Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Chuyên đề MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ NHỮNG NỘI DUNG MỚI TRONG XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH QUY ĐỊNH TRONG LUẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (479.18 KB, 25 trang )

Chuyên đề 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ
NHỮNG NỘI DUNG MỚI TRONG XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
QUY ĐỊNH TRONG LUẬT SỐ 67/2020/QH14 NGÀY 13/11/20201
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trải qua hơn 50 năm hình thành và phát triển, kể từ sau cách mạng tháng
Tám năm 1945, pháp luật về xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC) ở nước ta đã
từng bước được hình thành, tồn tại và phát triển, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà
nước, phòng ngừa và đấu tranh chống vi phạm hành chính có hiệu quả, bảo đảm
ổn định an ninh, trật tự an tồn xã hội, góp phần to lớn trong việc bảo đảm để Nhà
nước thực hiện các nhiệm vụ chiến lược trong từng giai đoạn của cách mạng Việt
Nam. Thực tế quản lý những năm gần đây càng chứng tỏ XLVPHC nói chung và
xử phạt vi phạm hành chính (XPVPHC) nói riêng là cơng cụ quan trọng trong
hoạt động quản lý nhà nước nhằm duy trì trật tự, kỷ cương của Nhà nước trong
quản lý hành chính. Đây cũng là vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền con người,
quyền công dân, liên quan đến cuộc sống hàng ngày của người dân được Đảng,
Nhà nước và toàn xã hội hết sức quan tâm.
Mặc dù được ban hành lần đầu tiên vào năm 1989 dưới hình thức Pháp lệnh
và từng bước được hoàn thiện dần qua bốn lần sửa đổi, bổ sung2 và cùng với các
văn bản hướng dẫn thi hành hợp thành hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật
về xử lý vi phạm hành chính nhưng qua gần 10 năm thực hiện (kể từ thời điểm
PLXLVPHC 2002 được ban hành cho đến thời điểm ban hành Luật XLVPHC
2012), hệ thống pháp luật về XLVPHC đã bộc lộ những hạn chế, bất cập đòi hỏi
phải khẩn trương nghiên cứu, điều chỉnh, nhằm đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của
đời sống kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn phát triển mới. Điều đó có
nghĩa cần thiết phải xây dựng và ban hành Luật XLVPHC để đáp ứng yêu cầu
thực tiễn quản lý nhà nước, quản lý xã hội trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, với
thời gian thực thi trong đời sống xã hội Luật XLVPHC 2012 đã bộc lộ những khó
khăn, vướng mắc, bất cập phát sinh đòi hỏi phải được khẩn trương sửa đổi, bổ
sung để đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong giai đoạn hiện nay, ngày 13/11/2020,
Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số


điều của Luật XLVPHC 2012.

Chuyên đề do ThS. Đặng Thanh Sơn- Cục trƣởng Cục Quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo
dõi thi hành pháp luật, Bộ Tƣ pháp biên soạn.
1

2

Đó là các lần cụ thể được sửa đổi, bổ sung sau đây: Pháp lệnh XLVPHC ngày 06/7/1995; Pháp lệnh
XLVPHC ngày 02/7/2002; Pháp lệnh XLVPHC ngày 08/3/2007; Pháp lệnh XLVPHC ngày 02/4/2008.

3


Nội dung Chuyên đề này tập trung giới thiệu những nội dung cơ bản của
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật XLVPHC năm 2012; Nghị định số
19/2020/NĐ-0CP về kiểm tra, xử lý kỷ luật trong thi hành pháp luật về XLVPHC.
II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT SỐ 67/2020/QH14
SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM
HÀNH CHÍNH SỐ 15/2012/QH13
1. Sự cần thiết ban hành Luật được xác định trên cơ sở chính trị pháp lý
và cơ sở thực tiễn thực thi Luật XLVPHC 2012 và các văn bản quy định chi tiết
thi hành Luật.
Về cơ sở chính trị pháp lý: Một là, văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XII của Đảng đã nêu: “Hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm tính đồng
bộ, thống nhất, cơng khai, minh bạch, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội và hội nhập quốc tế. Trong những năm tới, đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp
luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để
Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát

quyền lực nhà nước”. Trên cơ sở chủ trương, định hướng của Đảng, Nhà nước
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách hành chính, cải cách tư
pháp, thực hiện việc quy phạm hóa các quyền tự do dân chủ, quyền con người,
quyền công dân bằng các quy định của pháp luật. Hai là, theo quy định tại
khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 thì “quyền con người, quyền cơng dân
chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do
quốc phịng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe
của cộng đồng”. Ba là, bên cạnh đó, trong thời gian từ cuối năm 2012 đến trước
năm 2020, một số Bộ luật, Luật mới đã được ban hành như: Bộ luật hình sự năm
2015 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017); Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015; Luật cạnh tranh năm 2018; Luật quản lý ngoại thương năm 2017; Luật
dược năm 2016; Luật thú y năm 2015; Luật an toàn, vệ sinh lao động năm 2015;
Pháp lệnh quản lý thị trường năm 2016; Luật bảo hiểm xã hội năm 2014… các
văn bản luật nói trên được ban hành đã đặt ra yêu cầu cấp thiết phải rà soát, sửa
đổi, bổ sung, bãi bỏ một số các quy định tại Luật XLVPHC để bảo đảm sự thống
nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật và hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng,
chống vi phạm hành chính.
Do vậy, việc thể chế kịp thời, đầy đủ đường lối của Đảng, cụ thể hóa quy
định của Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân, tiếp tục sửa đổi, bổ sung
các quy định còn hạn chế, vướng mắc để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong
hệ thống pháp luật và khắc phục những bất cập trong thi hành Luật XLVPHC
2012 là cần thiết.
4


Về cơ sở thực tiễn: Xử lý vi phạm hành chính nói chung và xử phạt vi
phạm hành chính nói riêng là công cụ quan trọng trong hoạt động quản lý nhà
nước nhằm duy trì trật tự, kỷ cương trong quản lý hành chính của Nhà nước.
Đây cũng là vấn đề trực tiếp liên quan đến đời sống nhân dân, có ảnh hưởng
lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Sau gần 08 năm triển

khai thi hành, bên cạnh những kết quả đạt được, Luật XLVPHC 2012 đã phát
sinh một số vướng mắc, bất cập lớn, đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung để bảo đảm
tính thống nhất, đồng bộ với các văn bản pháp luật khác có liên quan và phù
hợp với tình hình thực tiễn, cụ thể là: Thứ nhất, đối với công tác xử phạt vi
phạm hành chính, khó khăn, vướng mắc chủ yếu tập trung vào những vấn đề
như: Mức phạt tiền tối đa trong một số lĩnh vực còn quá thấp, thiếu tính răn đe;
sự thay đổi tên gọi, chức năng, nhiệm vụ của các chức danh có thẩm quyền xử
phạt vi phạm hành chính dẫn đến thay đổi về thẩm quyền xử phạt; thẩm quyền
tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm bị giới hạn bởi thẩm quyền phạt tiền dẫn
đến tình trạng dồn quá nhiều vụ việc lên cơ quan cấp trên; các quy định về thời
hạn, thời hiệu thực hiện các công việc chưa phù hợp thực tế; thủ tục xử lý tang
vật, phương tiện vi phạm hành chính cịn nhiều bất cập, khiến cho việc xử lý
tang vật, phương tiện bị tạm giữ, tịch thu gặp nhiều khó khăn; việc thi hành và
cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính cũng có những hạn
chế nhất định do các quy định của Luật liên quan đến vấn đề này chưa đầy đủ,
thiếu thống nhất…Thứ hai, đối với việc áp dụng các biện pháp xử lý hành
chính, khó khăn, vướng mắc chủ yếu tập trung vào những vấn đề như: Việc quy
định điều kiện, đối tượng áp dụng các biện pháp xử lý hành chính theo Luật
XLVPHC hiện hành khiến cho việc triển khai công tác này trên thực tế rất hạn
chế (đặc biệt là quy định “02 lần trong 06 tháng” thực hiện hành vi vi phạm);
thời gian lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc bị kéo dài không cần thiết do đối tượng phải trải qua biện pháp tiền đề
giáo dục tại xã, phường, thị trấn; các quy định liên quan đến trình tự, thủ tục áp
dụng biện pháp xử lý hành chính còn rườm rà, nhiều quy định chưa thống nhất;
một số quy định thiếu tính khả thi (ví dụ: Điều 131 Luật XLVPHC về việc giao
tổ chức xã hội quản lý người có hành vi vi phạm pháp luật trong thời gian lập
hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính do Tịa án nhân dân xem
xét, quyết định đã khơng thể thực hiện do khơng có tính khả thi trong thực
tiễn)...Thứ ba, đối với cơng tác quản lý thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính, việc quy định chế độ báo cáo định kỳ 06 tháng gây nhiều khó khăn cho các

Bộ, ngành, địa phương và các cơ quan, đơn vị trực tiếp thực hiện việc thống kê,
tổng hợp báo cáo.
Xuất phát từ cơ sở chính trị, pháp lý và thực tiễn nêu trên, việc khẩn
trương nghiên cứu, xây dựng và ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
5


của Luật XLVPHC 2012 là hết sức cần thiết nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật
về xử lý vi phạm hành chính, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả cơng tác quản lý và
thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật XLVPHC đã được Chính phủ
trình Quốc hội nước CHXHCNVN khóa XIV xem xét cho ý kiến tại kỳ họp thứ 9
và xem xét thông qua tại kỳ họp thứ 10 theo đúng tinh thần Nghị quyết số
78/2019/QH143.
2. Mục đích ban hành Luật: Việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật XLVPHC nhằm tiếp tục hồn thiện các cơ chế, chính sách, trình
tự, thủ tục trong pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và khắc phục tối đa
những hạn chế, bất cập trong các quy định của Luật XLVPHC, góp phần bảo
đảm hiệu lực, hiệu quả của công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính trên thực tế, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội.
3. Quan điểm chỉ đạo xây dựng Luật: Việc xây dựng Luật được dựa
trên 04 quan điểm chỉ đạo chủ yếu, đó là: Một là, tiếp tục thể chế hóa các chủ
trương, chính sách của Đảng về cải cách hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp và
cải cách hành chính được xác định trong Nghị quyết số 48-NQ/TW4, Kết luận số
01-KL/TW5, Nghị quyết số 49-NQ/TW6; Chỉ thị số 36-CT/TW7. Hai là, sửa đổi,
bổ sung các nội dung liên quan trực tiếp đến những khó khăn, vướng mắc chủ
yếu trong thực tiễn thi hành pháp luật xử lý vi phạm hành chính. Theo đó, ở
thời điểm hiện tại, việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
XLVPHC chỉ tập trung sửa đổi, bổ sung những quy định đang cịn hạn chế, có

nhiều vướng mắc nhất khi áp dụng trên thực tế (khơng sửa đổi tồn diện nên
khơng xây dựng Luật thay thế Luật XLVPHC). Ba là, tăng cường tính cơng
khai, minh bạch, hiệu quả và bảo đảm dân chủ trong quy định về thủ tục xử lý
vi phạm hành chính; bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của
Nghị quyết số 78/2019/QH14 ngày 11/6/2019 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
năm 2020, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019.
Chiều ngày 13/11/2020, Quốc hội đã chính thức thơng qua Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật XLVPHC với tỷ lệ 92,53% đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.
Luật sẽ có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2022.
4
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hồn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
5
Kết luận số 01-KL/TW ngày 04/4/2016 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
6
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 cũng như thể chế hóa những chủ trương mới của Đảng nêu tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5, 6, 7
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.
7
Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 16/8/2019 của Bộ Chính trị về tăng cường, nâng cao hiệu quả cơng tác
phịng, chống và kiểm sốt ma túy.
3

6


người dân, nhất là người chưa thành niên; nâng cao hiệu lực, hiệu quả thi hành,
áp dụng pháp luật và quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính trong thực tiễn và bốn là bảo đảm tính tương thích của các quy định pháp

luật về xử lý vi phạm hành chính với các điều ước quốc tế có liên quan mà
Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, đặc biệt là một số công ước
quốc tế về quyền con người; bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống
pháp luật, trọng tâm là pháp luật về xử lý vi phạm hành chính với pháp luật về
phịng, chống ma túy, pháp luật hình sự.
4. Nội dung cơ bản cảu Luật số 67/2020/QH14
- Về bố cục, Luật số 67/2020/QH14 gồm có 04 điều, cụ thể: Điều 1. Sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật XLVPHC; Điều 2. Bổ sung, thay thế, bỏ một
số từ, cụm từ tại một số điều, khoản, điểm của Luật XLVPHC; Điều 3. Bãi bỏ
một số điều, khoản của Luật XLVPHC và Điều 4. Hiệu lực thi hành.
- Nội dung cơ bản của Luật: Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung
nội dung của 66/142 điều (trong đó 16 điều sửa đổi, bổ sung tồn diện), sửa kỹ
thuật 11/142 điều, bổ sung mới 04 điều, bãi bỏ 03 điều của Luật số
15/2012/QH13, cụ thể như sau:
4.1. Về các quy định chung: Đối với quy định chung tại Phần thứ nhất
của Luật XLVPHC năm 2012, những khó khăn, vướng mắc cần sửa đổi, bổ
sung tập trung chủ yếu vào các vấn đề như: (i) quy định về giải thích từ ngữ
“tái phạm” có sự khơng thống nhất với quy định “đã bị xử phạt vi phạm hành
chính mà cịn vi phạm” của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung
năm 2017)8; (ii) sự không thống nhất giữa quy định tại điểm d khoản 1 Điều 3
và điểm b khoản 1 Điều 10 của Luật XLVPHC năm 2012 về việc xử lý đối với
trường hợp “vi phạm hành chính nhiều lần”9 và (iii) Điều 12 Luật XLVPHC quy
định về những hành vi bị nghiêm cấm, tuy nhiên, trên thực tế, vẫn còn một số
Khoản 5 Điều 2 Luật XLVPHC năm 2012 quy định về khái niệm “ tái phạm” được sửa
đổi, bổ sung như sau: “5. Tái phạm là việc cá nhân, tổ chức đã bị ra quyết định xử phạt vi phạm hành
chính nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính mà lại thực hiện hành
vi vi phạm hành chính đã bị xử phạt; cá nhân đã bị ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính
nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính mà lại thực hiện
hành vi thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đó.” Khái niệm “ tái phạm” được sửa
đổi, bổ sung đã bảo đảm tính khái quát, đầy đủ, chinh xác, giải quyết được khó khăn vướng mắc

trong thực tiễn, bảo đảm tính thống nhất cảu hệ thống pháp luật.
8

9

Điểm d khoản 1 Điều 3 Luật XLVPHC năm 2012 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“d) …Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính hoặc vi phạm hành chính nhiều lần
thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm, trừ trường hợp hành vi vi phạm hành chính nhiều lần được Chính
phủ quy định là tình tiết tăng nặng”. Nội dung sửa đổi, bổ sung này nhằm giải quyết vướng mắc trong
thực tiễn thời gian qua và để bảo đảm tính thống nhất nội tại của Luật XLVPHC.

7


hành vi vi phạm thường xảy ra trong quá trình áp dụng pháp luật nhưng chưa được
Luật XLVPHC quy định là hành vi bị nghiêm cấm, cụ thể qua công tác thanh tra,
kiểm tra trực tiếp hồ sơ xử phạt và qua thực tiễn theo dõi công tác thi hành pháp
luật về xử lý vi phạm hành chính, Chính phủ nhận thấy rằng, một số sai phạm của
người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính thường xảy ra trong quá trình áp
dụng pháp luật nhưng chưa được Luật XLVPHC quy định là hành vi bị nghiêm
cấm, ví dụ: Xác định hành vi vi phạm hành chính khơng chính xác, áp dụng mức
phạt tiền không đúng… Do vậy, Luật đã bổ sung các hành vi nêu trên vào khoản
6 Điều 12 Luật XLVPHC2012 nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
4.2. Về xử phạt vi phạm hành chính:
Luật số 67/2020/QH14 tập trung sửa đổi, bổ sung các nội dung chủ yếu
sau
(i)Về tăng mức phạt tiền tối đa trong một số lĩnh vực: Mức phạt tiền tối đa
trong một số lĩnh vực quản lý nhà nước quá thấp so với sự phát triển kinh tế - xã
hội mặc dù tại thời điểm ban hành Luật (20/6/2012), mức phạt tiền tối đa được

quy định như vậy là phù hợp. Đặc biệt, sau gần 08 năm thi hành Luật, thực tiễn
cho thấy một số hành vi vi phạm trong các lĩnh vực xảy ra ngày càng phổ biến,
tinh vi, nguồn thu lợi bất hợp pháp là rất lớn, gây hậu quả lớn đến xã hội, làm thiệt
hại kinh tế, thậm chí làm ảnh hưởng tới tính mạng, sức khỏe của người dân nhưng
mức phạt tối đa áp dụng đối với hành vi vẫn chưa tương xứng với tính chất, mức
độ của vi phạm, thiếu tính rắn đe và khơng đủ sức phịng ngừa, hạn chế vi phạm
hành chính mới. Trong q trình xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung Luật XLVPHC,
những khó khăn, vướng mắc này đã được nhận định và được các bộ, ngành phản
ánh trực tiếp; qua công tác theo dõi thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính; qua các Báo cáo tổng kết thi hành các nghị định quy định về xử phạt vi
phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của các bộ, ngành. Bên
cạnh đó, cần thiết bổ sung vào Điều 24 của Luật một số lĩnh vực mới đã được
UBTVQH đồng ý quy định mức phạt tiền tối đa cụ thể làm căn cứ pháp lý để
Chính phủ quy định trong quá trình thi hành Luật XLVPHC những năm qua.
Thêm nữa, tên gọi một số lĩnh vực quy định tại Điều 24 của Luật cũng có sự thay
đổi trong các luật được thông qua sau khi Luật XLVPHC2012 được ban hành nên
cũng cần chỉnh sửa cho thống nhất. Do vậy, Luật đã sửa đổi, bổ sung theo hướng
tăng mức phạt tối đa trong 10 lĩnh vực quy định tại 24 cảu Luật XLVPHC 2012;
bổ sung mức phạt tối đa cho một số lĩnh vực chưa được quy định tại Điều 24 Luật
XLVPHC; chỉnh sửa tên gọi một số lĩnh vực cho phù hợp với các Luật hiện hành
ban hành sau Luật XLVPHC.

8


(ii) Về sửa đổi, bổ sung quy định về thẩm quyền XPVPHC: Luật số
67/2020/QH14 đã bổ sung các quy định liên quan đến thẩm quyền xử phạt của
các chức danh, cụ thể:
Một là, về các chức danh có thẩm quyền xử phạt, do Luật XLVPHC được
ban hành từ năm 2012, đến nay, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà

nước, cơ cấu, tổ chức, tên gọi của một số cơ quan, đơn vị cũng như những chức
danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đã có sự thay đổi, đòi hỏi phải sửa
đổi, bổ sung một số chức danh mới có thẩm quyền xử phạt trong các lĩnh vực quản
lý nhà nước cũng như bãi bỏ một số chức danh đã được quy định trong Luật nhưng
hiện nay khơng cịn thẩm quyền xử phạt. Do vậy, Luật đã sửa đổi, bổ sung theo
hướng sửa đổi tên gọi một số chức danh; bổ sung một số chức danh mới; xác định
lại thẩm quyền xử phạt của một số chức danh (đặc biệt là các chức danh thuộc lực
lượng thanh tra chuyên ngành).
Hai là, cách quy định thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện bị giới
hạn bởi thẩm quyền phạt tiền (tại các điều từ Điều 38 đến Điều 51 của Luật
XLVPHC) bộc lộ nhiều bất cập, làm phát sinh quá nhiều vụ việc vi phạm vượt
quá thẩm quyền xử phạt của cơ quan cấp dưới, và do vậy, bị dồn lên cơ quan cấp
trên do trong hầu hết các vụ vi phạm, giá trị của các tang vật, phương tiện
được sử dụng để vi phạm hành chính đều vượt quá mức phạt tiền thuộc thẩm
quyền xử phạt quy định đối với các chức danh có thẩm quyền xử phạt ở cấp
cơ sở. Do vậy, Luật đã sửa đổi quy định về thẩm quyền tịch thu tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính của một số chức danh cụ thể theo hướng
không bị giới hạn bởi thẩm quyền phạt tiền để đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Ba là, Điều 53 Luật XLVPHC2012 hiện hành chưa quy định cụ thể về thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính của một chức danh trong một số trường hợp
như: có sự thay đổi về tên gọi, đồng thời với thay đổi về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn hoặc khơng có sự thay đổi về tên gọi nhưng có sự thay đổi về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn. Do vậy, thực tế gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc
xác định thẩm quyền xử phạt của các chức danh khi các cơ quan của người có thẩm
quyền xử phạt có sự thay đổi về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn (ví dụ:
Trường hợp có sự thay đổi về tổ chức bộ máy của lực lượng Quản lý thị trường, của
lực lượng Công an nhân dân thời gian vừa qua, dẫn đến việc xác định thẩm quyền
xử phạt của các chức danh trong các lực lượng này gặp rất nhiều khó khăn). Xuất
phát từ khó khăn, vướng mắc trên, Luật đã sửa đổi, bổ sung Điều 53 để quy
định cụ thể về những trường hợp chức danh có thẩm quyền xử phạt có sự thay

đổi về tên gọi, đồng thời với thay đổi về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn hoặc
khơng có sự thay đổi về tên gọi nhưng có sự thay đổi về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn.
9


Bốn là, về vấn đề giao quyền, Luật XLVPHC chưa quy định cấp trưởng
giao cho cấp phó có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm
việc xử lý vi phạm hành chính cũng như các quyết định khác trong xử lý vi
phạm hành chính. Điều này khiến cho cấp phó dù được giao quyền quyết định
xử phạt vi phạm hành chính nhưng lại khơng thể thực thi nhiệm vụ một cách
đầy đủ. Trong thời gian được giao quyền, cấp phó có quyền hạn như cấp
trưởng đối với phạm vi được giao, trừ quyền áp dụng biện pháp tạm giữ
người theo thủ tục hành chính thì chỉ được thực hiện khi cấp trưởng vắng
mặt theo quy định tại Điều 123 của Luật XLVPHC.
(iii)Về sửa đổi, bổ sung quy định về thủ tục XPVPHC:
Thứ nhất, hiện nay Luật XLVPHC quy định thời gian tiến hành một số
công việc quá ngắn, chưa phù hợp thực tế, không bảo đảm tính khả thi; thủ tục
thực hiện một số cơng việc cũng chưa cụ thể dẫn đến sự lúng túng trong quá
trình áp dụng pháp luật (thủ tục lập biên bản vi phạm hành chính, ra quyết
định xử phạt vi phạm hành chính, giải trình…)… Do vậy, Luật đã sửa đổi, bổ
sung các quy định có liên quan nhằm tháo gỡ những vướng mắc, bất cập kể
trên, cụ thể: (i) Sửa đổi, bổ sung quy định về thời hạn thực hiện một số cơng việc
nhằm bảo đảm tính khả thi, đáp ứng yêu cầu thực tiễn: Tăng thời hạn định giá tang
vật, phương tiện vi phạm hành chính (tại Điều 60 dự kiến sửa đổi, bổ sung); tăng
thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính (tại Điều 66 dự kiến sửa đổi, bổ
sung); quy định cụ thể các loại thời hạn ra quyết định xử phạt, thời hạn tạm giữ tang
vật, phương tiện vi phạm hành chính, giấy phép, chứng chỉ hành nghề khác nhau
cho từng loại vụ việc (tại Điều 66, Điều 125 dự kiến sửa đổi, bổ sung)...(ii) Quy
định rõ thời hạn lập biên bản, địa điểm lập biên bản; bổ sung quy định về việc

lập, gửi biên bản vi phạm hành chính qua phương thức điện tử, đồng thời giao
Chính phủ quy định chi tiết nội dung này...(iii) Sửa đổi, bổ sung các quy định
liên quan đến trình tự, thủ tục giải trình nhằm bảo đảm tính khả thi trên thực tế.
Thứ hai, quy định về việc sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp
vụ trong việc phát hiện vi phạm hành chính cũng gặp một số vướng mắc trong
thực tiễn, chẳng hạn như các hành vi vi phạm hành chính diễn biến ngày càng
phức tạp về tính chất, tinh vi hơn về mức độ và nhiều hơn về số lượng trên các
lĩnh vực, có những hành vi khơng thể dùng “mắt thường” hoặc kinh nghiệm để
phát hiện mà đòi hỏi phải sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ, cần
nghiên cứu mở rộng các lĩnh vực được sử dụng phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ
trong việc phát hiện hành vi vi phạm hành chính.Thêm nữa, hiện nay, các
phương tiện, kỹ thuật được sử dụng khá phổ biến, từ camera đặt xung quanh
các trụ sở cơ quan, vườn hoa, công viên, phố đi bộ, các thiết bị giám sát hành
trình của phương tiện giao thơng... đều có thể ghi nhận được các hành vi vi
10


phạm hành chính. Việc xử phạt vi phạm hành chính dựa vào các thơng tin trích
xuất từ các phương tiện này sẽ rất văn minh, hiệu quả và tiết kiệm. Tuy nhiên,
pháp luật hiện hành lại không cho phép việc sử dụng kết quả thu được từ những
thiết bị này để làm căn cứ xử phạt. Do vậy, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi,
bổ sung Điều 64 Luật XLVPHC 2012 theo hướng mở rộng lĩnh vực được sử
dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để phát hiện vi phạm hành chính,
bao gồm trật tự, an tồn giao thơng, bảo vệ môi trường, cứu nạn, cứu hộ hoặc
lĩnh vực khác do Chính phủ quy định sau khi được sự đồng ý của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội; quy định rõ hơn về điều kiện, yêu cầu trong quản lý, sử
dụng, quy định danh mục các phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ; điều
kiện, yêu cầu trong sử dụng, bảo quản kết quả thu thập được bằng phương tiện,
thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ; giao Chính phủ quy định quy trình chuyển hóa kết
quả thu được từ các phương tiện, thiết bị do các cá nhân, tổ chức cung cấp

thành chứng cứ để xác định vi phạm hành chính.
Thứ ba, về xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ,
tịch thu: Thực tế thời gian vừa qua, số lượng phương tiện giao thông đường bộ
bị tạm giữ, tịch thu rất lớn, dẫn tới tình trạng quá tải tại các điểm trông giữ
phương tiện vi phạm, cơng tác quản lý gặp nhiều khó khăn. Điều này có
nguyên nhân xuất phát từ các quy định pháp luật về xử lý tang vật, phương tiện
vi phạm hành chính còn nhiều bất cập như: việc xác minh chủ sở hữu phương
tiện, việc xử lý đối với các phương tiện có giá trị thấp hoặc khơng cịn giá trị rất
khó khăn, mất nhiều thời gian; việc xử lý đối với tang vật, phương tiện đã quá
thời hạn tạm giữ mà không xác định được chủ sở hữu/ người vi phạm hoặc chủ
sở hữu/ người vi phạm khơng đến nhận cịn nhiều lúng túng, bị động…Do vậy,
Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan đến vấn
đề này, cụ thể: (i) Đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ,
khoản 4 Điều 126 được sửa đổi, bổ sung cụ thể, rõ ràng hơn trong việc thông
báo, niêm yết công khai về tang vật, phương tiện bị tạm giữ (số lần thông báo,
thời hạn thông báo, xử lý tài sản sau khi hết thời hạn thông báo, niêm yết công
khai…). (ii) Đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu, để
bảo đảm thống nhất với quy định của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công và các
văn bản hướng dẫn thi hành, Luật quy định theo hướng viện dẫn: “Tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính đã có quyết định tịch thu được xử lý theo quy
định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công” (bổ sung khoản 3 vào sau
khoản 2 Điều 81 Luật XLVPHC 2012), đồng thời, bãi bỏ Điều 82 Luật
XLVPHC 2012.
(iv) Về thi hành và cưỡng chế thi hành quyết định XPVPHC: Để cơ
bản giải quyết những vướng mắc, bất cập trong quá trình thi hành và cưỡng chế
11


thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, Luật số 67/2020/QH14 sửa
đổi, bổ sung về vấn đề này như sau:

Thứ nhất, Điều 76 và Điều 77 Luật XLVPHC 2012 khơng quy định hỗn
thi hành; giảm, miễn tiền phạt đối với tổ chức nên không kịp thời tháo gỡ khó
khăn cho doanh nghiệp khi gặp khó khăn về tài chính do thiên tai, hỏa hoạn, tai
nạn bất ngờ… Do vậy, tại Điều 76 sửa đổi, bổ sung, Luật số 67/2020/QH14 đã
bổ sung quy định về việc hoãn thi hành quyết định phạt tiền đối với tổ chức.
Thứ hai, Luật XLVPHC2012 chưa có quy định về thời hạn, thời hiệu thi
hành quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
Do vậy, tại Điều 88 Luật số 67/2020/QH14 đã bổ sung quy định cụ thể về thời
hạn, thời hiệu thi hành quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi
phạm hành chính.
Thứ ba, việc thi hành quyết định xử phạt và cưỡng chế thi hành quyết
định xử phạt vi phạm hành chính thời gian vừa qua cịn gặp nhiều khó khăn,
chưa triệt để, cịn một số lượng không nhỏ quyết định chưa được chấp hành. Có
rất nhiều nguyên nhân khiến cho hiệu quả của việc thi hành và cưỡng chế thi
hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính cịn hạn chế, nhiều quyết định xử
phạt vi phạm hành chính khơng được thi hành, không thể tổ chức cưỡng chế
hoặc cưỡng chế không hiệu quả, mục đích của cưỡng chế khơng đạt được,
trong đó có nguyên nhân xuất phát từ quy định về biện pháp cưỡng chế thi hành
quyết định xử phạt của Luật XLVPHC 2012 chưa đầy đủ, chưa phù hợp với
thực tiễn nên chưa đủ răn đe, chưa bảo đảm tính khả thi. Từ thực tế trên đây, tại
Điều 86 Luật XLVPHC2012, khi trình Quốc hội, Chính phủ đã đề xuất bổ sung
biện pháp cưỡng chế mới: đó là biện pháp “Ngừng cung cấp các dịch vụ điện,
nước tại địa điểm vi phạm đối với cá nhân, tổ chức vi phạm trong xây dựng
cơng trình, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ”. Tuy nhiên, vì một số lý do, đề xuất
này chưa được Quốc hội đồng ý thông qua.
4.4. Về các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm XLVPHC:
- Về biện pháp tạm giữ người theo thủ tục hành chính, Điều 122 Luật
XLVPH 2012 quy định chỉ được áp dụng biện pháp tạm giữ người theo thủ tục
hành chính trong trường hợp cần ngăn chặn, đình chỉ ngay những hành vi gây rối
trật tự cơng cộng, gây thương tích cho người khác. Tuy nhiên, qua theo dõi thi

hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, phản ánh của các Bộ, ngành, địa
phương và ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật trong quá trinh soạn thảo, Chính
phủ nhận thấy, việc quy định những trường hợp được áp dụng biện pháp tạm giữ
người theo thủ tục hành chính như Luật XLVPHC 2012 hiện hành là tương đối
hẹp, gây khó khăn cho việc thi hành Luật XLVPHC. Thực tiễn hiện nay cho thấy,
có rất nhiều trường hợp cần thiết phải áp dụng biện pháp tạm giữ người để tiến
12


hành xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ hoặc để ngăn chặn người vi phạm hành
chính bỏ trốn, tẩu tán, tiêu hủy hàng hóa, tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính như: chống người thi hành cơng vụ, trộm cắp tài sản, đánh bạc, các hành vi
khác chiếm đoạt tài sản, vận chuyển hàng cấm trong nội địa, hành vi liên quan đến
ma túy…, nếu không tạm giữ hành chính thì đối tượng bỏ trốn, gây khó khăn cho
cơng tác xác minh, xử lý về sau. Do vậy, để bảo đảm đầy đủ, khắc phục bất cập
trong thực tế hiện nay, nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người có thẩm
quyền trong thực hiện pháp luật, Luật quy định bổ sung vào khoản 1 Điều 122
Luật XLVPHC 2012 thêm một số trường hợp phải tạm giữ người theo thủ tục
hành chính, đó là “tạm giữ để thi hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng,
cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc và “tạm giữ để xác định tình
trạng nghiện ma túy”. Luật quy định bổ sung một số chức danh có thẩm quyền
tạm giữ người theo thủ tục hành chính nhằm bảo đảm thực hiện chức năng,
nhiệm vụ được giao, đó là: “Trưởng Cơng an xã, thị trấn đã tổ chức Cơng an
chính quy theo Luật Công an nhân dân;Trạm trưởng Trạm Kiểm ngư thuộc Chi
cục Kiểm ngư Vùng; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư Vùng;Cục trưởng Cục
Kiểm ngư ; Các Trưởng phịng ngiệp vụ QLTT”10. Bên cạnh đó, Luật sửa đổi,
bổ sung cũng “ tích hợp” một số trường hợp quy định tạm giữ người theo thủ
tục hành chính đã quy một số luật khác như Luật Phòng chống bạo lực gia đinh,
Luật Hải quan11…
- Về biện pháp Tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, giấy

phép, chứng chỉ hành nghề: Một là, theo quy định của Luật XLVPHC 2012
hiện hành, người có thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính thì đồng thời có thẩm quyền tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính, mà thẩm quyền tịch thu của mỗi chức danh theo quy định của Luật
XLVPHC 2012 hiện hành tại các điều từ Điều 38 đến Điều 51 Luật XLVPHC
lại bị giới hạn bởi thẩm quyền phạt tiền của chức danh đó, vậy thẩm quyền tạm
giữ có bị giới hạn bởi trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính khơng?
Luật XLVPHC 2012 hiện hành chưa có quy định cụ thể về vấn đề này. Do vậy,
Luật đã bổ sung vào khoản 3 Điều 125 Luật XLVPHC quy định cụ thể: thẩm
quyền tạm giữ không phụ thuộc vào giá trị của tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính. Hai là, theo quy định tại khoản 9 Điều 125 Luật XLVPHC 2012,
việc lập biên bản tạm giữ chỉ được thực hiện sau khi có quyết định tạm giữ và
trong biên bản tạm giữ cũng phải có chữ ký của người ra quyết định tạm giữ.
Các điểm b, đ, g khoản 1 Điều 123 Luật XLVPHC năm 2012 ( sửa đổi, bổ sung năm 2020).
Đó là các trường hợp được áp dụng biện pháp tạm giữ người khi “Cần ngăn chặn, đình chỉ ngay
hành vi bn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới” hoặc khi “Người có hành vi bạo lực
gia đình vi phạm quyết định cấm tiếp xúc theo quy định của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia
đình”. (Điểm b, d Khoản 1 Điều 122 Luật XLVPHC năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020).
10
11

13


Quy định này phát sinh 02 vướng mắc trên thực tế: thứ nhất, nếu phải ra quyết
định tạm giữ trước rồi mới lập biên bản tạm giữ và tiến hành tạm giữ đối với
tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề thì sẽ khơng bảo đảm
tính kịp thời, vì hầu hết các trường hợp cần phải lập biên bản tạm giữ ngay,
không thể “chờ đợi” việc ra quyết định tạm giữ; Hai là, không phải lúc nào
người ra quyết định tạm giữ cũng có mặt tại “hiện trường” để trực tiếp thực

hiện việc tạm giữ và ký vào biên bản tạm giữ. Do vậy, để giải quyết bất cập này,
Luật đã sửa đổi, bổ sung quy định về trình tự, thủ tục tạm giữ tang vật, phương tiện,
giấy phép, chứng chỉ hành nghề tại các khoản 4 và 9 Điều 125 Luật XLVPHC 2012
theo hướng: (i) Người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính đang giải
quyết vụ việc lập biên bản tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành
nghề; sau đó, trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi lập biên bản, người lập biên bản phải
báo cáo thủ trưởng của mình là người có thẩm quyền tạm giữ tang vật, phương tiện
vi phạm hành chính để xem xét ra quyết định tạm giữ; (ii) Bỏ quy định về việc
người có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ phải ký vào biên bản tạm giữ.
4.5. Về quản lý công tác thi hành pháp luật về XLVPHC:
Luật số 67/2020/QH14 bãi bỏ quy định về báo cáo công tác thi hành
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính định kỳ 06 tháng tại Điều 17 Luật
XLVPHC 2012 nhằm giảm bớt thủ tục yêu cầu các bộ, ngành, địa phương và
các cơ quan, đơn vị trực tiếp thực hiện việc thống kê, tổng hợp báo cáo.
6. Tổ chức hiệu quả việc thi hành Luật số 67/2020/QH14 và các văn
bản quy định chi tiế thi hành
Trong năm 2021, việc triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều Luật XLVPHC2012 là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Ngành
Tư pháp, đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn của các ngành, các cấp ở Trung ương và địa
phương. Để việc triển khai thi hành Luật được kịp thời, đầy đủ, thống nhất,
hiệu quả địi hỏi phải thực hiện đồng bộ nhiều cơng việc được giao theo Quyết
định số 126/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 26/01/2021 ban hành Kế
hoạch triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi
phạm hành chính, trong đó cần đặc biệt lưu ý 05 vấn đề chủ yếu, đó là:
(i) Cơng tác chỉ đạo, điều hành cần chủ động, khẩn trương, thiết thực,
bảo đảm đúng tiến độ, chất lượng, hiệu quả, tiết kiệm, tránh hình thức, lãng phí.
(ii) Tổ chức Hội nghị triển khai thi hành Luật để bảo đảm triển khai thực
hiện Luật kịp thời, đầy đủ và thống nhất trên toàn quốc.

14



(iii) Rà soát, xây dựng VBQPPL sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ và ban
hành mới các VBQPPL để bảo đảm phù hợp, thống nhất, đồng bộ với Luật số
67/2020/QH14 nhằm tiếp tục hoàn thiện thể chế, pháp luật về XLVPHC12.
(iv) Tích cực tuyên truyền, phổ biến sâu rộng Luật sửa đổi, bổ sung Luật
XLVPHC; tăng cường công tác bồi dưỡng, tập huấn chuyên sâu nghiệp vụ áp
dụng pháp luật về XLVPHC.
(v) Tăng cường công tác phối hợp trong triển khai thi hành Luật để triển
khai thi hành Luật được kịp thời, đồng bộ và thống nhất, phát huy trách nhiệm,
tính chủ động, tích cực của các bộ, cơ quan ngang bộ, các địa phương, đồng
thời, bảo đảm sự phối hợp thường xuyên, hiệu quả giữa các bộ, cơ quan ngang
bộ, các địa phương và các cơ quan, tổ chức khác có liên quan trong việc triển
khai thi hành Luật XLVPHC.
III. NGHỊ ĐỊNH SỐ 19/2020/NĐ-CP NGÀY 12/02/2020 CỦA
CHÍNH PHỦ VỀ KIỂM TRA, XỬ LÝ KỶ LUẬT TRONG THI HÀNH
PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH13
1. VẤN ĐỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA CÁC CHỨC DANH
CÓ THẨM QUYỀN TRONG XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
1.1. Các chức danh có thẩm quyền XPVPHC trong thực thi pháp
luật XLVPHC phải bảo đảm đáp ứng 03 yêu cầu chủ yếu sau đây:
a) Nắm vững kiến thức chuyên môn cơ bản về pháp luật XLVPHC, pháp
luật chuyên ngành về quản lý nhà nước đối với lĩnh vực mà mình phụ trách,
đồng thời có hiểu biết nhất định về các lĩnh vực trực tiếp liên quan.

Thực hiện Quyết định số 126/QĐ-TTg ngày 26/01/2021 của TTgCP ban hành Kế hoạch triển khai
thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính, trong số 34 Nghị
định quy định xử lý vi phạm hành chính thuộc danh mục các Nghị định cần phải ban hành để có hiệu
lực đồng thời cùng với thời điểm Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
XLVPHC có hiệu lực (01/01/2022) thì có 29/34 Nghị định được ban hành đúng kế hoạch, 02 Nghị

định lùi thòi gian ban hành sang tháng 6/2023, còn lại 03 nghị định ban hành chậm thời gian dự kiến.
Tuy nhiên, tất cả các nghị định quy định chi tiết các điều khoản được Quốc hội giao trong Luật số
67/2020/QH14 đều đã được ban hành đúng tiến độ. Ví dụ Nghị định số 118/2021/NĐ-CP ngày
23/12/2021 quy didnhj chi tiế thi hành một số điều và biện pháp thi hành Luật XLVPHC; Nghị định
số 120/2021/NĐ-CP ngày 24/12/2021 quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục
tại xã, phường, thị trấn; Nghị định số 135 /2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 quy định về danh mục,
việc quản lý, sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ và quy trình thu thập, sử dụng dữ liệu
thu được từ phương tiện, thiết bị kỹ thuật do cá nhân, tổ chức cung cấp để phát hiện vi phạm hành
chính; Nghị định số 142 /2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 quy định về hình thức xử phạt trục xuất,
biện pháp tạm giữ người, áp giải người vi phạm theo thủ tục hành chính và quản lý người
nước ngồi vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất….
12

13

ThS.Đặng Thanh Sơn, Cục trƣởng Cục Quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp
luật, Bộ Tƣ pháp.

15


b) Có kỹ năng, kinh nghiệm trong thực thi, áp dụng pháp luật về
XPVPHC.
c) Có đạo đức của người cán bộ, công chức viên chức trong thực thi công
vụ theo quy định của pháp luật về cán bộ công chức, viên chức.
1.2. Các chức danh có thẩm quyền XPVPHC đƣợc quy định trong
Luật XLVPHC 2012 phải bảo đảm thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trách
nhiệm pháp lý của mình trong thực thi cơng vụ, đó là:
a) Các quy định đối với quyền và nghĩa vụ của công chức theo quy định
của Luật cán bộ, công chức.

b) Các quy định trong Điều lệnh, Điều lệ của lực lượng vũ trang đối với
người có thẩm quyền XPVPHC thuộc lực lượng vũ trang (QĐND, CAND…)
c) Các quy định trách nhiệm pháp lý cụ thể đối với chức danh có thẩm
quyền XPVPHC theo quy định của pháp luật hành chính:
+ Phải bảo đảm tuân thủ đúng, đầy đủ các quy định về trang phục, lễ
tiết, tác phong, quy tắc ứng xử quy định cho lực lượng mình, ngành mình, chức
danh mình khi thực thi cơng vụ về XPVPHC.
Ví dụ: Thơng tin trên báo chí thời gian qua:
- Vụ từ chối 500 triệu hối lộ, 08 cảnh sát giao thơng được thưởng nóng;
- Bị người đàn ông say rượu cự cãi khi kiểm tra, nguyên thượng úy
CSGT đã gọi giang hồ đến đánh khiến người vi phạm giao thông tử vong;
- CSGT giơ chân, người vi phạm ngã: đồng nghiệp cảm thông;
+ Thực thi công vụ về thẩm quyền XPVPHC đúng, đầy đủ trong phạm vi
nhiệm vụ được giao, thẩm quyền được quy định đối với chức danh đó trong
thực thi pháp luật XLVPHC (thẩm quyền về thực hiện trình tự, thủ tục
XPVPHC, thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm XPVPHC,
thẩm quyền XPVPHC (bao gồm hình thức, mức độ xử phạt chính, bổ sung,
biện pháp khắc phục hậu quả): Phạm vi, nội dung thẩm quyền đã được quy
định rất cụ thể trong các VBQPPL liên quan (Luật XLVPHC 2012, Nghị định
số 81/2013/NĐ-CP và Nghị định số 97/2017/NĐ-CP sđbs Nghị định này, các
nghị định quy định về XPVPHC trong các lĩnh vực quản lý nhà nước liên quan,
các thông tư quy định và hướng dẫn thi hành các nghị định quy định về
XPVPHC…)

16


Ví dụ: CSGT có được rút chìa khóa xe máy của người vi phạm? Tại
sao? Case study.
+ Nghiên cứu, nắm vững, tuân thủ nghiêm túc, đầy đủ các quy định về

thẩm quyền XPHC theo quy định của pháp luật, tuyệt đối không được vi phạm
quy định của pháp luật về XLVPHC, nhất là các điều pháp luật nghiêm cấm
(Điều 12 Luật XLVPHC 2012 (sđbs 2020) gồm 11/12 khoản quy định các hành
vi bị nghiêm cấm trực tiếp liên quan đến cán bộ, công chức, viên chức …trong
XLVHC), không được làm trong thực thi thẩm quyền XPVPHC. Trường hợp
gặp khó khăn, vướng mắc phát sinh phải kịp thời báo cáo, xin ý kiến cấp trên,
đề nghị hướng dẫn, không tự ý hoặc sáng tạo thực hiện theo suy nghĩ chủ quan,
cảm xúc cá nhân.
Ví dụ: Các trường hợp đã xẩy ra trong thực tiễn:
- CSGT Đà Nẵng phạt “lạ” đối với người vi phạm hành chính về
TTATGT.
- Các vụ việc “Cát tặc”; “Chòi vịt” và quán “Cà phê Xin Chào”, trong
thi hành pháp luật XPVPHC có dấu hiệu xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp
của cơng dân”…
+ Xem xét khẩn trương, kỹ lưỡng, khách quan, minh bạch, vận dụng các
kỹ năng, kinh nghiệm trong việc áp dụng thẩm quyền XPVPHC bảo đảm hiệu
quả, đúng theo quy định pháp luật, trong trường hợp có khiếu nại, kiến nghị
hoặc tự phát hiện thấy việc áp dụng pháp luật về thẩm quyền XPVPHC chưa
bảo đảm đúng, đầy đủ, chính xác về thẩm quyền theo quy định pháp luật
XPVPHC hiện hành.
Ví dụ: Vụ việc VKSND tỉnh Đồng Nai xin lỗi người dân (bà Ngọc) bị
truy tố hình sự tội “ Chống người thi hành cơng vụ”, sau đó tổ chức xin lỗi và
ra quyết định XPVPHC đối với hành vi này thay vì khởi tố hình sự (hành vi gây
rối trật tự cơng cộng theo quy định tại Nghị định số 167/2013/NĐ-CP). Tuy
nhiên đương sự phản ứng, không nhận xin lỗi với lý do vẫn bị cơ quan có thẩm
quyền XPVPHC, tức là vẫn cho rằng đương sự vi phạm pháp luật.
2. Một số vấn đề cần lƣu ý có liên quan trực tiếp đến thẩm quyền xử
phạt vi phạm hành chính trong thực thi cơng vụ của các chức danh có
thẩm quyền
Bên cạnh việc tuân thủ đầy đủ nghiêm túc trách nghiệm pháp lý về thẩm

quyền XPVPHC theo quy định của pháp luật XLVPHC thì các chức danh có
thẩm quyền XPVPHC trong thực thi thẩm quyền XPVPHC của mình cần lưu ý
một số điểm sau đây:
17


Một là, cần tổ chức tập huấn bảo đảm nhận thức thống nhất trong tất cả
lực lượng thực thi pháp luật XLVPHC về ý nghĩa, tầm quan trọng đặc biệt của
quy định về thẩm quyền XPVPHC trong thực tiễn thi hành pháp luật. Việc tuân
thủ đầy đủ, chính xác các quy định về thẩm quyền XPVPHC góp phần quan
trọng bảo đảm chất lượng, hiệu quả của XPVPHC, qua đó nâng cao uy tín,
quyền lực của Nhà nước và niềm tin của người dân, doanh nghiệp vào pháp
luật, bảm đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, nâng cao tính
chun nghiệp trong XPVPHC,
Hai là, trong q trình thực thi pháp luật XPVPHC, việc tuân thủ các các
quy định về thẩm quyền XPVPHC trong các tình hướng cụ thể có thể làm nảy
sinh các khó khăn vướng mắc trong áp dụng, bảo đảm chính xác, thống nhất.
Điều này địi hỏi người có thẩm quyền XPVPHC phải tuân thủ triệt để thủ trình
tự, thủ tục theo quy định khi xác định thẩm quyền XPVPHC đối với vụ việc,
tình hướng cụ thể. Trường hợp cần thiết phải kịp thời báo cáo người có thẩm
quền, đề nghị hướng dẫn, xử lý thận trọng, thấu đáo trước khi thực hiện.
Ba là, đối với những trường hợp vụ việc vi phạm đã được thụ lý giải
quyết theo trình tự, thủ tục quy định hoặc đã ban hành quyết định xử lý nhưng
phát hiện “có vấn đề” (qua tự kiểm tra, rà soát phát hiện, qua kiến nghị, đề
xuất, khiếu nại từ đối tượng vi phạm hoặc cá nhân, tổ chức có liên quan, qua
phương tiện truyền thơng…) về thẩm quyền XPVPHC thì phải lập tức đình chỉ
và thực hiện các biện pháp sửa đổi, bổ sung, thay đổi, hủy bỏ những thủ tục đã
thực hiện không đúng thẩm quyền hoặc ban hành, thi hành quyết định không
đúng thảm quyền, đồng thời khẩn trương thực hiện việc chỉnh sửa, thay đổi, bổ
sung, hủy bỏ… và áp dụng pháp luật theo đúng quy định về thẩm quyền

XPVPHC. (Nghị định số 97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017 sđbs một số điều của
Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 quy định cụ thể về vấn đề này).
Bốn là, tuyệt đối giữ gìn đạo đức công vụ trong thực thi pháp luật
XLVPHC, giữ nghiêm kỷ cương, phép nước, bảo đảm tính minh bạch, cơng
khai, cơng tâm, cơng bằng, chính xác, khách quan trong sử dụng quyền lực
hành chính được giao khi thi hành pháp luật XPVPHC. Tăng cường công tác tự
kiểm tra, trong đó kiểm tra về việc áp dụng thẩm quyền XPVPHC. Trường hợp
thực hiện vai trò quản lý, lãnh đạo chỉ đạo cần chú trọng kiểm tra việc áp dụng
quy định pháp luật về thẩm quyền XPVPHC trong thi hành pháp luật về
XPVPHC, giảm thiểu khả năng khiếu kiện liên quan đến thẩm quyền
XPVPHC.
Năm là, thẩm quyền XPVPHC bao gồm cả thẩm quyền cưỡng chế thi
hành quyết định XPVPHC đối với những trường hợp đã quá thời gian tự
nguyện thi hành quyết định xử phạt theo quy định của Luật XLVPHC những cá
18


nhân, tổ chức không thi hành quyết định XPVPHC, quyết định cưỡng chế thi
hành quyết định XPVPHC. Cưỡng chế hành chính là vấn đề phức tạp, nhạy
cảm, trực tiếp liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân tổ chức, do
vậy cần làm thận trọng, chặt chẽ, đúng pháp luật, trong đó có vấn đề thẩm
quyền (đúng, kịp thời, chính xác, đầy đủ…).
3. Nội dung cơ bản của Nghị định số 19/2020/NĐ-CP ngày
12/02/2020 của Chính phủ quy định về kiểm tra, xử lý kỷ luật trong thi
hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
3.1. Bối cảnh
- Thực trạng VPHC và thi hành pháp luật về XLVPHC;
- Thực trạng hệ thống pháp luật về XLVPHC;
- Thực thi pháp luật về XLVPHC và những vấn đề đặt ra?!!!
3.2. Tại sao cần thiết phải ban hành và thực thi Nghị định số

19/2020/NĐ-CP?
Bởi các lý do chủ yếu sau đây:
Một là, kiểm tra, xử lý trách nhiệm đối với người có thẩm quyền
XPVPHC thi hành cơng vụ là một trong những biện pháp cần thiết nhằm bảo
đảm trật tự kỷ cương trong hoạt động công vụ, bảo đảm hiệu lực hiệu quả đấu
tranh chống VPHC trong bối cảnh tổ chức và số lượng chức danh có thẩm
quyền XPVPHC rất lớn, ở nhiều ngành, nhiều cấp (cụ thể: gồm 14 loại cơ quan
và 183 chức danh có thẩm quyền XPVPHC thuộc sự quản lý của nhiều cơ quan
khác nhau từ trung ương đến địa phương theo quy định tại các điều từ Điều 38 đến
Điều 51 Luật XLVPHC năm 2012 (sđbs 2020). Ngồi ra, cịn có một lực lượng
khơng nhỏ người có thẩm quyền lập biên bản VPHC quy định trong các nghị định
XPVPHC). Trong khi đó, xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC) và quản lý
cơng tác thi hành pháp luật (THPL) về XLVPHC là một lĩnh vực mang tính đặc
thù và phức tạp, địi hỏi chun mơn nghiệp vụ cao, có tính chun nghiệp
trong thực thi pháp luật về XPVPHC, liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh
vực, ở mọi cấp chính quyền; có ảnh hưởng, tác động trực tiếp đến quyền tài
sản, quyền nhân thân của công dân và đến tất cả các doanh nghiệp. Việc
XPVPHC thuộc thẩm quyền của các chức danh luật định Vì vậy, để quản lý có
hiệu quả cơng tác THPL về XLVPHC, hoạt động kiểm tra công tác THPL về
XLVPHC, cũng như xử lý những sai phạm phát sinh trong q trình người có
thẩm quyền XLVPHC thực thi công vụ là rất cần thiết nhằm bảo đảm tính cơng
bằng, khách quan, chính xác, minh bạch trong áp dụng pháp luật trong
XLVPHC.
19


Hai là, kiểm tra, xử lý trách nhiệm là hoạt động bình thường của quản lý
nhà nước trong thi hành pháp luật XLVPHC (Không kiểm tra tức là không
quản lý), dựa trên cơ sở chính trị pháp lý đầy đủ, nhằm duy trì, bảo đảm chất
lượng hoạt động của nền công vụ trong thực thi pháp luật XLVPHC trên tinh

thần khách quan, cơng bằng, chính xác, cơng khai, minh bạch, xây dựng, duy
trì và tạo dựng niềm tin của người dân, cá nhân, tổ chức doanh nghiệp…vào sự
nghiêm minh của pháp luật, vào sự công tâm, khách quan, công bằng của Nhà
nước, qua đó tạo dựng, duy trì và củng cố hình ảnh tốt đẹp của Nhà nước trước
nhân dân.
Ba là, về cơ sở chính trị, pháp lý:
- Về sự phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước:
Việc xây dựng Nghị định kiểm tra, xử lý kỷ luật trong THPL về XLVPHC
phù hợp với chủ trương, định hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật của
Đảng và Nhà nước. Cụ thể, Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ
chính trị về Chiến lược xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 nêu rõ: “Hoàn thiện pháp luật về tổ
chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, bảo đảm mọi hoạt động quản lý nhà
nước đều chịu sự thanh tra, kiểm tra của Chính phủ”. Theo đó, một trong
những giải pháp quan trọng về THPL được nêu trong Nghị quyết là: “Đề cao kỷ
luật, kỷ cương trong các hoạt động của các cơ quan nhà nước. Nâng cao năng
lực, hiệu quả hoạt động thanh tra công chức, công vụ. Đẩy mạnh đấu tranh
chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Bảo đảm mọi hành vi tham nhũng phải
được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh theo pháp luật”. Bên cạnh đó, tại
Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương
Khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược,
đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ cũng nhấn mạnh: Chuẩn
hoá, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với xây dựng thể chế, tạo môi trường,
điều kiện để thúc đẩy đổi mới, phát huy sáng tạo và bảo vệ cán bộ dám nghĩ,
dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Phân công, phân cấp gắn với giao
quyền, ràng buộc trách nhiệm, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm
soát quyền lực và xử lý nghiêm minh sai phạm. Có thể khẳng định, việc hồn
thiện pháp luật XLVPHC về cơng tác kiểm tra, xử lý kỷ luật đáp ứng yêu cầu
thể chế kịp thời, đầy đủ, đúng đắn chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà
nước trong giai đoạn hiện nay.

- Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã nêu rõ:“Trong
những năm tới đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành
20


pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa”.
- Các quy định của Hiến pháp năm 2013 là cơ sở pháp lý cao nhất thể
chế hóa cương lĩnh, chiến lược của Đảng trong đạo luật cơ bản của Nhà nước
CHXHCN Việt Nam. Khoản 3 Điều 2 Hiến pháp quy định: “Quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
- Điều 24 Luật tổ chức Chính phủ quy định: Thống nhất quản lý nhà
nước về công tác thanh tra, kiểm tra, tiếp cơng dân, giải quyết khiếu nại, tố
cáo, phịng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong bộ máy nhà nước.
Kiểm tra việc thực hiện cơng tác phịng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng
phí.
- Điều 15 Nghị định số 123/2016/NĐ-CP ngày 01/9/2016 của Chính phủ
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ, cơ quan ngang Bộ quy định
về trách nhiệm kiểm tra, thanh tra của các Bộ, cơ quang ngang Bộ: Kiểm tra,
thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật về ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi
quản lý nhà nước của Bộ. Kiểm tra, thanh tra các Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, Ủy ban nhân dân các cấp trong việc thực hiện pháp luật về ngành, lĩnh
vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.
Bên cạnh đó, các văn bản quy phạm pháp luật quy định về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của các Bộ, ngành, địa phương trong việc thực hiện quản
lý nhà nước cũng quy định về trách nhiệm kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ
được giao.
- Điều 17 Luật XLVPHC 2012 (sđbs 2020) quy định: Bộ Tư pháp là cơ

quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý cơng tác THPL về
XLVPHC, trong đó có nhiệm vụ kiểm tra, phối hợp với các bộ, ngành hữu quan
tiến hành thanh tra việc THPL về XLVPHC. Khoản 7 Điều 17 của Luật
XLVPHC (sđbs 2020) giao Chính phủ quy định chi tiết Điều này. Tại Điều 18
Luật XLVPHC (sđbs 2020) cũng quy định trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan,
đơn vị thường xuyên kiểm tra, thanh tra và xử lý kịp thời đối với vi phạm của
người có thẩm quyền XLVPHC thuộc phạm vi quản lý của mình.
Luật cán bộ, cơng chức(CBCC), Luật viên chức (VC) và các văn bản quy
phạm pháp luật liên quan là các văn bản quy định chung có tính chất khung (về
trình tự, thủ tục…) để xử lý tất cả các hành vi vi phạm pháp luật của công chức,
viên chức trong thi hành công vụ. Luật CBCC, Luật VC và các văn bản pháp
luật có liên quan khơng thể cụ thể hóa các hành vi vi phạm trong thi hành công
vụ của cán bộ, công chức, viên chức (gọi chung là cán bộ) trong từng lĩnh vực,
21


vì vậy, trong từng lĩnh vực cụ thể, Chính phủ có thể cụ thể hóa các hành vi vi
phạm trong thi hành cơng vụ của lĩnh vực đó gắn với các chế tài xử lý tương
ứng (khiển trách; cảnh cáo; hạ bậc lương; giáng chức; cách chức; buộc thôi
việc trên cơ sở quy định của Luật và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan.
Trong lĩnh vực XLVPHC hiện nay cũng chưa có quy định từng hành vi
vi phạm của cán bộ thì bị xử lý thế nào, ví dụ: Khơng ra quyết định xử phạt vi
phạm hành chính thì bị cảnh cáo hay phải giáng chức?!!! áp dụng hình thức xử
phạt, biện pháp khắc phục hậu quả khơng đúng, không đầy đủ đối với hành vi
vi phạm hành chính thì bị khiển trách hay cảnh cáo?!!! giữ lại vụ vi phạm có
dấu hiệu tội phạm để xử lý vi phạm hành chính thì bị có bị cách chức
khơng…?!!!
Do chưa có quy định về xử lý kỷ luật đối với vi phạm của cán bộ trong
THPL về XLVPHC nên có thể dẫn đến tình trạng, cùng một hành vi vi phạm
của cán bộ trong THPL về XLVPHC (ví dụ hành vi của người có thẩm quyền

xử phạt giữ lại vụ vi phạm có dấu hiệu tội phạm để xử lý hành chính, khơng
chuyển cho cơ quan tố tụng hình sự có thẩm quyền để truy cứu trách nhiệm
hình sự - vi phạm điều cấm tại khoản 1 Điều 12 Luật XLVPHC) nhưng mỗi cơ
quan, đơn vị, mỗi địa phương áp dụng một chế tài xử lý khác nhau, có nơi áp
dụng chế tài kỷ luật cảnh cáo, có nơi áp dụng chế tài khiển trách… Vì vậy, việc
xây dựng Nghị định kiểm tra, xử lý kỷ luật trong THPL về XLVPHC, trong đó
quy định cụ thể hành vi vi phạm nào bị áp vào chế tài xử lý kỷ luật nào là hết
sức cần thiết, tạo nên sự thống nhất, minh bạch trong áp dụng pháp luật.
Như vậy, Luật CBCC 2008 (sửa đổi, bổ sung 2019), Luật VC 2010 và
các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan chỉ quy định chung các vi phạm
trong thi hành công vụ, nhưng không quy định hành vi vi phạm đặc thù của cán
bộ, công chức, viên chức trong thi hành công vụ của từng lĩnh vực.
Đặc biệt, Luật số 52/2019/QH14 ngày 25/11/2019 sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật Cán bộ, công chức số 22/2008/QH12 và Luật Viên chức
số 58/2010/QH12, Nghị định số 112/2020/NĐ-CP ngày 18/9/2020 về xử lý kỷ
luật cán bộ, cơng chức, viên chức, trong đó tập trung quy định về nguyên tắc xử
lý kỷ luật; việc áp dụng các hình thức kỷ luật tương ứng với các hành vi vi
phạm; thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức,
viên chức. tại Chương V-Điều khoản chuyển tiếp và hiệu lực thi hành, Điều 43
khoản 2 quy định rõ: “2.Các hành vi vi phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính, phịng, chống tham nhũng và hình thức xử lý được áp dụng theo quy
định của pháp luật chuyên ngành. Trường hợp pháp luật chuyên ngành chưa
quy định hoặc quy định khác với Nghị định này về cùng một nội dung thì áp
dụng theo quy định của Nghị định này”.
22


Đối với lĩnh vực XLVPHC, do người có thẩm quyền XLVPHC có vai trị
đặc biệt trong áp dụng pháp luật nên Luật XLVPHC đã quy định cụ thể các
hành vi bị nghiêm cấm trong XLVPHC tại Điều 12 Luật XLVPHC như đã nêu

trên.
Bốn là, về cơ sở thực tiễn:
- Thực tiễn kiểm tra công tác THPL về XLVPHC trong 05 năm vừa qua
(kể từ thời điểm Luật XLVPHC có hiệu lực) cho thấy, các Bộ, ngành, địa
phương còn rất lúng túng, thiếu thống nhất trong quá trình triển khai, thực hiện:
Kiểm tra như thế nào, theo trình tự, thủ tục nào, áp dụng văn bản quy phạm
pháp luật nào để kiểm tra; các cơ quan tiến hành việc kiểm tra cũng như đối
tượng được kiểm tra cũng tỏ ra lúng túng, khơng biết trách nhiệm của mình
phải làm gì, đến đâu; các công việc liên quan đến sau kiểm tra là gì, có phải
theo dõi, giám sát, đơn đốc việc thực hiện kết luận kiểm tra không, việc theo
dõi, giám sát, đôn đốc việc thực hiện kết luận kiểm tra được thực hiện như thế
nào…?
Về vấn đề xử lý kỷ luật đối với các hành vi vi phạm của người có thẩm
quyền trong thi hành cơng vụ, thơng qua hoạt động kiểm tra thực tế và công tác
theo dõi chung về XLVPHC trên toàn quốc, Bộ Tư pháp đã tổng hợp, hệ thống
và xác định được một số sai phạm phổ biến của người có thẩm quyền xử phạt
như: Xử phạt không đúng thẩm quyền, phạm vi, nội dung được giao; cố ý không
ra quyết định xử phạt khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật… Trong phạm
vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn pháp luật quy định, thời gian qua, Bộ Tư
pháp cũng đã phải xử lý theo thẩm quyền một số vụ việc, trong đó có trường hợp
người có thẩm quyền xử lý vụ việc vi phạm hành chính thực hiện việc XPVPHC
khơng chính xác gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của công dân,
doanh nghiệp, đặc biệt là một số vụ việc gây bức xúc trong dư luận như “xử phạt
vi phạm hành chính bà Nguyễn Thị Ánh Ngọc, Đồng Nai”; vụ việc “quán cafe
Xin chào, Thành phố Hồ Chí Minh”…
Một trong những nguyên nhân dẫn đến các tồn tại, hạn chế nêu trên là do
trong điều kiện hiện nay, chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định cụ
thể trình tự, thủ tục kiểm tra và xử ký kỷ luật trong THPL về XLVPHC.
Năm là, cần lưu ý rằng, việc xử lý trách nhiệm trong THPL về XLVPHC
có thể bao gồm cả chế tài trách nhiệm hình sự, trách nhiệm kỷ luật, trách

nhiệm dân sự và trực tiếp liên quan đến pháp luật trách nhiệm bồi thường của
nhà nước. Tuy nhiên, chủ yếu tập trung quy định cụ thể hóa các hành vi vi
phạm tương ứng với các chế tài trách nhiệm kỷ luật với mục đích tạo cơ sở
pháp lý cho việc áp dụng thống nhất, chính xác chế tài kỷ luật đối với người có
23


thẩm quyền XLVPHC mà vi phạm chế độ công vụ, đồng thời hướng đến tính
cơng khai, minh bạch và răn đe, phòng ngừa, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương chung.
Nghị định số 19/2020/NĐ-CP quy định kiểm tra, xử lý kỷ luật trong
THPL về XLVPHC được ban hành ngày 12/02/2020 quy định chi tiết trình tự,
thủ tục kiểm tra đối với hoạt động thực thi công vụ XLVPHC, quy định về các
hành vi vi phạm tiêu biểu, điển hình và hình thức mức chế tài xử lý tương ứng
căn cứ tính chất, mức độ vi phạm trên cơ sở quy định của Luật cán bộ, công
chức năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2019), Luật viên chức năm 2010, Nghị
định số 34/2011/NĐ-CP ngày 17/5/2011, Nghị định số 27/2012/NĐ-CP ngày
06/4/2012 của Chính phủ quy định về xử lý kỷ luật đối với công chức, viên
chức14 là rất cần thiết nhằm đáp ứng u cầu cơng tác đấu tranh phịng, chống
THPL về THPL về XLVPHC VPHC thông qua hiệu lực, hiệu quả của cơng tác
THPL về XLVPHC.
3.3. Mục đích ban hành Nghị định số 19/2020/NĐ-Cp là gì và việc xây
dựng Nghị định này dựa trên những quan điểm chỉ đạo nào?
- Mục đích của việc xây dựng Nghị định kiểm tra, xử lý kỷ luật trong
THPL về XLVPHC là nhằm tạo cơ sở pháp lý cụ thể, rõ ràng, minh bạch cho
công tác kiểm tra, phát hiện và xử lý sai phạm của người có thẩm quyền trong
thi hành cơng vụ XPVPHC, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước; đồng thời, việc xây dựng Nghị định cũng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người dân, cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp có liên quan trong
THPL về XLVPHC.
- Quan điểm chỉ đạo xây dựng Nghị định:

Bao gồm 05 quan điểm chỉ đạo sau đây: Một là, thể chế hóa quan điểm
của Đảng về kiểm sốt quyền lực nhà nước, bảo đảm phù hợp với Hiến pháp,
Luật XLVPHC; bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với các văn bản quy phạm
pháp luật hiện hành có liên quan.Hai là, phù hợp với chủ trương, chính sách
hội nhập quốc tế; tiếp thu có chọn lọc thơng tin, kinh nghiệm quốc tế nhưng
vẫn đáp ứng với thực tiễn quản lý nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Ba là,
quy định cụ thể, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, rõ ràng, minh bạch cho công tác
kiểm tra và xử lý kỷ luật trong THPL về XLVPHC, góp phần tăng cường hiệu

Lưu ý: Nghị định số 97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017 quy định sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 81/2013/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật XLVPHC quy
định tại Điều 1 khoản 12 bố sung Điều 6đ vào sau Điều 6d Nghị định số 81/2013/NĐ-CP về “Trách
nhiệm và việc xem xét, xử lý trách nhiệm đối với ngƣời có thẩm quyền ban hành quyết định về
xử lý vi phạm hành chính có sai sót”.
14

24


lực, hiệu quả quản lý về XLVPHC, đồng thời, việc xây dựng Nghị định cũng
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức có liên quan trong
THPL về XLVPHC. Bốn là, bảo đảm gắn kết đồng bộ giữa tăng cường kiểm
tra, phát hiện kịp thời với việc xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật đối với các
hành vi vi phạm pháp luật trong thực thi cơng vụ về xử lý vi phạm hành chính
và Năm là, bảo đảm việc tham gia đóng góp ý kiến của các đối tượng chịu sự
tác động trực tiếp của văn bản và các cơ quan, tổ chức có liên quan đối với dự
thảo văn bản.
3.4. Các chính sách pháp lý xây dựng Nghị định:
Bộ Tư pháp đã tiến hành phân tích, đánh giá để xác định 02 chính sách
trongNghị định, bao gồm:

- Chính sách 1: Hồn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả
hoạt động kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính;
- Chính sách 2: Hồn thiện pháp luật nhằm nâng cao trách nhiệm người
có thẩm quyền trong THPL về XLVPHC.
Với mỗi chính sách, Bộ Tư pháp đã thực hiện đầy đủ việc đánh giá tác
động
Chính sách 1: Hồn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu
quả hoạt động kiểm tra công tác THPL về XLVPHC
Mục tiêu của chính sách:
Để khắc phục những bất cập nêu trên, việc xây dựng chính sách về kiểm
tra việc THPL về XLVPHC là rất cần thiết nhằm:
- Tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, rõ ràng, minh bạch cho hoạt động kiểm tra
công tác THPL về XLVPHC; giải quyết các vấn đề khó khăn, bất cập; bảo đảm
phù hợp với thực tiễn quản lý nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
- Bảo đảm công tác kiểm tra việc THPL về XLVPHC được thực hiện bài
bản, thống nhất và hiệu quả.
- Bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật liên quan đến kiểm tra công tác THPL về XLVPHC.
- Góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước trong công tác
THPL về XLVPHC.
Chính sách 2: Hồn thiện pháp luật nhằm nâng cao trách nhiệm
ngƣời có thẩm quyền trong THPL về XLVPHC
Mục tiêu của chính sách:
25


Việc xây dựng chính sách xử lý kỷ luật của người có thẩm quyền trong
THPL về XLVPHC phải bảo đảm yêu cầu sau:
- Đảm bảo nền công vụ hoạt động hiệu quả, chất lượng.
- Đảm bảo việc áp dụng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính được kịp

thời, nghiêm minh, đúng quy định của pháp luật.
- Đảm bảo tính răn đe, phịng ngừa các hành vi cơng vụ gây thiệt hại cho
công dân, tổ chức, doanh nghiệp.
- Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong THPL về XLVPHC; góp phần
nâng cao hiệu quả, hiệu lực của công tác quản lý xử lý vi phạm hành chính trên
phạm vi tồn quốc.
- Bảo đảm tính liên kết, thống nhất, đồng bộ của dự thảo Nghị định và hệ
thống pháp luật hiện hành.
3.5. Nội dung cơ bản của Nghị định số 19/2020/NĐ-CP:
- Về bố cục: Nghị định gồm 05 chương và 31 điều, cụ thể như sau:
Chương I: Những quy định chung (04 điều; từ Điều 01 đến Điều 04).
Chương II: Kiểm tra việc THPL về XLVPHC (12 điều; từ Điều 05 đến
Điều 16).
Chương III: Thực hiện kết luận kiểm tra và theo dõi, đôn đốc, kiểm tra
việc thực hiện kết luận kiểm tra ( 05 điều; từ Điều17 đến Điều 21).
Chương IV: Xử lý kỷ luật trong THPL về XLVPHC( 08 điều; từ Điều 22
đến Điều 29).
Chương V: Điều khoản thi hành( 02 điều; từ Điều 30 đến Điều 31).
- Nội dung chủ yếu của Nghị định:
Chương I Nghị định: Quy định về những vấn đề chung như: phạm vi
điều chỉnh; đối tượng áp dụng; mục đích kiểm tra, xử lý kỷ luật trong THPL về
XLVPHC; nguyên tắc kiểm tra, xử lý kỷ luật trong THPL về XLVPHC.
Chương II Nghị định: Quy định cụ thể các nội dung liên quan đến kiểm
tra việc THPL về XLVPHC: Căn cứ, thẩm quyền, nội dung, hình thức, cách
thức, trình tự, thủ tục kiểm tra.
Chương III Nghị định: Quy định các nội dung liên quan đến thực hiện kết
luận kiểm tra và theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận kiểm tra.
Chương IV Nghị định: Quy định cụ thể các hành vi vi phạm trong THPL
về XLVPHC bị xem xét, áp dụng các hình thức xử lý kỷ luật tương ứng.
26



Chương V Nghị định: (i) Quy định thời gian có hiệu lực thi hành của
Nghị định này, đồng thời bãi bỏ Điều 21 quy định về kiểm tra tại Nghị định số
81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều
và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính.(ii) Quy định trách nhiệm
cụ thể của các cơ quan, cá nhân, tổ chức liên quan trong việc thi hành Nghị
định này./.
Câu hỏi thảo luận:
1. Anh/chị hãy nêu và phân tích thẩm quyền, căn cứ quyết định kiểm tra
và trình tự thủ tục thực hiện kiểm tra về thi hành pháp luật trong xử lý vi phạm
hành chính quy định tại Nghị định số 19/2020/NĐ-CP?
2. Hãy nêu một số quy định có tính ngun tắc về xử lý kỷ luật đối với
cán bộ, công chức, viên chức trong thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính?

27


×