Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Quan hệ Kinh tế, Thương Mại Việt Nam - Trung Quốc hiện tại và triển vọng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.61 KB, 77 trang )

Quan hệ kinh tế, thơng mại Việt Nam- Trung Quốc hiện tại và triển vọng
Lời nói đầu
Việt Nam và Trung Quốc là hai nớc láng giềng, có đờng biên giới chung dài hơn
1350 Km, trong đó Việt Nam có 6 tỉnh : Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà
Giang, Lai Châu và Lào Cai tiếp giáp với 2 tỉnh( Khu tự trị ) của Trung Quốc là
Quảng Tây và Vân Nam.
Quan hệ về Chính trị - Ngoại giao, kinh tế- thơng mại và giao lu văn hoá giữa hai
nớc đã có từ lâu đời và đã trở thành mối quan hệ truyền thống bền vững. Tuy nhiên qua
các thời kỳ lịch sử cũng có những biến động về chính trị - xã hội làm ảnh hởng tới
quan hệ kinh tế thơng mại giữa hai nớc nhng cha bao giờ làm triệt tiêu quan hệ kinh tế
đó, trái lại hoạt động kinh tế, thơng mại giữa hai nớc ngày càng có điều kiện thuận lợi
để phát triển, phù hợp với xu thế hoà bình, ổn định và phát triển trong khu vực và trên
thế giới .
Có thể nói đẩy mạnh quan hệ thơng mại qua biên giới Việt -Trung đã đáp ứng
nguyện vọng của nhân dân hai nớc, góp phần làm tăng thu ngân sách, nâng cao đời
sống nhân dân, làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội và văn hoá của nhân dân hai bên
vùng biên giới. Mặc dù trong thời gian qua hoạt động kinh tế thơng mại Việt - Trung đã
mang lại những thành công to lớn, đã phát huy đợc tiềm năng, thế mạnh của kinh tế cửa
khẩu biên giới, góp phần xây dựng công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá của mỗi n-
ớc, song đã nảy sinh những vấn đề phức tạp cần phải nhìn nhận, đánh giá một cách
đúng đắn. Tình hình trên đòi hỏi phải có một chơng trình nghiên cứu cơ bản và toàn
diện về hoạt động thơng mại giữa hai nớc, nhằm đánh giá đúng đắn những mặt tích cực
và hạn chế những phát sinh không thuận lợi, từ đó có những kiến nghị cụ thể, sát thực,
phù hợp với những hoạch định về chính sách phát triển kinh tế đối ngoại của Đảng và
nhà nớc ta.
Xuất phát từ yêu cầu đó, trên cơ sở hệ thống lý luận đã đợc học tập nghiên cứu,
cùng với sự giúp đỡ, hớng dẫn tận tình của Thầy Phan Anh Tuấn, tôi chọn đề tài:
Quan hệ Kinh tế, Th ơng Mại Việt Nam - Trung Quốc hiện tại và triển vọng với
Phạm Ngọc Nam A6-K18B
- 1 -
Quan hệ kinh tế, thơng mại Việt Nam- Trung Quốc hiện tại và triển vọng


mong muốn đóng góp một phần nhỏ trong chơng trình nghiên cứu về quan hệ kinh tế
thơng mại giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Những nội dung chủ yếu đợc trình bày trong khoá luận bao gồm các chơng sau:
Lời nói đầu
Chơng I : Khái quát về quan hệ kinh tế - thơng mại giữa Việt Nam và Trung
Quốc.
Chơng II : Thực trạng quan hệ kinh tế - thơng mại Việt Nam - Trung Quốc .
Chơng III : Triển vọng của quan hệ kinh tế - thơng mại Việt Nam - Trung Quốc.
Kết luận.
Dựa trên những t liệu su tầm đợc khoá luận tập trung làm rõ quan hệ kinh tế- th-
ơng mại giữa Việt Nam và Trung Quốc trong hơn 10 năm qua. Chỉ ra những mặt tích
cực cũng nh những hạn chế nảy sinh, để từ đó có những ý kiến đóng góp nhằm phát
triển quan hệ kinh tế-thơng mại Việt - Trung.
Đây là một vấn đề phức tạp, đối tợng và phạm vi nghiên cứu quá rộng lớn, phải
có sự tham gia của nhiều ngành, nhiều ngời với thời gian dài nên bài viết của tôi không
tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong đợc sự quan tâm giúp đỡ của các thầy, cô giáo
và các bạn để bài viết của tôi đợc hoàn thiện hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn !
Hà nội, Tháng 5 năm 2003
Sinh viên thực hiện
Phạm Ngọc Nam
Phạm Ngọc Nam A6-K18B
- 2 -
Quan hệ kinh tế, thơng mại Việt Nam- Trung Quốc hiện tại và triển vọng
Chơng I
Khái quát về quan hệ kinh tế - thơng mại
giữa việt nam và Trung quốc
I. Vài nét về lịch sử quan hệ kinh tế - thơng mại việt - Trung
1. Quan hệ kinh tế- thơng mại Việt - Trung trong tiến trình lịch sử.


Kể từ khi Việt Nam lập quốc, do nhu cầu giao lu tự nhiên của c dân hai nớc,
Vịêt Nam và Trung Quốc đã sớm thiết lập mối quan hệ bang giao nói chung và quan
hệ kinh tế - thơng mại nói riêng. Trong các giai đoạn lịch sử, hai nớc đều sự chịu ảnh h-
ởng của t tởng nho giáo, thờng thiếu sự chú ý đến các hoạt động kinh tế nên trong các
bộ sử nội dung viết về vấn đề kinh tế không nhiều. Mặt khác do tình hình chính trị của
mỗi nớc, đặc biệt là chiến tranh giữa các vơng triều, đã gây khó khăn làm gián đoạn
mối quan hệ kinh tế giữa hai nớc. Tuy nhiên, những gián đoạn, những khoảng trống
vắng trong quan hệ giữa hai nớc nói chung và quan hệ kinh tế- thơng mại nói riêng
cũng chỉ có ý nghĩa nhất thời vì quan hệ giao lu buôn bán giữa hai nớc đã đợc hình
thành và phát triển qua hàng nghìn năm lịch sử kể từ khi hai nớc lập quốc. Dới các triều
đại phong kiến quan hệ trao đổi buôn bán mới chỉ dừng ở phạm vi hẹp nhng cũng mang
một ý nghĩa rất quan trọng cho sự ổn định chính trị và phát triển kinh tế của mỗi quốc
gia trong quá trình lịch sử.
Trong giai đoạn từ đầu thế kỷ X đến cuối thế kỷ XIX quan hệ kinh tế giữa hai
nớc có những đặc điểm nổi bật sau đây:
- Ngay từ xa xa quan hệ kinh tế thơng mại đã vợt ra khỏi biên giới một quốc
gia, việc buôn bán từ nớc ngoài thờng mang về lợi nhuận cao hơn, hơn nữa thông qua
hoạt động buôn bán qua biên giới làm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của bộ máy quân
chủ của hai nớc.
Phạm Ngọc Nam A6-K18B
- 3 -
Quan hệ kinh tế, thơng mại Việt Nam- Trung Quốc hiện tại và triển vọng
1 - Chính sách xuyên suốt trong lịch sử các vơng triều Việt Nam là độc lập tự
chủ, luôn áp dụng nguyên tắc hoà hiếu với phơng Bắc , nới lỏng, cho tự do
buôn bán, trao đổi hàng hoá, miễn là tôn trọng, thực hiện đúng pháp luật Việt
Nam .
2 - Quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc trong suốt hơn 20 thế kỷ không
phải diễn ra bình lặng, mà quan hệ kinh tế ấy có những biến động thăng trầm phụ
thuộc vào quan hệ chính trị giữa hai quốc gia.
3 - Mặc dù cả hai nớc phong kiến Việt Nam và Trung Quốc trong nhiều thời gian dài

thực hiện chính sách Bế quan, toả cảng song các hoạt động kinh tế, nhất là hoạt
động trao đổi buôn bán ở vùng biên giới Việt - Trung vẫn diễn ra, vợt khỏi sự cấm
đoán của triều đình trung ơng .
4 - Trong quan hệ kinh tế Việt Nam - Trung Quốc suốt hơn 20 thế kỷ, thì phần u thế,
thờng thuộc về các thơng nhân Trung Quốc hơn là thơng nhân Việt Nam. Điều này
cho thấy khả năng vơn xa của và việc tổ chức buôn bán của thơng nhân Việt Nam
còn có nhiều hạn chế .
2. Giai đoạn sau khi hai nớc giành đợc độc lập
Từ khi hai nớc giành đợc độc lập cho đến những năm 80 của thế kỷ 20 , quan hệ
kinh tế giữa hai nớc đợc chia ra làm 4 giai đoạn chính sau đây:
Giai đoạn 1950 - 1954:
Sau chiến thắng lợi của chiến dịch biên giới 1950, các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn,
Lạng Sơn đợc giải phóng đã tạo điều kiện cho giao lu buôn bán trao đổi hàng hoá của
nhân dân hai bên biên giới. Tháng 9/1951 Chính phủ hai nớc Việt - Trung đã ký các
hiệp định về mậu dịch, Hiệp định về tiền tệ và Hợp đồng xuất nhập khẩu. Đồng thời
thành lập các Ty quản lý xuất nhập khẩu ở Lạng Sơn, Cao Bằng và các Đồn quản lý
xuất nhập khẩu tại các cửa khẩu biên giới. Một số công ty xuất nhập khẩu ở các tuyến
đợc ra đời dới sự lãnh đạo của Bộ Công thơng để làm nhiệm vụ xuất nhập khẩu hàng
hoá. Tháng 2/1953 cửa khẩu Lào Cai đợc mở cửa thông thơng buôn bán với Hồ Kiều
của Trung Quốc. Từ dầu năm 1954 công cuộc kháng chiến chống thực dân pháp của
Phạm Ngọc Nam A6-K18B
- 4 -
Quan hệ kinh tế, thơng mại Việt Nam- Trung Quốc hiện tại và triển vọng
nhân dân ta đã tiến triển mạnh mẽ. Hội nghị toàn quốc lần thứ t bàn về đấu tranh kinh
tế với địch họp tại Việt Bắc đã nêu rõ chủ trơng tích cực đẩy mạnh xuất khẩu để đáp
ứng nhu cầu nhập khẩu các loại hàng hoá cần thiết phục vụ sản xuất và chiến đấu.
Chính phủ ta khuyến khích trao đổi một số mặt hàng nh sa nhân, cà phê với Trung
Quốc. Để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho buôn bán dân gian qua biên giới Chính phủ ta
đã ban hành nghị định 391/TTg về quản lý mậu dịch tiểu ngạch nhân dân biên giới Việt
- Trung.

Giai đoạn từ 1954 -1964
Đây là thời kỳ khôi phục và xây dựng kinh tế ở miền Bắc, ngày 10/2/1955 đã
khánh thành đờng sắt Hà Nội - Mục Nam Quan, tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận
chuyển hành khách và hàng hoá từ Thủ đô lên biên giới phía Bắc để trao đổi hàng hoá
với Trung Quốc và các nớc Xã hội chủ nghĩa khác. Ngày 7/7/1955 Chính phủ ta đã ký
với Trung Quốc Nghị định th về trao đổi hàng hoá giữa các công ty mậu dịch địa phơng
vùng biên giới và Hiệp định viện trợ.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế kỳ họp khoá 8 Quốc hội Việt Nam đã quyết định
chia Bộ Thơng nghiệp ra thành Bộ Nội thơng và Bộ ngoại thơng. Với sự thay đổi lại tổ
chức, công tác xuất nhập khẩu đã trởng thành thêm một bớc, hàng loạt các công ty xuất
nhập khẩu biên giới đợc thành lập với nhiệm vụ trao đổi hàng hoá và nhận hàng viện trợ
qua biên giới Việt - Trung .
Giai đoạn từ 1965 - 1975
Trong khi Việt Nam tiến hành công cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm
lợc bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam thì từ những năm 1966 Trung Quốc bắt đầu
tiến hành Đại cách mạng văn hoá vô sản , kết thúc vào năm 1976. Mặc dù thời kỳ
đó tình hình xã hội Trung Quốc hỗn loạn nhng quan hệ giữa Chính Phủ Việt Nam và
Chính Phủ Trung Quốc vẫn phát triển tốt đẹp. Việt Nam tiếp tục củng cố thêm một bớc
các tổ chức ngoại thơng của mình, hoàn chỉnh các chính sách chế độ về mậu dịch đối
ngoại, đồng thời tăng cờng sự hợp tác giúp đỡ của phía Trung Quốc nhằm khắc phục
những khó khăn trong thời chiến .
Phạm Ngọc Nam A6-K18B
- 5 -
Quan hệ kinh tế, thơng mại Việt Nam- Trung Quốc hiện tại và triển vọng
Hàng năm Chính phủ phê duyệt cho Bộ ngoại thơng đợc phép cử đoàn đại diện
tham dự Hội chợ Quảng Châu Trung Quốc, để giao dịch với các công ty Trung Quốc và
các thơng nhân của các nớc khác, nghiên cứu các kinh nghiệm làm ăn và chuẩn bị hàng
xuất khẩu. Tháng 7/1965 Chính phủ Việt Nam ký với Trung Quốc Nghị định th về việc
chuyển tải hàng xuất khẩu của Việt Nam trong thời chiến qua các cảng của Trung
Quốc. Chính Phủ ta đã đề nghị với Chính Phủ Trung Quốc cho phép thành lập một số

trạm tiếp nhận và điều chuyển hàng viện trợ của các nớc và hàng xuất khẩu của Việt
Nam trên đất Trung Quốc ( ở Mãn Châu Lý, Nam Ninh, Côn Minh, Hoàng Phố, Trạm
Giang). Từ 1967 đến 1975 Chính phủ ta và Trung Quốc lần lợt ký các Hiệp định, Nghị
định th và th trao đổi về việc Chính phủ Trung Quốc viện trợ không hoàn lại, viện trợ
bệnh viện, lơng thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng cho Việt Nam; viện trợ kinh tế và
quân sự, viện trợ kinh tế và kỹ thuật cho Việt Nam; cung cấp vật t, cung cấp thiết bị lẻ
cho đài phát thanh. Có thể nói rằng hoạt động xuất nhập khẩu trong thời kỳ này tập
trung chủ yếu vào việc vận chuyển hàng viện trợ từ Trung Quốc và các nớc anh em
khác phục vụ cho công cuộc kháng chiến chống Mỹ giải phóng miền Nam.
Giai đoạn từ 1976 - 1978
Sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ cao cả là giải phóng miền Nam, Việt Nam đã
tiến hành tổng tuyển cử trong cả nớc bầu ra Quốc hội của cả nớc Việt Nam thống nhất.
Cũng trong thời gian đó cuộc đại cách mạng văn hoá vô sản kết thúc, Trung Quốc
thực sự bớc vào thời kỳ cải cách mở cửa. Trong giai đoạn này Việt Nam và Trung Quốc
tiếp tục ký các Hiệp định trao đổi hàng hoá và thanh toán.
Mặc dù mậu dịch biên giới Việt - Trung có nhiều lợi thế đối với nhân dân vùng
biên của hai nớc, không thị trờng nào có thể so sánh đợc, đó là thị trờng gần, vị trí núi
liền núi, sông liền sông, nhân dân hai nớc có quan hệ truyền thống lâu đời, hàng hoá
hai bên bổ sung cho nhau. Nhng từ năm 1978 trở về trớc buôn bán qua biên giới Việt -
Trung còn giới hạn ở mức nhỏ bé không đáng kể , chủ yếu là các hoạt động mua bán
dân gian tự phát do nhu cầu sinh hoạt thông thờng điều tiết. Phía Việt Nam bán sang
Trung Quốc một số hàng nông lâm thổ sản, muối biển, gia súc... . Phía Trung Quốc bán
sang Việt Nam một số hoa quả tơi, một số hàng công nghiệp nhẹ tiêu dùng nh vải vóc,
quần áo may sẵn, một số đồ gia dụng, công cụ sản suất ...
Phạm Ngọc Nam A6-K18B
- 6 -
Quan hệ kinh tế, thơng mại Việt Nam- Trung Quốc hiện tại và triển vọng
Mậu dịch biên giới Việt - Trung từ năm 1978 trở về trớc cha thể phát triển mạnh
đợc chủ yếu là vì nền kinh tế của hai nớc cha phát triển. Kinh tế vùng biên giới của hai
nớc đều là kinh tế miền núi, mang nặng tính tự cung tự cấp, lạc hậu, phân tán, c dân chủ

yếu là đồng bào dân tộc thiểu số văn hoá chậm phát triển.
3. Giai đoạn sau khi hai nớc bình thờng hoá quan hệ
Từ sau năm 1978, quan hệ hữu nghị của hai nớc có phần lắng xuống, khu vực
biên giới trở thành những điểm nóng về an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội đã
phải đóng cửa hàng loạt các cửa khẩu biên giới. Quan hệ kinh tế thơng mại bị ngừng
trệ, đã có ảnh hởng không nhỏ đến tốc độ phát triển kinh tế của hai nớc và đặc biệt là
kinh tế khu vực cửa khẩu biên giới.
Sau nhiều nỗ lực cố gắng của cả hai bên, quan hệ giữa hai nớc đã khởi sắc và trở
lại bình thờng hoá vào cuối năm 1991. Từ đó cho đến nay, quan hệ giữa hai nớc nói
chung và quan hệ kinh tế - thơng mại nói riêng, đã phát triển ngày càng mạnh, ngày
càng bền vững và đang trở thành một bộ phận quan trọng trong chính sách đối ngoại
của cả hai nớc.
Từ khi hai nớc bình thờng hoá đến nay, kim ngạch xuất nhập khẩu của hai bên
đã tăng lên nhanh chóng, hàng hoá trao đổi qua các cửa khẩu biên giới Việt -Trung hết
sức nhộn nhịp, thị trờng ở đây đã sớm trở thành nơi sôi động nhất của nớc ta, đặc biệt là
ở các cửa khẩu Quảng Ninh, Lạngáơn, Cao Bằng và Lào Cai. Quan hệ kinh tế - thơng
mại giữa hai nớc từ năm 1991 trở lại đây không ngừng phát triển với qui mô khá lớn,
tuy nhiên vẫn cha tơng xứng với tiềm năng của cả hai nớc. Theo số liệu thống kê của
Tổng cục Hải quan, tổng trị giá kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nớc năm 1991 chỉ
đạt 37,7 triệu USD đến năm 1993 đã là 221,2 triệu USD và đặc biệt năm 2002 đạt trên
3,6 tỷ USD, tăng 97 lần so với năm 1991. Về cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu ngày
càng mở rộng, ngoài những mặt hàng xuất khẩu truyền thống nh dầu thô, cao su, hải
sản... hai bên đã bổ sung một số mặt hàng có thế mạnh khác. Trong những năm gần
đây, Việt Nam đã đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm đã qua chế biến nh sản phẩm cà
phê hoà tan, hạt điều đã qua chế biến, dầu ăn và một số hàng tiểu thủ công nghiệp và
hàng tiêu dùng khác cũng đã và đang dần chiếm đợc thị trởng ở Trung Quốc. Về phía
Phạm Ngọc Nam A6-K18B
- 7 -
Quan hệ kinh tế, thơng mại Việt Nam- Trung Quốc hiện tại và triển vọng
Trung Quốc áp dụng chính sách mậu dịch biên giới, hỗ trợ và đặc biệt u đãi cho thơng

mại biên giới nhằm khai thác triệt để thị trờng các nớc láng giềng cho tiêu thu hàng hoá
tiêu dùng của Trung Quốc. Cũng do thành công trong phơng thức buôn bán biên mậu
biên giới, trong những năm qua, hàng hoá của Trung Quốc đã chiếm đợc thị trờng của
Việt Nam. Có thể nói, ở đâu cũng có hàng hoá của Trung Quốc.
Qua nghiên cứu lịch sử quan hệ giữa hai nớc nói chung và quan hệ kinh tế - th-
ơng mại nói riêng cho thấy rằng, sự ổn định về an ninh, chính trị là một nhân tố hết sức
quan trọng trong quan hệ nhiều mặt giữa hai nớc. Nh đã biết, Trung Quốc là một quốc
gia đông dân nhất thế giới, có nhiều nét tơng đồng về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội
với Việt Nam. Bản thân nền kinh tế Việt Nam ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực trớc đây đã
có sự giúp đỡ của Trung Quốc. Chính vì vậy, mở rộng quan hệ kinh tế - thơng mại giữa
hai nớc nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế, đồng thời tạo sự ổn định về quan hệ chính trị
giữa hai nớc là vấn đề hết sức cần thiết.
II. Phát triển quan hệ kinh tế - thơng mại Việt - Trung là một xu
thế tất yếu
1. Vài nét về tình hình quốc tế và khu vực
Tình hình Quốc tế và khu vực vào cuối những năm 80 đầu những năm 90 có
những thay đổi cực kỳ sâu sắc. Sự tan rã của Liên Xô vào tháng 9/1991 đã đánh dấu sự
kết thúc thời kỳ chiến tranh lạnh. Từ đây thế giới bớc vào một thời kỳ mới. Các nớc lớn
đều tiến hành điều chỉnh chiến lợc toàn cầu và chính sách đối ngoại của mình. Hoà bình
và phát triển đã trở thành trào lu chính của thời đại. Trên thế giới, các nớc dù lớn hay
nhỏ đều tranh thủ môi trờng quốc tế hoà bình để tập trung lực lợng cho nhiệm vụ xây
dựng và phát triển kinh tế của nớc mình.
Tình hình quốc tế trên đây đã có những tác động mạnh mẽ đến tình hình khu
vực châu á nói chung và Đông Nam á nói riêng. Trong khu vực Đông Nam á, xu thế
hoà hoãn giữa các nớc và nhóm nớc trong khu vực với các nớc lớn đã xuất hiện. Các n-
ớc trong khu vực cũng điều chỉnh lại chính sách đối ngoại của mình cho phù hợp với
tình hình mới. Đặc biệt mối quan hệ giữa hai nhóm nớc Đông Dơng và ASEAN ( 5 nớc
trớc đây ) cũng nh quan hệ giữa các nớc này với Trung Quốc đã từng bớc đợc cải thiện.
Phạm Ngọc Nam A6-K18B
- 8 -

Quan hệ kinh tế, thơng mại Việt Nam- Trung Quốc hiện tại và triển vọng
Từ năm 1989, lần lợt các nớc Lào, Indônêxia... đã bình thờng hoá và quan hệ với Trung
Quốc; còn các nớc Xingapo, Brunây cũng đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung
Quốc. Nh vậy, sự kết thúc của chiến tranh lạnh đã làm cho những xung đột về chính trị
và hệ t tởng trong khu vực giảm đi rất nhiều, đối thoại thay cho đối đầu. Mở rộng giao
lu kinh tế, văn hoá không chi trở thành xu thế chung giữa các nớc trong khu vực, mà
còn là đòi hỏi tất yếu trong công cuộc xây dựng kinh tế ở mỗi quốc gia.
2. Tình hình riêng của hai nớc đầu những năm 90
Quan hệ Việt Nam và Trung Quốc là hai nớc láng giềng, có hoàn cảnh địa lý
gần gũi, có truyền thống văn hoá tơng đồng, gắn bó với nhau. Trải qua hàng nghìn năm
lịch sử, Việt Nam và Trung Quốc chia sẻ nhiều giá trị chung của nền văn minh phơng
đông. Việt Nam tiếp thu nhiều giá trị về văn hoá và tôn giáo Trung hoa cổ đại: đạo
Khổng, thơ đờng của Trung Quốc đợc trân trọng ở Việt Nam.
Nhân dân Việt Nam và Trung Quốc có mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp, truyền
thống, đã trải qua thử thách của thời gian và những thành tích đạt đợc trong những năm
qua tạo tiền đề tốt đẹp cho sự phát triển hơn nữa mối quan hệ Việt - Trung. Những
yếu tố quan trọng thúc đẩy mối quan hệ giữa hai nớc trong thời gian qua.
Trớc hết, Việt Nam - Trung Quốc có nét tơng đồng về văn hoá, có phong tục
tập quán á Đông tơng đối giống nhau. Có thể nói, sự tơng đồng về văn hoá và sự gần
gũi về phong tục tập quán nảy sinh từ nền văn minh lúa nớc là nhân tố hết sức quan
trọng tạo nên truyền thống láng giềng hoà mục, hữu hảo, gần gũi và dễ thông cảm lẫn
nhau trong giao lu, quan hệ giữa nhân dân hai nớc Việt - Trung từ bao đời nay.
Thứ hai, hai nớc Việt Nam - Trung Quốc núi liền núi, sông liền sông và có
chung biên giới lãnh hải Vịnh Bắc Bộ và biển Đông. Yếu tố địa lý này khác với biên
giới giữa Trung Quốc với Thái Lan, Lào và Mianma. Đây là yếu tố thuận lợi tạo dựng
nên mối quan hệ giao lu văn hoá, thông thơng kinh tế, buôn bán và giúp đỡ lẫn nhau
cuộc đấu tranh cách mạng giữ nớc của mỗi bên. Nhân dân các dân tộc thiểu số sống hai
bên biên giới từ bao đời nay đã hình thành quan hệ thân tộc. Mối giao hoà láng giềng
Phạm Ngọc Nam A6-K18B
- 9 -

Quan hệ kinh tế, thơng mại Việt Nam- Trung Quốc hiện tại và triển vọng
thân thiện đó đã tạo nên tình cảm gắn bó Tắm chung một dòng sông, Nghe chung
tiếng gà gáy , gặp nhau nh anh em một nhà.
Thứ ba, về thể chế chính trị, Việt Nam và Trung Quốc có thể chế chính trị
giống nhau, đều do Đảng Cộng sản lãnh đạo, trung thành với Chủ nghĩa Mác- Lê Nin,
không chấp nhận đa nguyên, đa đảng. Hai nớc đều kiên trì xây dựng nhà nớc pháp
quyền dân chủ nhân dân và chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa. Đặc biệt trong hoàn cảnh CNXH
tạm thời đang trong giai đoạn khó khăn, Đảng Cộng Sản Trung Quốc và Đảng Cộng
Sản Việt Nam đã và đang gánh vác trọng trách bảo vệ vai trò lãnh đạo bền vững của
Đảng Cộng Sản và sức sống mạnh mẽ của CNXH .
Thứ t, về kinh tế, Hai nớc Việt - Trung đều có tiềm năng to lớn trong nhiều lĩnh
vực hợp tác kinh tế, mậu dịch và đầu t vì lợi ích chung và lợi ích riêng của mỗi bên. Hai
nớc đã có chung đờng biên giới trên bộ, trên biển là điều kiện thuận lợi cho hai bên
thông thơng mậu dịch, đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu. Trung Quốc là thị trờng
rộng lớn, đầy tiềm năng, có sức tiêu thụ lớn của của một thị trờng trên 1,2 tỷ dân. Việt
Nam là quốc gia thuộc hàng trung bình trên thế giới, sấp xỉ 80 triệu dân, tài nguyên
thiên nhiên nhiên phong phú, nguyên liệu sản xuất dồi dào. Đó là những yếu tố bổ
sung, hỗ trợ cho nhau vì chiến lợc phát triển kinh tế của mỗi nớc và tiến trình tham gia
hợp tác, hội nhập kinh tế khu vực, toàn cầu.
Trong bối cảnh chung của tình hình Quốc tế và khu vực nêu trên, tình hình
riêng của Việt Nam và Trung Quốc cũng có những thay đổi theo chiều hớng thuận lợi.
Về phía Việt Nam, trên cơ sở phân tích đánh giá tình hình quốc tế và khu vực,
Đại hội đảng VI Đảng Cộng Sản Việt Nam họp tháng 12 năm 1986 đã đề ra đờng lối
đổi mới. Một thành tựu về đổi mới t duy của Đại hội Đảng VI là đã rút ra 4 bài học cơ
bản có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội và bảo vệ tổ
quốc, trong đó bài học thứ 3 là Phải kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của
thời đại trong điều kiện mới . Cũng trong Đại hội Đảng VI, Đảng ta xác định Việt
Nam sẵn sằng là bạn của tất cả các nớc trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của nhau. Trong quan hệ đối ngoại , Đảng và nhà nớc ta đặc biệt coi
Phạm Ngọc Nam A6-K18B

- 10 -
Quan hệ kinh tế, thơng mại Việt Nam- Trung Quốc hiện tại và triển vọng
trọng mối quan hệ với các nớc láng giềng, Việt Nam sẵn sàng đàm phán để giải quyết
những vấn đề thuộc quan hệ Việt Nam - Trung Quốc.
Về phía Trung Quốc, sau một thời gian dài bị đình trệ do những sai lầm tả
khuynh, Hội nghị Trung ơng 3 khoá XI Đảng Cộng Sản Trung Quốc họp cuối tháng 12
năm 1978 đã quyết định dịch chuyển trong tâm công tác của toàn Đảng từ chỗ lấy đấu
tranh giai cấp làm chính sang lấy xây dựng kinh tế làm nhiệm vụ trọng tâm, mở đầu
cho công cuộc cải cách mở cửa. Để phục vụ cho công cuộc cải cách ở trong nớc, trong
lĩnh vực đối ngoại, Trung Quốc đã tiến hành những điều chỉnh lớn trong quan hệ với
các nớc lớn trên thế giới nh Mỹ, Nga, Nhật và Tây Âu. Trung Quốc cũng từng bớc thực
hiện bình thờng hoá quan hệ và thiết lập quan hệ ngoại giao với các nớc láng giềng.
Trong quan hệ với Việt Nam, Trung Quốc cũng thể hiện những thiện chí của mình đối
với việc bình thờng hoá quan hệ giữa hai nớc.
Nh vậy với một mục tiêu chung là bình thờng hoá quan hệ, ngày 4/9/1990 tại
Tứ Xuyên đã diễn ra cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa các nhà lãnh đạo cấp cao hai nớc để bàn
về vấn đề bình thờng hoá quan hệ giữa hai nớc và một số vấn đề khác mà hai bên cùng
quan tâm. Sau nhiều lần đàm phán hai nớc đã đi đến thống nhất và khẳng định: Việc
bình thờng hoá quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc phù hợp với lợi ích cơ bản và lâu
dài của nhân dân hai nớc và cũng có lợi cho hoà bình, ổn định và sự phát triển của khu
vực . Về kinh tế, hai bên nhất trí thúc đẩy sự hợp tác giữa hai nớc trong các lĩnh vực
kinh tế, thơng mại, khoa học kỹ thuật và văn hoá theo nguyên tắc bình đẳng cùng có
lợi.
Có thể nói, cuộc gặp cấp cao này đã đa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc bớc
sang một giai đoạn mới, với tính chất và nội dung hết sức mới trên cơ sở 5 nguyên tắc:
Tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi và cùng tồn tại hoà
bình.
III. Những cơ sở tiền đề cho sự phát triển quan hệ kinh tế - thơng
mại giữa hai nớc.

1. Những Hiệp định và các cặp cửa khẩu biên giới đợc mở là cơ sở pháp lý tạo
thuận lợi cho quan hệ kinh tế, thơng mại phát triển.
Phạm Ngọc Nam A6-K18B
- 11 -
Quan hệ kinh tế, thơng mại Việt Nam- Trung Quốc hiện tại và triển vọng
Với quyết tâm xây dựng mối quan hệ kinh tế lâu dài, bền vững, từ tháng 11 năm
1991 đến nay, Chính phủ nớc Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và nớc Cộng Hoà
Nhân Dân Trung Quốc đã cùng nhau ký kết nhiều Hiệp định kinh tế thơng mại quan
trọng nh: Hiệp định thơng mại giữa hai nớc, Hiệp định tạm thời giải quyết công việc
vùng biên giới( hai hiệp định này đợc ký tại Bắc Kinh trong chuyến đi thăm chính thức
Trung Quốc lần thứ nhất của Tổng bí th Đỗ Mời và Thủ tớng Võ Văn Kiệt ngày 5 tháng
11 năm 1991); Hiệp định hợp tác kinh tế Việt Nam - Trung Quốc( ký tại Hà Nội nhân
dịp Phó thủ tớng kiêm Ngoại trởng Trung Quốc Tiền Kỳ Tham sang thăm Việt Nam,
tháng 2 năm 1992); Hiệp định về hợp tác kinh tế kỹ thuật; Hiệp định về hợp tác khoa
học kỹ thuật đợc ký tại Hà Nội nhân dịp Thủ tớng Trung Quốc Lý Bằng sang thăm
chính thức Việt Nam đầu tháng 12 năm 1992; Hiệp định về thanh toán và hợp tác giữa
Ngân hàng Nhà nớc Việt Nam và Ngân hàng nhân dân Trung Quốc đợc ký vào ngày 26
thán 5 năm 1993 tại Bắc Kinh; Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ
Trung Quốc về hàng hoá quá cảnh vào ngày 9 tháng 4 năm 1994 tại Hà Nội; Hiệp định
về thành lập Uỷ ban hợp tác kinh tế thơng mại Việt Nam - Trung Quốc; Hiệp định về
bảo đảm chất lợng hàng hoá xuất nhập khẩu; Hiệp định về vận tải đờng bộ, bộ ba Hiệp
định này đợc ký ngày 19 tháng 11 năm 1994 tại Hà Nội nhân chuyến đi thăm chính
thức Việt Nam của Tổng Bí th Đảng, Chủ tịch nớc Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc
Giang Trạch Dân; Hiệp định về mua bán hàng hoá ở vùng biên giới giữa Chính phủ nớc
Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và Chính phủ nớc Cộng Hoà Nhân Dân Trung
Quốc ký ngày 7 tháng 11 năm 1998 tại Bắc Kinh; Hiệp định về biên giới đờng bộ đợc
ký kết ngày 23 tháng 2 năm 1999 nhân dịp Thủ tớng Chu Dung Cơ sang thăm Việt
Nam .
Với chủ trơng hoà bình, ổn định cùng phát triển đặc biệt là phát triển kinh tế th-
ơng mại, hai bên quyết định mở 21 cặp cửa khẩu đó là: Đồng Đăng - Bằng Tờng, Hữu

Nghị - Hữu Nghị Quan, Móng Cái - Đông Hng, Lào Cai - Hà Khẩu, Tà Lùng - Thuỷ
Khẩu, Ma Lu Thàng - Kim Thuỷ Hà và Thanh Thuỷ - Thiên Bảo là các cửa khẩu Quốc
tế dành cho những ngời mang Hộ chiếu và thị thực Xuất nhập cảnh, Giấy thông hành
xuất nhập cảnh cũng nh hàng hoá xuất nhập khẩu; các cặp cửa khẩu khác đợc mở nhờ
vào sự nỗ lực của cả hai bên, các cặp cửa khẩu này đợc mở cho những ngời mang giấy
Phạm Ngọc Nam A6-K18B
- 12 -
Quan hệ kinh tế, thơng mại Việt Nam- Trung Quốc hiện tại và triển vọng
thông hành xuất nhập cảnh và hàng hoá buôn bán trao đổi tiểu ngạch của c dân biên
giới. Ngoài các cửa khẩu nêu trên, hiện nay trên tuyến biên giới Việt - Trung còn có 59
cặp đờng mòn truyền thống và 13 chợ biên giới phục vụ cho các hoạt động giao lu kinh
tế giữa hai nớc. Để tranh thủ khai thác lợi thế của chính sách khai phá miền tây của
phía Trung Quốc, tỉnh Lào Cai đã và đang xây dựng trung tâm thơng mại Kim Thành,
chắc chắn đây sẽ là điểm thu hút một lợng lớn hàng hoá xuất nhập khẩu qua biên giới
Việt - Trung tỉnh Lào Cai.
Những hiệp định và văn bản ký kết, cùng với các cặp cửa khẩu đợc khai thông
trên biên giới Việt - Trung đã tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi cho các ngành,
các địa phơng biên giới của hai nớc phát triển quan hệ hợp tác kinh tế và mậu dịch, mở
ra một thời kỳ mới cho giao lu kinh tế qua biên giới Việt - Trung.
2. Chính sách về phát triển kinh tế đối ngoại của hai nớc.
2.1. Chính sách phát triển kinh tế - thơng mại của Việt Nam đối với Trung Quốc
Trong những năm đầu sau khi hai nớc Việt Nam - Trung Quốc bình thờng hoá
quan hệ( năm 1991), hoạt động giao lu buôn bán hàng hoá đã bắt đầu có sự tăng trởng
nhng còn ở qui mô nhỏ, không ổn định. Về chính sách quản lý hoạt động kinh tế đối
ngoại của nhà nớc ta còn nhiều bất cập cha phù hợp với thực tiễn của hoạt động kinh tế
thơng mại giữa hai nớc; chính sách quản lý xuất nhập khẩu còn dựa trên cơ chế cấp
giấy phép chuyến đối với hoạt động xuất nhập khẩu do đó đã làm hạn chế hoạt động
giao lu thơng mại, không khuyến khích đợc các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt
động xuất nhập khẩu, khiến các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động xuất nhập
khẩu còn ở phạm vi hẹp. Thực tiễn cho thấy, cơ chế này một mặt đã làm hạn chế phơng

thức kinh doanh xuất nhập khẩu theo thông lệ và tập quán quốc tế mặt khác lại khuyến
khích các thành phần kinh tế kinh doanh theo phơng thức tiểu ngạch biên giới, phơng
thức này lại hoàn toàn phù hợp với chiến lợc phát triển kinh tế biên mậu biên giới của
Trung Quốc( sẽ đợc đề cập ở phần sau).
Nhìn chung trong giai đoạn đầu sau khi hai nớc bình thờng hoá quan hệ, Nhà nớc
ta cha ban hành đầy đủ chính sách khung về buôn bán qua biên giới nên cha có cơ chế,
chính sách cụ thể để quản lý điều hành hoạt động xuất nhập khẩu ở các cửa khẩu biên
Phạm Ngọc Nam A6-K18B
- 13 -
Quan hệ kinh tế, thơng mại Việt Nam- Trung Quốc hiện tại và triển vọng
giới. Trong điều kiện nh vậy, hoạt động giao lu kinh tế thơng mại qua biên giới Việt -
Trung ta còn chịu thua thiệt hơn so với Trung Quốc.
Để đáp ứng đợc yêu cầu của phát triển kinh tế đối ngoại nói chung và phát triển
quan hệ kinh tế - thơng mại với Trung Quốc nói riêng, ngày 15/12/1995, Chính phủ đã
ban hành nghị định số 89/NĐ về bãi bỏ thủ tục cấp giấy phép chuyến đối với hoạt động
xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp đợc tự do kinh doanh xuất nhập khẩu theo phạm vi
ngành hàng trong giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu do Bộ Thơng Mại cấp. Quyết
định này tuy đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động xuất nhập khẩu nhng cha
thực sự khuyến khích đợc các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động xuất nhập
khẩu. Đứng trớc xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, năm 1997 Chính phủ đã
ban hành luật thơng mại và hàng loạt các văn bản pháp qui khác nhằm điều chỉnh cơ
chế quản lý hoạt động kinh tế, đặc biệt là kinh tế đối ngoại. Trong đó nghị định số
57/NĐ-TTg của Chính phủ ban hành năm 1997 đã khuyến khích mọi thành phần kinh
tế tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu, tháo gỡ mọi trở ngại pháp lý đối với hoạt
động xuất nhập khẩu, từ thời điểm này các thành phần kinh tế đều đợc tham gia vào
hoạt động xuất nhập khẩu, đồng thời, Nhà nớc đã ban hành các chính sách u đãi đặc
biệt đối xuất khẩu và hạn chế dần nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng, những mặt hàng
mà trong nớc đã sản xuất đợc. Có thể nói, đây là bớc đột phá có tính chất quyết định
trong chiến lợc phát triển kinh tế đối ngoại của nhà nớc ta.
Cùng với sự cải cách mạnh mẽ trong cơ chế quản lý kinh tế đối ngoại, Chính phủ

đã ban hành một số chính sách u đãi đối với khu vực kinh tế cửa khẩu biên giới. Đặc
biệt, các quyết định 53/QĐ-TTg ngày 19/4/2001 của Thủ tớng Chính phủ về chính sách
đối với khu kinh tế cửa khẩu; Quyết định 186/2001/QĐ-TTg ngày 7/12/2001 về phát
triển kinh tế-xã hội ở 6 tỉnh đặc biệt khó khăn miền núi biên giới phía Bắc thời kỳ 2001
- 2005 là những cơ sở tiền đề quan trọng cho việc phát triển quan hệ kinh tế thơng mại
Việt - Trung. Theo nội dung của quyết định 53/2001/QĐ-TTg của Chính phủ, nhà nớc
đặc biệt u đãi đầu t xây dựng cơ sở hạ tầng khu vực cửa khẩu bằng nguồn vốn vay u đãi
nhà nớc, cho phép các tỉnh biên giới có số thu ngân sách dới 50 tỷ đồng/năm thì đợc
đầu t trở lại 100% để xây dựng cơ sở hạ tầng, có số thu từ 50 tỷ đồng trở lên thì đợc đầu
t trở lại 50 tỷ đồng và 50% số thu còn lại. Đối với thơng mại du lịch cũng đợc dặc biệt
Phạm Ngọc Nam A6-K18B
- 14 -
Quan hệ kinh tế, thơng mại Việt Nam- Trung Quốc hiện tại và triển vọng
quan tâm, các hoạt động thơng mại đợc hởng các u đãi về buôn bán biên giới theo các
văn bản nhà nớc ta đã ký kết với các nớc láng giềng. Về đầu t trong nớc và nớc ngoài
vào khu kinh tế của khẩu ngoài quyền đợc hởng các u đãi hiện hành về thuế, các doanh
nghiệp đầu t còn đợc giảm thêm 50% giá thuê đất và mặt nớc so với mức giá cho thuê
đất, mặt nớc đang áp dụng tại khu kinh tế của khẩu đó. Với mục tiêu phát triển kinh tế -
xã hội ở 6 tỉnh đặc biệt khó khăn miền núi phía bắc thời kỳ 2001 - 2005, quyết định số
186/2001/QĐ-TTg đã giải quyết đợc nhiều vần đề bức xúc trong phát triển kinh tế các
tỉnh miền núi phía Bắc, đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho đầu t phát triển cơ sở hạ
tầng kinh tế và xã hội, tập trung quy hoạch và huy động mọi nguồn lực để phát triển
giao thông, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt phát huy lợi thế cửa khẩu, các di tích
lịch sử và danh lam thắng cảnh để phát triển ngành thơng mại, du lịch, dịch vụ tạo động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của toàn vùng.
2.2. Chính sách phát triển kinh tế - thơng mại của Trung Quốc đối với việt Nam
Trung Quốc có một hệ thống chính sách đối ngoại khá chặt chẽ, đặc biệt là
chính sách biên giới mềm, coi nặng lợi ích cục bộ, dân tộc. Hoạt động mậu dịch biên
giới đối với các nớc có chung đờng biên giới đặc biệt là Việt Nam đợc quản lý một cách
chặt chẽ và hệ thống từ Chính phủ cho tới các địa phơng, có sự phối hợp chặt chẽ giữa

các cơ quan hữu quan theo đúng tinh thần mà Quốc Vụ Viện đa ra là :
Khẩn trơng định ra biện pháp quản lý đồng bộ, tích cực ủng hộ mậu dịch biên giới.
Tăng cờng sự lãnh đạo và quản lý dối với mậu dịch biên giới, thúc đẩy mậu dịch
biên giới phát triển lành mạnh.
Điều chỉnh, quy phạm hoá các biện pháp chính sách mậu dịch biên giới theo hớng
thể chế hoá kinh tế thị trờng Xã hội Chủ Nghĩa.
Thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế khu vực biên giới, tăng cờng đoàn kết dân
tộc, phồn vinh và ổn định vùng biên giới, củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị
láng giềng với các nớc xung quanh .
Trong quan hệ buôn bán với các nớc láng giềng, đặc biệt là với Việt Nam, Trung
Quốc xây dựng chiến lợc biên mậu biên giới, đồng thời tiến hành hai hình thức buôn
Phạm Ngọc Nam A6-K18B
- 15 -
Quan hệ kinh tế, thơng mại Việt Nam- Trung Quốc hiện tại và triển vọng
bán chính ngạch và biên mậu, áp dụng các chính sách u đãi về thuế, nhằm phát huy mọi
lợi thế về địa lý để phát triển kinh tế vùng biên giới. Với chính sách thơng mại trên, vào
đầu những năm 1990, Trung Quốc bắt đầu có sự thay đổi về chính sách đối ngoại với
Việt Nam. Tiếp theo sự tăng cờng về quan hệ chính trị, Trung Quốc bắt đầu coi trọng
hợp tác kinh tế và thơng mại với Việt Nam, nhất là sau khi Việt Nam ra nhập ASEAN
thì Trung Quốc coi Việt Nam là đối tác quan trọng trong khu vực. Với chiến lợc lâu dài,
Trung Quốc không muốn Việt Nam mạnh lên, nhng trớc xu hớng phát triển của thế
giới đã buộc Trung Quốc phải suy xét, tính toán vừa khai thác đợc thị trờng Việt Nam,
vừa thông qua thị trờng việt Nam để thâm nhập vào các thị trờng khác trong ASEAN
nhất là Lào và Campuchia.
Tóm lại, Trung Quốc đã xây dựng một hệ thống chính sách điều hành hoạt động
kinh tế thơng mại với Việt Nam theo các định hớng cơ bản sau:
Triệt để áp dụng hình thức buôn bán biên mậu, Chính phủ Trung Quốc dành nhiều -
u đãi về thuế quan cho các Tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam. Hàng hoá
của các doanh nghiệp mậu dịch tiểu ngạch biên giới đợc miễn 50 % thuế nhập khẩu
và thuế giá trị gia tăng; hàng hoá của c dân biên giới nhập khẩu qua biên giới.

Xây dựng hoàn chỉnh chiến lợc khai thác kinh tế Vịnh Bắc Bộ với dự kiến xây dựng
vòng cung kinh tế kết nối Dơng Phố - Khâm Châu( Quảng Tây) với Hải Phòng( Việt
Nam ). Trung Quốc xây dựng mạng lới giao thông đờng sắt, đờng bộ kết nối toàn
khu vực, tăng cờng thăm dò, khai thác Vịnh Bắc Bộ.
Trung Quốc chủ trơng sử dụng thị trờng Việt Nam để bổ sung cho Tây Nam, đồng
thời sử dụng chính sách biên giới mềm để kìm hãm kinh tế Việt Nam với các nội
dung nh sau:
+ Lợi dụng biên giới trên bộ, trên biển để xuất hàng tồn kho, hàng kém phẩm chất
vào Việt Nam, đồng thời thu hút nguyên liệu, khoáng sản, lơng thực, thực phẩm.
+ Một mặt Trung Quốc khuyến khích, tạo mọi điều kiện để xuất khẩu hàng hoá
(chủ yếu là hàng tiêu dùng chất lợng bình thờng và thấp) sang Việt Nam. Mặt
khác lại sử dụng các biện pháp hạn chế bằng hạn ngạch, ép giá để gây sức ép với
hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Phạm Ngọc Nam A6-K18B
- 16 -
Quan hệ kinh tế, thơng mại Việt Nam- Trung Quốc hiện tại và triển vọng
Nh ta đã biết Trung Quốc có 2 tỉnh ( khu tự trị ) biên giới Quảng Tây và Vân Nam tiếp
giáp với Việt Nam. Đối với 2 tỉnh này, ngay từ khi bình thờng quan hệ giữa hai nớc
Trung Quốc đã áp dụng chiến lợc Biên giới mềm , mọi hoạt động thơng mại biên giới
đợc chỉ đạo tập trung thống nhất ở cơ quan đầu mối là Ban biên mậu, cơ quan này có đủ
quyền hạn để quản lý , chỉ đạo toàn bộ các hoạt động có liên quan đến biên giới.
Chính sách mậu dịch biên giới ở Quảng Tây:
Các chính sách hiện hành của Trung Quốc có liên quan đến mậu dịch biên giới
ở Quảng Tây gồm có:
- Thông t của Quốc Vụ Viện về vấn đề liên quan đến mậu dịch biên giới .
- Biện pháp quản lý hợp tác kinh tế kỹ thuật đối ngoại đối với mậu dịch tiểu ngạch
biên giới và khu vực biên giới của Bộ Kinh tế mậu dịch đối ngoại và Tổng cục Hải
quan.
- Biện pháp thực thi quản lý nhập khẩu sản phẩm cơ điện mậu dịch tiểu ngạch biên
giới của Ban xuất nhập khẩu cơ điện cơ điện nhà nớc.

- Thông tri của Chính phủ nhân dân Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây Trung
Quốc quán triệt về vấn đề liên quan đến mậu dịch biên giới của Quốc Vụ Viện.
- Quy định tạm thời về quản lý mậu dịch hỗ thị đối với c dân vùng biên giới Quảng
Tây.
- Quy định của địa khu Nam Ninh về mậu dịch biên giới.
- Biện pháp quản lý mậu dịch hỗ thị của c dân vùng biên giới và mậu dịch tiểu ngạch
biên giới của Chính phủ nhân dân Thành phố Bằng Tờng .
Các chính sách hiện hành nói trên có những quy định rất thuận lợi cho việc xây
dựng khu mậu dịch biên giới đó là:
- Quy định về miễn thuế nhập khẩu đối với c dân vùng biên với trị giá dới 1000 nhân
dân tệ mỗi ngời mỗi ngày.
- Quy định giảm thuế nhập khẩu mậu dịch tiểu ngạch biên giới.
Phạm Ngọc Nam A6-K18B
- 17 -
Quan hệ kinh tế, thơng mại Việt Nam- Trung Quốc hiện tại và triển vọng
- Miễn đối ngạch xuất khẩu và giấy phép .
- Quy định miễn thuế xuất nhập khẩu trong điều khoản hợp tác kinh tế kỹ thuật.
Những quy định và chính sách tạo thuận lợi nói trên đã thúc đẩy sự phát triển
trung tâm mậu dịch Pò Chài - Quảng Tây, làm cho Pò Chài trở thành một trong những
điểm thực hiện chính sách biên mậu thành công nhất của Trung Quốc .
Chính sách về phát triển mậu dịch biên giới tỉnh Vân Nam.
Nhằm quán triệt Thông t quy định bổ sung và phát triển hơn nữa mậu dịch biên
giới của Bộ mậu dịch và hợp tác kinh tế đối ngoại và Tổng cục Hải quan, đồng thời
củng cố và phát triển hơn nữa mối quan hệ hợp tác mậu dịch kinh tế với Việt Nam,
Chính quyền nhân dân Tỉnh Vân Nam và các ngành hữu quan đã quán triệt và thực hiện
thông t nói trên với các nội dung chủ yếu sau đây:
- Về quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu: Cục biên mậu tỉnh chịu trách nhiệm phân phối
hạn ngạch xuất khẩu đối với những hàng hoá nhà nớc quản lý trọng điểm, Cục biên
mậu tỉnh chịu trách nhiệm phân phối hạn ngạch xuất khẩu cho doanh nghiệp biên
mậu trong hạn ngạch xuất khẩu mà Bộ Mậu dịch hợp tác đối ngoại cấp, Hải quan

cửa khẩu căn cứ giấy phép để làm thủ tục kiểm tra. Nhà nớc quản lý hạn ngạch nhập
khẩu hàng hoá sản xuất từ các nớc láng giềng, Cục biên mậu tỉnh tiến hành phân
phối hạn ngạch nhập khẩu trên cơ sở hạn lợng đã đợc Bộ mậu dịch và kinh tế đối
ngoại cấp cho cả năm, Hải quan căn cứ giấy phép để kiểm tra hang nhập khẩu tại
cửa khẩu.
- Về quản lý dự án hợp tác kinh tế kỹ thuật đối ngoại: Doanh nghiệp tiến hành hợp
tác kinh tế kỹ thuật nh công trình bao thầu, hợp tác lao động, t vấn thiết kế ... và ký
hợp đồng đối ngoại phải báo cáo Cục biên mậu tỉnh để xin giấy phép phê duyệt.
Hàng hoá do các nớc láng giềng sản xuất đợc mang về theo hạng mục hợp tác kinh
tế kỹ thuật với các nớc láng giềng, ngoài xe ôtô và linh kiện thì doanh nghiệp đợc
nhập khẩu theo hạng mục, không phải xin giấy phép. Hàng hoá thuộc diện quản lý
chính ngạch nhập khẩu theo dự án kinh tế kỹ thuật với 3 nớc Việt Nam, Mianma,
Lào do Vụ mậu dịch và hợp tác kinh tế đối ngoại phê duyệt .
Phạm Ngọc Nam A6-K18B
- 18 -
Quan hệ kinh tế, thơng mại Việt Nam- Trung Quốc hiện tại và triển vọng
- Về quản lý doanh nghiệp biên mậu: Doanh nghiệp sản xuất, lu thông xin đăng ký
kinh doanh mậu dịch tiểu ngạch biên giới phải có đủ các điều kiện sau:
+ Phải đợc cơ quan quản lý hành chính công thơng đăng ký pháp nhân
+ Doanh nghiệp phải đăng ký vốn pháp định trên 500.000 nhân dân tệ trở lên
+ Doanh nghiệp phải có tài sản cố định ở khu vực biên giới trên 1 triệu nhân
dân tệ
- Quản lý chợ biên giới: Chính quyền nhân dân tỉnh phê duyệt thành lập chợ biên
giới trên cơ sở báo cáo của Châu biên giới. Hàng hoá của c dân biên giới nhập khẩu
qua chợ biên giới nếu trị giá dới 3.000 nhân dân tệ đợc miễn thuế nhập khẩu.
- Quản lý hành chính mậu dịch biên giới: Chính quyền Châu, Chính quyền Huyện cửa
khẩu chỉ đạo các cơ quan quản lý nh Hải quan, Công thơng, Thuế vụ, Thơng kiểm,
Kiểm dịch động vật, thực vật tiến hành kiểm tra, kiểm dịch và thu thuế đối với hàng
hoá xuất nhập khẩu trên địa bàn quản lý theo đúng chức năng nhiệm vụ của từng
ngành.

Chơng II
Thực trạng về quan hệ kinh tế, Thơng Mại
giữa Việt Nam và Trung Quốc.
I. Thực trạng về quan hệ kinh tế, Thơng Mại giữa Việt Nam và
Trung Quốc trong hơn 10 năm qua.
1. Hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc thời kỳ 1991 - đến
nay.
Kể từ khi bình thờng hoá hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung
Quốc đã phát triển theo chiều hớng hoàn thiện hơn, tích cực hơn và đã đạt đợc những
thành tựu đáng kể. Trớc hết, điều dễ dàng nhận thấy là hoạt động ngoại thơng giữa hai
nớc đợc thực hiện thông qua nhiều phơng thức khác nhau nh buôn bán chính ngạch,
Phạm Ngọc Nam A6-K18B
- 19 -
Quan hệ kinh tế, thơng mại Việt Nam- Trung Quốc hiện tại và triển vọng
buôn bán tiểu ngạch, tạm nhập tái xuất, trong đó buôn bán chính ngạch và buôn bán
tiểu ngạch là hai phơng thức chính. Đa dạng hoá về phơng thức trao đổi đã làm cho hoạt
động ngoại thơng giữa Việt Nam và Trung Quốc có nhiều nết đặc trng và cũng là lợi thế
của hai bên.
1.1. Kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều.
Từ năm 1991 đến nay, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nớc tăng lên nhanh
chóng và tăng đều qua các năm. Năm 1991 tổng kim ngạch hai chiều đạt 37,7 triệu
USD thì đến năm 2000 đạt 2.957,0 triệu USD, đặc biệt năm 2002 tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu hai chiều đã đạt 3.654,275 triệu USD tăng 97 lần so với năm 1991. Năm
2002 Tổng kim ngạch hai nớc đạt mức tăng trởng cao và tăng hơn 1,2 lần so với năm
2000 đã vợt sớm hơn mục tiêu 3 tỷ USD mà hai nớc đề ra. Trong đó kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc đạt 1.495,485 triệu USD (xem bảng 1) . Cần nói
thêm rằng, thơng mại Việt - Trung trong thống kê chính thức cha phản ánh đầy đủ tình
hình buôn bán sôi động giữa hai nớc vì rất khó đa vào thống kê hoạt động buôn lậu,
gian lận thơng mại đã và đang xảy ra trên biên giới. Tình trạng nhập lậu hàng hoá qua
biên giới và khai khống trị giá hàng xuất khẩu của một số doanh nghiệp xuất khẩu

nhằm gian lận trong việc hởng chế độ hoàn thuế VAT đang diễn ra với tính chất hết sức
nghiêm trọng. Nếu tính đầy đủ các con số này thì tình hình buôn bán hai chiều sẽ tăng
lên, đồng thời con số nhập siêu của Việt Nam vào các năm 2001, 2002 cũng lớn hơn so
với số liệu thống kê .
Bảng 1 : Kim ngạch XNK hàng hoá hai chiều
Việt Nam - Trung Quốc Thời kỳ 1991 - 2002
Đơn vị : Triệu USD
Năm Tổng kim ngạch Việt Nam xuất Việt Nam nhập
1991 37,7 19,3 18,4
1992 127,4 95,6 31,8
1993 221,3 135,8 85,5
1994 439,9 295,7 144,2
1995 691,6 361,9 329,7
1996 669,2 340,2 329,0
Phạm Ngọc Nam A6-K18B
- 20 -
Quan hệ kinh tế, thơng mại Việt Nam- Trung Quốc hiện tại và triển vọng
1997 878,5 471,1 404,4
1998 989,4 478,9 510,5
1999 1.542,3 858,9 683,4
2000 2.957,0 1.534,0 1.423,0
2001 3.047,221 1.418,092 1.629,129
2002 3.654,275 1.495,485 2.158,790
Nguồn: Hải quan Việt Nam ( Cục Công nghệ thông tin )
Nhìn chung trong một thời gian khá dài 1991- 2002, kim ngạch xuất nhập khẩu
giữa Việt Nam và Trung Quốc khá cân bằng, kim ngạch tăng đều qua các năm và chỉ
giảm nhẹ vào năm 1996. Sự biến động này có thể chấp nhận đợc do những dao động
của thị trờng qua hàng năm . Năm 1997, Việt Nam giảm nhập thiết bị cho các nhà máy
đờng, xi măng, nhất là đối với các thiết bị của nhà máy xi măng là đứng đã làm giảm
kim ngạch nhập khẩu, trong khi đó số lợng hàng xuất khẩu không giảm đã dẫn đến hiện

tợng xuất siêu khá cao đạt 11,2 triệu USD năm 1996, năm 1997 là 66,7 triệu USD. Bên
cạnh đó cũng còn có những nguyên nhân khác dẫn tới tình trạng xuất siêu do khủng
hoảng tài chính Châu á đã làm giảm nhu cầu nhập khẩu của các nớc Hàn Quốc, Thái
Lan, Indonesia ... là những đối tác thơng mại lớn của Việt Nam. Vì vậy, các Doanh
nghiệp xuất khẩu của Việt Nam phải tìm thị trờng tiêu thụ hàng hoá của mình tại Trung
Quốc. Số lợng hàng xuất khẩu của các vùng nội địa chiếm 75%-80% trong tổng số l-
ợng hàng xuất khẩu, lợng hàng xuất khẩu của vùng biên giới chỉ chiếm 20%- 25%.
Trong giai đoạn 1991- 2002 Việt Nam đã nâng cao đợc kim ngạch xuất nhập khẩu với
Trung Quốc và duy trì sự tăng trởng ổn định , bất chấp những biến động của nền kinh tế
khu vực và thế giới. Đây là một kế quả đáng ghi nhận trong trao đổi thơng mại nói
chung và trong quan hệ thơng mại Việt - Trung nói riêng.
1.2. Cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu.
1.2.1. Cơ cấu hàng xuất khẩu.
Trung Quốc là một trong những nớc có nền kinh tế khá phát triển trong khu vực
cũng nh trên thế giới. Với thế mạnh là giá rẻ, công nghệ sản xuất khá tiên tiến, mẫu mã
đẹp, sản phẩm của Trung Quốc không chỉ có u thế ở thị trờng Châu á mà còn chiếm
Phạm Ngọc Nam A6-K18B
- 21 -
Quan hệ kinh tế, thơng mại Việt Nam- Trung Quốc hiện tại và triển vọng
lĩnh đợc thị trờng các nớc Châu âu và Châu Mỹ. Một trong những khó khăn của Việt
Nam khi xuất khẩu hàng sang Trung Quốc là: những mặt hàng có thế mạnh của Việt
Nam nh gạo, chè, cà phê và một số sản phẩm nông nghiệp khác cũng là thế mạnh của
Trung Quốc nên những mặt hàng này rất khó mở rộng thị trờng và nâng cao số lợng
tiêu thụ tại thị trờng này.
Trong giai đoạn đầu sau khi bình thờng hoá quan hệ giữa hai nớc, hàng xuất
khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc chủ yếu là nông sản và một số loại khoáng sản
có thế mạnh nh quặng Crôm, dầu thô. Việc nhập khẩu các loại nguyên liệu thô này sẽ
giúp Trung Quốc giải quyết đợc khâu nguyên liệu cho các ngành sản xuất, chế biến
trong nớc, tận dụng giá lao động rẻ, tạo đợc nhiều công an việc làm cho ngời lao động
cũng nh nâng cao giá thành sản phẩm. Trớc yêu cầu cần phải giảm xuất khẩu nguyên

liệu thô và các sản phẩm cha qua chế biến. Trong những năm gần đây,Việt Nam đã và
đang giảm tỷ lệ xuất khẩu nguyên liệu để tận dụng sức lao động sáng tạo trong nớc sản
xuất sản phẩm thành phẩm rồi mới xuất khẩu. Tuy nhiên, một số nhóm hàng nh sản
phẩm nhựa giầy dép, hàng dệt may, máy tính và linh kiện, dây cáp điện, cao su, đờng
tinh cùng một số mặt hàng thực phẩm khác dã thâm nhập đợc vào thị trờng Trung
Quốc nhng với số lợng không còn rất khiêm tốn. Theo số liệu thống kê của Tổng cục
Hải quan, trong 2 năm 2001và 2002 ( Bảng 2 ) cho thấy, trị giá mặt hàng dệt may xuất
khẩu sang Trung Quốc là 34,8 triệu USD, chiếm 1,19% Tổng kim ngạch hàng xuất
khẩu; mặt hàng giầy dép các loại là 12,39 triệu USD, chiếm 0,42% trong tổng kim
ngạch xuất khẩu.
Bảng 2 : Một số mặt hàng chủ yếu Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc trong 2 năm
( 2001 - 2002).
STT Tên hàng Tên đơn vị Lợng Trị giá (USD)
1 Cà phê
Tấn
15.319 6.527.400
2 Cao su
Tấn
256.868 139.886.124
3 Chè
Tấn
923 1.432.229
4 Dầu ăn
Tấn
26.517 8.684.757
5 Dầu thô
Tấn
6.613.963 1.206.235.328
6 Dây điện và dây cáp điện
USD

739.266
7 Đồ chơi trẻ em
USD
37.014
Phạm Ngọc Nam A6-K18B
- 22 -
Quan hệ kinh tế, thơng mại Việt Nam- Trung Quốc hiện tại và triển vọng
8 Đờng tinh
Tấn
86.678 25.691.988
9 Gạo
Tấn
11.368 2.225.554
10 Giày dép các loại
USD
12.349.157
11 Hải sản
USD
435.391.121
12 Hàng dệt may
USD
34.851.236
13 Rau quả
USD
264.330.461
14 Thủ công mỹ nghệ
USD
6.413.467
15 Hạt điều
Tấn

22.688 68.838.410
16 Hạt tiêu
Tấn
7.504 11.779.411
17 Lạc nhân
Tấn
2.248 1.168.352
18 Máy tính và linh kiện
USD
27.171.638
19 Sản phẩm gỗ
USD
19.689.651
20 Sản phẩm nhựa
USD
8.155.468
21 Than đá
Tấn
3.415.612 63.597.553
22 Thiếc
Tấn
490 2.509.020
23 Xe đạp và phụ tùng xe đạp
USD
101.176
24 Mỳ gói
USD
521.757
25 Quế
Tấn

18 35.863
Tổng 2.913.577.298
Nguồn: Hải Quan Việt Nam ( Cục Công nghệ thông tin )
1.2.2. Cơ cấu hàng nhập khẩu.
Nhìn chung, hàng nhập khẩu từ Trung Quốc khá phong phú về chủng loại song
chủ yếu là các mặt hàng đã qua chế biến và các sản phẩm công nghiệp. Tuỳ theo nhu
cầu tiêu thụ của từng năm, từng giai đoạn mà số lợng các mặt hàng nhập khẩu đã tăng
hoặc giảm. Theo con số thống kê của Tổng Cục Hải quan, trong giai đoạn 1991 - 1995,
các mặt nhập khẩu có trị giá lớn là xi măng là 5,15 triệu USD năm 1992, đến năm 1995
là 29,98 triệu USD; kính xây dựnglà 2,392 triệu USD năm 1992 đến năm 1995 là 10,88
triệu USD; thép xây dựng năm 1992 là 8,774 Triệu USD đến năm 1995 là 10,928 triệu
USD. Trong giai đoạn 1996 - 2002, cơ cấu hàng hoá nhập khẩu có sự thay đổi do nhà n-
ớc ta chủ trơng hạn chế nhập khẩu một số nhóm mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn trong kim
ngạch nhập khẩu giai đoạn 1991 - 1995 nh xi măng, kính xây dựng, thuốc bảo vệ thực
vật để bảo vệ và phát triển sản xuất trong nớc. Nhà nớc khuyến khích nhập một số mặt
Phạm Ngọc Nam A6-K18B
- 23 -
Quan hệ kinh tế, thơng mại Việt Nam- Trung Quốc hiện tại và triển vọng
hàng thiết yếu phục vụ sản xuất công nông nghiệp, các mặt hàng nhập khẩu chiếm tỷ
trọng lớn trong giai đoạn này là Máy móc thiết bị, phụ tùng, xăng dầu, nguyên vật liệu
dệt may, phân bón và linh kiện xe máy. Cũng theo số liệu thống kê của Tổng Cục Hải
quan, trong 2 năm 2001 và 2002 ( Bảng 3 ), ta đã nhập một lợng lớn máy móc thiết bị
với trị giá là 567,277 triệu USD chiếm tỷ trọng 14,9% trong tổng kim ngạch hàng nhập
khẩu; xăng dầu là 705,099 triệu USD chiếm tỷ trọng 18,6 ; nguyên vật liệu dệt may là
202,06 triệu USD và một số mặt hàng khác nh phân bón là 120,011 triệu USD... Các
mặt hàng máy móc thiết bị nhập khẩu của Trung Quốc chỉ ở trình độ kỹ thuật thấp hoặc
trung bình so với khu vực và thế giới, nhng khá phù hợp với trình độ phát triển của nớc
ta trong thời kỳ qua.
Đối với nhóm hàng tiêu dùng nhập khẩu, các sản phẩm của Trung Quốc đang
cạnh tranh rất mạnh với hàng sản xuất trong nớc do hàng Trung Quốc có mẫu mã đẹp,

đa dạng về chủng loại, tuy có chất lợng không cao, chủ yếu là hàng địa phơng nhng giá
rẻ, khá phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của thị trờng Việt Nam . Trớc thực tế đó đòi hỏi
các doanh nghiệp Việt Nam phải không ngừng nâng cao chất lợng sản phẩm trong nớc,
hạ giá thành để tăng tính cạnh tranh của các sản phẩm cùng loại trên thị trờng nội địa
và khẳng định sản phẩm của mình trên thị trờng khu vực cũng nh Quốc tế.
Bảng 3 : Một số mặt hàng chủ yếu Việt nam nhập khẩu từ Trung Quốc trong 2 năm
(2001 - 2002)
STT Tên hàng Tên đơn vị Lợng Trị giá ( USD)
1 Chất dẻo nguyên liệu
Tấn
19.815 15.471.206
2 Clinker
Tấn
19.690 383.484
3 Linh kiện điện tử và Vi tính
USD
64.227.418
4 Máy móc thiết bị, phụ tùng
USD
567.277.230
5 NVL dệt may da
USD
202.060.525
6 Ôtô dạng CKD,SKD
Bộ
96 742.160
7 Ôtô nguyên chiếc
Chiếc
673 8.299.078
8 Phân bón các loại

Tấn
810.109 120.011.236
Phạm Ngọc Nam A6-K18B
- 24 -
Quan hệ kinh tế, thơng mại Việt Nam- Trung Quốc hiện tại và triển vọng
9 Sắt thép các loại
Tấn
548.668 123.801.744
10 Tân dợc
USD
12.524.006
11 Xăng dầu các loại
USD
3.038.758 705.099.337
12 Xe máy dạng CKD,IKD
Bộ
632.204 121.890.246
Tổng 3.787.920.368
Nguồn: Hải Quan Việt Nam ( Cục Công nghệ thông tin )
1.3.Một số nhận xét đánh giá chung.
Kết quả và thuận lợi:
- Phát triển quan hệ kinh tế- thơng mại giữa hai nớc làm giảm đi những căng thẳng về
chính trị, tạo nên sự ổn định về an ninh, chính trị và trật tự an toàn khu vực biên giới,
đó là môi trờng tốt cho phát triển kinh tế - thơng mại giữa hai nớc trong thời gian
qua.
- Giao lu kinh tế - thơng mại giữa hai nớc đã khắc phục đợc tình trạng khan hiếm
hàng hoá trong thời kỳ đầu chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung sang nền
kinh tế thị trờng. Đáp ứng cơ bản nhu cầu tiêu dùng của nhân dân hai nớc trong thời
kỳ cải cách, mở cửa.
- Thu hút đợc nhiều thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động kinh tế đối ngoại, tạo

ra nhiều việc làm cho ngời lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo,cải thiện đời
sống kinh tế xã hội nói chung và đời sống của nhân dân khu vực biên giới nói riêng.
- Mở rộng quan hệ thơng mại với Trung Quốc giúp ta tiêu thụ đợc nhiều hàng hoá là
thế mạnh nh nông sản, hải sản, khoáng sản, hàng thủ công mỹ nghệ... sang thị trờng
gần, có chi phí vận chuyển thấp lại là thị trờng dễ tính không đòi hỏi quá cao về tiêu
chuẩn chất lợng cũng nh mẫu mã của sản phẩm.
- Hàng hoá nhập khẩu từ Trung Quốc có u điểm là giá rẻ, mẫu mã khá đẹp, phù hợp
với thị hiếu tiêu dùng của thị trờng nớc ta trong giai đoạn 1991 1995. Những
nhóm hàng máy móc phục vụ sản xuất công, nông nghiệp tuy trình độ công nghệ ở
mức trung bình nhng phù hợp với trình độ phát triển của ta trong giai đoạn đầu của
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc; những hàng hoá là nguyên vật liệu
Phạm Ngọc Nam A6-K18B
- 25 -

×