Tải bản đầy đủ (.doc) (135 trang)

Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam- Hàn Quốc, thực trạng, triển vọng và giải pháp.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (765.02 KB, 135 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ sau đổi mới kinh tế đến nay, Đảng và nhà nước ta luôn quan
tâm đến việc mở rộng mối quan hệ nhiều mặt với các quốc gia, các khu
vực trên thế giới khi xu thế hội nhập và toàn cầu hóa đang trở thành xu
thế tất yếu của thời đại. So với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới,
quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc phát triển nhanh hơn và trên nhiều lĩnh
vực khác nhau do có được sự quan tâm đặc biệt của Chính phủ hai
nước. Kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức năm
1992 đến nay, trải qua hơn một thập kỷ phát triển, mối quan hệ kinh tế
giữa hai nước đã có những bước phát triển đáng tự hào, Hàn Quốc hiện
đang đứng thứ 5 trong tổng số trên 100 nước có quan hệ buôn bán với
Việt Nam và là nước đầu tư lớn thứ nhất vào Việt Nam.Nhưng bên cạnh
đó vẫn còn nhiều tồn tại trong quan hệ kinh tế giữa hai nước hiện nay đó
là sự mất cân đối quá lớn trong cán cân thương mại giữa hai nước, Việt
Nam luôn bị nhập siêu và mức nhập siêu có xu hướng ngày càng tăng.
Mặt khác, Việt Nam đã thu hút được lượng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài khá lớn từ Hàn Quốc, mà lĩnh vực đầu tư chủ yếu là: nhà ở, xây
dựng khu đô thị, khách sạn, chung cư. Trong khi đó, lĩnh vực sản xuất
công nghệ cao còn chiếm tỷ tọng nhỏ trong cơ cấu đầu tư, hơn nữa
lượng vốn đầu tư còn chưa tương xứng với tiềm năng và mối quan hệ
giữa hai nước, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập tổ chức
thương mại thế giới WTO.
Xuất phát từ đòi hỏi trên, nhóm tác giả đã bắt tay vào nghiên cứu
đề tài “ Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam- Hàn Quốc, thực trạng,
triển vọng và giải pháp” với hi vọng góp một phần nhỏ bé vào việc thúc
đẩy mối quan hệ kinh tế giữa hai nước ngày càng trở nên phát triển hơn,
đặc biệt sau khi Việt Nam đã gia nhập WTO.
1
Mục tiêu của đề tài là: Đi sâu vào phân tích thực trạng mối quan
hệ kinh tế thương mại giữa hai nước Việt Nam- Hàn Quốc, những khó
khăn còn tồn tại, triển vọng phát triển mối quan hệ từ đó đề ra giải pháp


nhằm nâng mối quan hệ kinh tế giữa hai nước lên một tầm cao mới. Đối
tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài là: Nghiên cứu mối
quan hệ kinh tế giữa hai nước, trên cơ sở của việc phân tích thực trạng
mối quan hệ hợp tác về thương mại và đầu tư giữa hai nước. Trong đó
chuyên đề chỉ tập trung vào các quan hệ xuất nhập khẩu giữa Việt Nam
và Hàn Quốc và FDI của Hàn Quốc vào Việt Nam. Ngoài phần mở đầu
và kết luận đề tài được kết cấu qua 3 phần chính:
Chương I : CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC
TẾ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC HỘI NHẬP TỚI QUAN HỆ KINH TẾ
VIỆT NAM- HÀN QUỐC
Chương II: THỰC TRẠNG QUAN HỆ KINH TẾ THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM- HÀN QUỐC TỪ 1992 ĐẾN NAY.
Chương III: TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HỢP TÁC
KINH TẾ THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM – HÀN QUỐC
Em xin chân thành cảm ơn GS.TS Đỗ Đức Bình và Ông Nguyễn Đăng
Hùng- Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác Kinh tế Đa phương, Bộ Ngoại giao đã tận
tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề thực tập này. Chuyên đề
này mới là bước đầu em làm quen với công tác nghiên cứu, do đó không thể
tránh khỏi những thiếu sót trong việc triển khai đề tài. Em mong nhận được sự
thông cảm của quý Thầy Cô và các bạn sinh viên.
2
MỤC LỤC
1.1 - Hội nhập kinh tế - khái niệm và bản chất ......................................... 7
1.1.1. Hội nhập kinh tế - vấn đề mang tính khách quan của các nền kinh tế
hiện nay 7
1.1.2. Khái niệm 8
1.1.3. Bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế ...................................................... 9
1.2.2.1 Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài: ................................................ 15
Danh mục các bảng
3

Danh mục các biểu đồ
Bảng 2.1: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Hàn Quốc
giai đoạn 1983-1992
34
Bảng 2.2: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam- Hàn Quốc
Giai đoạn 1993-2006
37
Bảng 2.3: Kim ngạch Xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc giai
đoạn 1993-2006
39
Bảng 2.4: Mười thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam
41
Bảng 2.5 : Hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Hàn Quốc
42
Bảng 2.6 : Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc giai đoạn
1993-2006
44
Bảng 2.7: Các mặt hàng nhập khẩu chính của Việt Nam từ Hàn Quốc
46
Bảng 2.8 : Top mười đối tác có tổng vốn đầu tư cao nhất 55
Bảng 2.9 : Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hàn Quốc tại
Việt Nam( 1991-2006)
56
Bảng 2.10:Một số dự án đầu tư lớn của Hàn Quốc tại Việt Nam trước
đây
58
Bảng 2.11: Một số dự án hàng đầu của Hàn Quốc tại Việt Nam hiệnnay
60
Bảng 2.12: Đầu tư FDI của Hàn Quốc vào các địa phương trong cả nước
2006

64
4
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Biểu đồ 2.1 : Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam- Hàn Quốc
giai đoạn 1983-1992.
35
Biểu đồ 2.2: Kim ngạch ngoại thương Việt Nam- Hàn Quốc
giai đoạn 1993-2006.
38
Biểu đồ 2.3: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang
Hàn Quốc giai đoạn 1993-2006
40
Biểu đồ 2.4: Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc
giai đoạn 1993-2006
45
Biểu đồ 2.5: Thể hiện tỷ lệ vốn đầu tư của Hàn Quốc trong tổng số
vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam năm 2006
55
Biểu đồ 2.6: Tỷ lệ tăng của vốn đầu tư nước ngoài từ Hàn Quốc
vào Việt Nam giai đoạn 1996-2006
57
Biểu đồ 2.7: Cơ cấu đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam theo
ngành kinh tế
62
Biểu đồ 2.8: Các lĩnh vực đầu tư chủ yếu của Hàn Quốc vào Việt
Nam năm 2006
62
5
CÁC TỪ
VIẾT TẮT

NGHĨA CỦA TỪ
NGHĨA TIẾNG ANH NGHĨA TIẾNG VIỆT
ASEAN
Association of Southeast Asia
Nations
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
AFTA
ASEAN Free Trade Area
Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN
DOC Department commerce Bộ thương mại Hàn Quốc
DSM Dispute Settlement Measures Cơ chế giải quyết tranh chấp
EP Export price Giá xuất khẩu
IMF International Monetary Fund Quỹ Tiền tệ Quốc tế
ITC
International Trade
Committee
Ủy ban Thương mại Quốc tế
MOT Ministry Of Trade Bộ Thương mại Việt Nam
UN United Nations Liên Hợp Quốc
USD United States Dollar Đô la Mỹ
VIETRADE Viet Nam Trade Promote
Cơ quan Xúc tiến Thương mại
Việt Nam
WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới
WB World Bank Ngân hàng thế giới
ADB Asian Development Bank Ngân hàng phát triển châu Á
KOTRA
Korea Trade- Investment
Promotion Agency
Phòng xúc tiến thương mại và đầu tư

Hàn Quốc
JETRO
Japan Extenal Trade
Organization
Tổ chức xúc tiến thương mại
Nhật Bản
CHƯƠNG I
6
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ
TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC HỘI NHẬP TỚI QUAN HỆ KINH TẾ
VIỆT NAM- HÀN QUỐC
1.1 - Hội nhập kinh tế - khái niệm và bản chất
1.1.1. Hội nhập kinh tế - vấn đề mang tính khách quan của các nền kinh tế
hiện nay
Hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu của nền kinh
tế thế giới, từ thấp đến cao, từ quy mô hẹp đến quy mô ngày càng rộng lớn
hơn, đặc biệt là trong điều kiện hiện nay, khi quá trình toàn cầu hóa, khu vực
hóa và quốc tế hóa đang diễn ra hết sức nhanh chóng dưới sự tác động mạnh
mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Trước đây, tính chất xã hội
hóa của quá trình sản xuất chủ yếu mới lan tỏa bên trong phạm vi biên giới của
từng quốc gia, nó gắn các quá trình sản xuất, kinh doanh riêng rẽ lại với nhau,
hình thành các tập đoàn kinh tế quốc gia và làm xuất hiện phổ biến các loại
hình công ty cổ phần trong nền kinh tế quốc gia. Qua đó quan hệ sở hữu về tư
liệu sản xuất đã có sự thay đổi đáng kể, dần hình thành nên sở hữu hỗn hợp. Từ
đó, việc đáp ứng yêu cầu về quy mô vốn lớn cho sản xuất kinh doanh ngày
càng thuận lợi hơn. Tình hình này càng đòi hỏi sự tham gia ngày càng lớn của
chính phủ các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Bởi lẽ, các quốc gia này là
những quốc gia có thế mạnh về vốn, công nghệ, trình độ quản lý... Ngày nay,
một mặt do trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất làm cho tính chất xã
hội hóa của chính nó càng vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia, lan tỏa sang

các quốc gia khu vực và thế giới nói chung. Mặt khác, tự do hóa thương mại
cũng đang trở thành xu hướng tất yếu, được xem là nhân tố quan trọng thúc
đẩy buôn bán giao lưu giữa các quốc gia, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng
cao mức sống của mọi quốc gia. Chính vì vậy, hầu hết các quốc gia trên thế
giới theo định hướng phát triển của mình đều điều chỉnh các chính sách theo
7
hướng mở cửa, giảm và tiến tới dỡ bỏ các rào cản thương mại, tạo điều kiện
cho việc lưu chuyển các nguồn lực và hàng hóa tiêu dùng giữa các quốc gia
ngày càng thuận lợi hơn, thông thoáng hơn. Không ngừng đẩy mạnh trao đổi
hàng hóa và dịch vụ, mở rộng sự phân công và hợp tác quốc tế trên các lĩnh
vực kinh tế, khoa học kỹ thuật... là một nhu cầu không thể thiếu được của đời
sống kinh tế và là một tất yếu khách quan của thời đại, dù đó là nước lớn hay
nhỏ, nước công nghiệp phát triển hay kém phát triển, nước tư bản chủ nghĩa
hay xã hội chủ nghĩa.
Mỗi quốc gia trong quá trình hội nhập để phát triển, trong bối cảnh cạnh
tranh gay gắt đều phải chú ý đến các quan hệ trong và ngoài khu vực. Về lâu
dài cũng như trước mắt, việc giải quyết các vấn đề của quốc gia đều phải tính
đến và cân nhắc với xu hướng hội nhập toàn cầu để đảm bảo được lợi ích phát
triển tối ưu của quốc gia. Việt Nam cũng không thể nằm ngoài quá trình này.
Trong điều kiện hội nhập, các quốc gia dù giàu có hoặc phát triển đến đâu cũng
không thể tự mình đáp ứng được tất cả các nhu cầu của chính mình. Trình độ
phát triển càng cao càng phụ thuộc với mức độ nhiều hơn vào thị trường thế
giới. Đó là một vấn đề có tính quy luật. Những quốc gia chậm trễ trong hội
nhập kinh tế quốc tế thường phải trả giá bằng chính sự tụt hậu của mình, ngược
lại những nước vội vã không phát huy nội lực, không chủ động hội nhập cũng
đã bị trả giá. Bởi vậy, để hội nhập có hiệu quả, cần phải có quan điểm nhận
thức đúng đắn, nhất quán, cơ chế chính sách thích hợp, tận dụng tốt cơ hội,
không bỏ lỡ thời cơ, giảm thách thức, hạn chế rủi ro trong quá trình tiến lên của
mình.
1.1.2. Khái niệm

Hội nhập kinh tế quốc tế là một thuật ngữ đã xuất hiện trong vài thập kỷ
gần đây. Nhưng cho đến nay vẫn đang tồn tại các cách hiểu khác nhau về hội
nhập kinh tế quốc tế. Có loại ý kiến cho rằng: hội nhập kinh tế quốc tế là sự
phản ánh quá trình các thể chế quốc gia tiến hành xây dựng, thương lượng, ký
kết và tuân thủ các cam kết song phương, đa phương và toàn cầu ngày càng đa
8
dạng hơn, cao hơn và đồng bộ hơn trong các lĩnh vực đời sống kinh tế quốc gia
và quốc tế. Loại ý kiến khác lại cho rằng hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình
loại bỏ dần các hàng rào thương mại quốc tế, thanh toán quốc tế và di chuyển
các nhân tố sản xuất giữa các nước.
Mặc dù còn có những quan niệm khác nhau, nhưng hiện nay khái niệm
tương đối phổ biến được nhiều nước chấp nhận về hội nhập như sau: Hội nhập
kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của mỗi quốc gia vào các tổ chức hợp
tác kinh tế khu vực và toàn cầu, trong đó mối quan hệ giữa các nước thành viên
có sự ràng buộc theo những quy định chung của khối. Nói một cách khái quát
nhất, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các quốc gia thực hiện mô hình kinh
tế mở, tự nguyện tham gia vào các định chế kinh tế và tài chính quốc tế, thực
hiện thuận lợi hóa và tự do hóa thương mại, đầu tư và các hoạt động kinh tế đối
ngoại khác.
*Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm giải quyết 6 vấn đề chủ yếu:
 Đàm phán cắt giảm thuế quan;
 Giảm, loại bỏ hàng rào phi thuế quan;
 Giảm bớt các hạn chế đối với dịch vụ;
 Giảm bớt các trở ngại đối với đầu tư quốc tế;
 Điều chỉnh các chính sách thương mại khác;
 Triển khai các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế... có tính chất toàn cầu.
1.1.3. Bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập là kết quả chính trị có chủ đích rõ ràng nhằm hình thành một tập
hợp khu vực để thúc đẩy sản xuất, mở rộng thị trường cho sản phẩm dịch vụ
nước mình. Do đó Hội nhập là hoạt động chủ quan của con người, ở đây là các

chính phủ, nhằm lợi dụng sức mạnh của thời đại để tăng cường sức mạnh dân
tộc mình. Hội nhập quốc tế trước kia cũng như hiện nay cùng có mục đích
giống nhau là lợi dụng đến mức tối đa sự hợp tác quốc tế để tăng cường sức
mạnh dân tộc. Hội nhập quốc tế ngày nay với toàn cầu hoá tuy là hai quá trình
khác nhau vì hội nhập quốc tế là hành động chủ quan còn toàn cầu hoá là hiện
tượng khách quan nhưng chúng có mối quan hệ thân thiết và phụ thuộc lẫn
9
nhau. Do vậy, khi tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế cần phải có những
bước đi cụ thể được tính toán cẩn thận, phải xây dựng lộ trình hội nhập phù
hợp với khả năng và lợi ích của dân tộc. Hội nhập giúp chúng ta tìm được chỗ
thích hợp nhất trong con tàu toàn cầu hoá, nhưng mặt khác toàn cầu hoá lại chỉ
là con tàu chỉ chạy một chiều và không đậu lại ở một bến nào cả, nên muốn
không bị nhỡ hoặc bị văng va khỏi con tàu này, tức là tụt hậu thì quá trình hội
nhập nói chung và hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng cũng phải khẩn trương và
có những quyết định mạnh dạn.
Về bản chất, hội nhập kinh tế quốc tế được thể hiện chủ yếu ở một số
mặt sau đây:
 Hội nhập kinh tế quốc tế là sự đan xen, gắn bó và phụ thuộc lẫn nhau giữa
các nền kinh tế quốc gia với nhau và với nền kinh tế thế giới. Nó vừa là
quá trình hợp tác cùng phát triển, vừa là quá trình đấu tranh rất phức tạp,
đặc biệt là đấu tranh của các nước đang phát triển để bảo vệ lợi ích của
mình vì một trật tự công bằng, chống lại những áp đặt phi lý của các cường
quốc kinh tế và các công ty xuyên quốc gia;
 Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình xóa bỏ từng bước và từng phần các rào
cản về thương mại và đầu tư giữa các quốc gia theo hướng tự do hóa kinh
tế;
Hội nhập kinh tế quốc tế một mặt tạo điều kiện thuận lợi mới cho các doanh
nghiệp trong sản xuất kinh doanh, mặt khác buộc các doanh nghiệp phải có
những đổi mới để nâng cao sức cạnh tranh trên thương trường;
 Hội nhập kinh tế quốc tế tạo thuận lợi cho việc thực hiện các công cuộc cải

cách ở các quốc gia nhưng đồng thời cũng là yêu cầu, sức ép đối với mỗi
nước trong việc đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế, đặc biệt là các chính
sách và phương thức quản lý vĩ mô.
 Hội nhập kinh tế quốc tế chính là sự tạo dựng các nhân tố và điều kiện mới
cho sự phát triển của từng quốc gia và cộng đồng quốc tế trên cơ sở trình độ
phát triển ngày càng cao và hiện đại của lực lượng sản xuất.
10
 Hội nhập kinh tế quốc tế chính là sự khơi thông các dòng chảy nguồn lực
trong và ngoài nước, tạo điều kiện mở rộng thị trường, chuyển giao công
nghệ và các kinh nghiệm quản lý.
1.2 Nội dung của các quan hệ kinh tế quốc tế( đặc biệt là quan hệ
thương mại và đầu tư)
1.2.1 Quan hệ hợp tác về thương mại
1.2.1.1 Khái niệm về thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế là việc trao đổi hàng hoá dịch vụ giữa các chủ
thể có quốc tịch khác nhau (trong đó đối tượng trao đổi thường là vượt
qua ngoài phạm vi địa lý của một quốc gia) thông qua hoạt động mua
bán, lấy tiền làm môi gới. Đây là một trong những hình thức chủ yếu
của hoạt động kinh doanh quốc tế.
Trong thập kỷ vừa qua, thương mại đóng vai trò ngày càng tăng đối
với phần lớn các nền kinh tế thế giới. Một chỉ số để đánh giá tầm quan
trọng của thương mại đối với một quốc gia là xem xét tương quan giữa
quy mô thương mại của mỗi nước đối với tổng sản lượng của nước đó.
Có những nước trên thế giới, chẳng hạn như Singapore, chỉ số này lớn
hơn 100% (tức là giá trị thương mại của nước đó đã vượt quá giá trị
hàng hoá và dịch vụ sản xuất ra).
1.2.1.2 Đặc điểm của thương mại quốc tế
Một là, hoạt động thương mại quốc tế diễn ra trên thị trường thế
giới, có thể là thị trường toàn thế giới, thị trường khu vực hay thị
trường của nước xuất khẩu hoặc nước nhập khẩu. ở đó diễn ra các

hoạt động mua bán hàng hoá của các bên tham gia trao đổi.
Hai là, các bên tham gia thương mại quốc tế là những người khác
quốc gia, có thể là các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tập thể
hoặc tư nhân. Mục đích tham gia buôn bán quốc tế của họ là có lợi
11
trong việc trao đổi. Cái lợi trong việc buôn bán quốc tế tư nhân là lợi
nhuận có được do việc mua rẻ và bán đắt.
Ba là, hàng hoá trao đổi trong thương mại quốc tế là hàng hoá vật
chất, hàng hoá dịch vụ… Trao đổi quốc tế về hàng hoá vật chất gọi là
thương mại hàng hoá quốc tế, ở phạm vi một quốc gia gọi là ngoại
thương. Hàng hoá vật chất là những hàng hóa tồn tại dưới dạng vật
chất, định lượng được, dự trữ được như hàng hoá lương thực thực
phẩm và phi lương thực thực phẩm. Trong trao đổi, người mua và
người bán mua bán với nhau quyền sở hữu và sử dụng hàng hoá. Do
có sự cách biệt về địa lý, hàng hoá vật chất có sự di chuyển qua biên
giới từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Cùng với các nghiệp vụ
mua, bán hàng hoá có cả dịch vụ kèm theo như: vận chuyển, bảo
quản, bảo hành, bảo hiểm, thanh toán quốc tế…
Trao đổi quốc tế về hàng hoá và dịch vụ gọi là thương mại dịch vụ
quốc tế, ở phạm vi một quốc gia gọi là dịch vụ thu ngoại tệ. Hàng
hoá dịch vụ là những hàng hoá tồn tại dưới dạng phi vật chất, khó
định lượng được, không dự trữ được. Quá trình cung cấp diễn ra
đồng thời với quá trình tiêu thụ (sử dụng) hàng hoá dịch vụ. Trong
trao đổi người bán (người cung cấp dịch vụ) và người mua (người
nhận dịch vụ) mua bán với nhau về quyền sử dụng hàng hoá dịch vụ.
Do sự cách biệt về địa lý giữa người cung cấp và người nhận dịch vụ,
hàng hoá dịch vụ có thể di chuyển hoặc không di chuyển qua biên
giới.
Bốn là, phương tiện thanh toán trong thương mại quốc tế giữa
người mua và người bán là đồng tiền có khả năng chuyển đổi.

Những đặc điểm phát triển thương mại quốc tế hiện nay:
Một là, thương mại quốc tế đang phát triển với quy mô lớn, tốc độ
tăng nhanh. Năm 2000, tốc độ tăng trưởng thương mại quốc tế đạt
12
10%, cao hơn 2 lần so với 4,3% năm 1999 và hơn 2,5 lần so với mức
3,8% năm 1998. Những năm gần đây, sản xuất quốc tế mở rộng
mạnh mẽ là do các liên kết kinh tế quốc tế được tăng cường trên khắp
các châu lục. Sự phát triển liên kết kinh tế quốc tế đã giúp thương
mại hàng hoá quốc tế tăng nhanh. Trao đổi hàng hoá quốc tế ngày
càng thuận lợi nhờ phương tiện thông tin và giao thông vận tải phát
triển. Điều kiện buôn bán quốc tế ngày càng thông thoáng do các
nước áp dụng các biện pháp giảm dần thuế qua và bớt dần hàng rào
phi thuế quan.
Hai là, các hình thức thương mại đa dạng. Những năm gần đây,
thương mại quốc tế phát triển đa dạng về hình thức, như: thương mại
hàng hoá, thương mại dịch vụ và thương mại các yếu tố sản xuất
(vốn, sức lao động, khoa học công nghệ). Sự phát triển của thương
mại quốc tế với đặc điểm nổi bật là sự gia tăng thương mại phi hàng
hoá nhanh hơn sự gia tăng thương mại hàng hoá. Sự phát triển đa
dạng của thương mại quốc tế đánh dấu bước phát triển mới trong trao
đổi và phân công lao động quốc tế ở tầm cao không chỉ dừng ở mức
thông qua thị trường quốc tế đơn phương mà đã tiến đến sự hợp tác
song phương, đa phương, hợp tác khu vực trên các lĩnh vực trao đổi
hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, khoa học công nghệ… Sự phát triển nhanh
chóng của thương mại phi hàng hoá phản ánh đặc điểm sản xuất quốc
tế hiện nay với sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ
thoả mãn nhu cầu tiêu dùng giữa các quốc gia không chỉ bằng những
hàng hoá vật chất mà còn cả những hàng hoá phi vật chất. Tốc độ gia
tăng nhanh chóng của thương mại phi hàng hoá tạo ra nguồn thu
ngoại tệ lớn cho các nước đặc biệt là đối với các nước phát triển. Nếu

thế kỷ XIX, xuất khẩu hàng hoá chiếm vị trí bao trùm thì trong thế kỷ
XX, xuất khẩu tư bản ngày càng nổi trội: tổng số vốn đầu tư ra nước
13
ngoài tăng nhanh. Năm 1990, đầu tư quốc tế trực tiếp (FDI) đạt 151
tỷ USD, năm 1999 đạt 865 tỷ USD.
Ba là, thương mại quốc tế phát triển lôi cuốn tất cả các quốc gia
đều tham gia, nhưng cũng tập trung chủ yếu vào các nước công
nghiệp phát triển. Những thập kỷ gần đây, trong xu thế phát triển của
kinh tế thế giới - toàn cầu hoá và "mở cửa kinh tế" quốc gia, các
nước trên thế giới không thể phát triển kinh tế riêng rẽ được, phải có
hoạt động kinh tế với nước ngoài. Phát triển thương mại quốc tế là
một trong những định hướng kinh tế được các nước lựa chọn. Ngày
nay, tất cả các nước đều có thương mại quốc tế, song thương mại
quốc tế phát triển chủ yếu tập trung ở các nước công nghiệp phát
triển. Hai vấn đề này phản ánh lực lượng sản xuất của thế giới phát
triển đáng kể và tiềm lực kinh tế của các nước công nghiệp ngày một
tăng, ưu thế ngày càng lớn.
Bốn là, các trung tâm thương mại quốc tế đã và đang hình thành. Trên
thế giới có 3 trung tâm kinh tế lớn là Mỹ - Canada, Tây Âu và Đông Bắc á,
ngoài ra còn các khối, ASEAN, Trung Mỹ, Tây Phi… đã và đang hình thành.
Nhìn chung, các trung tâm, từng khối kinh tế đang và ngày càng hoàn thiện, tận
dụng các mối quan hệ thuận lợi của nhau về địa lý, tính văn hoá dân tộc, về lợi
ích, khắc phục các mâu thuẫn, bất đồng, tăng cường đoàn kết, nhằm phát triển
kinh tế và thương mại, mở rộng quan hệ kinh tế với các trung tâm, các khối bên
ngoài để cùng phát triển.
1.2.1.3 Vai trò của thương mại quốc tế đối với sự phát triển kinh tế
- Thương mại quốc tế có vai trò rất quan trọng trong phát triển và tăng trưởng
kinh tế. Xuất nhập khẩu có mối quan hệ nhân quả tới tăng trưởng kinh tế. (1),
(2), (3), (4) Giáo trình kinh tế phát triển, trang 303, 305. Mối quan hệ này được
thể hiện ở các khía cạnh: Xuất khẩu cho phép khai thác được các lợi thế so

sánh, hiệu quả kinh tế theo qui mô, thực hiện chuyên môn hoá sản xuất; nhập
14
khẩu bổ sung được hàng hoá, dịch vụ khan hiếm cho sản xuất và tiêu dùng;
xuất nhập khẩu còn tạo ra các tác động ngoại ứng như: thúc đẩy trao đổi thông
tin, dịch vụ, tăng cường kiến thức marketing cho các doanh nghiệp nội địa và
lôi kéo họ vào mạng lưới phân phối toàn cầu. Tất cả các yếu tố này sẽ đẩy
mạnh tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
- Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, thương mại quốc tế giữ vị trí quan trọng,
nó tạo điều kiện phát huy được lợi thế của từng nước trên thị trường quốc tế.
Kết quả hoạt động thương mại quốc tế của một nước được đánh giá qua cân
đối thu chi ngoại tệ dưới hình thức “cán cân thanh toán xuất nhập khẩu”, kết
quả này sẽ làm tăng hoặc giảm thu nhập của đất nước, do đó mà nó tác động
đến tổng cầu của nền kinh tế. Khi cán cân thanh toán có mức xuất siêu sẽ làm
cho mức chi tiêu giảm, từ đó mà tác động đến GDP.
- Thông qua hoạt động xuất khẩu sẽ thu được nguồn ngoại tệ cho nước chủ
nhà. Mặt khác là cơ sở để thu hút nguồn vốn đầu tư của các nước trên thế giới.
Nhập khẩu sẽ giúp các nước thực hiện quá trình công nghiệp hoá, thông qua
việc nhập khẩu các trang thiết bị kỹ thuật, khoa học công nghệ... sẽ thúc đảy
sản xuất,thay đổi cơ cấu sản phẩm và nâng cao hiệu quả của sản xuất, trên cở
sở đó thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá (CNH – HĐH) đất
nước.
- Thông qua hoạt động thương mại quốc tế sẽ giúp các nước sử dụng hiệu quả
các lợi thế của mình: nguồn lao động dồi dào, nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú... đồng thời giúp các nước nâng cao được trình độ của người lao
động và cải thiện được đời sống của người lao động.
1.2.2 Quan hệ hợp tác về đầu tư( đặc biệt là FDI)
1.2.2.1 Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một trong những loại hình phát triển
nhất của đầu tư nước ngoài, gia tăng nhanh chóng và chiếm vị trí ngày càng
cao trong lưu chuyển vốn quốc tế. FDI mang lại lợi ích cho cả nước đi đầu tư

15
và nước nhận đầu tư. Chính vì thế xuất phát từ nhiều khía cạnh, góc độ, quan
điểm khác nhau trên thế giới đã có nhiều khái niệm khác nhau về đầu tư trực
tiếp nước ngoài .
Theo quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) {1997}:
“Đầu tư trực tiếp ám chỉ số đầu tư được thực hiện để thu lợi ích
lâu dài cho một hãng hoạt động ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế
của nhà đầu tư, mục đích của nhà đầu tư là dành được tiếng nói có hiệu
quả trong công việc quản lí đó”.Ở Việt Nam cũng có nhiều định nghĩa
khác nhau về FDI. Theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam sửa đổi,
ban hành ngày 12/11/1996 tại điều 2 chương I:
“Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư trực tiếp nước
ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào để tiến
hành hoạtđộng đầu tư theo quy định của luật này”.
Bộ luật tự do hoá chu chuyển vốn do tổ chức hợp tác và phát triển
kinh tế (OECD) ban hành thì lại nhấn mạnh về mục tiêu của FDI theo đó
“ FDI được hiểu là các loại đầu tư nhằm tạo ra quan hệ kinh tế lâu dài
với một doanh nghiệp ”.
Xét dưới góc độ vốn đầu tư, FDI lại được nhận xét là “ một loại
hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là
người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn. Cũng có ý
kiến khác nhau cho rằng “đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư
quốc tế mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh
vực sản xuất hoặc dịch vụ, cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối
tượng mà họ bỏ vốn đầu tư”. Có thể nói mỗi nhà kinh tế định nghĩa về
FDI theo một cách khác nhau tuỳ theo khía cạnh mà họ tiếp xúc.
Như vậy, mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau khi đưa ra khái
niệm về FDI, song từ những khái niệm trên có thể đưa ra một khái niệm
tổng quát nhất, đó là:
16

“Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức mà nhà đầu tư bỏ vốn để
tạo lập cơ sở sản xuất kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu tư. Trong đó, nhà
đầu tư nước ngoài có thể thiết lập quyền sở hữu từng phần hay toàn bộ vốn
đầu tư và giữ quyền quản lí, điều hành trực tiếp đối tượng mà họ bỏ vốn
nhằm mục đích thu được lợi nhuận từ các hoạt động đầu tư đó trên cơ sở
tuân theo quy định của luật đầu tư nước ngoài của nước sở tại.
1.2.2.2 Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đối với nước đi đầu tư:
Xây dựng được thị trường cung cấp nguyên nhiên liệu và tiêu thụ hàng
hoá ổn định.
Thu được lợi nhuận cao nhờ sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên và
nhân công rẻ của nước nhận đầu tư.
Tăng khả năng cạnh tranh, tránh được hàng rào thuế quan của nước nhận
đầu tư do xây dựng được các doanh nghiệp nằm ngay trong lòng các nước sở
tại.
Tạo điều kiện mở rộng, bành trướng và gây ảnh hưởng cả về chính trị và
kinh tế đối với nước tiếp nhận đầu tư.
Xuất khẩu được những công nghệ đã lạc hậu so với nước đầu tư.
Có khả năng trực tiếp kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp và đưa ra
những quyết định có lợi nhất cho họ. Do vậy, vốn đầu tư được sử dụng với
hiệu quả cao.
Đối với nước nhận đầu tư:
Đầu tư nước ngoài đã tạo một nguồn vốn bổ sung to lớn cho phát
triển sản xuất, tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến, mở rộng thị trường
trong và ngoài nước cũng như nâng cao trình độ quản lí kinh tế.
Các nước tiếp nhận vốn đầu tư, đặc biệt là các nước đang phát
triển thì FDI là yếu tố quan trọng làm tăng cường vốn đầu tư trong nước
trong điều kiện tỷ lệ tiết kiệm nội địa thấp, thiếu ngoại tệ và quá trình
17
tích luỹ nội bộ chậm, không đáng kể so với nhu cầu phát triển chung của

nền kinh tế.
FDI bổ sung nguồn vốn cho nước chủ nhà, giúp bù đắp sự thiếu
hụt của nguồn vốn trong nước, mở rộng tích luỹ và góp phần vào việc
nâng cao tốc độ phát triển kinh tế. Hầu hết các nước, nhất là các nước
đang phát triển đều có nhu cầu về vốn để thực hiện công nghiệp hoá.
Thực tế cho thấy, nhiều nước đang phát triển nhờ có FDI nên đã giải
quyết được một phần khó khăn về vốn và đã thực hiện thành công quá
trình công nghiệp hoá đất nước.
Thông qua FDI các công ty đã chuyển giao kĩ thuật công nghệ
sang các nước chủ nhà. Nhờ sự chuyển giao này mà các nước chủ nhà
có thể thu hút được kĩ thuật và công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lí
kinh doanh và năng lực Marketing, đội ngũ lao động được đào tạo và
bồi dưỡng về nhiều mặt.
Do tác động của vốn, của khoa học công nghệ hiện đại, FDI sẽ tác
động mạnh mẽ đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu ngành, cơ
cấu cùng, cơ cấu lao động, cơ cấu kĩ thuật, cơ cấu sản phẩm sẽ được
biến đổi theo chiều hướng tiến bộ.
Nhờ có kĩ thuật và công nghệ hiện đại mà các nước chủ nhà có
điều kiện khai thác một cách có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên.
FDI là một trong những hình thức hợp tác đầu tư quốc tế. Thông
qua FDI, các nước chủ nhà sẽ có thêm điều kiện mở rộng quan hệ kinh
tế quốc tế.
FDI làm cho các tiềm năng phát triển kinh tế xã hội của đất nước
có điều kiện để khai thác, điều đó tác động mạnh mẽ đến việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, mặt khác tiếp nhận đầu tư trực tiếp, nước chủ nhà
18
không phải lo trả nợ mà thông qua FDI nước chủ nhà có điều kiện xâm
nhập thị trường thế giới. Các công ty thuộc các nước đang phát triển khó
hoặc ít có cơ hội thâm nhập vào thị trường quốc tế, với sự liên doanh,
liên kết với các công ty đa quốc gia các công ty thuộc các nước đang

phát triển sẽ có điều kiện vươn tới các thị trường nước ngoài. Có thể nói
đây là cách thức nhanh và có hiệu quả nhất giúp các công ty của nước
nhận đầu tư đến với thị trường nước ngoài và thực hiện kinh doanh quốc
tế.
Mặc dù có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, nguồn vốn
FDI không phải là không có những tác động tiêu cực. Nó chỉ có thể phát
huy tác dụng tốt trong môi trường kinh tế, chính trị xã hội ổn định, đặc
biệt là Nhà nước biết sử dụng và phát huy vai trò quản lí của mình. Cụ
thể một số mặt hạn chế mà nguồn vốn FDI đem lại như sau:
Nguồn vốn FDI đầu tư cho nước chủ nhà song trên thực tế do chủ
đầu tư quản lí trực tiếp và sử dụng theo những mục tiêu cụ thể của mình.
Do vậy, nước sở tại khó chủ động trong việc bố trí cơ cấu đầu tư theo
ngành và lãnh thổ.
Nếu nước sở tại không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa
học, dễ dẫn đến đầu tư tràn lan kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị
khai thác quá mức và nạn ô nhiễm môi trường trầm trọng.
Do trình độ nước sở tại còn kém nên nhiều nhà đầu tư trực tiếp
nước ngoài đã lợi dụng những sơ hở trong luật pháp và trong quản lí của
nước đó để lách luật, trốn thuế gây tổn hại đến lợi ích của nước chủ nhà.
Trong chuyển giao công nghệ nếu không làm tốt công tác thẩm định sẽ
dẫn đến những hiện tượng tiêu cực như chuyển giao nhỏ giọt từng phần,
chuyển giao công nghệ lạc hậu và nước chủ nhà sẽ nơi thải công nghiệp cho
các nước phát triển.
19
Song song với hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài đôi
khi còn kèm theo những hoạt động tình báo, gây rối an ninh, chính trị
của nước chủ nhà
Sự cần thiết huy động vốn FDI của Việt Nam.
Đối với nước ta, nhu cầu về vốn để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá là rất lớn. Mặc dù hơn 10 năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta

là khá cao( bình quân 6%/năm), lại không bị tác động mạnh bởi cuộc khủng
hoảng kinh tế tài chính khu vực như các nước khác vào năm 1997, nền kinh tế
đã có những bước phát triển vượt bậc những hiện tại Việt Nam vẫn bị tụt hậu
khá xa so với các nước phát triển cũng như so với nhiều nước đang phát triển
trong khu vực. Việt Nam vẫn là một trong những nước nghèo nhất thế giới, thu
nhập bình quân đầu người thấp, cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội yếu kém, tích luỹ
nội bộ nền kinh tế thấp, cơ cấu kinh tế lạc hậu, về cơ bản vẫn là một nước nông
công nghiệp với gần 80% dân số hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp.
Một hiện tượng có thể coi là căn bệnh nan y của các nước đang phát triển
là thiếu vốn và Việt Nam cũng không nằm ngoài ngoại lệ ấy. Về tiết kiệm, mặc
dù ta có nguồn lực dồi dào song lại không có điều kiện sử dụng nguồn lực ấy vì
thiếu vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm trang thiết bị máy móc,
áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến nguồn vốn trong nước chỉ có thể đáp ứng
được 2/3 nhu cầu vốn cho phát triển, còn lại ta phải huy động vốn từ các nguồn
ở bên ngoài. Trong đó cùng với ODA thì FDI là một trong hai nguồn vốn quan
trọng hàng đầu.
Đảng ta đã xác định Việt Nam trong quá trình trở thành một nước công
nghiệp phải có những bước đi tuần tự hợp với quy luật phát triển, đồng thời
tranh thủ thời cơ thuận lợi “ đi tắt, đón đầu” trong những ngành, lĩnh vực cho
phép nhằm bắt kịp xu thế của thời đại. Một trong những thời cơ đó là tận dụng
những lợi thế của nguồn vốn FDI. Theo Nghị quyết số 09/2001/NQ-CP của
chính phủ về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả FDI thời kì 2001-2005 là
đề ra mục tiêu thu hút khoảng 12 tỷ USD vốn đăng kí của các dự án cấp giấy
phép mới và 11 tỷ USD vốn thực hiện. Tóm lại, FDI không chỉ giúp ta thoả
20
mãn nhu cầu về vốn đầu tư mà kèm theo đó còn là sự du nhập của khoa học
công nghệ hiện đại, của trình độ quản lí tiên tiến, của những đỉnh cao trí thức
nhân loại.
1.2.3. Mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài và ngoại thương: của
các nước đang phát triển

1.2.3.1. Tác động trực tiếp
Cùng với quá trình toàn cầu hoá, vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) đối với tăng trưởng kinh tế quốc gia ngày càng trở nên quan trọng. Đối
với các nước đang phát triển FDI còn có ý nghĩa hơn vì nó cung cấp vốn và
công nghệ, những nhân tố phục vụ sản xuất khan hiếm của các nước này. Hiện
nay, các nước nhất là các nước đang phát triển ngày càng đánh giá cao vai trò
của nguồn vồn đầu tư trực tiếp nước ngoài và các công ty xuyên quốc gia
(TNCs). Sự chuyển hướng này phần nào nhờ vào sự đóng góp của FDI trong
quá trình tăng trưởng,xuất khẩu và cán cân thanh toán của nước tiếp nhận đầu
tư. Trên thực tế,sự đóng góp mạnh mẽ của nguồn vốn FDI và TNCs vào xuất
khẩu của nước tiếp nhận đầu tư là một trong những nguyên nhân chính tạo ra
bước chuyển biến trong nhận thức như vậy. Và các đóng góp này càng nhận
đước sự ủng hộ hơn khi mà tăng trưởng dựa vào xuất khẩu trở thành chiến
lược công nghiệp hoá mà đã thành công ở các nền kinh tế Đông á .
Xuất nhập khẩu có mối quan hệ nhân quả tới tăng trưởng kinh tế. Mối quan
hệ này được thể hiện ở khía cạnh: xuất khẩu cho phép khai thác được lợi thế so
sánh, hiệu quả kinh tế theo quy mô, thực hiện chuyên môn hoá sản xuất; nhập
khẩu bổ sung được các hàng hoá, dịch vụ khan hiếm cho sản xuất và tiêu dùng;
xuất nhập khẩu còn tạo ra các tác động ngoại ứng như thúc đẩy trao đổi thông
tin, dịch vụ, tăng cường kiến thức kinh doanh cho các doanh nghiệp và đưa họ
vào với mạng lưới phân phối toàn cầu. Bởi vậy, khuyến khích đầu tư nước
ngoài hướng vào xuất khẩu luôn là ưu đãi đặc biệt trong chính sách thu hút đầu
tư nước ngoài của nước chủ nhà. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài (TNCs),
xuất khẩu cũng đem lại nhiều lợi ích cho họ thông qua việc sử dụng các yếu tố
21
đầu vào rẻ, khai thác được hiệu quả theo qui mô (không bị hạn chế bởi quy mô
thị trường của nước chủ nhà) đồng thời thực hiện phân công chuyên môn hoá
các chi tiết sản phẩm ở các nơi có lợi thế sản xuất chi tiết đó, sau đó thì lắp
ghép chúng lại thành phẩm.
Từ những lợi ích trên, định hướng xuất khẩu ngày càng được chú trọng đối

với cả nước chủ nhà và trong chiến lược phát triển của các TNCs. Trong hơn 3
thập kỷ gần đây, đầu tư FDI hướng vào xuất khẩu ngày càng gia tăng và nó
đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy xuất khẩu của nước chủ nhà.
Chiến lược hướng ngoại hay còn gọi là chiến lược hướng vào xuất khẩu đã
được các nước đang phát triển áp dụng một cách rộng rãi, trong đó các nền
kinh tế Đông á đóng vai trò tiên phong. Và vai trò không ngừng lớn mạnh của
các TNCs trong xuất khẩu hàng chế tạo của các nước đang phát triển và đó là
một xu hướng tất yếu quan trọng trong sự phát triển của đầu tư và thương mại
quốc tế. Với sự lớn mạnh của các TNCs, họ đã đưa các nước đang phát triển
cùng đi vào mạng lưới hoạt động quốc tế của họ, không chỉ với tư cách là
nguồn cung ứng nguyên vật liệu, mà còn là các nhà cung cấp các sản phẩm chế
tạo và các quy trình sản xuất đặc biệt, những sản phẩm mà trước đây các TNCs
cũng có nhưng nay không còn được sản xuất trong nước nữa. Bởi vậy, xuất
khẩu hàng chế tạo được coi là chiến lược phát triển mới ở các nước đang phát
triển. Và quá trình chuyên môn hoá sản xuất là yếu tố quan trọng để các nước
đang phát triển mở rộng xuất khẩu hàng chế tạo trong điều kiện có ít cơ hội
tiếp cận với các nguồn thu ngoại tệ khác. Mặt khác, xuất khẩu giúp các nước
đang phát triển bổ sung nguồn vốn để xây dựng kinh tế trong nước và thu hút
đầu tư nước ngoài.
Từ năm 1970 đến năm 1980, nhập khẩu hàng chế tạo tiêu dùng của các nước
OECD đã tăng 14,55 lần xét về giá trị danh nghĩa. Tổng nhập khẩu hàng chế
tạo từ các nước đang phát triển tăng 10,84 lần. Các nền kinh tế thành công nhất
là Hồng Kông, Đài Loan, và Hàn Quốc đã xuất khẩu một lượng lớn hàng chế
22
tạo tiêu dùng tới các OECD, chiếm 72% tổng xuất khẩu từ các nước đang phát
triển sang các nước OECD.
Theo báo cáo của UN, 1992 (UN,1992,World Development Report, New
York: UN) cho thấy tỷ trọng xuất khẩu hàng chế tạo của các công ty có vốn
đầu tư nước ngoài tại các nước đang phát triển đang tăng dần. Tỷ lệ này dao
động từ mức 21,5% ở Fiji lên 85% ở Singapore vào giữa thập niên 80. Sự chú

trọng xuất khẩu còn thể hiện trong xu hướng hướng về xuất khẩu, nghĩa là tỷ lệ
xuất khẩu của các công ty có vốn đầu tư nướcngoài ngày càng lớn so với tổng
lượng hàng hoá được tiêu thụ. Theo ước tính các công ty có vốn đầu tư của
Nhật Bản ở các nước Inđônêxia, Malaixia, Philippin và Thái Lan xuất khẩu
khoảng 50% sản lượng hàng chế tạo của họ trong năm 2005. Tỷ lệ này của các
công ty có vốn đầu tư của Mỹ còn cao hơn, trung bình ở mức 52%, đạt 62% ở
Malaixia và Thái Lan, 48% ở Philippin và chỉ có 4% ở Hàn Quốc.
Nhu cầu về vốn là rất lớn đối với các nước, kể cả nước có nền kinh té phát
triển và nước có nền kinh tế đang phát triển, và vốn còn quan trọng hơn đối với
các nước đang phát triển khi mà họ đang trong quá trình công nghiệp hoá đất
nước. Mối quan hệ giữa nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và ngoại
thương được thể hiện rất rõ nét ở cả nước phát triển và nước đang phát triển.
Và chúng ta dựa vào lợi thế so sánh để nêu rõ mối quan hệ này. Đối với các
nước đang phát triển là những nước có lợi thế về vốn và các nước đang phát
triển là những nước có lợi thế so sánh về tài nguyên, lao động...các nước phát
triển đã đưa luồng vốn của mình ra nước ngoài, hay nói cách khác nước phát
triển đã xuất khẩu nguồn vốn ra nước ngoài, mà cụ thể là vào các nước đang
phát triển để khai thác nguồn nguyên liệu phục vụ cho sản xuất trong nước. Đối
với các nước đang phát triển do thiếu vốn và khoa học công nghệ, thông qua
đầu tư trực tiếp và ngoại thương thì các nước này đã nhạp khẩu nguồn vốn và
khoa học công nghệ từ các nước phát triển, để phục vụ sản xuất trong nước,
đồng thời xuất khẩu sang các nước đó các sản phẩm đã qua sở chế, để thu
ngoại tệ, và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
23
Thông thường các công ty, các doanh nghiệp có vốn đầu tư FDI tham gia
nhiều hơn vào hoạt động xuất nhập khẩu, bởi khi có đầu tư trực tiếp nước
ngoài, mà nhất là được thực hiện bởi các TNCs thì các doanh nghiệp có lợi thế
hơn về thị trường, bởi các TNCs có các chi nhánh rộng lớn trên toàn thế giới,
do đó thị trường mở cũng sẽ rộng hơn. Mặt khác, các TNCs khi đầu tư vào các
nước thì sản phẩm cuối cùng cũng thường do chính các TNCs nhập khẩu lại, và

cũng có một số mặt hàng chế tạo mà trước đây các nước phát triển có sản xuất,
song hiện nay đã không còn sản xuất nữa thì họ sẽ nhập từ các nước nhận đầu
tư. Các công ty tham gia vào xuất khẩu thường có quy mô lớn hơn, năng xuất
cao hơn, hàm lượng vốn và công nghệ cao hơn. Các công ty hoạt động tốt sẽ
trở thành nhà xuất khẩu và có được phần lớn những chỉ số hoạt động như mong
đợi. Các công ty có vốn FDI thường đóng góp nhièu hơn cho hoạt động xuất
nhập khẩu của nước chủ nhà nhờ vào nguồn vốn và công nghệ vượt trội của họ.
Các TNCs không chỉ đóng góp trực tiếp cho hoạt động xuất khẩu của nước chủ
nhà, mà còn tạo ra hiệu ứng lan toả cho xuất khẩu và trở thành chất xúc tác cho
hoạt động xuất khẩu của các nước đang phát triển.
Nhập khẩu máy móc thiết bị thường chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng số giá trị
nhập khẩu của các TNCs. ở một số nước tỷ lệ này cao hơn nhiều so với tỷ lệ
tương ứng của các doanh nghiệp nội địa. Điều này phản ánh sự chú trọng của
các nhà đầu tư nước ngoài trong việc sử dụng khoa học công nghệ hiện đại vào
các dự án đầu tư của họ. Đây là yếu tố quan trọng để nâng cao năng suất lao
động, khả năng cạnh tranh của sản phẩm, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
của nước chủ nhà.
Đồng thời hoạt động ngoại thương mà diễn ra sôi động, thì chứng tỏ nước
đó có nền kinh tế tăng trưởng và phát triển cao, do đó sẽ thu hút các nhà đầu tư
nước ngoài đầu tư vào. Đặc biệt là ở các nước đang phát triển,khi mà hiện nay
họ đang chú trọng đầu tư vào cơ sở hạng tầng, xây dựng các khu công nghiệp,
khu chế xuất để thu hút các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đấy sẽ là cơ sở
để tăng cường thu hút nguồn vốn FDI và thúc đẩy ngoại thương phát triển.
24
1.2.3.2. Tác động gián tiếp
Ngoài những tác động trực tiếp trên, thì đầu tư trực tiếp và ngoại thương
còn có tác động gián tiếp thông qua các tác động ngoại ứng như: thúc đẩy trao
đổi thông tin, cung cấp dịch vụ, liên kết sản xuất... Đây là những tác động rất
quan trọng không chỉ thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư trực tiếp mà
còn thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế- xã hội khác.

Thông tin thị trường đóng vai trò quan trọng đối với các chủ đầu tư cũng
như các nước tiếp nhận đầu tư, nhờ các kênh thông tin thị trường chủ thể nắm
bắt được tình hình và nhu cầu trên thị trường thế giới. Từ đó họ có cơ sở thực
tế để điều chỉnh chiến lược kinh doanh của mình cho phù hợp với nhu cầu của
thị trường. Thông qua các kênh thông tin thị trường thì giúp cho các nhà đầu tư
thấy được đầu tư vào lĩnh vực gì, vào quốc gia nào thì có lợi nhất. Và các nước
tiếp nhận đầu tư thì có thể kêu gọi, lựa chọn các dự án đầu tư phù hợp với sự
phát triển của nền kinh tế.
Dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy các hoạt động xuất nhập
khẩu và là nguồn thu ngoại tệ đáng kể của nước chủ nhà. Trong nhiều chi
nhánh của các TNCs ở nước ngoài, giá trị dịch vụ (vận tải, bảo hiểm, thanh
toán, tín dụng, viễn thông...) thường chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng giá trị
xuất nhập khẩu giữa chúng. Ví dụ: giá trị dịch vụ trong các chi nhánh TNCs có
sở hữu chủ yếu của Mỹ ở nước ngoài chiếm hơn 20% tổng giá trị xuất khẩu và
gần 1% tổng giá trị nhập khẩu chúng. Nhu cầu lớn các loại dịch vụ phục vụ
xuất nhập khẩu đã tạo nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp nội địa tham gia vào
các hoạt động xuất nhập khẩu. Các nước nhận đầu tư nếu hoạt động dịch vụ có
hiệu quả, nhất là dịch vụ về giao thông vận tải, cơ sở hạ tầng, thông tin liên
lạc... thường thu hút đước nhiều các dự án đầu tư trực tiếp. Mặt khác, cũng
thúc đẩy được buôn bán ngoại thương, các hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra
nhanh hơn, hiệu quả hơn.
Liên kết sản xuất là một trong những tác động quan trọng của đầu tư trực
tiếp nước ngoài đối với hoạt động ngoại thương. Qua đầu tư FDI sẽ cung ứng
25

×