, về sau được Lênin phát triển và trở thành chủ nghĩa Mác - Lênin.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ muốn giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh
thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải lập ra đảng cộng sản. Sự ra
đời của đảng cộng sản là yêu cầu khách quan đáp ứng cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân chống áp bức, bóc lột. Tun ngơn của Đảng Cộng sản (năm 1848) xác định:
những người cộng sản luôn luôn đại biểu cho lợi ích của tồn bộ phong trào; là bộ phận
kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở các nước; họ hiểu rõ những điều kiện, tiến
trình và kết quả của phong trào vô sản. Những nhiệm vụ chủ yếu có tính quy luật mà
chính đảng của giai cấp công nhân cần thực hiện là: tổ chức, lãnh đạo cuộc đấu tranh
7


của giai cấp cơng nhân để thực hiện mục đích giành lấy chính quyền và xây dựng xã hội
mới. Đảng phải luôn đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, mọi chiến lược, sách

lược của Đảng đều luôn xuất phát từ lợi ích của giai cấp cơng nhân. Nhưng, Đảng phải
đại biểu cho quyền lợi của toàn thể nhân dân lao động. Bởi vì giai cấp cơng nhân chỉ có
thể giải phóng được mình nếu đồng thời giải phóng cho các tầng lớp nhân dân lao động
khác trong xã hội.
Kể từ khi chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào Việt Nam, phong trào yêu
nước và phong trào công nhân phát triển mạnh theo khuynh hướng cách mạng vô sản,
dẫn tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, sáng lập
ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
c) Tác động của Cách mạng Tháng Mười Nga và Quốc tế Cộng sản
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga giành được thắng lợi. Nhà nước Xô Viết
dựa trên nền tảng liên minh công - nông dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvich Nga ra
đời. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười mở ra một thời đại mới, "thời đại cách
mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc". Cuộc cách mạng này cổ vũ mạnh mẽ
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân các nước và là một trong những
động lực ra đời của nhiều đảng cộng sản: Đảng Cộng sản Đức, Đảng Cộng sản Hungary
(Năm 1918), Đảng Cộng sản Mỹ (năm 1919), Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng
Cộng sản Mông cổ (năm 1921), Đảng Cộng sản Nhật Bản (năm 1992)...
Đối với các dân tộc thuộc địa Cách mạng Tháng Mười đã nêu tấm Gương sáng
trong việc giải phóng dân tộc bị áp bức, về ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười,
Nguyễn Ái Quốc nhận định: Cách mạng Tháng Mười như tiếng sét đã đánh thức nhân
dân châu Á tỉnh giấc mê hàng thế kỷ nay. "Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn
cách mệnh thành cơng thì phải dân chúng (cơng nơng) làm gốc, phải có đảng vững bền,
phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc
Tư và Lênin"1.
Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) được thành lập. Sự ra đời của Quốc
tế Cộng sản có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế. Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa
1


“Hồ Chí Minh: Tồn tập 2 – 12 (2002), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.280”

8


của Lênin được công bố tại Đại hội II Quốc tế Cộng sản vào năm 1920 đã chỉ ra phương
hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa, mở ra con đường giải phóng các dân
tộc bị áp bức trên lập trường cách mạng vô sản.
Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trị quan trọng trong việc truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã
khẳng định vai trò của tổ chức này đối với cách mạng nước ta là: "An Nam muốn cách
mệnh thành cơng, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế"2.
1.2 Bối cảnh Việt Nam dưới ách thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp
1.2.1 Đặc điểm kinh tế
a) Về kinh tế
Thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa Đông Dương lần thứ nhất (1897
-

1914); khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919- 1929), trong đó lấy Việt Nam là
trọng điểm.
Tư bản Pháp bỏ vốn nhiều nhất vào nông nghiệp (lập các đồn điền cao su, cà phê,

chè...) và ngành khai mỏ (chủ yếu là than, sắt, thiếc, vàng...) để thu lợi nhuận nhiều và
nhanh. Tư bản Pháp xây dựng ngành giao thông vận tải đường bộ, đường sắt, phát triển
các cơ sở công nghiệp chế biến; độc quyền ngoại thương. Ngân hàng Đơng Dương của
Pháp độc quyền tài chính, đặt ra hàng trăm thứ thuế, tàn ác nhất là thuế thân; thi hành
rộng rãi chính sách cho vay nặng lãi.
Kết quả là nền kinh tế nước ta có sự phát triển mức độ nào đó theo hướng tư bản

chủ nghĩa nhưng là nền kinh tế thuộc địa, mất cân đối, phụ thuộc vào Pháp.
b) Về chính trị
Chúng tiếp tục thi hành chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp nặng nề. Mọi
quyền hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị người Pháp, từ tồn quyền
Đơng Dương, thống đốc Nam Kỳ, khâm sứ Trung Kỳ, thống sứ Bắc Kỳ, công sứ các
tỉnh, đến các bộ máy quân đội, cảnh sát, toà án...; biến vua quan Nam triều thành bù
nhìn, tay sai. Chúng bóp nghẹt tự do, dân chủ, thẳng tay đàn áp, khủng bố, dìm các cuộc
đấu tranh của dân ta trong biển máu. Chúng tiếp tục thi hành chính sách chia để trị rất
2

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.2, tr.312.”

9


thâm độc, chia nước ta làm ba kỳ, mỗi kỳ đặt một chế độ cai trị riêng và nhập ba kỳ đó
với nước Lào và nước Campuchia để lập ra liên bang Đơng Dương thuộc Pháp, xóa tên
nước ta trên bản đồ thế giới. Chúng gây chia rẽ và thù hận giữa Bắc, Trung, Nam, giữa
các tôn giáo, các dân tộc, các địa phương, thậm chí là giữa các dịng họ; giữa dân tộc
Việt Nam với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương.
1.2.2 Đặc điểm xã hội
Dưới sự thống trị của thực dân Pháp, tính chất xã hội Việt Nam đã thay đổi. Việt
Nam từ xã hội phong kiến trở thành xã hội thuộc địa, nửa phong kiến.
Giai cấp địa chủ phong kiến đã tồn tại hơn ngàn năm. Chủ nghĩa tư bản thực dân
được đưa vào Việt Nam và trở thành yếu tố bao trùm, song vẫn không xóa bỏ mà vẫn
bảo tồn và duy trì giai cấp địa chủ để làm cơ sở cho chế độ thuộc địa. Tuy nhiên, do
chính sách kinh tế và chính trị phản động của thực dân Pháp, giai cấp địa chủ càng bị
phân hóa thành ba bộ phận khá rõ rệt: tiểu, trung và đại địa chủ. Có một số địa chủ bị
phá sản. Vốn sinh ra và lớn lên trong một quốc gia dân tộc có truyền thống yêu nước
chống ngoại xâm, lại bị chính sách thống trị tàn bạo về chính trị, chèn ép về kinh tế, nên

một bộ phận không nhỏ tiểu và trung địa chủ không chịu nỗi nhục mất nước, có mâu
thuẫn với đế quốc về quyền lợi dân tộc nên đã tham gia đấu tranh chống thực dân và
bọn phản động tay sai.
Giai cấp nông dân chiếm khoảng 90% dân số. Họ bị đế quốc, phong kiến địa chủ
và tư sản áp bức, bóc lột rất nặng nề. Ruộng đất của nông dân đã bị bọn tư bản thực dân
chiếm đoạt. Chính sách độc quyền kinh tế, mua rẻ bán đắt, tô cao, thuế nặng, chế độ cho
vay nặng lãi... của đế quốc và phong kiến đã đẩy nông dân vào con đường bần cùng hóa
khơng lối thốt. Một số ít bán sức lao động, làm thuê trong các nhà máy, hầm mỏ, đồn
điền hoặc bị bắt đi làm phu tại các thuộc địa khác của đế quốc Pháp. Cịn số đơng vẫn
phải gắn vào đồng ruộng và gánh chịu sự bóc lột vơ cùng nặng nề ngay trên mảnh đất
mà trước đây là sở hữu của chính họ.
Vì bị mất nước và mất ruộng đất nên nơng dân có mâu thuẫn với đế quốc và phong
kiến, đặc biệt sâu sắc nhất với đế quốc và bọn tay sai phản động. Họ vừa có yêu cầu độc lập
dân tộc, lại vừa có yêu cầu ruộng đất, song yêu cầu về độc lập dân tộc là bức thiết nhất.
Giai cấp nơng dân có truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất là lực lượng to lớn nhất,
một động lực cách mạng mạnh mẽ. Giai cấp nông dân khi được tổ chức lại và

10


có sự lãnh đạo của một đội tiên phong cách mạng, sẽ phát huy vai trò cực kỳ quan trọng
của mình trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc Việt Nam.
Giai cấp tư sản hình thành trong quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp.
Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, tư sản Việt Nam mới chỉ là một tầng lớp nhỏ bé.
Sau chiến tranh, tư sản Việt Nam đã hình thành giai cấp rõ rệt. Ra đời trong điều kiện bị
tư bản Pháp chèn ép, cạnh tranh rất gay gắt, nên số lượng tư sản Việt Nam không nhiều,
thế lực kinh tế nhỏ bé, thế lực chính trị yếu đuối.
Trong q trình phát triển, giai cấp tư sản Việt Nam phân thành hai bộ phận:
Tư sản mại bản là những tư sản lớn, hợp tác kinh doanh với đế quốc, bao thầu
những cơng trình xây dựng của chúng ở nước ta. Nhiều tư sản mại bản có đồn điền lớn

hoặc có nhiều ruộng đất cho phát canh, thu tơ. Vì có quyền lợi kinh tế và chính trị gắn
liền với đế quốc thực dân, nên tư sản mại bản là tầng lớp đối lập với dân tộc.
Tư sản dân tộc là bộ phận đông nhất trong giai cấp tư sản, bao gồm những tư sản
loại vừa và nhỏ, thường hoạt động trong các ngành thương nghiệp, công nghiệp và cả
tiểu thủ công nghiệp. Họ muốn phát triển chủ nghĩa tư bản của dân tộc Việt Nam, nhưng
do chính sách độc quyền và chèn ép của tư bản Pháp nên không thể phát triển được. Xét
về mặt quan hệ với đế quốc Pháp, tư sản dân tộc phải chịu số phận mất nước, có mâu
thuẫn về quyền lợi với bọn đế quốc thực dân và phong kiến, nên họ có tinh thần chống
đế quốc và phong kiến. Giai cấp tư sản dân tộc là một lực lượng cách mạng không thể
thiếu trong phong trào cách mạng giải phóng dân tộc.
Giai cấp tiểu tư sản bao gồm nhiều bộ phận khác nhau: tiểu thương, tiểu chủ, thợ
thủ cơng, viên chức, trí thức, học sinh, sinh viên và những người làm nghề tự do. Giữa
những bộ phận đó có sự khác nhau về kinh tế và cách sinh hoạt, nhưng nhìn chung, địa
vị kinh tế của họ rất bấp bênh, luôn luôn bị đe dọa phá sản, thất nghiệp. Họ có tinh thần
yêu nước nồng nàn, lại bị đế quốc và phong kiến áp bức, bóc lột và khinh rẻ nên rất
hăng hái cách mạng. Đặc biệt là tầng lớp trí thức là tầng lớp rất nhạy cảm với thời cuộc,
dễ tiếp xúc với những tư tưởng tiến bộ và canh tân đất nước, tha thiết bảo vệ những giá
trị tinh thần truyền thống của dân tộc. Khi phong trào quần chúng công nông đã thức
tỉnh, họ bước vào trận chiến đấu giải phóng dân tộc ngày một đơng đảo và đóng một vai
trị quan trọng trong phong trào đấu tranh của quần chúng, nhất là ở đô thị. Giai cấp tiểu
tư sản là một lực lượng cách mạng quan trọng trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của
dân tộc.
11


Giai cấp công nhân là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của
Pháp và nằm trong những mạch máu kinh tế quan trọng do chúng nắm giữ. Lớp công
nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xây dựng một số cơ sở
công nghiệp và thành phố phục vụ cho việc xâm lược và bình định của chúng ở nước ta.
Trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của đế quốc Pháp, giai cấp cơng nhân đã

hình thành. Đến cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, giai cấp công nhân đã phát triển
nhanh chóng về số lượng, từ 10 vạn (năm 1914) tăng lên hơn 22 vạn (năm 1929), trong
đó có hơn 53.000 cơng nhân mỏ (60% là cơng nhân mỏ than), và 81.200 công nhân đồn
điền.
Giai cấp công nhân Việt Nam tuy còn non trẻ, số lượng chỉ chiếm khoảng 1% số
dân, trình độ học vấn, kỹ thuật thấp, nhưng sống khá tập trung tại các thành phố, các
trung tâm công nghiệp và các đồn điền.
Giai cấp công nhân Việt Nam có những đặc điểm chung của giai cấp cơng nhân
quốc tế, đồng thời cịn có những điểm riêng của mình như: phải chịu ba tầng lớp áp bức
bóc lột (đế quốc, phong kiến và tư sản bản xứ); phần lớn vừa mới từ nông dân bị bần
cùng hóa mà ra, nên có mối quan hệ gần gũi nhiều mặt với nông dân. Giai cấp công
nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, nên nội bộ thuần nhất, không bị
phân tán về lực lượng và sức mạnh. Sinh ra và lớn lên ở một đất nước có nhiều truyền
thống văn hóa tốt đẹp, nhất là truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, sớm tiếp thu
được tinh hoa văn hóa tiên tiến trong trào lưu tư tưởng của thời đại cách mạng vô sản để
bồi dưỡng bản chất cách mạng của mình.
Giai cấp cơng nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội tiên tiến, đại diện cho
phương thức sản xuất mới, tiến bộ, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có tinh thần cách
mạng triệt để, lại mang bản chất quốc tế. Họ là một động lực cách mạng mạnh mẽ và
khi liên minh được với giai cấp nông dân và tiểu tư sản sẽ trở thành cơ sở vững chắc
cho khối đại đồn kết dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do. Khi được tổ chức
lại và hình thành được một đảng tiên phong cách mạng được vũ trang bằng một học
thuyết cách mạng triệt để là chủ nghĩa Mác - Lênin thì giai cấp cơng nhân trở thành
người lãnh đạo cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc.

12


1.3 Thực trạng và nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam
1.3.1 Thực trạng và mâu thuẫn chủ yếu của cách mạng Việt Nam

Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hố, giáo dục thực
dân, xã hội Việt Nam đã diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc. Giai cấp địa chủ câu kết với
thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp bức nông dân. Tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ
Việt Nam lúc này có sự phân hóa. Một bộ phận địa chủ có lịng u nước, căm ghét chế
độ thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau.
Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực dân và
phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh bần cùng khốn khổ của giai cấp nơng
dân Việt Nam đã làm tăng thêm lịng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai, tăng thêm
ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực
dân Pháp, đa số xuất thân từ giai cấp nơng dân, có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai
cấp nông dân, bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột. Giai cấp tư sản Việt Nam bị tư sản
Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh chèn ép, do đó thế lực kinh tế và địa vị chính trị
nhỏ bé và yếu ớt, có tinh thần dân tộc và yêu nước ở mức độ nhất định. Tầng lớp tiểu tư
sản Việt Nam bao gồm học sinh, trí thức, những người làm nghề tự do… đời sống bấp
bênh, dễ bị phá sản trở thành người vơ sản, có lịng u nước, căm thù đế quốc, thực
dân, có khả năng tiếp thu những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào.
Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người
dân mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân áp bức, bóc lột. Vì vậy,
trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa Nhân dân, chủ yếu là nông dân với
giai cấp địa chủ và phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu và ngày
càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể Nhân dân Việt Nam
với thực dân Pháp xâm lược. Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa
phong kiến đang đặt ra hai yêu cầu: Một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược,
giành độc lập cho dân tộc, tự do cho Nhân dân; Hai là, xóa bỏ chế độ phong kiến, giành
quyền dân chủ cho Nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nơng dân. Trong đó, chống đế
quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.

13



1.3.2 Nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam
Trước 1930, phong trào yêu nước ở Việt Nam nổ ra mạnh mẽ nhưng đều bị thất
bại, do bị khủng hoảng về đường lối cách mạng. Tình hình đó đặt ra yêu cầu phải có
Đảng của giai cấp tiên tiến nhất để lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Từ 1919 -1929, thông qua hoạt động của Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị về tư
tưởng, chính trị và tổ chức cho sự thành lập Đảng. Nguyễn Ái Quốc đã ra sức tuyên
truyền chủ nghĩa Mác- Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về tư tưởng chính trị. Thành lập
hội Việt Nam cách mạng thanh niên để thông qua tổ chức này truyền bá chủ nghĩa MácLênin vào Việt Nam.
Những năm 1928 – 1929, chủ nghĩa Mác – Lênin được truyền bá sâu rộng vào
Việt Nam, làm cho phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ.
Một yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải có đảng của giai cấp vơ sản lãnh đạo. Đáp ứng yêu
cầu đó ở Việt Nam lần lượt xuất hiện ba tổ chức cộng sản. Sự hoạt động riêng rẽ của ba
tổ chức cộng sản gây ảnh hưởng khơng tốt đến tiến trình cách mạng Việt Nam.
Cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản đã
nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một Đảng cộng sản thống nhất,
chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã tổ
chức và chủ trì hội nghị hợp nhất Đảng tại Hương Cảng, Trung Quốc từ ngày 6-1 đến
ngày 7-2-1930. Hội nghị đã quyết định hợp nhất 3 tổ chức Đảng (Đông Dương Cộng
sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) thành Đảng
Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng. Vì vậy, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ III của Đảng đã quyết nghị lấy ngày 3-2 hàng năm làm ngày kỷ niệm thành
lập Đảng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Đảng cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng Cộng
sản duy nhất, theo một đường lối chính trị đúng đắn đã tạo nên sự thống nhất về tư
tưởng, chính trị và hành động của phong trào cách mạng cả nước, hướng tới mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và
đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam


14


và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.
Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh
là hiện thân trọn vẹn nhất cho sự kết hợp đó, là tiêu biểu sáng ngời cho sự kết hợp giai
cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Việc thành lập Đảng là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử công nhân và của cách
mạng Việt Nam, chứng tỏ giai cấp vô sản nước ta trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách
mạng, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về vai trò lãnh đạo và đường lối trong phong trào
cách mạng Việt Nam. Từ đây, cách mạng Việt Nam đã thuộc quyền lãnh đạo tuyệt đối
của giai cấp công nhân là đội tiên phong là Đảng cộng sản.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời, Đảng đã có
Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc
theo phương hướng cách mạng vơ sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa
ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được
tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra
đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt
Nam. Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết,
thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách
mạng vĩ đại giành những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết
định phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt 86 năm qua.
Với chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng
thế giới, ĐCSVN đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang. Đồng
thời cách mạng Việt Nam cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của
nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.


15


Chương 2. Các phong trào yêu nước Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến
đầu năm 1930 và con đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng vơ
sản ở Việt Nam

2.1 Các phong trào yêu nước theo các khuynh hướng phong kiến và tư sản
2.1.1 Khuynh hướng phong kiến
a) Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến tiêu biểu là:
+) Phong trào Cần Vương (1885 – 1896) do vua Hàm Nghi và cụ Tôn Thất Thuyết
lãnh đạo, hoạt động tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ. (Ngày 13/7/1885, vua Hàm Nghi xuống
chiếu Cần Vương. Phong trào Cần Vương phát triển mạnh ra nhiều địa phương ở Bắc
kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ. Ngày 1/11/1888, vua Hàm Nghi bị Pháp bắt nhưng phong trào
vẫn tiếp tục phát triển cho đến năm 1896 mới kết thúc. Thất bại của các phong trào trên
đã chứng tỏ hệ tư tưởng phong kiến không đủ điều kiện để lãnh đạo phong trào yêu
nước giải quyết thành công nhiệm vụ dân tộc Việt Nam.)
+) Khởi nghĩa Ba Đình (1881-1887) do Phạm Bành và Đinh Cơng Tráng lãnh đạo,
diễn ra tại Thanh Hóa
+) Khởi nghĩa Bãi Sậy (1883-1892) do Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo, diễn ra ở
các tỉnh Hải Dương, Hải Phịng, Hưng n, Thái Bình
+) Khởi nghĩa Hương Khê (1885-1896) do Phan Đình Phùng và Cao Thắng lãnh
đạo, diễn ra ở địa bàn Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Hà Tĩnh.
+) Khởi nghĩa nơng dân n Thế (1885 – 1913) do Hoàng Hoa Thám và Lương
Văn Nắm lãnh đạo, diễn ra tại Bắc Giang. KN đã đánh thắng Pháp nhiều trận và gây
cho chúng nhiều khó khăn thiệt hại nhưng đến năm 1913 thì bị dập tắt.
b) Nguyên nhân thất bại
- Nguyên nhân khách quan:


Do tương quan lực lượng giữa ta và quân địch chênh lệch quá lớn. Thực dân
Pháp là nước tư bản phát triển, có tiềm lực to lớn cả về kinh tế, quân sự, quân
lính được trang bị đầy đủ, vũ khí hiện đại, được huấn luyện chu đáo, được làm
quen với chiến tranh hiện đại, quân chỉ huy có kinh nghiệm trong các cuộc
chiến tranh hiện đại. Thực dân Pháp còn trải qua cuộc chiến tranh thế giới lần
thứ nhất qua các cuộc thơn tính thuộc địa.

16


Ngược lại, nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu với tiềm lực và quân sự và
kinh tế đều thua thiệt đáng kể. Cịn qn ta tuy đơng nhưng chưa được huấn
luyện và làm quen với các cuộc chiến tranh hiện đại, vũ khí cịn thơ sơ, tự chế
tạo là chủ yếu, quân trang, vật dụng thuốc men thiếu thốn. Không những thế
quân ta thường xuyên hoạt động và xây dựng căn cứ các vùng núi nên dễ mắc
bệnh, tiếp tế chưa được đầy đủ.
Vào cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20 nhân dân ta chưa được giúp đỡ bởi các nước
tiên tiến trên thế giới, trong khi Pháp là nước tư bản phát triển rất mạnh mẽ.
Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến thất bại còn do một
nguyên nhân nữa chính là nước ta lúc bấy giờ là nước phong kiến mang tư
tưởng lạc hậu hơn một trình độ so với thực dân Pháp nên lúc này bọn phản
động ủng hộ thực dân Pháp, chỉ điểm cho thực dân Pháp đàn áp cách mạng
Việt Nam.
- Nguyên nhân chủ quan:
Thiếu một tư tưởng kiên định, tiên tiến dẫn đường nên chưa đề ra được đường
lối cách mạng đúng đắn. Vì vậy, chưa thúc đẩy và khai thác triệt để sự ủng hộ
của nhân dân, không phát huy được sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc.
Do sự bạc nhược và yếu hèn của triều đình Nguyễn trước tình cảnh mất nước,
một triều đình khơng được lịng dân và khơng có năng lực lãnh đạo nhân dân ta
cùng nhau giữ nước mà còn lần lượt ký các hiệp định bán nước ( Hiệp ước

Patonot và Hắc măng) càng khiến cho nhân dân và các sĩ phu yêu nước bất
bình, căm tức. Từ đó phong trào kháng chiến nổ ra ở khắp nơi dù triều đình đã
có lệnh bãi binh. Triều Nguyễn là một triều đình khơng đại diện cho nhân dân,
không chịu canh tân đất nước dù các văn thân sĩ phu yêu nước đã đề nghị và
đưa ra yêu sách tiến bộ nên đã biến khả năng khơng mất nước từ chưa hồn
tồn tất yếu đã trở thành hoàn toàn tất yếu, bộ phận phản động nhất trong triều
Nguyễn đã trở thành tay sai cho giặc Pháp đàn áp nhân dân. Vì thế thái độ
chính trị bạc nhược, yếu hèn và đi đến phản động. Bị dân Pháp mua chuộc
xong quay ra phản cách mạng khiến cho lực lượng nhân dân ủng hộ phong trào
ngày càng yếu đi.

17


2.1.2 Khuynh hướng tư sản
a) Phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư sản dưới sự lãnh đạo của tầng

lớp sĩ phu tiến bộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản diễn ra sôi
nổi. Về mặt phương pháp, tầng lớp sĩ phu lãnh đạo phong trào giải phóng dân
tộc đầu thế kỷ XX có sự phân hóa thành 2 xu hướng:
+) Đại diện của xu hướng bạo động là Phan Bội Châu ( 1867-1941)-quê Nghệ An
với chủ trương dùng biện pháp bạo động để đánh đuổi thực dân Pháp khôi phục nền độc
lập cho dân tộc - Phát động phong trào Đông Du đưa du học sinh Việt Nam sang Nhật
học tập. Chọn Nhật vì đây là quốc gia “đồng văn, đồng chủng”, nền kinh tế phát triển
mạnh, hùng mạnh về quân sự.
+) Đại diện cho khuynh hướng cải cách là Phan Châu Trinh, với chủ trương vận
động cải cách văn hóa, xã hội; động viên lịng yêu nước cho nhân dân; đả kích bọn vua
quan phong kiến thối nát, đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản; thực hiện khai dân trí, chấn
dân trí, hậu dân sinh, mở mang dân quyền; phản đối đấu tranh vũ trang cầu viện nước
ngồi, cầu xin Pháp đến khai hóa cho VN.

+) Ngoài ra, trong thời kỳ này ở Việt nam còn nhiều phong trào đấu tranh khác
như: Phong trào Đông Kinh nghĩa thục (1907); Phong trào “tẩy chay Khách trú”(1919);
Phong trào chống độc quyền xuất nhập ở cảng Sài Gòn (1923); đấu tranh trong các hội
đồng quản hạt, hội đồng thành phố… đòi cải cách tự do dân chủ…
b) Nguyên nhân thất bại
- Giai cấp tư sản Việt Nam rất nhỏ yếu cả về kinh tế và chính trị nên không đủ sức

giữ vững ngọn cờ lãnh đạo cách mạng.
- Ngọn cờ tư tưởng tư sản tuy đối với người Việt Nam cịn rất mới mẻ, nhưng

khơng đủ khả năng giúp nhân dân Việt Nam thốt khỏi kiếp nơ lệ.
- Giai cấp tư sản Việt Nam còn thiếu một đường lối chính trị đúng đắn và một

phương pháp cách mạng khoa học.
- Tổ chức chính trị của giai cấp tư sản Việt Nam, tiêu biểu là Việt Nam quốc dân

đảng, rất lỏng lẻo, thiếu cơ sở trong quần chúng, nên không đủ sức chống đỡ trước sự
tiến công của đế quốc Pháp.

18


2.2 Con đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng vô sản và sự chuẩn bị cho
sự nghiệp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
2.2.1 Quá trình lựa chọn con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc
Từ năm 1911 đến năm 1920, Nguyễn Tất Thành đã tận dụng mọi cơ hội để được
đến nhiều nước thuộc các đại lục u, Á, Phi, Mỹ. Đặc biệt Người đã dừng chân khảo sát


baba nước đế quốc lớn nhất thời đó là Mỹ, Anh và Pháp. Người tranh thủ mọi điều

kiện để học hỏi, nghiên cứu các học thuyết cách mạng, hịa mình vào thực tiễn đấu
tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản và thuộc địa.
Trên cơ sở đó, Người đã rút ra kết luận có tính chất căn bản đầu tiên: “Ở đâu bọn đế
quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác; ở đâu những người lao động cũng bị bóc lột, áp
bức nặng nề”, và “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người:
giống người bóc lột và

giống người bị bóc lột”3. Những nhận biết căn bản đó càng thơi thúc Nguyễn Tất Thành
- Nguyễn Ái Quốc quyết tâm tìm ra phương hướng giải phóng đất nước, giải phóng dân
tộc. Hành trang duy nhất Người mang theo khi lên tàu thủy ra nước ngoài là chủ nghĩa
yêu nước - sản phẩm tinh thần cao đẹp của lịch sử Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Tư
tưởng yêu nước của Người vừa kế thừa tinh hoa của chủ nghĩa yêu nước truyền thống,
vừa bao hàm một tinh thần đổi mới phù hợp với yêu cầu giải phóng dân tộc và xu thế
của thời đại.
Từ sự đồng cảm với các dân tộc cùng cảnh ngộ, Người đã đến với chủ nghĩa quốc
tế. Năm 1917, Nguyễn Tất Thành từ nước Anh trở lại nước Pháp. Được Phan Chu Trinh
và Phan Văn Trường giúp đỡ, Người hăng hái hoạt động chính trị trong Việt kiều và
những người lao động Pháp.
Từ những hoạt động thực tiễn trên và nhất là tháng 7 năm 1920 Người đọc “Sơ
thảo lần thứ nhất luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I.Lênin đăng
trên báo L’Humanité (Nhân đạo). Luận cương đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc những
băn khoăn về con đường giành độc lập, tự do cho dân tộc, trả lời câu hỏi ai là người
lãnh đạo, lực lượng tham gia và mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng ở các nước
thuộc địa với cách mạng vơ sản ở chính quốc… Luận cương đã ảnh hưởng rất lớn đến
sự hình thành thế giới quan cộng sản của Nguyễn Ái Quốc. Người đọc đi đọc lại nhiều
lần và qua lăng kính chủ nghĩa u nước chân chính, Người nhận thấy trong đó con
3

“Hồ Chí Minh tồn tập (2000), NXB CTQG, tập 1, tr266”



19


đường giải phóng đất nước khỏi ách thực dân. Về sau, Người nhớ lại: “Trong Luận
cương ấy, có những chữ chính trị khó hiểu. Nhưng cứ đọc đi đọc lại nhiều lần, cuối
cùng tơi cũng hiểu được phần chính. Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động,
phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình
trong buồng mà tơi nói to lên như đang nói trước quần chúng đơng đảo: “Hỡi đồng bào
bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng
chúng ta!”4.
2.2.2 Vai trị của Nguyễn Ái Quốc đối với sự nghiệp thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam
a) Chuẩn bị điều kiện về tư tưởng – chính trị
Về tư tưởng: Truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam thông qua những bài
đăng trên các báo người cùng khổ, nhân đạo…Đặc biệt là tác phẩm Bản án chế độ thực
dân Pháp, trong đó đã vạch rõ âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc che dấu tội ác
dưới vỏ bọc “khai hố văn minh”, từ đó đã khơi dậy lịng yêu nước, thức tỉnh tinh thần
dân tộc nhằm đánh đuổi thực dân pháp xâm lược.
Về chính trị: Năm 1927 Bộ tuyên truyền của hội các dân tộc thuộc địa bị áp bức
xuất bản Tác phẩm Đường cách mệnh, nó thể hiện đường lối cách mạng, đề cập những
vấn đề cơ bản của một cương lĩnh chính trị:
+ Thứ nhất, Xác định rõ tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là cách

mạng giải phóng dân tộc mở đường tiến lên CNXH.
+ Thứ hai, Mục tiêu cách mạng là đem lại độc lập tự do, hạnh phúc cho toàn thể

nhân dân.
+ Thứ ba, Về lực lượng cách mạng, người nhấn mạnh cách mạng là sự nghiệp của


quần chúng, chứ khơng phải của một hai người, do đó phải đồn kết toàn dân.
+ Thứ tư, Lãnh đạo cách mạng: do Đảng lãnh đạo và để cách mạng thành cơng thì

Đảng đó phải theo chủ nghĩa Mác-Lênin (Đảng có vững, cách mạng mới thành cơng,
cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ
nghĩa làm cốt, chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa
Mác-Lênin).

4

“Hồ Chí Minh tồn tâp (2011), Tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.562

20


+ Thứ năm, về đoàn kết quốc tế, Nguyễn ái Quốc khẳng định: cách mạng Việt

Nam là một bộ phận trong cách mạng thế giới, ai làm cách mạng trong thế giới đều là
đồng chí của cách mạng Việt Nam.
+ Thứ sáu, Về phương pháp cách mạng: Phải giác ngộ và tổ chức quần chúng cách

mạng, phải làm cho quần chúng hiểu rõ mục đích của cách mạng, biết đồng tâm hiệp
lực, làm cách mạng phải biết cách làm, phải có “Mưu chước” thì mới đảm bảo thành
cơng cho cuộc khởi nghĩa với sự nổi dậy của toàn dân…
b) Chuẩn bị điều kiện về tổ chức

Tháng 12-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc), Người tham gia
sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á – Đông để thống nhất hành động chống
chủ nghĩa thực dân
Tháng 6-1925, Người thành lập “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội”, tổ

chức trung kiên là “Cộng sản đồn” làm nòng cốt để trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác

– Lênin vào Việt Nam; mở nhiều lớp huấn luyện đào tạo một số thanh niên yêu nước
Việt Nam thành những cán bộ cách mạng, trong đó, một số được chọn đi học ở Trường
đại học Phương Đông (Liên Xô); một số được cử đi học quân sự, phần lớn sau này được
đưa về nước hoạt động.
Hệ thống quan điểm, lý luận về con đường cách mạng của Nguyễn Ái Quốc trở
thành tư tưởng cách mạng hướng đạo phong trào dân tộc và các tổ chức chính trị theo
khuynh hướng cách mạng vô sản, dẫn đến sự ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam:
Đông Dương cộng sản đảng (6-1929), An Nam cộng sản đảng (7-1929) và Đông Dương
cộng sản liên đoàn (9-1929)
Từ 3/2 - 7/2/1930, Hội nghị thống nhất Đảng đã họp tại Cửu Long Hương Cảng),
dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc đã nhất trí hợp nhất các tổ chức cộng sản thành
một đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; thông qua Chính cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Điều lệ vắn tắt của
các hội quần chúng; thông qua lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng do đồng chí Nguyễn
Ái Quốc thảo. Các văn kiện quan trọng của Đảng được Hội nghị thông qua là Cương
lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.

21


2.3 Sự phát triển của phong trào cách mạng theo khuynh hướng vô sản
Sự phát triển của phong trào cách mạng đòi hỏi phải được tổ chức và lãnh đạo cao
hơn. Trước tình hình đó, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên khơng cịn đủ sức để lãnh
đạo nữa, cần phải thành lập một Đảng cộng sản để tổ chức và lãnh đạo giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân cùng các lực lượng yêu nước đấu tranh chống đế quốc, phong
kiến, tay sai giành độc lập dân tộc. Đó là lý do để dẫn đến sự ra đời của chi bộ cộng sản
đầu tiên ở Bắc Kỳ (3/1929). Họ hoạt động tích cực để thành lập 1 Đảng cộng sản thay
thế.

Vì thế, Đơng Dương cộng sản Đảng được thành lập vào tháng 6/1929, An Nam
cộng sản Đảng (7/1929) và Tân Việt cũng tự cải tổ thành Đông Dương cộng sản liên
đồn (9/1929)
(i) Sự ra đời của Đơng Dương cộng sản Đảng( 6/1929)
Cuối tháng 3/1929, một số hội viên tiên tiến của Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên ở Bắc Kỳ, trong đó có Ngơ Gia Tự và Nguyễn Đức Cảnh đã họp ở số 5D phố Hàm
Long (Hà Nội) để lập ra chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam gồm 7 người, tích cực
chuẩn bị tiến tới thành lập một Đảng cộng sản thay thế cho Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên.
Tại đại hội toàn quốc lần thứ 1 của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (5/1929)
khi kiến nghị của mình đưa ra về việc thành lập Đảng cộng sản khơng được chấp nhận,
đồn đại biểu Bắc Kỳ đã rút khỏi hội nghị về nước, rồi ra lời kêu gọi công nhân, nông
dân, các tầng lớp nhân dân cách mạng nước ta ủng hộ chủ trương thành lập Đảng cộng
sản.
Ngày 17/6/1929 đại biểu các tổ chức cơ sở cộng sản ở miền Bắc họp đại hội, quyết
định thành lập Đông Dương cộng sản Đảng thông qua tuyên ngôn, điều lệ cyar Đảng, ra
báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận. Đông Dương cộng sản Đảng ra đời đáp ứng yêu
cầu bức thiết của quần chúng nên được nhiệt liệt hưởng ứng, uy tín và tổ chức của Đảng
phát triển mạnh, nhất là ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ.
(ii) Sự ra đời của An Nam cộng sản Đảng (7/1929)
Sự thành lập của Đông Dương cộng sản Đảng đã tạo đà trực tiếp với sự ra đời các
tổ chức cộng sản tiếp theo. Tháng 7/1929 tổng bộ thanh niên cùng kì bộ Nam Kỳ của
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên quyết định thành lập An Nam cộng sản Đảng. An

22


Nam cộng sản Đảng ra tờ “báo đỏ” ở Hương Cảng – Trung QUốc để tuyên truyền về
trong nước. Tháng 11/1929 An Nam cộng sản Đảng đã họp đại hội thơng qua đường lối
chính trị, bầu Ban Chấp hành Trung ương của Đảng.

(iii) Sự thành lập Đông Dương cộng sản liên đồn
Sự phân hóa trong Hội Việt Nam cách mạng thanh niên dẫn tới sự ra đời của hai tổ
chức cộng sản: Đông Dương cộng sản Đảng ( 6/1929) và An Nam cộng sản Đảng
(

7/1929). Cũng từ đó xu hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng lôi cuốn những đảng
viên tiên tiến trong Tân Việt cách mạng Đảng. Các đảng viên tiên tiến ấy từ lâu
chịu ảnh hưởng của Hội VNCMTN nay cũng tách ra để thành lập Đông Dương
cộng sản liên đoàn (9/1929). Đây cũng là một bước phát triển mới của tổ chức
này từ một đảng Tiểu tư sản chịu ảnh hưởng của Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên có xu hướng vơ sản nay đã phân hóa chuyển thành Đảng cộng sản.
Như vậy, chỉ trong vịng khơng đấy bốn tháng (từ tháng 6 đến 9/1929) đã có 3 tổ

chức cộng sản lần lượt ra đời ở nước ta.

23


Chương 3. Sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam
3.1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên
3.1.1. Hội nghị thành lập Đảng
a) Bối cảnh
Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang
giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước tư bản đế quốc vừa tăng cường bóc lột nhân dân
lao động trong nước vừa xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống
trị của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động các nước trở nên cùng
cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt.
Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, chủ nghĩa Mác - Lênin

từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới - thời đại cách mạng chống đế
quốc, thời đại giải phóng dân tộc. Cách mạng Tháng Mười Nga đã nêu tấm gương sáng
trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức5.
Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) vào tháng 3/1919 đã thúc đẩy sự
phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đối với Việt Nam, Quốc
tế Cộng sản có vai trị quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Theo một số tài liệu, đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, ngày
17/6/1929, Kỳ Bộ Bắc Kỳ Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đã thành lập Đông Dương
Cộng sản Đảng tại Hà Nội. Tháng 11/1929, các đồng chí Tổng bộ và Kỳ Bộ Nam Kỳ của
Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên quyết định thành lập An Nam Cộng sản Đảng. Ngày
1/1/1930, những đại biểu ưu tú của Tân Việt cách mạng Đảng (một tổ chức tiền thân của
Đảng) đã họp và thành lập Đơng Dương Cộng sản Liên Đồn ở Trung Kỳ. Tuy nhiên ở một
nước có tới ba tổ chức cộng sản nên không tránh khỏi sự phân tán về lực lượng và tổ chức,
không thể thống nhất về tư tưởng và hành động. Trách

5

“Liên đồn lao động Hải Phịng. (02/02/2022). Lịch sử và ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
(03/02/1930). Truy cập từ />
24


×